Phần III - Bài 7
PHẬT GIÁO TRONG THỜI ÐẠI KHOA HỌC
Trần Chung Ngọc
Trong thời
đại khoa học, khi mà những tiến bộ khoa học đã làm lui đi phần nào quan
niệm thần thánh và những mớ huyền thoại, mê tín dị đoan của con người,
thì càng ngày Phật giáo càng chứng tỏ là một tôn giáo, từ cấu trúc, tư
tưởng trong các kinh điển cho tới phương pháp hành trì, rất tương hợp
với khoa học.
Ngày nay, Phật
giáo đã đi vào thế giới phương Tây một cách nhẹ nhàng, cởi mở và hòa
đồng. Cho nên thế giới phương Tây càng ngày càng hâm mộ Phật giáo về
những sắc thái tiến bộ của Phật giáo, và những khoa học gia thượng thặng
ngày nay cũng đã nhận ra rằng tư tưởng Phật giáo đã giúp họ rất nhiều
trong việc giải thích những hiện tượng khoa học và dẫn họ đến những tư
tưởng mới và khám phá mới trong khoa học. Muốn hiểu được hiện tượng kỳ
lạ trên, chúng ta cần duyệt sơ lại lịch lịch sử khoa học phương Tây cũng
như tìm hiểu những sắc thái đặc biệt của Phật giáo đối với khoa học.
Theo quan niệm
của một số khá đông, nhất là ở phương Tây, thì có vẻ khoa học và tôn
giáo khó có thể tương hợp. Thật vậy, tôn giáo phương Tây đặt căn bản
trên niềm tin ở một đấng siêu nhiên vạn năng, tác giả của mọi vật trên
thế gian và có toàn quyền quyết định số phận con người trong đời sau, dù
rằng cho tới nay không có cách nào con người có thể kiểm chứng được sự
hiện hữu của một đấng toàn năng, hoặc những ai đã được thưởng hay bị
phạt, và thưởng phạt như thế nào. Trái lại, khoa học đặt căn bản trên
thực nghiệm, trực tiếp liên hệ tới những vấn đề xã hội ngay trong đời
này, và không chấp nhận những sự việc có tính cách mơ hồ, viển vông,
không phù hợp với đầu óc ngày càng tiến bộ của con người.
Trong mấy thế kỷ
gần đây, khoa học phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ ở phương Tây, do đó
phương Tây rất tự hào về nền văn minh thường được biết là "nền văn minh
Thiên Chúa giáo phương Tây" (Western Christian Civilization), vì tôn
giáo chính ở phương Tây là Thiên Chúa giáo, và vì những phát triển, tiến
bộ ngoạn mục nhất của khoa học và nhiều bộ môn khác cũng ở phương Tây.
Nhưng ít người để ý đến sự nhập nhằng kết hợp tôn giáo và khoa học làm
một nền văn minh chung. Ít người để ý sự kiện khoa học tiến bộ và phát
triển ở phương Tây không phải vì niềm tin trong tôn giáo của các khoa
học gia phương Tây, mà chính là vì các khoa học gia đã phủ nhận niềm tin
này, hay ít ra cũng là lãnh đạm với niềm tin này. Thật vậy, lịch sử
khoa học cho thấy tôn giáo phương Tây, thường tự cho là văn minh tiến
bộ, là khai phóng, đã luôn luôn làm đủ mọi cách, trong phạm vi quyền lực
thế gian, để ngăn ngừa những khả năng tự tại quý báu nhất của con
người, thí dụ như óc sáng tạo, tự do suy tư v.v..., những thành tố tất
yếu của sự phát triển khoa học nói riêng, kiến thức con người nói chung.
Trong khi đó, Phật giáo, thường bị xuyên tạc là một tôn giáo yếm thế,
chậm tiến, lại có rất nhiều điểm tương đồng với khoa học, luôn luôn hòa
hợp, cỗ vũ, và hôỵ trợ những tiến bộ của khoa học, và ngày càng giữ một
vị thế thoải mái trong thời đại khoa học. Ðiều này không có gì là lạ, vì
căn bản tu tập trong Phật giáo dựa trên thực nghiệm giống như khoa học,
và nếu ta để tâm tìm hiểu thì sẽ thấy, và phải nói rằng trong nhiều bộ
môn, Phật giáo đã tiến trước khoa học khá xa về tư tưởng và phương pháp
hành trì chứng nghiệm trực tiếp.
Hẳn nhiên trong
một bài báo ngắn ngủi, tôi không có cách nào trình bày toàn vẹn tinh
thần khoa học trong Phật giáo cũng như không thể đi vào tất cả các bộ
môn mà tư tưởng Phật giáo có thể coi như là tiền phong cho những khám
phá khoa học sau này. Cho nên sau đây tôi chỉ đưa ra vài sự kiện so sánh
giữa những khám phá của Phật giáo hơn 2500 năm trước và những khám phá
mới đây của khoa học chính xác, và tôi sẽ tự hạn trong đề tài "Vũ trụ
luận" trong Phật giáo. Tôi sẽ chứng tỏ cho bạn đọc thấy nhiều khi Phật
giáo còn chính xác và đầy đủ hơn khoa học, và rằng một tư tưởng Phật
giáo và phương pháp trình bày các tư tưởng này đã đi trước khoa học
nhiều thế kỷ.
Quan niệm của
Phật giáo về vũ trụ như sau: Thế giới chúng ta đang sống không phải là
duy nhất và cũng không phải là trung tâm vũ trụ. Ngoài thế giới chúng ta
đang sống, còn có rất nhiều thế giới khác, và Phật giáo phân loại các
thế giới thành ba loại: Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới và Ðại
thiên thế giới. Danh từ thế giới trong Phật giáo chỉ một thiên thể (thí
dụ như trái đất) hoặc một tập hợp các thiên thể được coi như thuộc một
nhóm (thí dụ Thái dương hệ mà trái đất là một hành tinh trong đó). Vậy,
một ngàn thế giới hợp thành một Tiểu thiên thế giới, một ngàn Tiểu thiên
thế giới hợp thành một Trung thiên thế giới, và một ngàn Trung thiên
thế giới hợp thành một Ðại thiên thế giới. Như thế, lấy đơn vị là một hệ
thống tương tự như hệ thống Thái dương hệ và gọi là thế giới thì Tiểu
thiên thế giới gồm có khoảng một ngàn thế giới, Trung thiên thế giới gồm
khoảng một triệu thế giới, Ðại thiên thế giới gồm khoảng một tỷ thế
giới v.v... Ðó là quan niệm về vũ trụ của Phật giáo từ hơn 2500 năm về
trước. Nhưng sau đó hai mươi hai thế kỷ, vào thế kỷ thứ XVII, phương Tây
vẫn còn chưa thoát khỏi quan niệm tối tăm về trời tròn đất vuông, trái
đất được coi là trung tâm vũ trụ, và rằng mặt trời quay xung quanh trái
đất như đã viết trong Thánh kinh. Những khám phá mới, xác thực về vũ trụ
của các khoa học gia như Copernicus (các hành tinh quay xung quanh mặt
trời) và Galileo (trái đất quay xung quanh mặt trời) đều bị quyền lực
tôn giáo đương thời lên án, vì không phù hợp với Thánh kinh. Vì trường
hợp của Galileo đã nói lên phần nào tinh thần tôn trọng sự thật và bất
khuất của các khoa học gia, và vì Galileo được coi như là người mở một
kỷ nguyên mới cho nền khoa học tân tiến phương Tây, nên tôi nghĩ kể lại
vài dòng về trường hợp của ông cũng không phải là vô ích:
"Năm 1633, dựa
trên những dữ kiện khoa học không thể phủ nhận, đoan quyết trong một
cuốn sách khảo cứu thiên văn của ông (Galileo) rằng: không phải là mặt
trời quay xung quanh trái đất mà chính là trái đất quay xung quanh mặt
trời, thì ông bị kéo ra trước Tòa án dị giáo của Giáo hoàng Urban VIII,
khi đó ông đã già, gần chết. "Ngươi hãy sửa lại điều trên vì nó ngược
lại với Thánh kinh. Bất cứ điều nào ngược lại với Thánh kinh đều đương
nhiên sai lầm, vì Thánh kinh là lời của Thượng đế".
Galileo là một khoa học gia vĩ đại, dù đã tám mươi tuổi, sắp chết, nhưng vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời. Ông nói:
"Không thành vấn
đề, tôi sẽ sửa lại lời tôi viết, tôi sẽ viết lại trong sách của của tôi
đúng như lời Thượng đế đã viết trong Thánh kinh - nghĩa là mặt trời quay
xung quanh trái đất. Nhưng có một điều tôi cần trình ngài rõ: Cả trái
đất lẫn mặt trời đều không đọc sách của tôi. Và sự thực thì, trái đất sẽ
tiếp tục quay xung quanh mặt trời. Nếu ngài nhất định muốn biết tại sao
thì tôi có đầy đủ bằng chứng. Tôi đã dùng cả đời tôi để nghiên cứu vấn
đề này, và những người có đầu óc khoa học đều tuyệt đối đồng ý với sự
khám phá của tôi. Trước sau gì rồi ngài cũng phải đồng ý vì không ai có
thể chống lại sự thực lâu dài".
(Galileo was a
great scientist who, even at the age of eighty, when he was dying, had
such a beautiful sense of humor. He said: There is no problem. I will
change it; I will write in my book exactly what God has written in the
bible - that the sun goes around the earth. But one thing I must make
clear to you: neither the earth nor the sun reads my book. As far as
reality is concerned, the earth will continue going around the sun. And
why shoudd you insist? Because I have every proof; I have devoted my
whole life to the search, and all those who have a scientific miad in
absolute agreement with me. Sooner or later you will have to agree
because one cannot remain against truth for long. Priests and
Politicians, Second revised edition, Cologne, West Germany, p.27).
Tuy vậy, Galileo
vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực khoa học ông đã viết trong sách, bị kết
án là "lạc đạo" và bị biệt giam tại nhà cho đến khi ông chết năm 1642.
Nhưng lời tiên đoán của ông đã thành sự thực, tuy hơi chậm. Ba trăm năm
mươi chín năm sau, ngày hai mươi chín tháng mười năm 1992, Giáo hoàng
John Paul II tuyên bố vụ án Galileo là một sai lầm và phục hồi danh dự
cho Galileo, sau khi một ủy ban gồm những bộ óc thượng thặng của Tòa
thánh nghiên cứu trong mười ba năm về vấn đề Galileo. Trong dòng thời
gian vô tận, ba trăm năm mươi chín năm cũng chẳng phải là lâu. Và, mười
ba năm dùng để nghiên cứu một vấn đề mà đối với toàn thế giới đã rõ như
ban ngày từ mấy trăm năm nay cũng chẳng phải là điều vô ích.
Trở lại quan niệm
về vũ trụ của Phật giáo, chúng ta thấy rằng quan niệm này hầu như tương
hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày nay của những nhà thiên văn
(astronomers) hay những nhà vật lý học về thiên thể (astrophysicists),
và đã đi trước khoa học nhiều thế kỷ. Một Tiểu thiên thế giới có thể so
sánh với quan niệm hiện đại về một thiên hà (galaxy) gồm có cả triệu
ngôi sao và những hành tinh có thể có sinh vật trên đó. Thí dụ như giải
Ngân hà (Milky Way) hay M31, hay chòm sao (consteliation andromeda). Một
Trung thiên thế giới có thể so sánh với một chùm thiên hà (galactic
cluster), thí dụ như chùm Goma Berenices, và một Ðại thiên thế giới có
thể so sánh với cái mà Hannes Alfven gọi là siêu thiên hà (metagalaxy) ở
trong Ðại Vũng (Big Dipper) của Tiểu Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít
ra là cả triệu thiên hà. Cho tới nay, vì những giới hạn tự tại của những
dụng cụ quan sát cho nên các khoa học gia chưa thể đi xa hơn trong việc
khảo sát vũ trụ. Nhưng không phải vì những giới hạn theo, và nay chúng
ta đã hiểu tại sao Ðức Phật lại "bỏ ngỏ" quan niệm về vũ trụ hữu hạn hay
vô hạn. Ðiều này chứng tỏ Ðức Phật đã thấy rõ khả năng vô tận của con
người, và rằng Phật pháp không phải là những giáo điều cứng nhắc không
bao giờ thay đổi. Và đây cũng chính là tinh thần khoa học hiện đại,
không có gì có thể coi như là vĩnh cửu, bất biến.
Nói đến quan niệm
về vũ trụ của Phật giáo thì chúng ta không thể bỏ qua kinh Hoa Nghiêm,
phẩm Thế giới thành tựu. Trong phẩm này, Bồ tát Phổ Hiền tuyên thuyết về
10 đặc tính của các thế giới: nhân duyên khởi, chôỵ trụ nương, hình
trạng, thể tánh, trang nghiêm tánh, thanh tịnh tánh, Phật xuất hiện,
kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt, và môn vô sai biệt. Ðể cho vấn đề
tương hợp với khoa học được rõ ràng, sau đây tôi xin luận về hai điểm:
hình trạng và kiếp trụ các thế giới. Chúng ta hãy xét đoạn kinh văn sau
đây:
"Lúc đó Phổ Hiền
Bồ tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình
tướng sai khác, hoặc tròn... hoặc hình như nước xoáy... hoặc hình như
hoa..., có vi trần số hình sai khác như vậy".
Rồi trong phẩm tiếp theo, phẩm Hoa Tạng thế giới, Phổ Hiền Bồ tát lại tuyên thuyết:
"Chư Phật tử! Tất
cả thế giới chủng đó hình trạng đều khác nhau: hoặc hình núi Tu Di,
hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe... hoặc hình hoa sen..., có vi
trần số hình trạng như vậy" (Kinh Hoa Nghiêm, Thích Trí Tịnh dịch, Phật
học viện Quốc tế xuất bản).
So sánh với những
hình trạng của các chòm sao, giải thiên hà, ngân hà khám phá bởi khoa
học ngày nay, chúng ta thấy Phật giáo đã mô tả hình trạng của chúng một
cách vô cùng chính xác. Thí dụ như các hình bánh xe, nước xoáy, chúng ta
có thể quan sát được trong các chòm sao như Cetus, Pegasus và Hercules,
hình sông là giải ngân hà (Milky Way) và nhiều thiên hà khác, hình dạng
như hoa là những khối tinh vân trong khoảng không gian liên-thiên-hà
(intergalactic clounds of gas) có chứa hàng tỷ ngôi sao v.v...). Thật
tôi không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề có kính thiên văn, dù
thô sơ nhất, mà Ðức Phật và các Ðại Bồ tát đã có những hiểu biết chính
xác về vũ trụ như trên. Nếu không phải vì đã giác ngộ hoàn toàn, nắm
vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ, thì làm sao có thể biết được những điều
như trên. Và chúng ta cũng nên nhớ là những điều Ðức Phật và các Bồ tát
chọn để tuyên thuyết cho người đời chẳng qua cũng chỉ là một nắm lá
trong tay so với số lá cây trong rừng.
Tiếp theo, về kiếp trụ của các thế giới, kinh văn viết rằng:
"Lúc đó Phổ Hiền
Bồ tát lại bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Nên biết thế giới hải có
thế giới hải vi trần số kiếp trụ, hoặc có a tăng kỳ kiếp trụ, hoặc có vô
lượng kiếp trụ, hoặc có vô biên kiếp trụ, hoặc có vô đẳng kiếp trụ,
hoặc có bất khả sổ kiếp trụ, hoặc có bất khả xưng kiếp trụ, hoặc có bất
khả tư kiếp trụ, hoặc có bất khả lượng kiếp trụ, hoặc có bất khả thuyết
kiếp trụ..., có vi trần số kiếp trụ như vậy".
Rồi trong bài kệ
để tuyên lại nghĩa này, Bồ tát Phổ Hiền có giải thích bằng một câu:
"Hoặc chỉ một kiếp hoặc vô số, bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng". Chỉ
một câu "Bởi những tâm nguyện đều chẳng đồng" cũng đã giải quyết vấn đề
"thiên sai vạn biệt" trong vũ trụ. Thật là đầy đủ, thật là rốt ráo,
thật là chính xác. Nếu chúng ta đi sâu vào một chút trong đoạn kinh văn
trên, chúng ta sẽ thấy Phật giáo đã đi trước khoa học như thế nào.
Phật giáo phân
biệt: Tiểu kiếp có 16 triệu tám trăm ngàn năm, Trung kiếp có 336 triệu
năm, và Ðại kiếp có một tỷ 344 triệu năm. Theo khoa học hiện nay thì một
ngôi sao (coi như là một thế giới) mà chất lượng (mass) càng nặng thì
đời sống của ngôi sao chỉ "sống" được từ một tới vài tỷ năm và người ta
đã tính được rằng một ngôi sao có chất lượng nhẹ hơn những ngôi sao trên
khoảng chín mươi phần trăm thì ngôi sao này có thể sống tới ngàn tỷ
năm. Ðiều này rất phù hợp với câu kệ trên của Phổ Hiền Bồ tát, có thế
giới chỉ tồn tại một kiếp, có thế giới tồn tại vô số kiếp v.v...
Thứ đến, những
danh từ như a tăng kỳ, vô lượng, vô biên, bất khả thuyết... có vẻ mơ hồ
và không rõ ràng như những con số trong thời đại khoa học. Thật ra không
phải vậy, vì trong phẩm A tăng kỳ, kinh Hoa Nghiêm, ta đọc được như
sau, tôi xin đánh số cho rõ ràng hơn:
"Phật nói: Này thiện nam tử!
1. Một trăm Lạc Xoa làm một Câu Chi.
2. Câu Chi lần Câu Chi làm một A Giu Ða.
3. A Giu Ða lần A Giu Ða làm một Na Do Tha.
4. Na Do Tha lần Na Do Tha làm một Tần Bà La.
và tiếp tục như
vậy tất cả là 123 lần, trong đó số 10 là a tăng kỳ, số 106 là số lượng,
số 108 là vô biên, số 110 là vô đẳng, số 112 là là bất khả sổ, số 114 là
bất khả xưng, số 116 là bất khả tư, số 118 là bất khả lượng, và số 120
là bất khả thuyết".
Chúng ta biết
rằng khoa học ngày nay dùng ký hiệu thừa để viết những con số lớn. Thí
dụ như một triệu là con số 1 với 6 con số 0 đằng sau, 1.000.000, theo ký
hiệu điện toán được viết như sau: 106 và đọc là 10 lũy thừa 6; 1 tỷ gồm
có số 1 và 9 số 0 được viết là 109 (billion), lớn hơn nữa là 1012 (1
ngàn tỷ hay trillion), 1015 (1 triệu tỷ hay zillion) và khoa học chưa có
những danh từ riêng để chỉ những con số lớn hơn. Tiếng Việt thì chỉ tới
số tỷ là cao nhất.
Theo kinh Phật
thì Lạc Xoa là 100 ngàn, nghĩa là 105. Như vậy, 1 Câu Chi là 10 triệu,
nghĩa là 107; 1 A Giu Ða là 100 ngàn tỷ, nghĩa là 1014; 1 Na Do Tha là
10 tỷ tỷ tỷ, nghĩa là 1028. Tiếp tục tính ra, ta sẽ thấy 1 A Tăng Kỳ là
khoảng, nếu chỉ lấy 9 con số lẻ, 10(7.098843361 x 103), nghĩa là con số 1
tiếp theo bởi hơn 7.000 tỷ tỷ tỷ con số 0 ở đằng sau, một con số vô
cùng lớn nhưng vẫn có một tên riêng. Chúng ta có thể suy ra:
Vô Lượng = 10(2.83953734 x 1032)
Vô Biên = 10(1.13581938) x 1033)
và Bất Khả Thuyết = 10(4.652297985 x 10320), nghĩa là con số 1 tiếp theo bởi khoảng hơn 4 tỷ tỷ tỷ con số 0 đứng đằng sau.
Những con số khoa
học hiện đại dùng tới có lẽ chỉ vào khoảng 1040, nghĩa là chỉ có 40 con
số 0 đứng sau. Chúng ta thấy ngay rằng, ngay cả về phương diện toán số,
Phật giáo đã đi trước khoa học khá xa về sự biểu thị chính xác những
con số và đã có quan niệm về những con số vô cùng lớn, lớn ngoài mức
tưởng tượng của các khoa học gia hiện đại.
Trên đây, tôi đã
trình bày sơ lược, sơ lược vì còn rất nhiều chi tiết tôi chưa nói tới,
những sự tương đồng giữa Phật giáo và khoa học hiện đại trong một số
quan niệm về vũ trụ, và chứng tỏ rằng những tư tưởng Phật giáo đi trước
khoa học nhiều thế kỷ, và rằng Phật giáo cũng vô cùng chính xác trong
một số nhận định. Nhưng Phật giáo không phải chỉ có những tương đồng với
khoa học trong bộ môn thiên văn như vừa trình bày ở trên, hay với môn
vật lý các hạt nhỏ (particle physics) như đã trình bày trong cuốn The
Tao of Physics của Fritjoff Capra, mà còn nhiều tương đồng khác trong
các bộ môn như sinh học (bioscience), vật lý hạt nhân (nuclear physics),
triết lý khoa học (philosophy of science), tâm lý học (psychotheraphy),
di truyền học (genetics) v.v... và nếu khảo sát kỹ thì trong bộ môn
nào, tư tưởng Phật giáo cũng đi trước khoa học khá xa. Cũng vì vậy mà
những bộ óc khai phóng, tiến bộ nhất của nhân loại hiện nay càng ngày
càng phải tìm về những chất liệu trong Phật giáo với hy vọng giải quyết
những bế tắc trong việc mở mang kiến thức loài người. Ngoài ra, cái tinh
thần từ bi hỷ xả và bản chất khoan dung của Phật giáo cũng lần lần đi
vào đầu óc của những con người tiến bộ trong thời đại khoa học.
Ðể kết luận, tôi xin mượn lời của luận gia Gerald Du Pré như sau:
"Trong thế kỷ
này, đã có nhiều công cuộc hòa hợp tôn giáo trên thế giới, với mục đích
đáng tán thưởng là tìm ra những điểm chung giữa các tôn giáo. Tuy nhiên,
điều này không làm cho tôn giáo sống lại, vì những thứ mà hầu hết những
tôn giáo cùng có là lòng tin, giáo điều, thánh kinh và các thần tính,
tất cả những thứ này làm cho các tôn giáo đó không tương hợp với khoa
học. Phật giáo (cùng với Lão giáo) là một biệt lệ, vì Phật giáo không
phải là một tín giáo, không có giáo điều cứng nhắc, không có thần quyền
và không chấp nhận hiệu lực của bất cứ ai khác. Tôi không tin rằng chúng
ta nên tìm cách hợp nhất Phật giáo với các tôn giáo khác. Ðiều này chỉ
dẫn đến sự lẫn lộn. Chúng ta hãy cố gắng tranh đấu để hợp nhất Phật giáo
và khoa học, để tạo nên một tôn giáo khoa học cho thế giới hiện đại.
Khoa học Phật giáo sẽ làm tan biến sự hoang mang, bối rối bằng cách làm
sáng tỏ và hợp nhất lý thuyết và phương pháp hành trì Phật giáo để làm
một căn bản giác ngộ vững chắc, hữu hiệu cho người phương Tây".
(During this
century, a great deal of works has been done for uniting the religions
of the world, with the praiseworthy object pf discovering what they have
in common, and for promoting tolerance among them. However, this had
not lead to a revival of religion, because what most religions have in
common is faith, devine scriptures and deities, all of which make them
incompatible with science. Buddhism (along with Taoism) is the great
exception to this, for it is not a faith, has no dogma or devine
authority of its own and does not accept the validity of anyone else's.
I don't
believe that we should be trying to unite Buddhism with other religions.
This only leads to confusion. Instead, we should be striving to unite
Buddhism and science, so as to produce a religions of science for our
modern world. Science Buddhism will dispell confusion by clarifying and
unifying Buddhists practice and theory and making it an effective
stepping-stone to enlightenment for Westerners" (Scientific Buddhism by
Gerald Du Pré, in "Buddhism and Science", Edited by Buddhadasa
P.Kirthisinghe, New Delhi, India, 1984).