Phần III - Bài 2 Ảnh hưởng của đạo Phật vào nền văn hóa Việt Nam - HT. Thích Trí Quảng
ẢNH HƯỞNG CỦA ÐẠO PHẬT
VÀO NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
HT. Thích Trí Quảng
Phật giáo
truyền sang Việt Nam từ hai hướng, từ Trung Hoa hoặc từ Ấn Ðộ. Và khi
thâm nhập vào Việt Nam, đạo Phật đã gắn liền với tâm hồn người Việt, ảnh
hưởng sâu sắc trong nhiều lĩnh vực sinh hoạt của dân tộc, thậm chí gắn
liền với sự tồn vong của đất nước Việt Nam.
Thật vậy, những
nhà truyền giáo mang tinh thần kinh Pháp Hoa trên bước đường truyền bá
chánh pháp, nghĩa là đến nơi nào, các ngài luôn luôn quán sát xem dân
chúng bản địa muốn gì, nghĩ gì, làm được gì và theo đó mà hướng dẫn họ
sống an vui, lợi ích.
Thể hiện tinh
thần này, ngay từ buổi sơ khai, đạo Phật đã trở thành đạo lý sống cho
những tâm hồn yêu nước và đóng vai trò tích cực trong việc dựng nước và
giữ nước. Ðó chính là nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam. Lịch sử còn
ghi rõ trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, những phong trào chống giặc phương
Bắc của nhân dân ta đều chịu ảnh hưởng của Phật giáo hay xuất thân từ
Phật giáo. Ðiển hình như một nữ tướng của Hai Bà Trưng là tu sĩ Phật
giáo. Hoặc Lý Nam Ðế lập nước Vạn Xuân ở thế kỷ thứ VI, vừa lên ngôi
chưa xây cung điện, mà đã cho xây chùa Khai Quốc, sau đỗi thành Trấn
Quốc.
Ðặc biệt đến thời
Ðinh, Lê, Lý, Trần, có thể khẳng định rằng đó là thời kỳ mà giáo lý đạo
Phật đã hòa nhập sâu sắc vào nền văn hóa Việt Nam. Hai tác phẩm nỗi
tiếng còn lưu lại như Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh đã thể
hiện rõ nét tinh thần đạo Phật.
"... Trong buổi
đầu thời kỳ độc lập, ngoài văn học dân gian, lực lượng sáng tác văn học
lúc đó chủ yếu là các nhà sư. Những tác phẩm văn học thành văn còn lưu
truyền đến ngày nay là một số bài thơ chữ Hán của các nhà sư Ðỗ Pháp
Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, v.v...".
"... Vào đời Lý,
Phật giáo vẫn chiếm ưu thế và các nhà sư vẫn giữ vai trò quan trọng.
Phật giáo được truyền bá rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân và có ảnh
hưởng sâu sắc trong đời sống xã hội, in rõ dấu ấn trong mọi lãnh vực văn
hóa (trích trang 150, 163, Lịch sử Việt Nam, tập I của UBKHXH).
Ðời Lý được coi
là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Việt Nam, trong hơn 200 năm, Phật
giáo đã giữ vị trí độc tôn và góp phần chính yếu cho nền văn hóa dân
tộc. Về phương diện văn học, các Tăng sĩ đều thuộc hàng trí thức có ảnh
hưởng lớn đến nền văn hóa đương thời. Qua sách Thiền uyển tập anh và một
số bia tạo dựng từ đời Lý đã lưu lại cho chúng ta những tác phẩm văn
thơ có giá trị. Trong 50 thi sĩ đời Lý, có đến 41 người là tăng lữ. Dưới
triều Lý, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của 8 đời vua anh minh sùng kính
đạo Phật, đã mở các khoa thi chọn nhân tài, giúp cho nền văn hóa nước
nhà được phát triển tốt đẹp.
Về phương diện mỹ
thuật, đối với các ngành kiến trúc, hội họa, điêu khắc, đạo Phật đã là
động lực hỗ trợ cho việc phát triển mạnh mẽ qua các công trình mỹ thuật
còn lưu lại như chùa tháp, tượng thờ, pháp khí, v.v...
Ðến thời nhà
Trần, các vua là những chiến sĩ anh dũng dẹp tan giặc Nguyên Mông một
cách vẻ vang. Khi đất nước thái bình, trí tuệ các ngài đã xây dựng nên
những tư tưởng trong sáng của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Có thể nói, trải
qua dòng lịch sử khá lâu dài và rõ nét, giáo lý đạo Phật đã hòa nhập mật
thiết vào nền văn hóa Việt Nam, ảnh hưởng sâu đậm đến mọi sinh hoạt đời
thường của người dân Việt. Tuy lời nói của các vị Thiền sư thật đơn
giản cùng với nếp sống bình dị thanh thản, nhưng đã ảnh hưởng mãnh liệt,
đi sâu vào lòng dân, đáp ứng được yêu cầu tình cảm, tri thức cho họ.
Ảnh hưởng "hành vô hành" của các bậc chân tu ngộ đạo đến với người một
cách dễ dàng tự nhiên, đến độ Lê Quát, một nho sĩ không mấy thiện cảm
với Phật giáo, đã phải bực mình ganh tỵ. Sự bực tức ấy còn được ghi lại
trong văn bia, bực tức vì nho sĩ học hành nhiều nhưng không ai để ý đến,
không ai tin theo; trong khi nhà sư "chẳng thấy làm gì" mà lại được
người kính phục, quy ngưỡng.
Qua những sự kiện
lịch sử còn ghi rõ dấu ấn son sắt của Phật giáo đối với nền văn hóa dân
tộc, đối với nếp suy nghĩ, nếp sống của người dân Việt từ bao đời, có
thể kết luận rằng, khi nào những vị tu sĩ tài đức hiện hữu thì đạo pháp
hưng thạnh, góp phần lợi lạc cho đất nước, mang an vui cho dân tộc. Và
ngược lại, Phật giáo suy đồi vì thiếu vắng người tu đắc đạo, thiếu người
có khả năng hướng dẫn quần chúng phát huy trí tuệ và đạo đức, thì đất
nước cũng bị ảnh hưởng, mất phần lợi lạc.
Với nhịp tiến
bước song hành cùng dân tộc Việt Nam theo tinh thần cha ông chúng ta đã
từng thực hiện một cách mỹ mãn, thiết nghĩ ngày nay chúng ta phục hưng
Phật giáo cũng có nghĩa là góp phần xây dựng đất nước. Phật giáo được
phục hưng, tức đào tạo được những nhân tài trí thức, đạo đức, chúng ta
đã trực tiếp đầu tư những nhân tố quý báu cho một xã hội phát triển giàu
mạnh, hướng thiện, an vui. Phật giáo Việt Nam mãi mãi tồn tại với dân
tộc.