Ðiều Giác Ngộ 7: Trì Giới là căn bản để tiết chế dục vọng
Phiên âm:
Đệ thất giác ngộ: Ngũ dục quá hoạn, tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế
lạc. Thường niệm tam y, bình bát pháp khí, chí nguyện xuất gia, thủ đạo
thanh bạch, phạm hạnh cao viễn, từ bi nhất thiết.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ bảy: Năm dục là tai họa, tuy là người thế tục,
nhưng không nhiễm dục lạc, thường nhớ nghĩ ba y, bình bát và pháp khí,
chí mong được xuất gia, giữ đạo luôn trong sạch, hạnh thanh tịnh cao xa,
từ bi với tất cả.
Năm dục là tai họa
Phàm phu định nghĩa hạnh phúc là được thỏa mãn những ham muốn của
mình, nhưng theo đạo Phật thì càng ham muốn nhiều thì càng khổ nhiều, vì
ham muốn của con người thường là vô cùng vô tận mà sức lực của con
người lại hữu hạn. Một khi ham muốn không được thỏa mãn là đau khổ. Khi
chỉ thỏa mãn được một phần ham muốn, thì chúng ta vẫn tiếp tục theo đuổi
chúng, và vì đó mà chúng ta gây thêm nhiều đau khổ. Chỉ khi nào chúng
ta tự biết đủ hay không còn chạy theo ham muốn thì chúng ta mới thật sự
có được sự yên ổn nơi thân tâm.:
Năm thứ dục dấy lên lòng dục của con người từ bên trong là sắc, thanh, hương, vị, và xúc..
Sắc do nhãn nhận thức, sắc nầy khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích và hấp dẫn lòng dục;.
Âm thanh do tai nhận thức, âm thanh nầy khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích và hấp dẫn lòng dục;.
Mùi hương nầy do mũi nhận thức, mùi nầy khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích và hấp dẫn dục vọng;.
Vị do lưỡi nhận thức, vị nầy khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích và hấp dẫn lòng dục;.
Xúc chạm do thân nhận thức, xúc chạm nầy khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích và hấp dẫn dục vọng.
Năm thứ dục dấy lên dục vọng của con người từ bên ngoài l à::
Tài Dục: Ham muốn của cải, thế lực và tiền tài; v à ham muốn về tài năng.
Sắc Dục: Ham muốn sắc dục..
Danh Dục: Ham muốn danh tiếng, ảnh hưởng và tiếng khen.
Thực Dục: Ham muốn ăn uống..
Thùy Dục: Ham muốn ngủ nghỉ..
Trong Tiểu Kinh Thọ Uẩn, Phật giải thích ngũ dục và sự nguy hiểm:
“...Và này Mahànàma, thế nào là vị ngọt các dục? Này Mahànàma, có năm
pháp tăng trưởng các dục này: Các sắc pháp do mắt nhận thức, khả ái,
khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn; các tiếng do tai
nhận thức...; các hương do mũi nhận thức...; các vị do lưỡi nhận
thức...; các xúc do thân nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ưng
với dục, hấp dẫn. Này Mahànàma, có năm pháp tăng trưởng các dục như vậy.
Này Mahànàma, y cứ vào năm pháp tăng trưởng các dục này, có lạc và hỷ
khởi lên, như vậy là vị ngọt các dục.
Và này Mahànàma, thế nào là sự nguy hiểm các dục?..., với "Này
Mahànàma", như vậy là sự nguy hiểm các dục đưa đến đau khổ tương lai, là
khổ uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do
chính dục làm nhân.”
Sống trong đời vốn không thể xa lìa được tài sắc danh thực thùy. Vì
sao trong Kinh lại nói rằng: Năm dục là tai họa? Tham cầu năm dục đưa
đến gây tạo tội lỗi, rước lấy tai họa là điều thường xuyên xảy ra. Tựu
chung, những tội lỗi, tai họa của năm dục là: 1.Tăng thêm đấu tranh;2.
Làm khổ não người;3. Gây ra họa hại; 4. Không có chân thật;5. Không được
trường cữu.
Đức Phật ví chúng sanh chạy theo dục lạc của thế gian như những đứa
trẻ đang liếm mật trên lưỡi dao. Không có cách gì mà họ không bị cắt đứt
lưỡi. Nói cách khác năm dục thật là tai họa vậy
Tuy là người thế tục, nhưng không nhiễm dục lạc, thường nhớ nghĩ ba
y, bình bát và pháp khí, chí mong được xuất gia, giữ đạo luôn trong
sạch, hạnh thanh tịnh cao xa, từ bi với tất cả..
Phật dạy cho hàng cư sĩ tại gia hạnh “ly nhiễm xuất thế”. Nghĩa là
lìa xa ô nhiễm và ra khỏi thế gian. Vì sao? Vì năm dục tài, sắc, danh,
thực, thùy hay sắc, thanh, hương, vị, xúc là lỗi lầm là tai họa, khiến
cho con người chịu nhiều khổ đau truyền kiếp. Thế nên người cư sĩ tại
gia biết rõ tai họa của năm dục, thân tuy còn trong thế tục, mà không
nhiễm trước dục lạc thế gian, lại còn nuôi chí nguyện xuất gia để thực
hành hạnh tự giác giác tha. Nghĩa là tâm thường nhớ tưởng mong cầu ngày
nào đó, mình sẽ được xuất gia thoát tục, đắp y mang bát đi khất thực,
sống phạm hạnh thanh tịnh, làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, chớ không ở
hạn hẹp trong phạm vi gia đình nhỏ bé. Vì thế mà người Phật tử học đạo
có tâm cầu tiến, phải nuôi chí xuất trần siêu việt không tự mãn mình là
cư sĩ tu giữ năm giới đủ rồi. Người có quan niệm như vậy là người không
cầu tiến, đã giẫm chân đứng tại chỗ.
Tóm lại, điều thứ bảy, Phật khuyên hàng cư sĩ tại gia, tuy đang ở
trong trần lao ô nhiễm, tâm luôn nhớ dục lạc thế gian là lỗi lầm là tai
họa, phải nuôi chí nguyện xuất trần, giữ phạm hạnh thanh tịnh làm lợi
ích cho chúng sanh.
Muốn giữ vững phạm hạnh được thanh tịnh, giới luật là căn bản để tiết chế dục vọng
Giới luật mà Đức Phật đã ban hành không phải là những điều răn tiêu
cực mà rõ ràng xác định ý chí cương quyết hành thiện, sự quyết tâm có
những hành động tốt đẹp, một con đường toàn hảo được đắp xây bằng thiện ý
nhằm tạo an lành và hạnh phúc cho chúng sanh. Những giới luật nầy là
những quy tắc đạo lý nhằm tạo dựng một xã hội châu toàn bằng cách đem
lại tình trạng hòa hợp, nhất trí, điều hòa, thuận thảo và sự hiểu biết
lẫn nhau giữa người với người.
Giới là nền tảng vững chắc trong lối sống của người Phật tử. Người
quyết tâm tu hành thiền định để phát trí huệ, phải phát tâm ưa thích
giới đức, vì giới đức chính là yếu tố bồi dưỡng đời sống tâm linh, giúp
cho tâm dễ dàng an trụ và tĩnh lặng. Người có tâm nguyện thành đạt trạng
thái tâm trong sạch cao thượng nhất hằng thực hành pháp thiêu đốt dục
vọng, chất liệu làm cho tâm ô nhiễm. Người ấy phải luôn suy tư rằng: “Kẻ
khác có thể gây tổn thương, nhưng ta quyết không làm tổn thương ai; kẻ
khác có thể sát sanh, nhưng ta quyết không sát hại sinh vật; kẻ khác có
thể lấy vật không được cho, nhưng ta quyết không làm như vậy; kẻ khác có
thể sống phóng túng lang chạ, nhưng ta quyết giữ mình trong sạch; kẻ
khác có thể ăn nói giả dối đâm thọc, hay thô lỗ nhảm nhí, nhưng ta quyết
luôn nói lời chân thật, đem lại hòa hợp, thuận thảo, những lời vô hại,
những lời thanh nhã dịu hiền, đầy tình thương, những lời làm đẹp dạ,
đúng lúc đúng nơi, đáng được ghi vào lòng, cũng như những lời hữu ích;
kẻ khác có thể tham lam, nhưng ta sẽ không tham; kẻ khác có thể để tâm
cong quẹo quàng xiên, nhưng ta luôn giữ tâm ngay thẳng
Những gì được Đức Thế Tôn tuyên thuyết là chánh hạnh, là cách cư xử
tốt đẹp nhất ngoài tám giới (Sát, Đạo, Dâm nơi thân; nói dối, nói ác,
nói thô và nói vô ích nơi khẩu; và chánh mạng trong Bát Thánh Đạo
Do nhận định về “ GIỚI LUẬT (Sila: skt )- CƠ SỞ CỦA ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO”
(của TT. Thích Viên Giác) thì:
Nguyên tắc hành trì mà Đức Phật thiết lập cho các đệ tử khép mình vào
đó để làm đình chỉ dục vọng có thể nói đó là những nguyên tắc khách
quan và phổ quát. Đó là năm giới của người Phật tử:
Không giết hại,
Không trộm cắp,
Không quan hệ tình dục phi pháp (tà dâm),
Không dối gạt hại người, và
Không rượu chè say sưa.
Một nhà tri thức phương Tây nhận định: "Năm giới này cho thấy 5 hướng
chính mà người Phật tử tự mình kiểm soát để hành trì (tri hành). Đó là
giới thứ nhất răn người Phật tử kiềm chế nóng giận, giới thứ hai kiềm
chế tham đắm vật chất, giới thứ ba kiềm chế nhục dục, giới thứ tư kiềm
chế sự khiếp nhược và ác ý (nguyên nhân không chân thật) và giới thứ năm
kiềm chế lòng ham muốn các sự kích thích nhơ bẩn" (Edmond - Homes - Tín
điều của Đức Phật). dù Phật tử hay không là Phật tử, các nguyên tắc đạo
đức này cần phải được thực hành, dù trong điều kiện thời gian hay không
gian nào, nếu không muốn có hậu quả xấu. Đức Phật xác định rằng một
người nếu có hành vi sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục,
nói dối và đắm say các chất gây nghiện ngập thì sẽ có một cuộc sống sợ
hãi và hận thù, đồng thời cõi ác đau khổ đang chờ đợi họ; ngược lại một
người (Phật tử) từ bỏ sát sanh. thì cuộc sống không có sợ hãi, hận thù
và cõi thiện đang chờ đợi họ. Giá trị của một người không phải được đánh
giá qua tài sản, thân tướng, dòng họ, địa vị mà được đánh giá qua đời
sống mà chuẩn mực được thể hiện qua 5 nguyên tắc đạo đức trên. Đức Phật
dạy thêm rằng: "Một người mà hành vi của họ được bảo vệ bởi 5 nguyên tắc
(giới) trên thì người ấy có thể thành tựu một cách nhanh chóng bốn tăng
thượng tâm hiện tại lạc trú" (Tăng Chi III)
Những qui tắc căn bản trong đạo Phật: Hành trì giới luật giúp phát
triển định lực, nhờ định lực mà chúng ta thông hiểu giáo pháp, thông
hiểu giáo pháp giúp chúng ta tận diệt tham sân si và tiến bộ trên con
đường giác ngộ
Giải Thoát Tri Kiến
Cũng trong Tiểu Kinh Thọ Uẩn, Phật dạy rõ cách dùng chánh trí tuệ úng m ới có thể khỏi bị các dục chi phối.
Pháp học
“....Các dục vọng, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây
lại nhiều hơn. Này Mahànàma, nếu một vị Thánh đệ tử khéo thấy như vậy
với như thật chánh trí tuệ, nhưng nếu vị này chưa chứng được hỷ lạc do
ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh, hay một pháp nào khác cao thượng hơn,
như vậy vị ấy chưa khỏi bị các dục chi phối.
Này Mahànàma, khi nào vị Thánh đệ tử khéo thấy như vậy với như thật
chánh trí tuệ: "Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều. Sự nguy hiểm ở
đây lại nhiều hơn", và vị này chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất
thiện pháp sanh hay một pháp nào cao thượng hơn, như vậy vị ấy không bị
các dục chi phối.”
Pháp Hành.
Khi Thiền Ðịnh
a). Dùng Ðịnh Niệm Xứ
Có năm pháp tăng trưởng các dục này:
* Ta biết sắc pháp do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn”;
* Ta biết các tiếng do tai nhận thức...”;
* Ta biết các hương do mũi nhận thức...”;
* Ta biết các vị do lưỡi nhận thức...”;
* Ta biết các xúc do thân nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn”;
. * Ta biết năm pháp tăng trưởng các dục này, có lạc và hỷ khởi lên, như vậy là vị ngọt các dục”.
Ta biết thế nào là sự nguy hiểm các dục”
Ta biết sự nguy hiểm các dục đưa đến đau khổ tương lai”
Ta biết, là khổ uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do chính dục làm nhân”.
Ta biết ác dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều. Sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn",
Ta biết ta chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào cao thượng hơn”,;
Ta biết như vậy Ta không bị các dục chi phối”
Ðó là pháp tu tập để giải thoát tri kiến.
Kết Luận
Hành giả có thể đoạn trừ được, nếu không sống trong gia đình, và
không thụ hưởng các dục vọng. Hành giả khéo thấy với như thật chánh trí
tuệ: "Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại
nhiều hơn", và chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh
hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy là hành giả khỏi bị các
dục chi phối. Ngoài ra những qui tắc căn bản trong đạo Phật: hành trì
giới luật giúp phát triển định lực, nhờ định lực mà chúng ta thông hiểu
giáo pháp, thông hiểu giáo pháp giúp chúng ta tận diệt tham sân si và
tiến bộ trên con đường giác ngộ
Tham khảo
Giới Luật - Cơ sở của Đạo Ðức Phật Giáo. Thích Viên Giác trích trong website Thư Viện Hoa Sen: http://www.thuvienhoasen.org,
Kinh Bát Ðại Nhân Giác do HT. Thích Thanh Từ và Thích Minh Quang Việt
dịch trích trong website Quảng Ðức: http://www.quangduc.com.
Tiểu Kinh Khổ Uẩn (Culadukkhakkhandhasuttam). Kinh Trung bộ HT. Thích Minh Châu dịch trích trong website Quảng Ðức:
Tự Ðiển Phật Hoc Việt Anh. (TÐPHVA). Thiện Phúc trích trong website Quảng Ðức