Phần III - Bài 6
ÐẠO PHẬT CÓ PHẢI LÀ TÔN GIÁO KHÔNG?
Huyền Chân
Câu hỏi
này ở đầu cửa miệng nhiều người, nhất là những người mác-xít mà tôi được
quen biết. Tôi nghĩ rằng, câu trả lời có hay không, phải hay không
phải, tùy thuộc vào vấn đề chúng ta hiểu từ ngữ "tôn giáo" - một từ gốc
phương Tây (religion), như thế nào?
1. Nếu định nghĩa
tôn giáo, tức đạo, là con đường dẫn tới chân lý, giác ngộ và giải
thoát, thì đạo Phật - một đạo giác ngộ và giải thoát, đúng là một tôn
giáo. Vì bản thân Phật pháp đã từng được Ðức Phật ví như cái bè dùng để
qua sông, hay như ngón tay chỉ mặt trăng, nghĩa là như một phương tiện,
chứ không phải là cứu kính, thì đạo Phật đúng là một tôn giáo như vậy.
Khác với giáo chủ của các tôn giáo lớn khác, Ðức Phật không bao giờ tự
gán cho mình quy chế Thượng đế, con Thượng đế hay là phái viên của
Thượng đế. Phật tự xem mình là "vị Thầy chỉ bày con đường" (Margadata),
tức con đường Bát chánh đạo dẫn tới giác ngộ và giải thoát, con đường
đoạn trừ mọi khổ đau.
Ðạo Phật xa lạ
với mọi ý niệm về một Thượng đế cá nhân đầy quyền năng vô hạn. Ðức Phật
đến với loài người như một Con Người giản dị nhưng hoàn thiện, một Con
Người đã được giác ngộ và giải thoát, và chỉ bày cho loài người con
đường giác ngộ và giải thoát đó.
Cũng vì Ðức Phật
không tự cho mình quy chế một Thượng đế hay một thần linh tối thượng,
cho nên các tôn giáo thần quyền thường đánh giá đạo Phật là đạo vô thần
(atheistic). Vì Phật không tự cho mình là thần linh hay Thượng đế, cho
nên Phật thường khuyến bảo học trò không nên tin lời Phật vì lòng kính
trọng đối với Ngài, mà vì lời dạy của Phật là đúng đắn, dẫn con người
đến giác ngộ và giải thoát. Lời dạy của Phật không được xem như là giáo
điều, tuyệt đối phải tin tưởng. Lời dạy của Phật phải được chúng ta kiểm
nghiệm qua cuộc sống thực tiễn, như là người thợ vàng thử vàng vậy.
Phật thường dạy
học trò rằng, một điều là đúng hay sai không phải là do quyền uy của vị
Ðạo sư nói ra, hay được ghi trong sách Thánh như là thần khải. Ðối với
Phật, quyền uy và thần khải không phải là tiêu chuẩn của chân lý. Ðối
với đạo Phật, tiêu chuẩn của chân lý và lý trí và sự kiểm nghiệm của
cuộc sống. Khẳng định như vậy, để nói rằng đạo Phật sẽ không phải là tôn
giáo, nếu tôn giáo nghĩa là chấp nhận giáo điều, là tư biện thần học,
gọi là để tìm ra chân lý trong từng câu từng chữ của sách Thánh, là niềm
lo sợ đối với cái thiêng liêng và siêu nhiên, là sự gửi gắm cả cuộc đời
mình cho thần linh hay Thượng đế... Nếu tôn giáo là như vậy, thì đạo
Phật sẽ không phải là tôn giáo, mà đúng hơn là một hệ thống triết lý và
đạo đức, dẫn con người đến cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ.
2. Nhưng nếu tôn
giáo là một cái gì đó tạo cảm hứng cho con người hướng tới một cuộc sống
tốt đẹp nhất, cao cả nhất, thúc đẩy con người tự hoàn thiện mình bằng
một nỗ lực đạo đức không ngừng; nếu tôn giáo nâng bổng con người, vượt
trên những nhu cầu vật chất tầm thường của cuộc sống, thì đúng đạo Phật
là một tôn giáo như vậy. Mà lạ lùng thay, một tôn giáo như đạo Phật,
không công nhận có linh hồn bất tử, cũng không công nhận có Thượng đế
tạo thế, ấy thế mà từ khi ra đời ở Ấn Ðộ cách đây hơn 2500 năm, nó đã
làm chấn động tận gốc rễ xã hội đẳng cấp lâu đời, buộc tất cả mọi tôn
giáo và triết phái truyền thống phải xét lại cơ sở giáo lý của mình. Và
sau khi nó vượt biên giới, trở thành một tôn giáo thế giới, nó đã chinh
phục trái tim và khối óc của hàng triệu người. Ngày nay cũng vậy, trong
khi các tôn giáo truyền thống và thần quyền đang chịu đựng những thử
thách lớn, đối diện với đà tiến bộ khoa học như vũ bão, thì đạo Phật vẫn
đứng vững như bàn thạch, và mở con đường du nhập của mình vào ngay
trong lòng những nước đứng hàng đầu trên thế giới về khoa học và công
nghệ. Tôi muốn nói những nước như Mỹ, Anh, Pháp, Ðức v.v...
Có thể trích ra
đây lời nhận xét của nhà bác học Albert Einstein đối với đạo Phật: "Tôn
giáo trong tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ, nó phải siêu việt lên
trên một Thượng đế cá nhân, tránh giáo điều và thần học; bao quát cả hai
mặt tự nhiên và tâm linh. Nó phải dựa trên một ý thức tôn giáo nảy sinh
từ sự thực nghiệm của mọi sự vật, tự nhiên và tâm linh, được quan niệm
như một thể thống nhất có ý nghĩa. Phật giáo đáp ứng một mô tả như vậy.
Nếu có một tôn giáo thỏa mãn được những yêu cầu của khoa học hiện đại,
thì tôn giáo đó là đạo Phật". (H.C nhấn mạnh). Tôi xin trích phần Anh
ngữ của Einstein nói riêng về đạo Phật và tôi nhấn mạnh: "...
Buddhism answers this description. If there is any religion that would
cope with modern scientisfic needs, it would be Buddhism".
Ðể minh chứng
nhận xét của tôi về sự thành công của đạo Phật tại các nước phương Tây
công nghiệp, cho phép tôi đưa ra một trích dẫn nữa, lần này của một nhà
nghiên cứu tôn giáo người Pháp, trong một bài đăng trong một đặc san
nghiên cứu các tôn giáo của tờ "Thế giới ngoại giao" số tháng 11 và
12-1999:
"Phật giáo chủ
yếu là tôn giáo hiện đại: dành cho cá nhân, không giáo điều, đạo đức,
kết hợp thân với tâm. Phật giáo có tất cả cơ may để phát triển ở phương
Tây, vì nó không đề xuất một sự cứu rỗi, xuất phát từ một thần linh bên
ngoài, mà là một phương pháp thực tiễn để thoát khỏi khổ đau và đạt tới
hạnh phúc, ngay tại thế giới này" (Frederic Lenoir, Monde diplomatique -
Novembre-Decembre 1999).
Không phải vì là Phật tử mà chúng ta ca ngợi đạo Phật. Chính các nhà khoa học lớn, có tiếng tăm ca ngợi đạo Phật.
3. Phật giáo
không có một tổ chức Tăng đoàn chặt chẽ, theo kiểu các tôn giáo thần
quyền phương Tây. Vì sao? Vì tinh thần dân chủ và bình đẳng trong đạo
Phật không cho phép có một tổ chức chặt chẽ như vậy. Không những trong
thời kỳ Phật giáo Bộ phái, không những ở Ấn Ðộ, mà ngay ở Trung Hoa,
Nhật Bản, tổ chức Phật giáo vẫn bao gồm nhiều giáo phái và hệ phái khác
nhau, với những chùa chiền, tu viện và thiết chế giáo dục, hoằng pháp
của riêng các giáo phái và hệ phái đó.
Ở Việt Nam, tuy
có một Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập năm 1981, thế nhưng
Hiến chương của Giáo hội tôn trọng sự tồn tại trong phạm vi Giáo hội
những giáo phái và hệ phái khác nhau, như Phật giáo Nam tông, hệ phái
Khất sĩ, Phật giáo Khmer v.v...
Ngày xưa, khi
Thiên Chúa giáo mới bắt đầu vào nước ta, có sự phân biệt đồng bào giáo
và lương. Ðồng bào giáo chỉ cho tất cả đồng bào theo tôn giáo mới, tức
Thiên Chúa giáo; còn đồng bào lương chỉ cho tất cả đồng bào theo các đạo
Phật, Lão, Nho hay bất cứ một tín ngưỡng bản địa nào khác. Vì sao vậy?
Phải chăng vì người Việt Nam cũng như người Á Ðông nói chung không có
một quan niệm về tôn giáo chặt chẽ về mặt tổ chức như đạo Thiên Chúa?
Một người Trung Hoa, người Nhật Bản hay người Việt Nam có thể theo cả ba
đạo Phật, Lão, Nho và cả "đạo ông bà" nữa mà trong lương tâm họ tuyệt
đối không có mặc cảm gì hết. Chẳng hạn, họ không bị chi phối về mặt tâm
lý bởi những bài thuyết giảng kiểu như những bài thuyết giảng của các
bậc tiên tri đạo Do Thái chống lại mọi biểu hiện của tà đạo và tà giáo,
khi các bộ tộc Do Thái từ kiểu sống du mục chuyển thành những bộ tộc
định cư và sản xuất nông nghiệp, sau khi vương quốc Israel đầu tiên được
thành lập, với các vua David rồi Solomon, như đã được ghi chép trong
sách Cựu ước.
Người Á Ðông, dù
là ở Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam, chấp nhận tín ngưỡng đa
thần giáo một cách tự nhiên, thông thoáng; có thể vì vậy mà họ cũng
không có tư tưởng kỳ thị tôn giáo. Tôn giáo nào cũng cung cấp một trả
lời mà tín đồ tin là thỏa đáng đối với ý nghĩa của nhân sinh, của cuộc
sống. Niềm tin của tín đồ có thể nông hay sâu, liên tục hay ngắt quãng,
nhưng niềm tin đó phải có, thì mới có tôn giáo; bởi lẽ niềm tin tôn giáo
là động lực khiến tín đồ sống cả đời theo niềm tin đó. Ðặc sắc của Phật
giáo là kết hợp niềm tin với lý trí hay trí tuệ; cho rằng, hiểu biết
càng sâu, thì niềm tin tôn giáo càng vững. Còn tổ chức của Giáo hội có
chặt chẽ hay lỏng lẻo, cũng không thành vấn đề. Thậm chí, có những tín
đồ thuần thành của Phật giáo, Thiên Chúa giáo hay một tôn giáo nào khác,
rất có thể không đi chùa, không đến nhà thờ, không chấp hành những nghi
lễ nào đó do Giáo hội quy định, nhưng họ vẫn là tín đồ tôn giáo thuần
thành, theo đúng đòi hỏi của lương tâm họ.
Ðức Phật từng dạy
học trò mình rằng: "Không nên chấp nhận lời dạy của Ta do lòng kính
trọng, mà trước hết hãy kiểm nghiệm lời dạy đó, như dùng lửa thử vàng
vậy". Phật dạy: "Một điều là đúng hay sai, không phải do quyền uy và
thần khải". Phật ví những tín đồ Bà la môn giáo tụng thuộc lòng sách
Veda như một đoàn người mù, dắt dẫn nhau đi, người đi đầu không thấy gì
hết, người đi giữa cũng không thấy gì hết, và người đi sau cùng cũng
không thấy gì hết. Phật cho rằng chấp nhận chân lý và giác ngộ chân lý
là hai chuyện khác nhau. Giác ngộ chân lý như người nếm mật; còn chấp
nhận chân lý mà không hiểu, thì cũng giống như người dùng thìa hứng mật,
múc mật mà không nếm vậy.
Cũng như thế, đơn
thuần chấp nhận chân lý do quyền uy của người khác, dù người khác đó là
bậc Ðạo sư, sẽ không thể có được sự giác ngộ tâm linh, dẫn tới giải
thoát tối hậu. Tuân thủ một truyền thống hay quyền uy, tự nó không có
giá trị gì hết. Ðể được giác ngộ, học hỏi là cần thiết, nhưng sự học hỏi
đó phải được bổ sung bằng thực nghiệm cá nhân. Tôn giáo luôn luôn là
thực nghiệm, thực nghiệm qua cuộc sống như là vị thầy tốt nhất, qua thân
tâm mình như là cuốn sách quý nhất. Phật giáo là như vậy.