Giới thiệu tổng quát hệ thống kinh điển Hán tạng - Ðào Nguyên
Phần I - Bài 2
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
HỆ THỐNG KINH ÐIỂN HÁN TẠNG
Ðào Nguyên
DẪN NHẬP
Phật giáo phát
xuất từ Ấn Ðộ, về sau được truyền bá sang nhiều nước quanh khu vực qua
hai ngả: Nam, Bắc. Các cụm từ: Phật giáo Nam phương, Phật giáo Nam
truyền, Phật giáo Bắc phương, Phật giáo Bắc truyền đã được hình thành và
tồn tại dựa trên yếu tố địa lý của sự truyền bá ấy. Kinh điển theo hệ
Nam truyền được ghi chép bằng tiếng Pàli. Kinh điển theo hệ Bắc truyền
được ghi chép bằng tiếng Phạn. Từ chữ Phạn, kinh điển Phật giáo lần lượt
được phiên dịch sang chữ Hán và chữ Tây Tạng, hình thành và hoàn thành
Ðại tạng kinh chữ Hán (Hán tạng), Ðại tạng kinh chữ Tây Tạng (Tạng tạng)
là 2 Ðại tạng kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền. Trong bài viết
này, chúng tôi xin giới thiệu tổng quát về hệ thống kinh điển thuộc Hán
tạng của Phật giáo Bắc truyền.
Phật giáo, nhất
là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập, đã luôn nói đến cùng
cố gắng thực hiện hai yếu tố: khế lý và khế cơ. Khế lý là nhấn mạnh về
tính tư tưởng. Khế cơ là nhấn mạnh về tính lịch sử. Nhờ khế lý, tư tưởng
luôn phong phú, sâu sắc, mà mình vẫn là mình. Do khế cơ nên mọi hình
thái sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt luôn đa dạng, gắn bó mà không hề
mất gốc. Giáo sư D.T.Suzuki (1870-1966), nhà Phật học người Nhật nỗi
tiếng, trong tác phẩm "Nghiên cứu kinh Lăng Già" (Studies in the
Lankavatara Sutra), nơi phần bàn về "Tầm cỡ của Phật giáo Ðại thừa" đã
viết: "Chẳng hạn, kinh Pháp Hoa đánh dấu thời kỳ lịch sử Phật giáo khi
Ðức Thích Ca Mâu Ni không còn được xem là một nhân vật lịch sử phải chịu
nhận số phận của một chúng sinh giả tạm, vì Ngài không còn là Ðức Phật
mang tính chất người, mà chính là một vị sống bằng sự vĩnh cửu đối với
lợi ích của mọi chúng sinh" [1]. Hòa thượng Trí Quang, trong bản dịch
kinh Pháp Hoa do mình thực hiện, phần "Ghi nhận mở đầu", nhân bàn đến
câu kệ nơi phẩm Thọ lượng, đã viết: "Chỗ này nói gì? Nói Phật không mất
đi đâu cả. Phật ở bên ta. Ta không thấy Phật vì cái thấy của ta thấy có
sống chết mà Phật thì bất sinh bất diệt" [2].
Những kiến giải
như thế đã là những khơi gợi vô cùng quý giá giúp chúng ta trong tiến
trình tiếp cận với kinh điển của Phật giáo Bắc truyền. Và chúng ta sẽ
thấy, cũng như hầu hết các nhà nghiên cứu Phật học đã khẳng định, Phật
giáo Bắc truyền, trong hơn 2000 năm phát triển và tồn tại, đã có những
nỗ lực tuyệt vời để thể hiện những thành tựu về tính chất khế lý - khế
cơ của mình. Chính từ ý nghĩa đó, mà ở đây bài viết tuy mang tính giáo
khoa, chúng tôi vẫn luôn chú ý đến cả hai khía cạnh tư tưởng và lịch sử.
A. Tóm lược về tiến trình dịch thuật kinh điển Hán tạng:
Ðạo Phật được
truyền vào Trung Quốc khá sớm. Nơi đây, với vùng đất rộng lớn, dân cư
đông đúc và một nền văn hóa có từ lâu đời, Phật giáo đã gặp được một số
điều kiện thuận lợi để phát huy cả về chiều rộng, chiều sâu. Kinh điển
của Phật giáo bằng tiếng Phạn - trong giai đoạn đầu có cả những bản kinh
bằng chữ của một số nước Tây Vực - đã được đưa vào Trung Quốc qua nhiều
ngả và bằng nhiều cách, đồng thời phong trào dịch thuật kinh điển ấy đã
phát triển rộng khắp do sự kết hợp giữa các vị sư người Ấn Ðộ, Tây Vực
tới truyền đạo với các vị đại sư và cư sĩ ưu tú của Phật giáo Trung Quốc
- trong số này, nhiều vị đã từng lặn lội sang tận Tây Trúc để cầu học,
thỉnh kinh. Toàn bộ quá trình dịch thuật và hỗ trợ cho sự dịch thuật ấy
đã được thực hiện liên tục, đồng bộ, trải qua hàng mấy trăm năm, dẫn tới
việc hình thành Ðại tạng kinh chữ Hán đầu tiên vào năm 983, đầu đời
Triệu Tống (960-1276). Thêm vào đấy là những công trình chú giải, nghiên
cứu, soạn thuật, giảng luận v.v... có giá trị của các vị đại sư và học
giả xuất sắc của Phật giáo Trung Quốc, tất cả đã tạo cho Ðại tạng kinh
chữ Hán một sự phong phú, xứng đáng là tiêu biểu nhất cho mảng kinh điển
của Phật giáo Bắc truyền.
Ngày nay, người
học Phật, trong mọi cố gắng tự thân để tiếp cận với hệ thống kinh điển
Bắc truyền, không thể không có những hiểu biết nhất định về tiến trình
dịch thuật ấy.
I. Mấy điểm tổng quát:
Có thể ghi nhận 3 điểm tổng quát như sau:
1. Tính chất dung hợp, mở rộng: Về đặc điểm tổng quát này, có thể bàn qua hai khía cạnh: đối ngoại và đối nội.
a. Về đối ngoại:
"Phải tạo được những dung hợp bước đầu đối với một số bản sắc văn hóa
nơi dân tộc Trung Hoa". Vấn đề này chắc chắn là đã được đặt ra cho các
nhà truyền đạo và dịch thuật thời bấy giờ. Ðây là ý kiến của học giả
Nguyễn Hiến Lê trong sách "Sử Trung Quốc": "Có điều đáng để ý là đạo
Phật, khi mới vào Trung Quốc thì các tín đồ Ðạo giáo đều thấy ngay nó
hợp với họ; mà các nhà sư cũng thấy các tín đồ Ðạo giáo như là anh em
của mình... Cả hai tôn giáo đó (Lão và Phật) có những điểm giống nhau:
thờ phụng, trầm tư, luyện hơi thở, kiêng một số thức ăn..., nhất là có
truyền thuyết cho Lão Tử về già qua phương Tây, mà đạo Phật cũng ở
phương Tây, cho nên tín đồ Ðạo giáo cho rằng Phật với Lão là một. Do đó,
những người Hán đầu tiên theo đạo Phật phần nhiều là đã theo Ðạo giáo,
và những nhà sư phương Tây qua muốn dịch kinh Phật, đã dùng ngay một số
từ ngữ trong Ðạo Ðức kinh... [3].
Thêm nữa, theo
Ðại tạng kinh Ðại Chính tân tu (ÐTKÐCTT), chúng ta có một số bản kinh
được dịch vào giai đoạn đầu, đã dùng những khái niệm mang đậm ảnh hưởng
của Nho giáo để giải thích về 5 Giới của nhà Phật. Chẳng hạn, kinh số
76, ÐTKÐCTT/tập I, do cư sĩ Chi Khiêm dịch:
5 Giới là:
- Thủ nhân bất sát (Giữ trọn lòng nhân, không giết hại sinh mạng);
- Tri túc bất đạo (Biết đủ không trộm cắp);
- Trinh khiết bất dâm (Trinh khiết, không dâm dật);
- Chấp tín bất khi (Giữ lấy điều tín nghĩa, không lừa dối);
- Tận hiếu bất túy (Dốc lòng hiếu thuận, không rượu chè say sưa) [4].
Hoặc kinh số 687, ÐTKÐCTT tập 16, (mất tên người dịch), 5 giới gồm: - Nhân trắc bất sát (Nhân từ, thương người, vật, nên không sát sinh);
- Thanh nhượng bất đạo (Trong lành, khiêm cung, không trộm cắp);
- Trinh khiết bất dâm (Trinh khiết, không dâm dật);
- Thủ tín bất khi (Giữ lấy điều tín nghĩa, không lừa dối);
- Hiếu thuận bất túy (Hết lòng hiếu thảo, không say sưa) [5].
b.
Về đối nội: Ðối với Phật giáo Ấn Ðộ và vùng Tây Vực, nhất là các bậc
lãnh đạo giàu tâm huyết, các vị danh tăng đã chọn con đường hoằng dương
chánh pháp làm sự nghiệp, thì công việc đem Phật giáo vào miền Ðông độ,
vào đất Trung Hoa quả là một sứ mạng. Chính vì thế mà các nhà sư truyền
đạo, dịch thuật, trong thời kỳ đầu cũng như mãi về sau này, đã tùy theo
sở học và chỗ tâm đắc của mình, thuận theo hoàn cảnh và sự hỗ trợ thích
hợp, đều dốc hết tâm lực để dịch thuật, truyền bá, không có sự phân
biệt, cục bộ. Tất nhiên, vẫn có những quan điểm bất đồng, những kiến
giải không giống nhau, nhưng đấy đều là chuyện thứ yếu; cái chính, cái
trọng tâm là sự nghiệp hoằng pháp luôn được đặt ở hàng đầu. Ðấy là lý do
chính để cắt nghĩa tính chất dung hợp, mở rộng trong hướng dịch thuật,
dẫn tới việc khẳng định sự phong phú trong Hán tạng. Có thể tham khảo ý
kiến của học giả Nguyễn Duy Cần, trong sách Phật học tinh hoa, phần bàn
về "Kinh điển Phật giáo": "Các nhà nghiên cứu Phật học thường hay chia
kinh điển ra làm hai phần đặc biệt là Nam tông và Bắc tông. Tuy hai bộ
phận ấy chưa hề có sự chia rẽ hay chống đối nhau, nhưng riêng về phương
diện giáo lý cũng như về lối nhận thức thì hẳn có nhiều điểm khác
nhau... Ngày nay, khi đặt vấn đề tìm hiểu coi hệ thống kinh điển nào có
trước, Pàli hay Sanskrit, và hệ thống kinh điển nào còn giữ đúng tinh
thần Phật giáo, thật khó mà quyết đoán được. Vậy, muốn tìm hiểu Phật
giáo, không thể dừng ở bộ phận nào, mà phải kiêm cả hai bộ phận (Nam
tông, Bắc tông) mới được. Chúng ta cũng cần phải lưu ý về hai điểm này
trong khi nghiên cứu về kinh điển Phật giáo: * Hệ thống kinh điển Bắc tông rất dồi dào, phong phú hơn hệ thống Nam tông nhiều, cả về kinh, luận.
* Kinh điển Nam
tông không hề thấy có lẫn lộn kinh điển Bắc tông, trái lại trong kinh
điển Bắc tông thấy rất nhiều kinh điển Nam tông... [6].
2. Tính chất đa dạng:
Ðây là hệ luận của đặc điểm kể trên. Với một địa bàn hoạt động hết sức
rộng lớn, mà các phương tiện in ấn, truyền đạt còn hạn chế, nên trong
cùng một thời gian, một giai đoạn, một bản kinh chữ Phạn cùng được nhiều
người dịch. Hơn nữa, trong tinh thần cầu tiến, cầu toàn, người đi sau
cần bỗ sung, hỗ trợ cho người đi trước, nên có thể một bản kinh đã được
dịch rồi vẫn được dịch lại v.v... Tất cả đã dẫn tới tính chất đa dạng
nơi kinh điển của Hán tạng. Hầu hết các bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo
Bắc truyền như Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Già, Pháp Hoa, Duy Ma, Niết
Bàn, v.v... mỗi bộ đều có nhiều bản Hán dịch. Mỗi bản Hán dịch đều là
những cố gắng tột bực của người dịch, mang đậm dấu ấn về ngôn từ, tư duy
của thời đại, lại mở ra cho nhà nghiên cứu đi sau nhiều phát hiện, soi
sáng mới. Xin nêu dẫn thêm trường hợp một bản kinh ngắn, có mặt trong cả
điển tịch Nam truyền và Bắc truyền. Ðó là kinh Thiện Sinh, còn gọi là
kinh Thiện Sinh Tử, kinh Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ.
a. Về kinh tạng
của Phật giáo Nam truyền, kinh Thiện Sinh được ghi lại trong Trường Bộ
kinh (Digha-Nikaya), kinh số 31, có tên là Singalovàda Suttanta (kinh
Giáo Thọ Thi Ca La Việt) [7].
b. Về kinh tạng thuộc Hán tạng thì kinh Thiện Sinh hiện còn 4 bản Hán dịch, kể theo thứ tự thời gian dịch thuật như sau:
- Kinh
Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ: 1 quyển, do Ðại sư An Thế Cao dịch vào đời
Hậu Hán (25-220) [8], thời điểm dịch là vào khoảng 148-170.
- Kinh Phật
Thuyết Thiện Sinh Tử: 1 quyển, do Sa môn Chi Pháp Ðộ dịch vào thời Tây
Tấn (265-317) [9], thời điểm dịch là vào khoảng năm 301.
- Kinh Thiện Sinh
trong kinh Trung A Hàm, quyển thứ 33, kinh số 135 [10] do Ðại sư Cù Ðàm
Tăng Già Ðề Bà dịch vào đời Ðông Tấn (317-419) thời điểm dịch là vào
khoảng năm 397.
- Kinh Thiện Sinh
trong kinh Trường A Hàm, quyển thứ 11, kinh số 16 [11] do hai Ðại sư
Phật Ðà Da Xá và Trúc Phật Niệm dịch vào đời Hậu Tần (384-417), thời
điểm dịch là vào khoảng năm 408.
3. Tính chất kế thừa và phát huy:
Cũng là những chi tiết trong tinh thần khế lý - khế cơ vốn có, kinh
điển đã được dịch ra chữ Hán cần có sự trợ lực để dễ dàng và thuận tiện
hơn trong quá trình nghiên cứu, quảng diễn, truyền bá, phỗ cập. Ðó là
công việc chú thích, sớ giải, do các đại sư thuộc vào hàng kiệt xuất của
Phật học Trung Hoa đảm trách và chúng ta có thể nói đến một ngành "Sớ
giải học" vô cùng phong phú trong Hán tạng. Ngoại trừ một vài mặt hạn
chế do yếu tố thời đại, yếu tố lịch sử, nhìn chung, trên nền tảng là
tính chất kế thừa và phát huy, mỗi bản sớ giải về kinh dù ngắn, dù dài
đều là những công trình nghiên cứu nghiêm túc, thể hiện mọi nỗ lực của
người viết nhằm phát hiện, khám phá, soi sáng, lý giải, giúp người đọc
tiếp cận bộ kinh qua nhiều góc độ, không chỉ lĩnh hội ở tầng hiển ngôn
mà còn vươn tới tầng vô ngôn thăm thẳm. Chính từ những chú giải, những
phát hiện ấy mà nhiều tông phái Phật giáo đã được hình thành trong nỗ
lực kế thừa cùng phát huy chánh pháp. Và với sự xuất hiện của 10 tông
phái Phật giáo thì rõ ràng là tư tưởng của Phật học Trung Hoa nói riêng,
của Phật giáo Bắc truyền nói chung, đã đạt tới mức toàn thịnh, viên
mãn. Giáo sư Tưởng Duy Kiều (1872-?) trong tác phẩm "Ðại cương triết học
Phật giáo", phần bàn về "Các giáo phái Phật giáo", đã khẳng định: "Phật
giáo tuy xuất xứ tại Ấn Ðộ, nhưng các giáo phái được mở mang rực rỡ đặc
biệt và sự nghiên cứu, tổ chức có hệ thống, chúng ta thấy chỉ có nước
Trung Hoa" [12]. Xin nêu dẫn một chi tiết thuộc tông Hoa Nghiêm. Ðại sư
Pháp Thuận (Ðồ Thuận, 557-640), vị Tổ thứ nhất của tông Hoa Nghiêm, đã
dựa trên bộ kinh ấy để lập ra 3 pháp quán về Pháp giới là Chân không
quán, Lý sự vô ngại quán và Chu biến hàm dung quán [13]. Từ Chu biến hàm
dung quán, Ðại sư lại chia ra làm 10 môn, nhấn mạnh về tính chất dung
thông vô ngại của lý, sự. Từ 10 môn này, vị Tổ thứ hai của tông Hoa
Nghiêm là Ðại sư Trí Nghiễm (còn gọi là Tôn giả Vân Hoa, 602-668) đã lập
thành 10 Huyền môn (còn gọi là 10 Huyền nghĩa duyên khởi), rồi được Ðại
sư Pháp Tạng, tức Quốc sư Hiền Thủ (643-712) vị Tổ thứ ba, người được
D.T. Suzuki đánh giá là một trong số các học giả xuất sắc nhất của Phật
giáo Trung Hoa [14], bỗ sung để hoàn thành "Tân thập Huyền môn", là một
phát hiện, một lý giải sáng giá nhất trong sứ mạng kế thừa và phát huy
giáo lý Duyên khởi [15].
II. Thời kỳ mở đầu:
Bước đầu bao giờ
cũng khó khăn nên luôn trân trọng đối với những đóng góp trong thời kỳ
này. Ba gương mặt dịch thuật đáng chú ý nhất của thời kỳ mở đầu là Ðại
sư An Thế Cao (thế kỷ II), Ðại sư Chi Lâu Ca Sấm (147-?) và cư sĩ Chi
Khiêm (thế kỷ III).
1. Ðại sư An Thế Cao:
Người nước An Tức, tên là Thanh, tự Thế Cao, bác học đa văn, là vương
tử nhưng không nối ngôi cha mà quy ngưỡng Phật, học thông về A tỳ đàm và
Thiền, có mặt ở Trung Hoa trong khoảng 148-170 (đời Ðông Hán), đóng góp
nhiều công sức vào buỗi đầu của quá trình dịch thuật kinh điển Hán
tạng. Hầu hết các bản Hán dịch của Ðại sư An Thế Cao đều là những bản
kinh ngắn, thuộc hệ A Hàm (như các kinh mang số 13, 14, 16, 31, 32, 36,
48 v.v... [16] và Thiền (như các kinh: số 602: Phật thuyết Ðại An Ban
Thủ Ý kinh. số 603: Ấm Trì Nhập kinh. số 604: Phật Thuyết Thiền Hành Tam
Thập Thất Phẩm kinh. số 605: Thiền Hành Pháp Tưởng kinh... [17]. Thành
tựu về dịch thuật của Ðại sư tạo được âm vang đáng kể đối với hậu thế là
bản dịch kinh Bát Ðại Nhân Giác (số 779: ÐTKÐCTT, tập 17,
tr.715B-715C). kinh Bát Ðại Nhân Giác được xem là sự quảng diễn về một
số điểm đã được nêu ra trong kinh Trường A Hàm [18]. Tuy chỉ là một bản
kinh rất ngắn, nhưng đã hàm chứa những đề xuất thiết thực, sâu sắc đối
với người tu Phật, nên từ lâu (ở Việt Nam) kinh ấy đã được dùng làm tài
liệu giáo khoa giảng dạy cho các lớp Phật học sơ cấp. Cụm từ "Duy tuệ
thị nghiệp" vốn xuất xứ từ kinh Bát Ðại Nhân Giác [19].
2. Ðại sư Chi Lâu Ca Sấm (147-?):
Chi Lâu Ca Sấm (Lokasema) còn gọi là Chi Sấm, người nước Ðại Nhục Chi,
học rộng, thông đạt kinh tạng, vào những năm cuối đời vua Hoàng đế nhà
Ðông Hán, Ðại sư đến kinh đô Lạc Dương, từ 178-189 tham gia vào công
việc dịch kinh với những đóng góp thật lớn lao. Các kinh do Ðại sư dịch
gồm:
a. Thuộc hệ Bản Duyên: số 204: Tạp Thí Dụ kinh, 1 quyển [20]
b. Thuộc hệ Bát Nhã: số 224: Ðạo Hành Bát Nhã kinh, 10 quyển [21]
c. Thuộc hệ Hoa Nghiêm: số 280: Phật thuyết Ðâu Sa kinh, 1 quyển [22]
d. Thuộc hệ Bảo Tích:
- số 313: A Súc Phật Quốc kinh, 2 quyển
- số 350: Phật thuyết Di Nhật Ma Ni Bảo kinh,1 quyển... [23].
Trong
số này, đáng chú ý hơn hết là bản dịch kinh Ðại Hành Bát Nhã (10
quyển), được xem là bản Hán dịch đầu tiên về một phần chủ yếu của kinh
Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða. (Kinh Ðạo Hành Bát Nhã tương đương với hội thứ
4, gồm 18 quyển, từ quyển 538-555 của kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða gồm
600 quyển do Pháp sư Huyền Tráng, 602-664, dịch).
Ngoài ra, với 2
bản dịch kinh Phật Thuyết Ban Chu Tam Muội (số 417, 1 quyển) và Ban Chu
Tam Muội kinh (số 418, 3 quyển) [24], Ðại sư Chi Lâu Ca Sấm được xem là
người đầu tiên phỗ biến tư tưởng niệm Phật, thế giới Tây phương với Phật
A Di Ðà, làm cơ sở cho tín ngưỡng Tịnh độ sau này [25].
3. Cư sĩ Chi Khiêm (thế kỷ III):
Tự là Cung Minh, gốc người nước Ðại Nhục Chi, theo ông bà nhập cư vào
Trung Quốc, sau lánh nạn nên dời xuống phương Nam (Ðông Ngô), từng theo
học với Ðại sư Chi Lượng (đệ tử của Chi Lâu Ca Sấm), là người học rộng,
đọc nhiều, được người đương thời xưng tụng là "Trí nang" (túi chứa trí
tuệ). Vãn niên ẩn tu nơi núi sâu, thọ khoảng 60 tuỗi. Sự nghiệp dịch
thuật của cư sĩ Chi Khiêm kéo dài hơn 30 năm, từ năm 222-253, với những
thành tựu đáng kể:
a. Thuộc hệ A Hàm: Các kinh mang số hiệu 20, 21, 27, 54, 59, 67, 68 v.v... [26]
b. Thuộc hệ Bản
Duyên: số 153: Bồ Tát Bản Duyên kinh, 3 quyển; số 185: Phật Thuyết Thái
tử Thụy Ứng Bản khởi kinh, 2 quyển [27]; số 200: Soạn Tập Bách Duyên
kinh, 10 quyển [28]...
c. Thuộc hệ Bát Nhã: số 225: Ðại Minh Ðộ kinh, 6 quyển [29].
d. Thuộc hệ Hoa Nghiêm: số 281: Phật Thuyết Bồ tát Bản Nghiệp kinh, 1 quyển [30]...
Ngoài
ra, cư sĩ Chi Khiêm còn là dịch giả các bản kinh như: số 474: Phật
Thuyết Duy Ma Cật kinh, 2 quyển [31]. số 710: Phật Thuyết Bột kinh sao, 1
quyển [32]...
Cư sĩ Chi Khiêm
được xem là vị dịch giả thành công nhất trong thời kỳ đầu, xét về mặt
ngôn từ, cách thế diễn đạt. Tiến sĩ Lê Mạnh Thát, nhân giới thiệu một
kinh trong bộ "Soạn Tập Bách Duyên kinh", đã nhận xét: "Soạn Tập Bách
Duyên kinh do Chi Khiêm dịch khoảng giữa những năm 220-252 tại Kiến
Nghiệp, và ai cũng biết Chi Khiêm là một dịch giả thiên trọng về văn vẻ
và bóng gió, một sự kiện mà ta chỉ cần đọc bản Hán dịch dẫn trên (Bách
tử đồng sản duyên: Chuyện 100 người con cùng sinh) cũng đủ để chứng
minh. Lời văn dịch lưu loát, hoa mỹ đến nội ngay cả bản Việt dịch ngày
nay của chúng tôi cũng không cần phải thêm thắt gì nhiều để "hiện đại
hóa" [33].
Ðiều nhận xét
trên lại càng thấy rõ hơn nữa nơi bản dịch kinh "Phật Thuyết Bột kinh
sao" [34]. Ðây là một bản kinh ngắn nhưng thuyết minh một cách phong
phú, sinh động về tính chất xử thế và trị nước, nên hàm chứa những giá
trị lớn về nhân sinh theo quan điểm của Phật giáo. Người dịch - cư sĩ
Chi Khiêm - với lối diễn đạt lưu loát, uyển chuyển, bố cục hài hòa,
chuyển mạch hợp lý, đối thoại gãy gọn, hàm súc, tất cả đã khiến cho
người đọc bản kinh như đọc một truyện ngắn văn học giá trị. "Kinh Phật
Thuyết Bột kinh sao" từ lâu đã được Hòa thượng Hành Trụ dịch sang tiếng
Việt với nhan đề "Kinh Hiền Nhân" và được dùng làm tài liệu giảng dạy
cho các lớp Phật học sơ cấp.
III. Ba dấu mốc tiêu biểu:
Ba dấu mốc tiêu
biểu trong quá trình dịch thuật và hoàn thành Ðại tạng kinh chữ Hán nói
chung, kinh điển Hán tạng nói riêng, là Pháp sư Trúc Pháp Hộ của hậu bán
thế kỷ III, đầu thế kỷ IV, Pháp sư Cưu Ma La Thập cuối thế kỷ IV đầu
thế kỷ V và Pháp sư Huyền Tráng của thế kỷ VII TL.
1. Pháp sư Trúc Pháp Hộ (226-304):
Trúc Pháp Hộ còn gọi là Chi Pháp Hộ, dịch âm theo tiếng Phạn là Ðàm Ma
La Sát (Dharmaraksa), gốc người Ðại Nhục Chi, nhưng tiền nhân đã định cư
ở Ðôn Hoàng. Xuất gia tu Phật từ lúc 8 tuỗi, theo thầy là Trúc Cao Tọa.
Bản tính thông minh, hiếu học, có chí lớn, đọc rộng, xem nhiều, từng đi
khắp 36 nước vùng Tây Vực để học hỏi và thu thập kinh điển. Sự nghiệp
dịch thuật bắt đầu từ năm 226 kéo dài đến cuối đời, luôn tận tụy với
công việc, nên đã đạt được nhiều thành tựu lớn lao: "Kinh điển lưu hành
rộng rãi tại Trung Hoa, đầu tiên là nhờ ngài" [35]. Theo mục lục của
ÐTKÐCTT thì số lượng dịch phẩm của Pháp sư Trúc Pháp Hộ hiện còn là 95
tên kinh, 208 cuốn bao gồm hầu hết các hệ, từ A Hàm, Bản Duyên, Bát Nhã
đến Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Niết Bàn, Ðại Tập, Kinh Tập, Mật
giáo, và ở một số hệ, ngài là vị dịch giả mở đầu, đặt nền tảng. Chẳng
hạn:
a. Thuộc
hệ Bản Duyên: số 154: kinh Sinh, 5 quyển (tiền thân Phật); số 186: Phật
Thuyết Phỗ Diệu kinh, 8 quyển (lịch sử Ðức Phật) [36]...
b. Thuộc hệ Bát
Nhã: số 222: Quang Tán kinh, 10 quyển [37] (Tương đương với hội thứ nhì,
từ quyển 401-478 của kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða, 600 quyển do Pháp
sư Huyền Tráng dịch).
c. Thuộc hệ Pháp Hoa:
số 263:
Chánh Pháp Hoa kinh, 10 quyển. Ðây là bản Hán dịch đầu tiên về kinh Pháp
Hoa(38); số 266: Phật thuyết A Duy Việt Trí Già kinh, 3 quyển [38].
d. Thuộc hệ Hoa Nghiêm: số
283: Bồ tát Thập trụ Hành Ðạo phẩm, 1 quyển (Tương đương với phẩm Thập
Trụ (phẩm 15) của kinh Hoa Nghiêm 80 quyển); - số 285: Tiệm Bị Nhất
Thiết Trí Ðức kinh, 5 quyển (Tương đương với phẩm thứ 26 (phẩm Thập địa)
của kinh Hoa Nghiêm 80 quyển); số 288: Ðẳng Mục Bồ tát Sở Vấn Tam Muội
kinh, 3 quyển (Tương đương với phẩm thứ 27 (phẩm Thập định) của kinh Hoa
Nghiêm 80 quyển); số 291: Phật Thuyết Như Lai Hưng Hiển kinh, 4 quyển
(Tương đương với phẩm thứ 37 (phẩm Như Lai xuất hiện) của kinh Hoa
Nghiêm 80 quyển); số 292: Ðộ Thế Phẩm kinh, 6 quyển (Tương đương với
phẩm thứ 38 (phẩm Ly thế gian) của kinh Hoa Nghiêm 80 quyển) [39].
e.
Thuộc hệ Niết Bàn: - số 378: Phật Thuyết Phương Ðẳng Bát Nê Hoàn kinh, 2
quyển; số 381: Ðẳng Tập Chúng Ðức Tam Muội kinh, 3 quyển; số 391: Bát
Nê Hoàn Hậu Quán Lạp kinh, 1 quyển [40], v.v...
Học
giả Lương Khải Siêu (1873-1929) đã chú ý về hai điểm trong sự nghiệp
dịch thuật của Pháp sư Pháp Trúc Hộ để ghi vào "Phật giáo đại sự biểu"
của Trung Hoa: - Năm 269, kinh Niết Bàn của Ðại thừa bắt đầu xuất hiện do ngài dịch.
- Năm 288, kinh Pháp Hoa bắt đầu xuất hiện do ngài dịch [41].
Một
bản kinh rất ngắn do Pháp sư Trúc Pháp Hộ dịch đã tạo được sự gắn bó đậm
đà với hậu thế là kinh Vu Lan Bồn [42]. Hòa thượng Trí Quang, nơi bản
Việt dịch kinh Vu Lan, phần giới thiệu dịch giả, đã kết luận: "Lịch sử
phiên dịch của Phật giáo Trung Hoa rõ ràng có 3 cái mốc là Pháp Hộ, La
Thập và Huyền Tráng. Nhưng ngài Pháp Hộ thuộc thời kỳ phôi thai, lại
không có sự hỗ trợ của thế quyền. Cộng tác với ngài chỉ có cha con cư sĩ
Nhiếp Thừa Viễn, Nhiếp Ðạo Chân... nhưng truyện tích không có một tỳ
vết nào về Tăng cách và Nhân cách. Do đó, bất cứ ai đọc và học kinh sách
Hoa văn đều ngưỡng mộ ngài không ít. Chỉ nói, tuy đã gần hết 17 bách
kỷ, mà Vu Lan Bồn, một bản kinh rất ngắn, nhưng hàng năm cứ đến mùa Vu
Lan báo hiếu, lời dịch của ngài non 1700 năm về trước, vẫn được duy nhất
tụng lên, và hình ảnh của ngài lại càng hiện rõ trong bao niềm ngưỡng
mộ..." [43].
2. Pháp sư Cưu Ma La Thập: (344-413):
Cưu Ma La Thập (Kumàrajiva) là gương mặt dịch thuật vào hàng kiệt xuất
của Phật giáo Bắc truyền, có một ảnh hưởng rất lớn đến sự hoàn thành Ðại
tạng kinh chữ Hán, cả về mặt tư tưởng và thuật ngữ. Pháp sư người nước
Quy Tư, xuất thân từ hàng vương tộc, mẹ là em gái vua nước này, 7 tuỗi
xuất gia đầu Phật, chịu ảnh hưởng của mẹ, thông tuệ tột vời, đọc rộng,
xem khắp, đi nhiều. Từ Hải, bộ từ điển có giá trị của Trung Hoa, đã dùng
8 chữ để tóm kết tính chất xuất chúng nơi ngài La Thập: "Tổng quán quần
tịch, diệu giải Ðại thừa" [44] (thâu tóm mọi thứ điển tịch sách vở, lý
giải thấu đạt diệu chỉ nơi giáo pháp Ðại thừa).
Pháp sư Cưu Ma La
Thập có mặt tại đất Trường An vào năm 401, bấy giờ là kinh đô của nhà
Hậu Tần (384-417), thời vua Diêu Hưng (366-416), sự nghiệp dịch thuật
bắt đầu từ đấy cho tới cuối đời, thời gian tuy không nhiều nhưng thành
quả đạt được thật là vĩ đại. Hỗ trợ cho thành tựu ấy phải kể đến công
đức hộ pháp của vua Diêu Hưng cùng những đóng góp của hàng môn đồ, nhất
là 4 vị đệ tử xuất sắc là Tăng Duệ, Tăng Triệu, Ðạo Sinh và Ðạo Dung,
trong đó đáng kể nhất là Tăng Duệ, người đã tham gia hầu hết vào các bản
dịch tiêu biểu của thầy (đọc lại, viết lời tựa...). Theo mục lục của
ÐTKÐCTT, tổng số dịch phẩm của Pháp sư Cưu Ma La Thập hiện còn là 15
loại, 53 đề mục, 343 cuốn, bao gồm hết thảy các hệ của Kinh tạng (A Hàm,
Bản Duyên, Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Niết Bàn, Ðại Tập,
Kinh Tập), Luật tạng, Luận tạng (Thích kinh luận, Trung quán, Luận tập)
và Sử truyện. Học giả Lương Khải Siêu, trong "Phật giáo đại sự biểu" của
Phật giáo Trung Hoa, đã ghi nhận [45]:
- Năm 403: Kinh Ðại Bát Nhã xuất hiện lần thứ 3, do ngài La Thập dịch [46].
- Năm 404: Bách luận xuất hiện, do ngài La Thập dịch [47].
- Năm 405: Luận Ðại Trí Ðộ xuất hiện, do ngài La Thập dịch [48].
- Năm 406: Kinh Pháp Hoa (định bản) và kinh Duy Ma (định bản) xuất hiện, do ngài La Thập dịch [49].
- Năm 408: Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã xuất hiện lần thứ 3, và luận Thập Nhị môn xuất hiện, do ngài La Thập dịch [50].
- Năm 409: Trung luận xuất hiện, do ngài La Thập dịch [51].
- Năm 411: Luận Thành Thật xuất hiện, do ngài La Thập dịch [52].
Chữ
định bản ở đây là chỉ cho sự thành tựu bậc nhất của bản dịch, xét về mặt
tư tưởng và ngôn từ. Nói rõ hơn, một số kinh quen thuộc như kinh A Di
Ðà [53], kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cương [54], kinh Duy Ma... với bản dịch
của Pháp sư Cưu Ma La Thập, được xem là những định bản, tức là từ trước
tới giờ, mọi sự đọc tụng, nghiên cứu, sớ giải, bình luận... đều dựa
trên các định bản ấy. Hơn thế nữa, hệ thống thuật ngữ Phật học trong Hán
tạng đã nhờ vào sự nghiệp dịch thuật của ngài cùng ảnh hưởng của sự
nghiệp ấy mà định hình (sẽ bàn ở phần sau). Học giả Lương Khải Siêu kết
luận: "Phật giáo thuộc văn hệ Trung Hoa có một cơ sở vững chắc về học lý
để có một sự phát triển có hệ thống thực bắt nguồn từ ngài Cưu Ma La
Thập" [55].
Cũng giống như
kinh Vu Lan qua bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ, bản dịch kinh A Di Ðà
của ngài Cưu Ma La Thập đã tạo được sự gắn bó thân thiết với bao thế hệ
Phật tử Trung Hoa và Việt Nam.
3. Pháp sư Huyền Tráng (602-664):
Huyền Tráng là bậc danh tăng vào hàng kỳ vĩ của Phật giáo Trung Quốc.
Hai sự nghiệp cầu pháp và dịch thuật trong cuộc dời ngài đều là siêu
quần. Ðể thêm tư liệu tham khảo, chúng tôi xin nêu dẫn những dòng viết
của học giả Nguyễn Hiến Lê trong sách "Sử Trung Quốc", tập 1, nhận xét
về sự nghiệp cầu pháp và sự nghiệp dịch thuật của Pháp sư Huyền Tráng:
"Huyền Tráng sinh năm 602 ở Hà Nam (xuất gia tu Phật từ năm 13 tuỗi, học
rộng, đi nhiều, có tinh thần nhận xét, phê phán. Chúng tôi thêm - ÐN).
Năm thứ 3 đời Ðường Thái Tôn (629), một mình qua sa mạc Qua Bích dài non
500 cây số, tới nước Cao Xương, được vua nước đó rất trọng, rồi leo núi
Thông Lĩnh cao 7.200 thước trong dãy Thiên Sơn, tiến theo đường chở lụa
tới Thiết Môn Sơn, một nơi vô cùng hiểm trở. Từ đây, ông theo hướng
Ðông Nam qua nhiều nước nhỏ, vòng qua Ðại Tuyết Sơn rồi vào Tây Trúc.
Ông thật là một
nhà mạo hiểm, đời sau không chắc có ai hơn. Lại có tinh thần nhận xét
của nhà khoa học, ghi rất kỹ và đúng những điều mắt thấy tai nghe ở các
nơi ông đã đi qua. Ông đi một vòng nước Tây Trúc, coi hết các nơi có di
tích của Phật Thích Ca, lại ở hơn 1 năm tại chùa Nalanda, một ngôi chùa
lớn nhất, đẹp nhất, mà cũng là một trường đại học cỗ nhất. Ông tả cảnh
chùa đó, giọng bóng bẩy như giọng thi sĩ Tràng An. Ông học hết bộ Du Già
luận, học thêm triết lý Bà la môn và Phạn ngữ, rồi đi chu du Tây Trúc
tìm hiểu thêm các giáo phái khác... Tới đâu, ông cũng thuyết pháp được
hoan nghênh, ai cũng muốn lưu ông lại. Lần về, ông theo một con đường
khác, ghé nhiều nơi để giảng đạo. Năm 645 ông về tới Tràng An sau khi xa
quê hương 16 năm, đi gần 30 ngàn cây số, qua 128 nước, đem về được 657
bộ kinh, không kể nhiều vật quý khác. Mới về nước được hơn 1 tháng, ông
bắt tay ngay vào công việc dịch thuật đại quy mô và mải miết làm luôn
trong 19 năm cho tới khi tắt thở. Ông tổ chức một ban dịch thuật, mời
các vị cao tăng thông cả Hoa ngữ lẫn Phạn ngữ hợp tác. Công việc làm rất
có phương pháp và kỹ lưỡng, soát đi soát lại nhiều lần... Ông dịch
những kinh khó nhất và chỉ huy việc dịch những kinh khác. Tới năm 663,
ông dịch được 600 quyển.
Ngoài ra, ông còn cho hậu thế:
- Bản dịch Ðạo đức kinh ra tiếng Phạn để giới thiệu triết học Trung Hoa với Ấn Ðộ.
- Bản dịch Ðại
Thừa Khởi Tín luận từ Hoa ngữ ngược về Phạn ngữ. Nguyên bản chữ Phạn của
Ấn Ðộ đã thất lạc từ lâu, nhưng ở Trung Hoa còn giữ lại được bản chữ
Hán...
- Soạn một cuốn ngữ pháp Phạn, giản lược mà sáng sủa và đúng.
- Viết bộ Ðại
Ðường Tây Vực ký gồm 12 quyển, chép những điều mắt thấy tai nghe trong
chuyến đi thỉnh kinh. Bộ này chứa những tài liệu rất quý cho các nhà
khảo cỗ Ấn Ðộ và Trung Á sau này, được dịch ra nhiều thứ tiếng: Anh,
Pháp, Nga, Ðức, Nhật... và đã giúp các học giả Ấn sửa lại nhiều điều sai
lầm trong lịch sử của họ về thế kỷ VII.
Công
việc dịch kinh của ông chẳng những làm cho đạo Phật phát triển mạnh ở
Ðông Á mà còn ảnh hưởng lớn đến ngôn ngữ và văn học Trung Hoa... Huyền
Tráng tịch năm 664, 1 triệu người ở Tràng An và tứ xứ đi đưa linh cữu
ông [56].
Về con số "600
quyển được dịch" vừa nêu trên, chúng tôi không rõ học giả Nguyễn Hiến Lê
đã dựa theo tài liệu nào. Căn cứ nơi mục lục của ÐTKÐCTT, tổng số dịch
phẩm của Pháp sư Huyền Tráng hiện còn trên 70 tên kinh, luật, luận, gồm
1.322 quyển, không chỉ dịch các bộ kinh, luận lớn như kinh Ðại Bát Nhã
Ba La Mật Ða, 600 quyển [57], luận A Tỳ Ðạt Ma Ðại Tỳ Bà Sa, 200 quyển
[58], luận Du Già Sư Ðịa, 100 quyển [59], luận A Tỳ Ðạt Ma Thuận Chánh
Lý, 80 quyển [60], v.v... mà số bản kinh ngắn, rất ngắn cũng được Pháp
sư dịch lại một cách kỹ lưỡng, như: Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm kinh [61];
kinh A Di Ðà (bản dịch của ngài Huyền Tráng mang tên là: Xưng Tán Tịnh
Ðộ Phật Nhiếp Thọ kinh [62]; kinh Hiển Vô Biên Phật Ðộ Công Ðức [63]
v.v... Vốn có những sở học và tâm đắc về hệ thống Pháp tướng ở Ấn Ðộ,
lại là dịch giả các bộ kinh, luận như kinh Giải Thâm Mật [64], luận Du
Già Sư Ðịa, luận Nhiếp Ðại Thừa [65], luận Thành Duy Thức [66], về sau
được đệ tử là Ðại sư Khuy Cơ (632-682) phát huy, nên Pháp sư Huyền Tráng
được xem là sơ tổ của tông Duy Thức ở Trung Hoa. Về đường hướng dịch
thuật, Pháp sư đã đề xuất quan điểm "Ngũ chủng bất phiên" [67] và tạo
nên một phong cách riêng. Các nhà nghiên cứu Phật học đã dùng từ Cựu
dịch, Tân dịch để chỉ cho các công trình và lối dịch thuật kinh điển
Phật giáo trước ngài Huyền Tráng (cựu dịch) và từ ngài Huyền Tráng trở
về sau (tân dịch), đủ thấy phong cách dịch thuật ấy đã có một ảnh hưởng
rất lớn. Ngoài ra, Tâm kinh Bát Nhã được xem là dịch phẩm thành công
nhất của Pháp sư Huyền Tráng, tạo được sự gắn bó thân thiết đối với bao
thế hệ người tu Phật.
IV. Mấy nét chính về quá trình sử dụng thuật ngữ Phật học trong kinh điển thuộc Hán tạng:
Về tiến trình
dịch thuật kinh điển thuộc Hán tạng, chúng ta đã lần lượt bàn qua: Mấy
điểm tổng quát, Thời kỳ mở đầu, Ba dấu mốc tiêu biểu, và bây giờ là Quá
trình sử dụng thuật ngữ Phật học, trước khi bước sang phần 2 là Giới
thiệu hệ thống kinh điển thuộc Hán tạng theo ÐTKÐCTT.
Kinh điển đã vô
cùng phong phú nên mảng thuật ngữ Phật học, chỉ xét về số lượng thôi
cũng hết sức dồi dào, đa dạng. Và như chúng ta sẽ thấy, các thuật ngữ
ấy, để đạt đến sự chuẩn xác, dù là tương đối, và trở thành thông dụng,
phỗ biến, là cả một quá trình đóng góp của nhiều thế hệ dịch giả qua các
thời đại.
Ở thời kỳ mở đầu,
thời kỳ phôi thai, bậc dịch giả được xem là tiêu biểu nhất cho giai
đoạn định hình của mảng thuật ngữ Phật học trong Hán tạng chính là Pháp
sư Cưu Ma La Thập (344-413). Chúng tôi nêu sơ lược mấy nét chính:
1. Cụm từ mở đầu một bản kinh:
a. Không có cụm từ mở đầu: Một số bản kinh được dịch vào thời kỳ đầu, người dịch hầu như chưa chú ý về điểm này. Chẳng hạn:
- Kinh
số 701: Do Ðại sư An Thế Cao dịch vào đời Hậu Hán đã mở đầu: "A Nan
viết: Ngô tùng Phật văn như thị, nhất thời Phật tại..." (Tôn giả A Nan
nói: Tôi theo Phật, được nghe như vầy, một thời Phật ở tại...) [68].
- Kinh Trung Bản
Khởi, số 196, 2 quyển, do Ðàm Quả và Khang Mạnh Tường dịch vào đời Hậu
Hán, đã mở đầu: "A Nan viết: Ngô tích tùng Phật văn như thị, nhất thời
Phật tại..." (Tôn giả A Nan nói: Tôi ngày trước theo Phật, được nghe như
vầy, một thời Phật ở tại...) [69].
- Kinh Ðạo Hành
Bát Nhã, số 224, do Ðại sư Chi Lâu Ca Sấm dịch vào đời Hậu Hán đã mở
đầu: "Phật tại La duyệt kỳ, Kỳ Xà Quật sơn trung, ma ha Tỳ kheo Tăng bất
khả kế..." (Phật ở tại núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá, chúng đại
Tỳ kheo Tăng rất đông, chẳng thể tính kể...) [70].
b. Cụm
từ mở đầu là: "Văn như thị" (Nghe như vầy). Hầu hết bản kinh được dịch
từ cuối đời Tây Tấn (265-317), đầu đời Ðông Tấn (317-419) trở về trước
đều được mở đầu bằng cụm từ ấy.
c. Cụm từ mở đầu:
"Ngã văn như thị": Kinh Trung A Hàm, số 26, 60 quyển với 222 kinh, do
Ðại sư Cù Ðàm Tăng Già Ðề Bà (Samghadeva) dịch vào năm 397-398 TL, đời
Ðông Tấn (317-419) đều được mở đầu bằng cụm từ "Ngã văn như thị" [71].
d. Cụm từ mở đầu
định hình "Như thị ngã văn": Toàn bộ các kinh được dịch từ giữa thế kỷ
IV TL trở về sau đều sử dụng cụm từ mở đầu là: "Như thị ngã văn" (Tôi
nghe như vầy), mang tính chất định hình.
2. Bốn quả Thanh văn: Trong thời kỳ đầu, tên của 4 quả Thanh văn được dịch là:
- Câu cảng (Dự lưu, Tu đà hoàn) [72]
- Tần lai (Tư đà hàm)
- Bất hoàn (A na hàm)
- Ứng chơn hoặc Ứng nghi (A la hán)
Chẳng hạn: -
Kinh số 225: (Ðại Minh Ðộ kinh) do Chi Khiêm dịch (đời Ðông Ngô), 4 quả
Thanh văn là: Câu cảng, Tần lai, Bất hoàn, Ứng nghi [73].
- Kinh số 20: (Chi Khiêm dịch) 4 quả Thanh văn là: Câu cảng, Tần lai, Bất hoàn, Ứng chơn [74].
- Kinh số 152:
Lục Ðộ Tập kinh do Khương Tăng Hội dịch (đời Ðông Ngô), 4 quả Thanh văn
gồm: Câu cảng, Tần lai, Bất hoàn, Ứng chơn [75].
- Kinh số 5 (Kinh
Phật Bát Nê Hoàn) do Bạch Pháp Tổ dịch vào đời Tây Tấn, 4 quả Thanh văn
giống như trên: Câu cảng, Tần lai, Bất hoàn, Ứng chơn [76].
"4 hướng, 4 quả" được Chi Khiêm dịch là: - Câu cảng thọ, Câu cảng chứng (Tu đà hoàn hướng, Tu đà hoàn quả).
- Tần lai thọ, Tần lai chứng (Tư đà hàm hướng, Tư đà hàm quả)
- Bất hoàn thọ, Bất hoàn chứng (A na hàm hướng, A na hàm quả)
- Ứng chơn thọ, Ứng chơn chứng (A la hán hướng, A la hán quả) [77].
3. Năm uẩn: -
Thứ tự của năm uẩn được Ðại sư An Thế Cao (Hậu Hán) dịch là: Sắc, Thống
dương (Thọ) Tư tưởng (Tưởng) Sinh tử (Hành) Thức (Thức) [78].
- Năm uẩn theo cách dịch của Ðại sư Chi Diệu (Hậu Hán): Sắc, Thống (Thọ), Tưởng, Hành, Thức [79].
- Năm uẩn theo
cách dịch của cư sĩ Chi Khiêm: Sắc, Thống (Thọ), Tưởng, Hành, Thức [80]
và Sắc, Thống Dương (Thọ), Tư tưởng (Tưởng), Sinh tử (Hành), Thức [81].
- Năm uẩn theo cách dịch của Ðại sư Tăng Già Ðề Bà (đời Ðông Tấn): Sắc ấm, Giác ấm (Thọ), Tưởng ấm, Tư ấm (Hành), Thức ấm [82].
4. Tám chánh đạo: -
Tám chánh đạo được Ðại sư An Thế Cao (đời Hậu Hán) dịch là Bát chủng
đạo, gồm: Trực kiến, Trực niệm hoặc Trực trị; Trực ngữ, Trực pháp hoặc
Trực hành; Trực nghiệp, Trực phương tiện, Trực ý hoặc Trực niệm; Trực
định [83; 84].
- Ðại sư Chi Diệu
(Hậu Hán) thì dịch là Bát trực đạo, gồm: Chánh kiến; Chánh tư; Chánh
ngôn; Chánh hành; Chánh trị; Chánh mạng; Chánh chí; Chánh định [85].
- Tám chánh đạo
theo hai dịch giả kinh Trường A Hàm là Phật Ðà Da Xá và Trúc Phật Niệm
(dịch vào đời Hậu Tần 384-417) gồm: Chánh kiến; Chánh trí; Chánh ngữ;
Chánh nghiệp; Chánh mạng; Chánh phương tiện; Chánh niệm; Chánh định
[86].
- Theo Ðại sư Cầu
Na Bạt Ðà La (394-468), dịch giả kinh Tạp A Hàm, dịch vào đời Lưu Tống
(420-478) thì 8 chánh đạo, thứ tự cũng giống như trên (Trường A Hàm)
[87].
5. Mười hai Nhân duyên:
Cũng như các thuật ngữ Ngũ uẩn, Bát chánh đạo, thuật ngữ Thập nhị nhân
duyên cũng trải qua những biến chuyển rồi mới đạt đến sự định hình như
ta đã biết. Xin nêu lên mấy ví dụ: -
Theo Sa môn Nghiêm Phật Ðiều và cư sĩ An Huyền (đời Hậu Hán) thì tên
gọi của 12 nhân duyên là: 1- Bản vi si (vô minh), 2- Hành (hành), 3-
Thức (thức), 4- Danh sắc (danh sắc), 5- Lục suy (lục nhập), 6- Sở cánh
(xúc), 7- Thống (thọ), 8- Ái (ái), 9- Cầu (thủ), 10- Ðắc (hữu), 11- Sinh
(sinh), 12- Lão bệnh tử (lão tử) (kinh A Hàm Khẩu Giải Thập nhị nhân
duyên. số 1508) [88].
- So với cách
dịch của Ðại sư An Thế Cao trước đó thì cũng có một vài chỗ khác: 1- Bản
vi si (vô minh), 2- Hành (hành), 3- Thức (thức), 4- Tự (danh sắc), 5-
Lục nhập (lục nhập), 6- Tài (xúc), 7- Thống (thọ), 8- Ái (ái), 9- Thọ
(thủ), 10- Hữu (hữu), 11- Sinh (sinh), 12- Lão Tử (lão tử) [89].
- 12 nhân duyên
theo cách dịch của Sa môn Bạch Pháp Tổ (Tây Tấn) gồm: 1- Si (vô minh),
2- Hành (hành), 3- Thức (thức), 4- Tự sắc (danh sắc), ), 5- Lục nhập
(lục nhập), 6- Tài (xúc), 7- Thống (thọ), 8- Ái (ái), 9- Cầu (thủ), 10-
Hữu (hữu), 11- Sinh (sinh), 12- Tử (lão tử) [90].
- Theo cách dịch
của Pháp sư Trúc Pháp Hộ (Tây Tấn) thì 12 nhân duyên gồm: 1- Vô minh (vô
minh), 2- Hành (hành), 3- Thức (thức), 4- Danh sắc (danh sắc), 5- Lục
nhập (lục nhập), 6- Sở cánh (xúc), 7- Thống (thọ), 8-Ái (ái), 9- Thọ
(thủ), 10- Hữu (hữu), 11- Sinh (sinh), 12- Lão bệnh tử (lão tử) [91].
- 12 nhân duyên
theo cách dịch của Ðại sư Tăng Già Ðề Bà (Ðông Tấn) dịch giả kinh Trung A
Hàm: 1- Vô minh (vô minh), 2- Hành (hành), 3- Thức (thức), 4- Danh sắc
(danh sắc), 5- Lục xứ (lục nhập), 6- Cánh lạc (xúc), 7- Giác (thọ), 8-Ái
(ái), 9- Thọ (thủ), 10- Hữu (hữu), 11- Sinh (sinh), 12- Lão tử (lão tử)
[92].
B. Hệ thống kinh điển thuộc Hán tạng theo ÐTKÐCTT:
ÐTKÐCTT đã dùng
khái niệm bộ - chỉ cho sự tập hợp các kinh cùng loại - làm đơn vị để
phân toàn bộ hệ thống kinh điển của Hán tạng ra làm 10 bộ như sau:
- A Hàm bộ (gồm 2 tập 1 & 2)
- Bản Duyên bộ (2 tập)
- Bát Nhã bộ (4 tập)
- Pháp Hoa bộ (1 tập) (chưa đầy 1 tập)
- Hoa Nghiêm bộ (1 tập) (nhiều hơn 1 tập)
- Bảo Tích bộ (1 tập) (nhiều hơn 1 tập)
- Niết Bàn bộ (1 tập) (chưa đầy 1 tập)
- Ðại Tập bộ (1 tập)
- Kinh Tập bộ (4 tập)
- Mật Giáo bộ (4 tập)
I. A Hàm bộ: (tập 1 & 2)
Chủ yếu của bộ này là giới thiệu 4 bộ kinh A Hàm:
1. Trường A Hàm:
số 1, 22 quyển với 30 kinh, do hai Ðại sư Phật Ðà Da Xá và Trúc Phật
Niệm dịch vào khoảng đầu thế kỷ 5 TL, đời Hậu Tần (384-417).
2. Trung A Hàm: số 26, gồm 60 quyển với 222 kinh, do Ðại sư Cù Ðàm Tăng Già Ðề Bà dịch vào năm 397-398 TL, đời Ðông Tấn (317-419) [93].
3. Tạp A Hàm:
số 99, gồm 50 quyển với 1.362 kinh ngắn, do Ðại sư Cầu Na Bạt Ðà La
(394-468) dịch vào khoảng sau năm 435 TL, đời Lưu Tống (420-478).
4. Tăng Nhất A Hàm:
số 125, gồm 51 quyển, 52 phẩm với 471 kinh và phẩm Tự do Ðại sư Cù Ðàm
Tăng Già Ðề Bà dịch vào khoảng cuối thế kỷ 4 TL, đời Ðông Tấn.
Ðại sư cũng là dịch giả kinh Trung A Hàm. Cả hai bộ kinh ấy đều là dịch lại (trước do Ðại sư Ðàm Ma Nan Ðề dịch vào năm 388 TL).
A Hàm (Àgama) là
đọc theo lối dịch âm, còn gọi là A Cấp Ma, A Già Ma, dịch ý là Pháp quy
(nơi quy về của muôn pháp), Pháp bản (gốc của các pháp) Vô tỉ pháp (pháp
tối thượng), Thánh huấn tập (tập hợp các lời dạy của bậc giác ngộ),
kinh điển (chỉ chung cho kinh điển lưu truyền). Học giả Lương Khải Siêu
trong bài viết "Bàn về bốn bộ A Hàm" đã đưa ra 6 điểm để nhấn mạnh về
tầm quan trọng của 4 bộ kinh ấy:
- A Hàm là kinh điển được thành lập trước nhất, dùng hình thức kiết tập công khai, rất đáng tin cậy...
- Phần lớn kinh
Phật đều là tác phẩm văn học, A Hàm vẫn theo hướng ấy nhưng ít hơn, mang
đậm tính chất phác, đơn giản. Vì thế, dù không dám cho rằng mỗi câu mỗi
chữ của A Hàm đều là Phật nói, nhưng nó chứa nhiều và thuần túy lời
Phật...
- A Hàm mang thể
tài của một loại "Ngôn hành lục", tính chất đại khái giống với sách Luận
ngữ, nên muốn thể nghiệm nhân cách hiện thực của Ðức Thế Tôn thì không
thể không nghiên cứu A Hàm.
- Các nguyên lý
căn bản của Phật giáo như Tứ đế, Ngũ uẩn, Thập nhị nhân duyên, Tứ niệm
xứ, Bát chánh đạo... đều được thuyết minh trong A Hàm. Nếu đối với các
giáo lý căn bản này mà không nắm vững thì không thể nào hiểu được kinh
điển Ðại thừa.
- A Hàm chẳng những không xung đột với kinh điển Ðại thừa, mà giáo nghĩa Ðại thừa được cưu mang trong đó không ít.
- A Hàm trình bày
rất nhiều về tình hình xã hội đương thời. Ðọc A Hàm có thể biết được
hoàn cảnh sinh hoạt của Ðức Thế Tôn và Ngài đã có những nỗ lực để ứng cơ
giáo hóa như thế nào...[94].
Trước 1975 và gần đây, 4 bộ A Hàm đã được dịch ra Việt văn góp phần hình thành Ðại tạng kinh Việt Nam.
Ngoài 4 bộ A Hàm,
A Hàm bộ còn có khá nhiều các kinh, tạm gọi là "A Hàm rời". Những kinh
này hầu hết đều có mặt trong 4 bộ kể trên, nhưng đã được dịch riêng, lẻ
tẻ, phần lớn được dịch từ thời Tây Tấn trở về trước, soi sáng thêm cho 4
bộ A Hàm, góp phần khẳng định sự phong phú của Hán tạng.
II. Bản Duyên bộ: (tập 3 & 4)
Bản Duyên đồng
nghĩa với Bản Sinh (Jàtaka). Bộ này gồm 2 tập 3 & 4, tập hợp toàn bộ
các kinh dài, ngắn, kệ tán (mang số hiệu từ 152 đến 219) viết về lịch
sử Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, tiền thân của Phật Thích Ca, Phật A Di Ðà,
Phật Di Lặc, chư vị Bồ tát, các vị đại đệ tử Phật... Ðây là mảng kinh
mang đậm tính chất văn học hơn hết, có một ảnh hưởng rất lớn đối với văn
học Trung Quốc, là điều mà học giả Lương Khải Siêu đã khẳng định. Học
giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) trong sách "Sử Trung Quốc", phần "Bàn về
tiểu thuyết đời Ðường" (618-906) đã cho rằng: "Nhờ đọc kinh Phật trong
đó chép đời nhiều vị Phật, nhiều truyện tưởng tượng, nên văn nhân Trung
Quốc bắt chước lối viết truyện của Ấn" [95]. Kinh Phật mà ông Nguyễn nói
đến ấy chính là mảng kinh thuộc Bản Duyên bộ.
Còn Lương Khải Siêu thì nhấn mạnh:
"Thủ xướng Ðại
thừa, ai cũng suy tôn là ngài Mã Minh, mà căn cứ nơi truyện của ngài do
Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch, ta được biết ngài thật là một văn hào, một
nhà âm nhạc lớn, sự nghiệp hoằng pháp của ngài thường dùng hai thứ ấy
làm lợi khí. Kiểm tra tác phẩm của ngài trong Ðại tạng kinh nước ta, thì
"Phật sở hành tán" - số 192 [96], đúng là một thiên trường ca hơn 30
ngàn lời dầu bản dịch không có âm vận. Ðến như Ðại Trang Nghiêm kinh
luận - số 201 [97] mà Pháp sư Cưu Ma La Thập đã dịch thì thật là một bộ
tiểu thuyết giống như Nho Lâm Ngoại Sử. Tài liệu lấy trong 4 bộ A Hàm,
nhưng qua sự điểm xuyết của ngài Mã Minh, đã khiến cho người đọc có
những xúc động mãnh liệt..." [98].
Một số kinh thuộc Bản Duyên bộ đã được dịch ra tiếng Việt và ấn hành như:
- Kinh Lục Ðộ tập, số 152, 8 quyển.
- Kinh Ðại Phương Tiện Phật Báo Ân, số 156, 7 quyển.
- Kinh Bi Hoa, số 157, 10 quyển.
- Kinh Ðại thừa Bản sinh Tâm Ðịa Quán, số 159, 8 quyển.
- Kinh Phương Quảng Ðại Trang Nghiêm, số 187, 12 quyển.
- Kinh Hiền Ngu, số 202, 13 quyển.
- Kinh Cựu Tạp Thí Dụ, số 206, 2 quyển.
- Kinh Bách Dụ, số 209, 4 quyển.
- Kinh Pháp Cú, số 210, 2 quyển.
- Kinh Pháp Cú Thí Dụ, số 211, 4 quyển.
Ðó
là chỉ kể số kinh đã được in ấn. Ngoài ra, còn có khá nhiều kinh thuộc
bộ này đã được dịch xong, trong tương lai sẽ được ấn hành, có mặt trong
Ðại tạng kinh Việt Nam.
III. Bát Nhã bộ: (tập 5, 6, 7, 8)
Bộ này gồm 4 tập (từ tập 5 - tập 8). Chủ yếu là giới thiệu kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða.
1. Kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða,
số 220, 600 quyển, chiếm hết 3 tập 5, 6, 7 với hơn 3.000 trang Hán
tạng, do Pháp sư Huyền Tráng dịch từ tháng Giêng năm 660 đến tháng 10
năm 663 TL. Kinh gồm 16 hội, trong ấy, so với các kinh đã được dịch từ
trước thì:
- 9 hội (1,3, 5, 11, 12, 13, 14, 15, 16) với tổng số 481 quyển là phần ngài Huyền Tráng dịch mới.
- 7 hội còn lại (2, 4, 6, 7, 8, 9, 10), đã có các vị đi trước dịch rồi và ngài Huyền Tráng dịch lại, gồm 119 quyển. Chẳng hạn:
a. Hội thứ 2: gồm 78 quyển, từ quyển 401-478. Các kinh sau đây đã được dịch trước ngài Huyền Tráng, thuộc về hội này: - Kinh Phóng Quang Bát Nhã, 20 quyển, do Ðại sư Vô La Xoa dịch vào đời Tây Tấn, số 221, tập 8.
- Kinh Quang Tán Bát Nhã, 10 quyển, do Pháp sư Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn, số 222, tập 8.
- Kinh Ma ha Bát Nhã Ba La Mật, 27 quyển, do Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Hậu Tần, số 223, tập 8.
b. Hội thứ 4: gồm 18 quyển (từ quyển 538-555). Bốn kinh sau đây đã được dịch trước ngài Huyền Tráng, thuộc về hội này: - Kinh Ðạo Hành Bát Nhã, 10 quyển, do Ðại sư Chi Lâu Ca Sấm dịch vào đời Hậu Hán, số 224, tập 8.
- Kinh Ðại Minh Ðộ, 6 quyển, do cư sĩ Chi Khiêm dịch vào đời Ðông Ngô (229-280), số 225, tập 8.
- Kinh Ma ha Bát Nhã Sao, 5 quyển, do hai Ðại sư Ðàm Ma Bì và Trúc Phật Niệm dịch vào đời Tiền Tần (351-384), số 226, tập 8.
- Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã, 10 quyển, do Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Hậu Tần, số 227, tập 8.
c. Hội
thứ 9: gồm 1 quyển (quyển 577) mang tên là "Năng Ðoạn Kim Cương Phần",
tức là kinh Kim Cương mà phần đông người học Phật biết đến. Chúng ta cần
ghi nhận thêm là, trước và sau ngài Huyền Tráng, kinh Kim Cương đã được
nhiều bậc dịch giả dịch riêng. Hiện còn 5 bản dịch kinh Kim Cương sau
đây (4 trước, 1 sau ngài Huyền Tráng): - Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Hậu Tần (đầu thế kỷ thứ V TL). số 235, tập 8.
- Kinh Kim Cương
Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, Ðại sư Bồ Ðề Lưu Chi dịch vào đời Nguyên
Ngụy (339-556) đầu thế kỷ VI TL, số 236, tập 8.
- Kinh Kim Cương
Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, Ðại sư Chân Ðế (499-569) dịch vào đời Trần
(557-588) giữa thế kỷ VI TL, số 237, tập 8.
- Kinh Kim Cương
Năng Ðoạn Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, Ðại sư Cấp Ða (?-619) dịch vào đời
Tùy (580-618) cuối thế kỷ VI TL, số 238, tập 8.
- Kinh Phật
thuyết Năng Ðoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Ða, 1 quyển, Ðại sư Nghĩa
Tịnh (635-713) dịch vào đời Ðường (618-906) đầu thế kỷ VIII TL (sau ngài
Huyền Tráng), số 239, tập 8.
Trong số này, bản dịch ra đời sớm nhất là bản dịch của ngài La Thập, như đã nói ở trước, chính là định bản.
2. Tập 8: Ngoài
3 tập 5, 6, 7 là kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða, tập còn lại (tập 8) của
Bát Nhã bộ đã tập hợp giới thiệu các kinh thuộc hệ Bát Nhã (mang số từ
221 đến số 261) như các kinh đã nêu trong phần đối chiếu ở trên. Và đáng
chú ý thêm nữa là Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða với 7 bản Hán dịch
(mang số từ 250-257), trong đó, bản dịch ngắn gọn, súc tích và uyển
chuyển nhất là bản dịch của Pháp sư Huyền Tráng (số 251), chính là bản
mà người Phật tử thường đọc tụng. Pháp thoại ngắn này được xem là một
thâu tóm phần tinh túy nơi diệu nghĩa của kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða,
đồng thời nhấn mạnh những nét chính về diệu dụng bất khả tư nghì của
quá trình tu tập Bát Nhã Ba La Mật theo nẻo trí tuệ vượt bờ đó. Theo Hòa
thượng Trí Quang thì Ðại sư Tăng Triệu (384-414), một trong số các đệ
tử xuất sắc của Pháp sư Cưu Ma La Thập, trong khi chú giải kinh Kim
Cương đã cho rằng: "Chủ yếu của kinh Kim Cương là Không tuệ". Và Hòa
thượng giải thích thêm: "Không tuệ là tuệ giác Bát Nhã. Tuệ giác tri
kiến như thật về Như, nghĩa là không còn ngã chấp nên gọi là không tuệ.
Không tuệ ấy, tri kiến như thật về đối tượng của nó thì gọi là cảnh
không, tri kiến như thật về bản thân của nó thì gọi là tuệ không, tri
kiến như thật về chủ thể của nó (người tu không tuệ) thì gọi là người
không..."[99].
Toàn bộ những
điểm vừa nêu cũng có thể dùng để thâu tóm diệu nghĩa của kinh Ðại Bát
Nhã Ba La Mật Ða, và quá trình tu tập để chứng đắc Không tuệ ấy luôn
khởi đầu cũng như chung cuộc, là từ việc khám phá, lý giải, hội nhập
tính chất không của năm uẩn trong mối tương quan hai chiều hay nhiều
chiều của chúng. Ðây chính là chỗ mà Tâm kinh Bát Nhã đã đúc kết và
thuyết mình: "Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Ða thời,
chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách...". Nhiều nhà
nghiên cứu Phật học đã cho rằng câu: "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ
nhất thiết khổ ách" của Tâm kinh Bát Nhã chính là một thâu tóm sinh động
về toàn bộ diệu chỉ nơi kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða.
Như đã nói ở
trước, kinh điển thuộc hệ Bát Nhã đã được dịch sớm ở Trung Quốc, tạo
được ảnh hưởng đáng kể đối với tầng lớp trí thức. Nhà Phật học Trung
Quốc đã có những tiếp cận thấu đạt nhất về diệu lý không của tư tưởng
Bát Nhã chính là Ðại sư Tăng Triệu (384-414). Bài viết "Bát Nhã Vô Tri
luận" in trong Triệu luận [100] là những phát hiện, soi sáng, mang tính
lý giải, khẳng định hết sức sâu sắc, hàm súc về diệu lý không ấy. Cứ xem
trong ÐTKÐCTT hiện có đến 2 bản Sớ giải về Triệu luận [101] cũng đủ
thấy giá trị của tác phẩm Triệu luận nói chung, của bài viết "Bát Nhã Vô
Tri luận" nói riêng.
Một số kinh thuộc Bát Nhã bộ đã được dịch ra tiếng Việt như:
- Kinh Ma ha Bát Nhã Ba La Mật, số 223, 27 quyển.
- Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, số 235, 1 quyển.
- Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật, số 251, 1 quyển.
Riêng
bộ kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða gồm 600 quyển (số 220) đã được Hòa
thượng Trí Nghiêm dịch ra Việt văn từ lâu, hiện đang được biên tập, hiệu
đính, đối chiếu một cách cẩn trọng, để tiến tới xuất bản, góp phần hoàn
thành Ðại tạng kinh Việt Nam.
IV. Pháp Hoa bộ: (tập 9)
Bộ này chưa đầy 1 tập (tập 9) tập hợp, giới thiệu kinh Pháp Hoa và những kinh thuộc hệ Pháp Hoa.
1. Kinh Pháp Hoa: Hiện có 3 bản Hán dịch kinh Pháp Hoa, theo thứ tự thời gian như sau:
a. Kinh
Chánh Pháp Hoa, số 263, 10 quyển, 27 phẩm, do Pháp sư Trúc Pháp Hộ dịch
vào đời Tây Tấn. Ðây là bản Hán dịch đầu tiên về kinh Pháp Hoa.
b. Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, số 262, 7 quyển, 28 phẩm, do Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào
đời Hậu Tần. Ðây là định bản: mọi sự đọc tụng, nghiên cứu, sớ giải, bình
luận... đều theo bản dịch này.
c. Kinh Thiêm
Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa: số 264, 7 quyển, 27 phẩm, do hai Ðại sư Xà Na
Quật Ða (523-600) và Ðạt Ma Cấp Ða (?-619) dịch vào khoảng cuối thế kỷ
VI TL, đời Tùy (580-618).
Kinh
Pháp Hoa, xét về mặt số lượng thì chỉ là một bộ kinh loại vừa, nhưng về
mặt tư tưởng, với việc thuyết minh cùng khẳng định giáo pháp Nhất thừa,
khẳng định khả tính giác ngộ nơi mọi chúng sinh, khẳng định tính thường
trụ của Phật trong mọi hiện hữu..., nên các nhà nghiên cứu Phật học
Ðông, Tây, xưa nay đều xác nhận đây là bộ kinh thuộc loại vĩ đại của
Phật giáo Bắc truyền. Học giả Nhật Bản Nikkyò Niwano, nơi lời nói đầu
của sách "Ðạo Phật ngày nay, một diễn dịch mới về 3 bộ Pháp Hoa"
(Buddhism For Today, a modern interpretation of the threefold Lotus
Sùtra) đã viết: "Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các
kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma-pundarika-sùtra) thường
được gọi là kinh Pháp Hoa, là kinh tuyệt diệu nhất..." [102].
Nhìn vào số lượng
các sách chú giải, bình luận về kinh Pháp Hoa hiện có trong ÐTKÐCTT:
hơn 10 đề mục với trên 150 quyển (tập 33 và tập 34, không kể tác phẩm
của các tác giả Nhật Bản) cũng đủ thấy kinh ấy đã được chú trọng và có
ảnh hưởng lớn như thế nào. Tác giả của những bộ sách chú giải, giảng
luận đó đều là các bậc danh tăng vào hàng đầu của Phật giáo Trung Quốc:
Pháp Vân (467-529), Trí Khải (538-597), Cát Tạng (549-623), Quán Ðỉnh
(561-632), Nguyên Hiểu (617-?), Khuy Cơ (632-682), Huệ Chiểu (651-714),
Trạm Nhiên (711-782)...
Về phương diện kế
thừa và phát huy, kinh Pháp Hoa được xem là nền tảng giáo pháp của tông
Thiên Thai với những xiển dương của Ðại sư Trí Khải. Kinh Pháp Hoa đã
được dịch ra tiếng Việt khá sớm. Hiện chúng ta có gần 10 bản Việt dịch,
chú giải, giảng luận về kinh Pháp Hoa.
2. Mảng kinh thuộc hệ Pháp Hoa (từ số 265-277) cũng được lần lượt dịch sang tiếng Việt góp phần soi sáng thêm phần giáo nghĩa của kinh Pháp Hoa.
V. Hoa Nghiêm bộ: (một phần tập 9 và tập 10)
Cũng giống như Pháp Hoa bộ, Hoa Nghiêm bộ tập hợp, giới thiệu kinh Hoa Nghiêm và các kinh ngắn, vừa thuộc hệ Hoa Nghiêm.
1. Kinh Hoa Nghiêm: gọi đủ là kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (Buddha àvatamà sakamahàvaipulya-sùtra), hiện có 3 bản Hán dịch:
a. Lục
Thập Hoa Nghiêm: số 278 (tập 9), gồm 7 xứ (nơi chốn thuyết giảng), 8
hội, 34 phẩm, 60 quyển, do Ðại sư Phật Ðà Bạt Ðà La (Budddabhadra,
359-429) dịch vào năm 418, cuối đời Ðông Tấn (317-419).
b. Bát Thập Hoa
Nghiêm: số 279 (tập 10), gồm 7 xứ, 9 hội, 39 phẩm, 80 quyển, do Ðại sư
Thật Xoa Nan Ðà (Siksànanda, 652-710) dịch vào năm 695-699, đời Ðường
(Võ Tắc Thiên, 624-705). Ðây là bản dịch đầy đủ nhất về kinh Hoa Nghiêm.
c. Tứ Thập Hoa
Nghiêm: số 293, gồm 40 quyển, do Ðại sư Bát Nhã (Prajnnà, 734-?) dịch
vào năm 796-798) đời Ðường (vua Ðường Ðức Tông), từ quyển 1-39 tương
đương với phẩm 39 (phẩm Nhập Pháp giới), quyển 40 tương đương với phẩm
36 (phẩm Phỗ Hiền hạnh). Bản dịch này có tính chất bỗ sung cho 2 phẩm 39
và 36 của kinh Bát Thập Hoa Nghiêm.
Kinh
Hoa Nghiêm là bộ kinh vĩ đại của Phật giáo Bắc truyền, xét về mặt số
lượng, cách thế diễn đạt và tư tưởng. Giáo sư D.T.Suzuki viết:
"Còn về kinh Hoa
Nghiêm, đấy quả thực là một toàn hảo của tư tưởng Phật giáo. Theo ý tôi,
không có nền văn học tôn giáo nào trên thế giới có thể sánh kịp với sự
lớn lao về quan niệm, sự sâu thẳm của cảm thụ và mức vĩ đại của việc
biên soạn mà kinh này đạt được. Ðấy là cái dòng suối vĩnh cửu của cuộc
đời mà không tâm thức nào có tính cách tôn giáo đến đó rồi quay về mà
còn khao khát hay còn chưa hoàn toàn thỏa mãn..." [103].
Cũng giống kinh
Pháp Hoa đối với tông Thiên Thai, kinh Hoa Nghiêm là giáo pháp căn bản
của tông Hoa Nghiêm, người khởi xướng là ngài Pháp Thuận (557-640), với
phát hiện về pháp quán "Chu biến hàm dung", một lý giải sâu sắc về diệu
lý tương tức, tương nhập của kinh Hoa Nghiêm, dẫn tới việc thành lập 10
Huyền môn nỗi tiếng. Nối tiếp là các Ðại sư Trí Nghiễm (602-668), Nghĩa
Tương (625-702, Sơ Tổ tông Hoa Nghiêm ở Triều Tiên), Pháp Tạng
(643-712), Trừng Quán (738-839), Tông Mật (780-841). Công việc chú giải,
giảng luận về kinh Hoa Nghiêm đều do các đại sư kể trên đảm trách,
trong đó, đóng góp nhiều công sức và trí tuệ để hình thành và xác lập tư
tưởng cho tông Hoa Nghiêm là Ðại sư Pháp Tạng, còn gọi là Quốc sư Hiền
Thủ. Và đến Ðại sư Trừng Quán, với 2 tác phẩm nỗi tiếng "Ðại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh sớ", 60 quyển. "Ðại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao", 90 quyển [104] thì tư tưởng của tông
Hoa Nghiêm đã được tập đại thành. Giáo sư Tưởng Duy Kiều viết: "Ðến đời
Ðường, ngài Thật Xoa Nan Ðà phiên dịch kinh Hoa Nghiêm gồm 80 quyển,
gọi là Bát Thập Hoa Nghiêm. Ngài Quốc sư Thanh Lương (tức Ðại sư Trừng
Quán) căn cứ vào đó mà làm những bộ chú thích như Huyền Ðàm và Sớ Sao,
trong ấy thâu tóm tất cả Ðại thừa, Tiểu thừa, Tánh tông và Tướng tông,
thật là rộng rãi, tinh thâm. Ðến đây, ý nghĩa thâm thúy của Hoa Nghiêm
rực rỡ như mặt trời chói lọi giữa thiên không" [105].
Ngoài ra, còn có
những đóng góp của cư sĩ Lý Thông Huyền (635-730), một học giả về Hoa
Nghiêm nỗi tiếng ở đời Ðường, vốn xuất thân từ hàng vương tộc, tác giả
bộ "Tân Hoa Nghiêm kinh luận", 40 quyển [106].
2. Kinh Hoa Nghiêm (80 quyển)
đã được HT.Thích Trí Tịnh dịch ra Việt văn. Mảng kinh ngắn và vừa còn
lại thuộc hệ Hoa Nghiêm (mang số hiệu từ số 280 đến 309), trừ số 293 là
Tứ Thập Hoa Nghiêm đã nói ở trước) trong ấy phần nhiều do các Ðại sư Chi
Lâu Ca Sấm, Trúc Pháp Hộ, Trúc Phật Niệm, Cưu Ma La Thập, Ðịa Bà Ha La
(613-687) dịch, cũng đang lần lượt được dịch ra Việt văn, góp phần làm
sáng tỏ thêm tư tưởng kinh Hoa Nghiêm và làm phong phú cho Ðại tạng kinh
tiếng Việt.
VI. Bảo Tích bộ: (tập 11 và 1/3 tập 12)
Tập hợp, giới thiệu kinh Ðại Bảo Tích và các kinh thuộc hệ Bảo Tích.
1. Kinh Ðại Bảo Tích:
Kinh Ðại Bảo Tích (Màhà ratna kùta-sùtra) số 310 gồm 120 quyển, 49 hội,
do Ðại sư Bồ Ðề Lưu Chí (562-727) dịch và tập hợp các kinh đã được dịch
từ trước. Trong tổng số 49 hội, 120 quyển thì:
- Các kinh được dịch từ trước: 23 hội, hơn 80 quyển.
- Các kinh do Ðại sư Bồ Ðề Lưu Chi dịch: 26 hội, hơn 39 quyển.
Công việc này bắt đầu từ năm 706 (đời Ðường) kéo dài trong 8 năm thì hoàn thành.
Bảo Tích có nghĩa
là tích tập các pháp bảo, nên mỗi hội có thể xem như một bộ kinh với
chủ đề riêng và có một vài sự trùng lặp với các bộ khác. Chẳng hạn:
- Hội thứ 48,
mang tên Thắng Man phu nhân hội, 1 quyển (quyển 119) do Ðại sư Bồ Ðề Lưu
Chi dịch (mới). Nhưng kinh này đã được Ðại sư Cầu Na Bạt Ðà La
(394-468) dịch vào khoảng 435-443 TL đời Lưu Tống mang tên là "Kinh
Thắng Man Sư Tử Hống nhất thừa Ðại Phương Tiện Phương Quảng" (số 353,
tập 12). Ðại sư Cầu Na Bạt Ðà La cũng là dịch giả kinh Tạp A Hàm.
- Hội thứ 5 mang
tên "Vô Lượng Thọ Như Lai hội", gồm 2 quyển 17, 18 thì tương đương với
các kinh số 360, số 364, tập 12 (sẽ nói thêm ở phần sau).
- Hội thứ 46 mang
tên "Văn Thù Thuyết Bát Nhã hội", gồm 2 quyển 25, 26 do Ðại sư Mạn Ðà
La Tiên dịch vào khoảng đầu thế kỷ VI TL đời Lương (502-556) chính là
hội thứ 7 của kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða (quyển 574, 575).
- Hội thứ 47 mang
tên "Bảo Kế Bồ tát hội", gồm 2 quyển 117, 118 do Ðại sư Trúc Pháp Hộ
dịch vào đời Tây Tấn, thì trùng với kinh Ðại Tập, quyển 25, 26 (do Ðại
sư Ðàm Vô Sấm 385-433 dịch vào đời Bắc Lương 397-439).
Kinh Ðại Bảo Tích đã được HT.Thích Trí Tịnh dịch sang Việt văn.
2. Mảng kinh thuộc hệ Bảo Tích mang số hiệu từ số 311 đến số 373
nói chung là rất dồi dào, trong ấy kinh Thắng Man như đã nêu, là một
bản kinh ngắn, nội dung có những liên hệ với kinh Pháp Hoa, đã được dịch
ra Việt văn. Ngoài ra, đáng chú ý là các kinh:
- số 360: Phật
Thuyết Vô Lượng Thọ kinh, 2 quyển, Ðại sư Khương Tăng Khải
(Samghavarman) dịch vào khoảng hậu bán thế kỷ 3 TL đời Tào Ngụy
(220-265).
- số 364: Phật
Thuyết Ðại A Di Ðà kinh, 2 quyển, do cư sĩ Vương Nhật Hưu (?-1173) hiệu
đính, biên tập vào khoảng năm 1160-1162 đời Triệu Tống (960-1276).
- số 365: Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ kinh, 1 quyển, do Ðại sư Cương Lương Da Xá
(383-442) dịch vào khoảng năm 424, đời Lưu Tống (420-478).
- số 366: Phật
Thuyết A Di Ðà kinh, 1 quyển, do Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Hậu
Tần (3 kinh số 360, 365, 366 đã được dịch ra Việt văn). Ðó là những
kinh chủ yếu của tông Tịnh Ðộ và tín ngưỡng Tịnh độ.
VII. Niết bàn bộ (2 phần tập 12)
Bộ này gồm các
kinh từ số 374 đến 396, tập 12, nội dung là giới thiệu kinh Ðại Bát Niết
Bàn và các kinh ngắn, vừa, thuộc hệ Niết Bàn.
1. Kinh Ðại Bát Niết Bàn (Mahàparinirvàna-sùtra)
cũng là một bộ kinh lớn của Phật giáo Bắc truyền, thuyết minh về các
giáo nghĩa Như Lai thường trụ, Chúng sinh đều có Phật tánh, Xiển đề đều
thành Phật (xiển đề là chỉ cho loại chúng sinh đoạn trừ căn lành, thiếu
nhân giải thoát). Kinh này có hai bản Hán dịch:
a. Bắc
bản Ðại Bát Niết Bàn kinh: số 374 gồm 40 quyển, 13 phẩm, do Ðại sư Ðàm
Vô Sấm (385-433) dịch vào khoảng năm 415-421 đời Bắc Lương (397-439).
b. Nam bản Ðại
Bát Niết Bàn kinh: số 375, gồm 36 quyển, 25 phẩm, do các Ðại sư Huệ
Nghiêm (363-443), Huệ Quán (thế kỷ V TL) và cư sĩ Tạ Linh Vận (385-433),
dựa vào bản dịch kinh Ðại Bát Nê Hoàn gồm 6 quyển của Ðại sư Pháp Hiển
(380-418/423), tham khảo Bắc bản của Ðại sư Ðàm Vô Sấm để tu đính, soạn
thành, khoảng sau năm 421, đầu đời Lưu Tống (420-478).
Sự
kiện "Niết bàn" đã được nói đến trong kinh Trường A Hàm (kinh số 2, mang
tên Du Hành kinh [107] và một số kinh thuộc hệ A Hàm như kinh Phật Bát
Nê Hoàn, số 5, 2 quyển, do Ðại sư Bạch Pháp Tổ dịch vào đời Tây Tấn;
kinh Bát Nê Hoàn, số 6, 2 quyển, mất tên người dịch, phụ vào dịch phẩm
đời Ðông Tấn (317-419), kinh Ðại Niết Bàn, số 7, 3 quyển, do Ðại sư Pháp
Hiển dịch vào đời Ðông Tấn [108]. Nhưng với kinh Ðại Bát Niết Bàn (40
quyển, 36 quyển) nội dung đã không dừng ở việc thuật lại giai đoạn sau
cùng của cuộc đời Ðức Thế Tôn, mà đã nhân nơi bối cảnh ấy thuyết minh,
quảng diễn một số diệu lý then chốt như đã nêu ở trên. Chính vì thế mà
sau khi kinh Ðại Bát Niết Bàn (Bắc bản, Nam bản) được lưu hành, đã tạo
nên một ảnh hưởng rộng lớn trong giới Phật học Trung Hoa đương thời ở cả
hai miền Bắc Nam, dẫn đến việc thành lập tông Niết Bàn hưng thịnh một
thời.
Kinh Ðại Bát Niết
Bàn (Nam bản) đã được HT.Thích Trí Tịnh dịch ra Việt văn (bản Việt dịch
ngoài 25 phẩm của Nam bản Ðại Bát Niết Bàn kinh còn có thêm 4 phẩm nữa:
phẩm 26-29, không rõ người dịch đã dịch theo Tạng nào).
2. Phần còn lại của Niết Bàn bộ gồm các kinh từ số 376 đến số 396,
với những kinh tiêu biểu như kinh: Phật Thuyết Phương Ðẳng Bát Nê Hoàn
kinh, số 378, 2 quyển; Ðẳng Tập Chúng Ðức Tam Muội kinh, số 381, 3
quyển; Bát Nê Hoàn Hậu Quán Lạp kinh, số 391, 1 quyển; đều do Ðại sư
Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn. Kinh Bồ tát Ðâu Thuật Thiên Giáng
Thần... số 384, 7 quyển, Trung Ấm kinh, số 385, 2 quyển (kinh này đã
được dịch ra Việt văn)... đều do Ðại sư Trúc Phật Niệm dịch vào đời Hậu
Tần. Kinh Tập Nhất Thiết Phước Ðức Tam Muội, số 382, 3 quyển, kinh Phật
Thùy Bát Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới, số 389, 1 quyển (tức kinh Di
Giáo, đã được dịch ra Việt văn), cả hai kinh đều do Pháp sư Cưu Ma La
Thập dịch vào đời Hậu Tần. Kinh Phật Thuyết Ðại Bát Nê Hoàn, số 376, do
Ðại sư Pháp Hiển dịch vào đời Ðông Tấn. Kinh Ðại Bát Niết Bàn Hậu Phần,
số 377, 2 quyển, do Ðại sư Nhược Na Bạt Ðà La dịch vào đầu đời Ðường
(618-906). Kinh Phật Lâm Niết Bàn Ký Pháp Trú, số 390, 1 quyển, do Pháp
sư Huyền Tráng dịch vào đời Ðường... Tất cả đều được lần lượt dịch ra
tiếng Việt, góp phần làm rõ thêm về giai đoạn sau cùng của cuộc đời Ðức
Bỗn Sư.
VIII. Ðại Tập bộ (tập 13)
Bộ này tập hợp giới thiệu kinh Ðại Tập và những kinh ngắn, vừa thuộc hệ Ðại Tập.
1. Kinh Ðại Tập: Gọi
đủ là Ðại Phương Quảng Ðại Tập kinh (Mahàsamnipàta - Sùtra), số 397, 17
phẩm, 60 quyển, do các Ðại sư: Ðàm Vô Sấm (385-433) dịch vào đời Bắc
Lương (397-439), từ phẩm 1 đến phẩm 11 và phẩm 13, gồm 29 quyển; Ðại sư
Trí Nghiêm (350-427) và Bảo Vân (376-449) dịch phẩm 12 (4 quyển) vào đời
Lư Tống (420-478); Ðại sư Na Liên Ðề Da Xá (490-589) dịch vào đời Cao
Tề (550-576) gồm các phẩm 15, 16, 17 (15 quyển), và phẩm 14 gồm 12
quyển, dịch vào đầu đời Tùy (580-618).
Công việc tập hợp
sắp xếp này là do Ðại sư Tăng Tựu thực hiện vào đời Tùy. Nội dung kinh
Ðại Tập thuyết minh về một số pháp tu tập của hạnh Bồ tát như Tam học, 6
Ba la mật, các pháp Tam muội, các pháp Tổng trì... cùng nhấn mạnh về sự
nghiệp hộ pháp của 8 bộ chúng.
2. Phần còn lại của bộ Ðại Tập
gồm các kinh ngắn, vừa mang số hiệu từ số 398 đến 424, nhìn chung rất
là dồi dào, phần nhiều là những bản dịch khác của những kinh đã có nơi
kinh Ðại Phương Ðẳng Ðại Tập. Ngoài ra có hai kinh đáng chú ý là:
- số 411, kinh Ðại Thừa Ðại Tập Ðịa Tạng Thập Luân, 10 quyển, do Pháp sư Huyền Tráng dịch.
- số 412, kinh
Ðịa Tạng Bồ tát Bản Nguyện, 2 quyển, do Ðại sư Thật Xoa Nan Ðà (652-710)
dịch vào đời Ðường (Ðại sư cũng là người dịch kinh Hoa Nghiêm 80
quyển).
Ðó là hai kinh thuyết minh về hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Ðịa Tạng (kinh số 412 đã được dịch ra Việt văn).
IX. Kinh Tập bộ (tập 14, 15 đến 4, 16, 17)
Bộ này, về số
lượng chiếm đến 4 tập của ÐTKÐCTT (tập 14-17) tập hợp giới thiệu toàn bộ
các kinh còn lại không thể sắp vào 8 bộ trước (các kinh mang số hiệu từ
số 425 đến 847).
Xin có mấy ghi nhận:
1. Kinh dài nhất ở
bộ này là kinh Chánh Pháp Niệm Xứ (Saddharma-smràty-upasthàma-sùtra)
gồm 7 phẩm, 70 quyển, do Ðại sư Cù Ðàm Bát Nhã Lưu Chi cùng dịch với các
Ðại sư Ðàm Diệu, Bồ Ðề Lưu Chí dịch trong khoảng năm 538-543, vào cuối
đời Hậu Ngụy (339-556). Nội dung của kinh là thông qua 7 phẩm: Thập
thiện nghiệp đạo, Sinh tử, Ðịa ngục. Ngạ quỷ, Súc sinh, Quán thiên và
Thân niệm xứ, thuyết minh về tính nhân quả của sự sinh tử nơi sáu đường
để người tu Phật nhận ra nẻo giải thoát. Kinh này đã được dịch ra tiếng
Việt, trong tương lai sẽ được xuất bản.
2. Mảng kinh nói
về Thiền, Quán, Tam muội và các vấn đề liên hệ, nhìn chung là khá nhiều,
do các vị Ðại sư như An Thế Cao (Hậu Hán), Trúc Pháp Hộ (Tây Tấn), Chi
Lâu Ca Sấm (Hậu Hán), Cưu Ma La Thập (Hậu Tần), Na Liên Ðề Da Xá (Tùy),
Huyền Tráng (Ðường)... dịch (các kinh mang số hiệu từ số 463, 464, 465,
466, 602, 603, 604, 605, 611, 612, 613, 614, 616, 617, 618, 619, 621,
622, 623, 635 đến 643...) đáng lẽ nên được tách ra thành một tập. Công
việc này sẽ được thực hiện khi chúng ta hoàn thành Ðại Tạng kinh tiếng
Việt chăng?
3. Một số kinh
trong Kinh Tập bộ với nội dung hàm chứa những giá trị tiêu biểu, thiết
thực nên đã được lần lượt dịch ra tiếng Việt như:
a. Kinh Dược Sư: Kinh này hiện có 3 bản Hán dịch: -
Bản dịch của Ðại sư Ðạt Ma Cấp Ða (?-619) dịch vào đầu thế kỷ VII, đời
nhà Tùy, mang tên: Phật Thuyết Dược Sư Như Lai Bản Nguyện kinh, số 449
tập 1 quyển.
- Bản dịch của
Pháp sư Huyền Tráng, dịch vào đời Ðường, mang tên "Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai Bản Nguyện Công Ðức kinh": 1 quyển, số 450, T 14. Ðây là bản
dịch phỗ cập hơn cả.
- Bản dịch của
Ðại sư Nghĩa Tịnh (635-713) dịch vào khoảng cuối thế kỷ VII đầu thế kỷ
VIII, đời Ðường, mang tên: "Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bản Nguyện
Công Ðức kinh" 1 quyển, số 451, T14.
b. Kinh Di Lặc Hạ Sinh: Cũng có 3 bản Hán dịch: - Bản dịch của Pháp sư Trúc Pháp Hộ, dịch vào đời Tây Tấn mang tên: "Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sinh kinh", 1 quyển, số 453, tập 14.
- Bản dịch của
Pháp sư Cưu Ma La Thập, dịch vào đầu thế kỷ V, đời hậu Tần, mang tên:
"Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sinh Thành Phật kinh" 1 quyển, No.454, tập 14.
- Bản dịch của Ðại sư Nghĩa Tịnh, mang tên giống như bản dịch của ngài La Thập, số 455, tập 14.
c. Kinh Duy Ma: Kinh này hiện cũng có 3 bản Hán dịch: - Bản dịch của cư sĩ Chi Khiêm, đời Ðông Ngô (224-280) mang tên: "Phật Thuyết Duy Ma Cật kinh", số 474, 2 quyển, tập 14.
- Bản dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập, mang tên: "Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh", số 475, 3 quyển, tập 14. Ðây là định bản.
- Bản dịch của Pháp sư Huyền Tráng, nhan đề: "Thuyết Vô Cấu Xưng kinh", số 476, 6 quyển, tập 14.
d.
Kinh Thập Thiện: gọi đủ là kinh Thập Thiện Nghiệp Ðạo, số 600, 1 quyển,
tập 15, do Ðại sư Thật Xoa Nan Ðà dịch vào cuối thế kỷ VII, đời Ðường,
đây là bản dịch thông dụng. Ngoài ra, còn có 2 bản Hán dịch khác: - Phẩm 11 của kinh Phật Thuyết Hải Long Vương, số 518, 4 quyển, tập 15, dịch giả là Pháp sư Trúc Pháp Hộ [109].
- Kinh Phật Vị Sa
Già La Long Vương Sở Thuyết Ðại Thừa, số 601, 1 quyển, tập 15, dịch giả
là Ðại sư Thi Hộ, dịch vào cuối thế kỷ X, đời Triệu Tống (960-1276).
đ. Kinh Kim Quang Minh: Hiện có 3 bản Hán dịch: -
Bản dịch của Ðại sư Ðàm Vô Sấm (385-433) dịch vào đầu thế kỷ V, đời Bắc
Lương (397-439) mang tên: "Kim Quang Minh kinh", số 663, 4 quyển, tập
16.
- Bản của Ðại sư Bảo Quý san định vào cuối thế kỷ VI, đời Tùy, mang tên: "Hợp Bộ Kim Quang Minh kinh", 8 quyển, số 664, tập 16.
- Bản dịch của Ðại sư Nghĩa Tịnh, mang tên: "Kim Quang Minh Tối Thắng Vương kinh", 10 quyển, số 665, tập 16 [110]
e. Kinh Thắng Man: Kinh này có 2 bản Hán dịch: -
Bản dịch của Ðại sư Cầu Na Bạt Ðà La (394-468) dịch vào khoảng 435-443
đời Lưu Tống, mang tên: "Kinh Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Ðại Phương
Tiện Phương Quảng", số 353, 1 quyển (ÐTK/tập 12).
- Bản dịch của
Ðại sư Bồ Ðề Lưu Chi (562-727) dịch, là hội 48 trong kinh Ðại Bảo Tích,
mang tên "Thắng Man Phu Nhân hội", 1 quyển (quyển 119) (ÐTK/tập 11).
g. Kinh Lăng Già: Cũng hiện có 3 bản Hán dịch: -
Bản dịch mang tên: "Lăng Già A Bạt Ða La Bảo kinh", 4 quyển, số 670,
tập 16, dịch giả là Ðại sư Cầu Na Bạt Ðà La (394-468) đời Lưu Tống
(420-478).
- Bản dịch của
Ðại sư Bồ Ðề Lưu Chi (thế kỷ VI) đời Nguyên Ngụy (339-556), mang tên:
"Thập Lăng Già kinh", 10 quyển, số 671, tập 16.
- Bản dịch mang tên: "Ðại Thừa Nhập Lăng Già kinh", 7 quyển, số 672, tập 16, dịch giả là Ðại sư Thật Xoa Nan Ðà, đời Ðường.
h. Kinh Giải Thâm Mật: Hiện có 4 bản Hán dịch: - Bản dịch của Ðại sư Bồ Ðề Lưu Chi, mang tên: "Thâm Mật Giải Thoát kinh", 5 quyển, 10 phẩm, số 675, tập 16.
- Bản dịch của Pháp sư Huyền Tráng, nhan đề: "Giải Thâm Mật kinh", 5 quyển, 8 phẩm, số 676, tập 16.
- Bản dịch của
Ðại sư Chân Ðế (499-569) đời Trần, (557-588), mang tên: "Phật Thuyết
Giải Tiết kinh", 1 quyển, số 677, tập 16, tức là phẩm thứ 2 so với bản
dịch của ngài Huyền Tráng.
- Bản dịch của
Ðại sư Cầu Na Bạt Ðà La (394-468) dịch vào đời Lưu Tống (420-478).
"Tương Tục Giải Thoát Liễu Nghĩa kinh", 2 quyển, số 678, số 679, tập 16,
tương đương với 2 phẩm 7, 8 nơi bản dịch của ngài Huyền Tráng.
i.
Kinh Vu Lan: Gọi đủ là kinh Phật Thuyết Vu Lan Bồn, 1 quyển, số 685, tập
16, dịch giả là Pháp sư Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn. Kinh Vu Lan còn một
bản Hán dịch nữa mang tên: "Phật Thuyết Báo Ân Phụng Bồn kinh", 1 quyển,
số 686, tập 16, mất tên người dịch.
j. Kinh Bát Ðại Nhân Giác: 1 quyển, số 779, tập 17, dịch giả là Ðại sư An Thế Cao (Hậu Hán).
k. Kinh Tứ Thập
Nhị Chương: 1 quyển, số 784, tập 17, dịch giả là hai Ðại sư Ca Diếp Ma
Ðằng (?-73) và Trúc Pháp Lan, dịch vào năm 67, đời Hậu Hán, được xem là
bản kinh Hán dịch đầu tiên của Phật giáo Trung Quốc.
l. Kinh Hiền Nhân: Bản Hán dịch mang tên "Phật Thuyết Bột Kinh Sao", số 790, 1 quyển, tập 17, dịch giả là cư sĩ Chi Khiêm.
m. Kinh Viên
Giác: Gọi đủ là "Ðại Phương Quảng Viên Giác Tu Ða La Liễu Nghĩa kinh",
số 842, 1 quyển, tập 17, dịch giả là Ðại sư Phật Ðà Ða La, dịch vào đầu
đời Ðường.
Ngoài ra, kinh
Thủ Lăng Nghiêm (gọi đủ là: Ðại Phật Ðảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu
Nghĩa Chư Bồ tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm kinh), 10 quyển, do Ðại sư
Bát Thích Mật Ðế dịch vào khoảng đầu thế kỷ VIII đời Ðường, đã được dịch
ra tiếng Việt (nhiều bản Việt dịch) khá phỗ biến trong giới Phật học
Việt Nam, ÐTKÐCTT đã xếp vào phần Mật giáo bộ, số 945, tập 19.
X. Mật giáo bộ (tập 18, 19, 20, 21)
Gồm 4 tập, tập hợp giới thiệu toàn bộ mảng kinh điển, minh chú, nghi quỹ... của Mật giáo.
- Mật giáo là
giai đoạn phát triển thứ 3 của tư tưởng Phật giáo Ðại thừa ở Ấn Ðộ (giai
đoạn thứ nhất là Bát Nhã, giai đoạn thứ hai là Duy Thức). Giai đoạn này
bắt đầu từ thế kỷ IV, trở nên hưng thịnh từ đầu thế kỷ VI... Ðứng về
phương diện tư tưởng, Mật giáo là một phản ứng đối với khuynh hướng quá
thiên trọng về trí thức và nghiên cứu của các hệ thống Bát nhã và Duy
thức. Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên;
nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất
mau trên con đường giác ngộ, thành đạo..." [111].
Mật giáo được
truyền vào Trung Quốc vào cuối thập kỷ 2 của thế kỷ VIII với công sức
của các vị Ðại sư Thiện Vô Úy (637-735), Kim Cương Trí (671-741) và Bất
Không (705-774). Các vị Ðại sư này vừa là nhà truyền đạo vừa là những
dịch giả đóng góp nhiều trong quá trình dịch thuật kinh sách Mật giáo ra
chữ Hán. Vị Ðại sư người Trung Quốc có nhiều hỗ trợ đắc lực cho sự phát
triển của Mật giáo ở Trung Hoa trong giai đoạn đầu là Ðại sư Nhất Hành
(683-727).
Những kinh điển làm nền tảng cho Mật giáo là các kinh Ðại Nhật, kinh Kim Cương Ðỉnh.
1. Kinh Ðại
Nhật:: Gọi đủ là "Ðại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì kinh", 7
quyển, 36 phẩm, số 848, tập 18, trang 1A-55A, do hai Ðại sư Thiện Vô Úy
và Nhất Hành dịch vào khoảng năm 716-720, đời Ðường.
2. Kinh Kim Cương Ðỉnh: Kinh này có 3 bản Hán dịch:
a. Bản
dịch của Ðại sư Bất Không (705-774) mang tên: "Kim Cương Ðỉnh Nhất Thiết
Như Lai Chân Thật Nhiếp Ðại Thừa Hiện Chứng Ðại Giáo Vương kinh", 3
quyển, số 865, tập 18, trang 207A-223B.
b. Bản do Ðại sư
Kim Cương Trí (671-741), dịch vào năm 723, mang tên "Kim Cương Ðỉnh Du
Già Trung Lược Xuất Niệm Tụng kinh", 4 quyển, số 866, tập 18, trang
223B-253C.
c. Bản do Ðại sư
Thi Hộ (thế kỷ X TL) dịch vào khoảng 980, đời Triệu Tống (960-1279),
nhan đề: "Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Ðại Thừa Hiện
Chứng Tam Muội Ðại Giáo Vương kinh", 30 quyển, số 882, tập 18, trang
341A-445B.
Một số
khái niệm cơ bản của Mật giáo như Tam đại, 4 thứ Mạn đồ la, Tam mật,
Ngũ tướng v.v... cần được quảng diễn trong một dịp khác.
Trên đây là những nét chính về hệ thống kinh điển của Hán tạng, là sơ đồ cần thiết để lần lượt tiếp cận với nội dung Kinh tạng.
-ooOoo-
Tham khảo:
1) Nghiên cứu kinh Lăng Già, Thích Chơn Thiện và Trần Tuấn Mẫn dịch, Ban Giáo dục Tăng Ni xb, 1992, tr.105.
2) Kinh Pháp Hoa, HT.Trí Quang dịch, 1994, T1, tr.6.
3) Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Nhà Xuất bản Văn Hóa, 1997, T1, tr.226-227.
4) ÐTKÐCTT, T1, tr.886A.
5) ÐTKÐCTT, T16, tr.780B.
6) Nguyễn Duy Cần, Phật học tinh hoa, bản in 1997, tr.83-89.
7) Xem kinh Trường Bộ, T2, HT.Minh Châu dịch, 1991, tr.529-547.
8) ÐTKÐCTT, T1, số 16, tr.250-252B.
9) ÐTKÐCTT, T1, số 17, tr.252B-255A.
10) ÐTKÐCTT, T1, số 26, tr.638C-642A.
11) ÐTKÐCTT, T1, số 1, tr.70A-72C.
12) Tưởng Duy Kiều, Ðại cương triết học Phật giáo, Thích Ðạo Quang dịch, 1958, tr.61.
13) Chu
biến, Hàm dung: Chu biến là không một đối tượng nào là không hiện diện.
Hàm dung là không một pháp nào là không được thâu tóm, tức tính chất
dung thông vô ngại của vạn pháp.
14) Nghiên cứu kinh Lăng Già, sđd, tr.5.
15) Về 10
Huyền môn có thể tham khảo: - Ðại cương triết học Phật giáo, Thích Ðạo
Quang dịch, 1958. - Các tông phái Phật giáo, Tuệ Sĩ dịch, 1973. - Chư
Kinh Tập Yếu, Thích Duy Lực dịch giải, 1997. - Phật học phỗ thông,
HT.Thiện Hoa biên soạn, khóa 5, in trong T2, 1992, phần giới thiệu về
tông Hoa Nghiêm.
16) ÐTKÐCTT, T1.
17) ÐTKÐCTT.
18) Kinh Trường A Hàm, quyển thứ 9, kinh số 10. ÐTKÐCTT, T1, tr.55C.
19) Kinh Bát Ðại Nhân Giác, ÐTKÐCTT, T17, 779, tr.715B.
20) ÐTKÐCTT, T4.
21) ÐTKÐCTT, T8.
22) ÐTKÐCTT, T10.
23) ÐTKÐCTT, T11, 12.
24) ÐTKÐCTT, T13.
25) Phật Quang đại từ điển, 1988, tr.1416B-C.
26) ÐTKÐCTT, T1.
27) ÐTKÐCTT, T3.
28) ÐTKÐCTT, T4.
29) ÐTKÐCTT, T8.
30) ÐTKÐCTT, T10.
31) ÐTKÐCTT, T14.
32) ÐTKÐCTT, T17.
33) Lê Mạnh Thát, Lục Ðộ Tập kinh và Lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, Tu thư Ðại học Vạn Hạnh, 1972, tr.53.
34) Phật Thuyết Bột kinh sao, số 790, ÐTKÐCTT, T17, tr.729A-736A.
35) HT.Trí Quang, Kinh Vu Lan, 1994, tr.48.
36) ÐTKÐCTT, T3.
37) ÐTKÐCTT, T8.
38) ÐTKÐCTT,
T9. Xem thêm bài viết của chúng tôi: "Nghĩ về một cách hàng phục ma
trong một bộ kinh". Tập văn Thành đạo, số 46, 1-2000, tr.33-42.
39) ÐTKÐCTT, T10.
40) ÐTKÐCTT, T12.
41) Dẫn theo HT.Trí Quang, Kinh Vu Lan, sđd, tr.49.
42) Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh, ÐTKÐCTT, T16, số 685, tr.779A-779C.
43) Kinh Vu Lan, sđd, tr.50-51.
44) Từ Hải, Tối Tân Tăng đính bản, Ðài Loan Trung Hoa thư cục ấn hành, 1994, tập Hạ, tr.5005B.
45) Dẫn theo HT.Trí Quang, Ngài La Thập, Phật học viện Trung Phần xb, 1962, tr.85-86.
46) Kinh Ðại Phẩm Bát Nhã, số 223, 27 quyển, ÐTKÐCTT, T8.
47) Bách luận, số 1569, 2 quyển, ÐTKÐCTT, T30.
48) Luận Ðại Trí Ðộ, số 1509, 100 quyển, ÐTKÐCTT, T25.
49) Kinh Pháp Hoa, số 262, 7 quyển, ÐTKÐCTT, T9. Kinh Duy Ma, số 475, 3 quyển, ÐTKÐCTT, T14.
50) Kinh Tiểu phẩm Bát Nhã, số 227, 10 quyển, ÐTKÐCTT, T8. Luận Thập Nhị Môn, số 1568, 1 quyển, ÐTKÐCTT, T30.
51) Trung luận, số 1534, 4 quyển, ÐTKÐCTT, T30.
52) Luận Thành Thật, số 1646, 16 quyển, ÐTKÐCTT, T32.
53) Kinh A Di Ðà, số 366, 1 quyển, ÐTKÐCTT, T8.
54) Kinh Kim Cương, số 235, 1 quyển, ÐTKÐCTT, T8.
55) Dẫn theo HT Trí Quang, Ngài La Thập, sđd, tr.47.
56) Sử Trung Quốc, T1, sđd, tr.331-333.
57) Kinh Ðại Bát Nhã Ba La Mật Ða, số 220, ÐTKÐCTT, T5, 6, 7.
58) Luận A Tỳ Ðạt Ma Ðại Tỳ Bà Sa, số 1545, ÐTKÐCTT, T27.
59) Luận Du Già Sư Ðịa, số 1579, ÐTKÐCTT, T30.
60) Luận A Tỳ Ðạt Ma Thuận Chánh Lý, số 1562, ÐTKÐCTT, T30.
61) Tâm kinh Bát Nhã, số 251, ÐTKÐCTT, T8.
62) Xưng Tán Tịnh Ðộ Nhiếp Thọ kinh, số 367, ÐTKÐCTT, T12.
63) Kinh Hiển Vô Biên Phật Ðộ Công Ðức, số 289, ÐTKÐCTT, T10.
64) Kinh Giải Thâm Mật, số 676, ÐTKÐCTT, T16.
65) Luận Nhiếp Ðại Thừa, số 1594, ÐTKÐCTT, T31.(66) Luận Thành Duy Thức, số 1585, ÐTKÐCTT, T31.
67) Ngũ chủng bất phiên: Năm trường hợp được giữ lại nguyên bản, không nên dịch ra.
68) ÐTKÐCTT, T16, tr.802C.
69) ÐTKÐCTTu, T4, tr.147C.
70) ÐTKÐCTT, T8, tr.425C.
71) Kinh Trung A Hàm, số 26, ÐTKÐCTT, T1, tr.421A-809C.
72) Câu: là
rãnh nước, ngòi nước. Cảng là sông lớn, thuyền bè có thể qua lại. Câu
cảng ý cũng như Dự lưu, tức dòng nước nhỏ hội nhập nơi sông nước lớn.
73) Kinh Ðại Minh Ðộ, số 225, ÐTKÐCTT, tr.482B, 482C, 483A, 484A...
74) Kinh số 20, ÐTKÐCTT, T1, tr.260C, 262B.
75) Kinh Lục Ðộ Tập, số 152, ÐTKÐCTT, T3, tr.2B, 12B.
76) ÐTKÐCTT, T1, tr.164A.
77) ÐTKÐCTT, T1, số 87, tr.911B.
78) Kinh số 13, ÐTKÐCTT, T1, tr.237A. Kinh số 150A, ÐTKÐCTT, T2, tr.875B.
79) Kinh số 46, ÐTKÐCTT, T1, tr.836B.
80) Kinh số 225, ÐTKÐCTT, T8, tr.479A, 479B, 479C, 480B.
81) Nt, T8, tr.479B.
82) ÐTKÐCTT, T1, tr.467A.
83) ÐTKÐCTT, T1, tr.237A.
84) ÐTKÐCTT, T1, tr.816A.
85) Kinh số 46, ÐTKÐCTT, T1, tr.836B.
86) ÐTKÐCTT, T1, tr.52B, tr.55A.
87) Kinh Tạp A Hàm, số 99, ÐTKÐCTT, T2, tr.10, 18C, 56C...
88) ÐTKÐCTT, T25, tr.53A-53B.
89) Kinh số 151, ÐTKÐCTT, T2, tr.883C.
90) Kinh số 5, Bạch Pháp Tổ dịch, ÐTKÐCTT, T1, tr.163B.
91) Kinh Quang Tán Bát Nhã, số 222, ÐTKÐCTT, T8, tr.164C.
92) Kinh Trung A Hàm, kinh số 55, ÐTKÐCTT, T1, tr.490C-491A.
93) Xin chú ý về
phần niên đại của thời kỳ lịch sử Trung Quốc sau nhà Tây Tấn (265-317).
Nhà Tây Tấn mất ngôi năm 317, hoàng tộc chạy xuống phương Nam, đóng đô ở
Kiến Nhiếp, lập ra nhà Ðông Tấn (317-419). Sau đấy, các triều đại kế
tiếp của phương Nam là: Lưu Tống (420-478), Nam Tề (479-501), Lương
(502-556) và Trần (557-588). Về phương Bắc, sau khi nhà Tây Tấn sụp đỗ
là tình trạng hùng cứ của những bộ tộc miền Bắc, có tất cả 16 nước,
nhiều nước được tạo lập cả khi còn nhà Tây Tấn, chỉ nêu ra mấy nước có
liên quan tới Phật giáo: - Tiền Lương (301-376), - Tiền Tần, Phù Tần
(351-384), - Hậu Tần, Diêu Tần (384-417), - Bắc Lương
397-439), -
Bắc Ngụy, Hậu Ngụy, Nguyên Ngụy (339-534). Về sau, Bắc Ngụy phân ra Tây
Ngụy (534-556) và Ðông Ngụy (534-550). Nhà Ðông Ngụy mất về tay nhà Bắc
Tề, Cao Tề (550-576). Nhà Tây Ngụy thì mất về tay nhà Bắc Chu còn gọi là
Vũ Văn Chu, Hậu Chu (557-579). Nhà Hậu Chu diệt nhà Bắc Tề, thống nhất
phương Bắc (576). Nhà Tùy (580-618) diệt nhà Hậu Chu ở phương Bắc và nhà
Trần ở phương Nam, thống nhất đất nước (580).
94) Ðịnh Huệ dịch, Tập văn Suối nguồn, số 4, Vu Lan 1999, tr.52-53.
95) Sử Trung Quốc, T1, sđd, tr.351.
96) Phật sở hành
tán, số 192, 5 quyển, Bồ tát Mã Minh tạo, Ðại sư Ðàm Vô Sấm dịch,
ÐTKÐCTT, T4, tr.1A-54C. (Xem thêm bài viết của chúng tôi: "Phật sở hành
tán, tác phẩm thi ca đầu tiên thuộc Phật giáo Bắc truyền viết về cuộc
đời Ðức Phật", nguyệt san Giác Ngộ, số 26, Phật Ðản 1998, tr.16-21.
97) Ðại Trang Nghiêm kinh luận, số 201, 15 quyển, Bồ tát Mã Minh tạo, Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch, ÐTKÐCTT, T4, tr.277-349.
98) Dẫn theo HT Trí Quang, Ngài La Thập, sđd, tr.82-83.
99) Kinh Kim Cương, HT Trí Quang dịch, 1994, tr.129-130.
100) Bát Nhã Vô Tri luận, in trong Triệu luận, số 1858, ÐTKÐCTT, T45, tr.153A-154C.
101) Một bản của
Ðại sư Nguyên Khang, đời Ðường, số 1859, 3 quyển. Một bản của Ðại sư Văn
Tài, đời Nguyên, số 1860, 3 quyển, ÐTKÐCTT, T45.
102) Ðạo Phật ngày nay... Trần Tuấn Mẫn dịch, 1997, tr.5.
103) Nghiên cứu kinh Lăng Già, sđd, tr.110-111.
104) Ðại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh sớ, 60 quyển, số 1735, ÐTKÐCTT, tập
35. Ðại Phương Quảng Phật Hoa nghiêm kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao, 90
quyển, số 1736, nt, T36.
105) Ðại cương triết học Phật giáo, sđd, tr.107.
106) Tân Hoa Nghiêm kinh luận, số 1738, 40 quyển, ÐTKÐCTT, T36.
107) Kinh Trường A Hàm, kinh số 2, ÐTKÐCTT, T1, tr.11A-30B.
108) ÐTKÐCTT, T1.
109) ÐTKÐCTT, T15, tr.146A-148A.
110) Việt
dịch kinh Kim Quang Minh, ngoài bản dịch của TT Thiện Trì còn có bản
dịch, chú giải kỹ lưỡng của HT Trí Quang, mang tên: Kinh Ánh Sáng Hoàng
Kim, 1994.
111) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận I, 1974, tr.128-129.
CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày tóm tắt về tiến trình dịch thuật kinh điển Hán tạng.
2. Trình bày những đóng góp của ngài Huyền Tráng đối với sự hình thành Tam tạng thánh điển chữ Hán.