Tạng thư Sống Chết
The Tibetan Book Of Living And
Dying
Sogyal Rinpoche
Ni sư Thích Nữ Trí Hải
dịch
--- o0o --
PHỤ LỤC MỘT
NHỮNG CÂU HỎI VỀ CÁI CHẾT
Những tiến bộ trong ngành y khoa đã cứu được vô số sinh
mạng và làm giảm thiểu vô số đau khổ. Nhưng đồng thời chúng cũng đưa ra
nhiều ngõ bí về đạo đức tâm linh cho người hấp hối, gia đình và những bác
sĩ điều trị, - những vấn đề phức tạp mà họ rất khó giải quyết. Chẳng hạn,
ta có nên tiếp tục gắn dụng cụ duy trì sự sống cho thân nhân sắp chết, hay
nên bỏ ra? Nên để cho bác sĩ có quyền chấm dứt sinh mạng một người sắp
chết để họ khỏi đau đớn hay không? Với những người đang kéo dài cơn đau
đớn của sự chết, có nên khuyên họ, ngay cả giúp họ, chấm dứt cuộc đời
không? Người ta thường hỏi tôi những câu như vậy, và sau đây tôi sẽ nêu
lên vài điều:
Giữ cho sống
Bốn mươi năm trước, phần đông ngời chết tại nhà, nhưng bây
giờ đa số chết ở bệnh viện và những nhà điều dưỡng. Cái viễn tượng bị giữ
cho sống bằng một cái máy quả là một chuyện hãi hùng. Người ta đang tự
hỏi, họ có thể làm gì để bảo đảm một cái chết đầy đủ tư cách và nhân phẩm,
không để cho đời sống họ kéo dài một cách không cần thiết. Điều này đã
thành một vấn đề rất phức tạp. Làm sao ta quyết định nên hay không nên bắt
đầu tiếp sức sống cho một người, ví dụ sau một tai nạn trầm trọng? Và làm
sao nếu người ấy bị hôn mê không nói được, hoặc bệnh quá nặng đã mất hết
khả năng tinh thần? Một trẻ em bị dị tật bẩm sinh trầm trọng, hoặc não bộ
đã hỏng, thì sao?
Không có giải đáp dễ dàng cho những vấn đề ấy, nhưng có
vài nguyên tắc căn bản có thể hướng dẫn chúng ta. Theo giáo lý Phật, mọi
đời sống là thiêng liêng, mọi chúng sanh đều có Phật tính, và sự sống cống
hiến cho họ cơ hội giác ngộ. Tránh sát sinh là một trong những nguyên tắc
đầu tiên của đạo đức con người. Nhưng Phật cũng mạnh mẽ bác bỏ tính cách
độc đoán, giáo điều, và ở đây tôi nghĩ chúng ta cũng không thể có quan
điểm cố định được, không thể có một “lập trường chính thức” hay lập nên
quy luật về những vấn đề như thế. Chúng ta chỉ có thể hành động với trí
tuệ của ta lúc đó, tùy theo từng tình huống. Và luôn luôn nhớ rằng mọi sự
tùy thuộc vào động cơ và lòng bi mẫn của chúng ta ở đằng sau hành động.
Có nghĩa lý gì để giữ cho người ta sống giả tạo trong khi
họ sẽ chết nếu không có máy móc ấy? Đức Dalai Lama đã nêu lên một yếu tố
cốt tủy, đó là tâm trạng của người hấp hối. “Theo quan điểm Phật giáo, thì
nếu một người hấp hối có thể có tư tưởng tích cực, phước đức, và có một
mục đích, thì điều quan trọng là nên để cho họ sống thêm dù chỉ vài phút”
. Ngài nhấn mạnh yếu tố gia đình trong tình huống ấy: “Nếu không có dịp
cho họ có tư tưởng tích cực, và hơn nữa, gia đình đang tốn rất nhiều tiền
chỉ để giữ cho họ sống thêm thì dường như là không đáng Nhưng mỗi trường
hợp cần phải xét theo cá nhân, không thể quy nạp được”.
Những phương pháp phục hồi sự sống có thể gây bực bội,
phiền nhiễu và tán loạn vào giờ phút cao điểm của cái chết. Giáo lý Phật
cũng như kinh nghiệm cận tử đều cho thấy ngay cả những người hôn mê cũng
vẫn hoàn toàn biết mọi sự xảy ra xung quanh họ. Những gì xảy ra trước khi
chết, vào lúc chết, và cho đến cái lúc thần thức rời khỏi xác là những
giây phút hết sức quan trọng đối với bất cứ người nào, mà nhất là với một
hành giả tâm linh đang cố tu tập an trú trong tự tánh tâm.
Nói chung, cách cứu chữa chỉ để mà kéo dài tiến trình
chết, có nguy cơ là nó chỉ nhen nhúm thêm sự bám víu không cần thiết, giận
dữ và bất mãn nơi người hấp hối, nhất là khi đấy không phải là ý muốn của
họ. Những thân quyến gặp phải khó khăn trong lúc quyết định, và cảm thấy
tràn ngập trách nhiệm về cái chết của người thân, cần nên nhớ rằng nếu
không có hy vọng gì qua khỏi, thì phẩm chất những giờ phút cuối cùng của
người thân họ còn quan trọng hơn là chỉ giữ cho họ còn sống. Ngoài ra, vì
ta không bao giờ biết được thần thức còn ở trong thân xác hay không, làm
như vậy ta chỉ có bắt buộc thần thức họ bị giam giữ trong một thể xác vô
dụng.
Dilgo Khientse Rinpoche nói:
Dùng máy móc để giữ
sự sống khi một người không hy vọng bình phục, là chuyện vô nghĩa. Tốt hơn
nhiều nếu để họ chết tự nhiên trong bầu không khí thanh tịnh, và làm những
việc thiện nhân danh họ. Khi những máy móc duy trì sự sống còn đó, mà
không còn hy vọng, thì rút máy ra không là một tội lỗi, vì không có cách
nào người ấy sống được, bạn chỉ đang cố níu kéo sự sống của họ một cách
giả tạo mà thôi.
Những nỗ lực để duy trì sự sống đôi khi có thể là vô ích
và quấy rầy người hấp hối một cách không cần thiết. Một bác sĩ đã viết:
Toàn bệnh viện lăn xả
vào một hoạt động cuồng nhiệt. Hàng tá người đổ xô tới giường bệnh trong
một nỗ lực cuối cùng để phục hồi con bệnh. Người bệnh sắp chết được bơm
đầy cả các thứ thuốc, bị đâm hàng tá mũi kim, bị co giật vì những dòng
điện kích thích. Những giây phút chết của chúng ta bị ghi hồ sơ kỹ lưỡng
về nhịp tim, lượng dưỡng khí trong máu, điện não đồ.v.v…… Rồi, khi bác sĩ
cuối cùng đã đo đạc thỏa thích, cơn cuồng nhiệt về kỹ thuật này mới chịu
chấm dứt.
Bạn có thể không muốn có những máy móc cứu chữa ấy, không
muốn được cứu sống lại, và muốn để cho bạn yên một lúc sau cái chết lâm
sàng. Nhưng làm sao bạn có thể bảo đảm ý muốn của bạn được tôn trọng -
muốn chết trong môi trường thanh bình như các bậc thầy đã khuyên?
Ngay cả khi bạn nói rõ ý muốn của bạn, hay không muốn một
loại chữa trị nào đó trong bệnh viện, thì yêu cầu của bạn cũng có thể
không được tôn trọng, Nếu người thân ruột của bạn không đồng ý với ước
muốn của bạn, họ có thể yêu cầu chữa trị một cách trái ý bạn, ngay cả khi
bạn còn có ý thức, còn nói được. Một điều không may là các bác sĩ lại
thường thể theo ý muốn của gia đình hơn là của người sắp chết. Do dó, dĩ
nhiên muốn có được sự kiểm soát trong việc săn sóc về y dược, thì bạn nên
chết tại nhà.
Ở vài nơi trên thế giới, có những văn kiện gọi là Di chúc
sống, trong đó bạn có thể nói rõ ước muốn của bạn về sự chữa trị để phòng
trường hợp bạn không còn có thể làm quyết định cho tương lai bạn. Đây là
những đề phòng khôn ngoan, giúp cho bác sĩ nếu họ gặp phải trường hợp khó
xử. Tuy nhiên, những giấy tờ này không ràng buộc về mặt pháp lý, và không
thể biết trước tính chất phức tạp của cơn bệnh nơi bạn. Ở Hoa Kỳ, bạn có
thể nhờ Luật sư làm một tờ gọi là “Quyền ủy nhiệm Săn sóc y tế dài hạn”.
Đấy là cách hữu hiệu nhất để nói rõ ý bạn muốn, và bảo đảm nó được tôn
trọng. Trong tờ ấy, bạn nêu tên một người đại diện hợp pháp cho bạn, hiểu
được thái độ và ước muốn của bạn, người có thể làm những quyết định quan
trọng thay cho bạn khi bạn gặp trường hợp đặc biệt của bệnh tật.
Để cho chết
Năm 1986, hội Y khoa Hoa Kỳ có điều luật cho phép bác sĩ
cởi bỏ các phương pháp cứu sống, kể cả dưỡng chất và nước uống, từ những
bệnh nhân bị bạo bệnh gần chết, và từ những người có thể kéo dài cơn hôn
mê. Bốn năm sau, một trưng cầu ý kiến của viện Gallup chứng tỏ có 84%
người Mỹ muốn ngưng chữa trị nếu họ chỉ còn sống nhờ máy móc duy trì, và
không có hy vọng nào bình phục.
Quyết định giới hạn hay ngưng hẳn dưỡng chất và chữa trị
thường được gọi là “phép an tử thụ động”. Sự chết được để cho xảy ra tự
nhiên, bằng cách không dùng thuốc hay những biện pháp y học chỉ để kéo dài
mạng sống một người thêm vài giờ, hay vài ngày nữa, khi tình trạng họ đã
vô phương hồi phục.
Hình thức an tử thụ động này cũng xảy ra khi gia đình và
bác sĩ quyết định không chữa một chứng bệnh phụ thuộc mà sẽ kết thúc bằng
cái chết. Chẳng hạn, một người đang ở giai đoạn cuối của ung thư xương có
thể phát ra bệnh phổi có nước, mà nếu đừng chữa thì có thể đưa tới một cái
chết an ổn hơn, không kéo dài và ít đau đớn hơn.
Còn những người bệnh nặng gần chết, tự quyết định bỏ ăn
uống thuốc men thì sao? Tự chấm dứt đời mình như vậy, họ có phạm tội sát
sinh không? Kalu Rinpoche đã trả lời vấn đề này rất rõ ràng:
Con người nào thấy
rằng mình đã đau đớn quá đủ, muốn được chết, là đang ở trong một tình
huống mà ta không thể gọi là có phước hay có tội. Đương nhiên ta không thể
trách cứ họ vì đã làm môït quyết định như thế. Đó không phải là một nghiệp
ác. Đó chỉ là lòng mong muốn tránh đau khổ, một ước muốn tự nhiên căn bản
của tất cả mọi sinh loài. Nhưng mặt khác, đó cũng không là một hành vi có
công đức gì, hay phước thiện gì… Thay vì nói họ muốn chấm dứt mạng sống,
đúng hơn nên nói họ muốn chấm dứt đau khổ. Bởi thế, đấy là một hành vi vô
thưởng vô phạt về phương diện nghiệp.
Nếu ta đang săn sóc cho một người bệnh sắp chết, mà họ yêu
cầu ngưng cung cấp dưỡng chất thuốc men cho họ thì sao? Kalu Rinpoche nói:
Chúng ta không thể cứu được mạng sống của họ. Ta cũng
không thể làm cho họ bớt đau. Nhưng ta đang cố hết sức mình, được điều
động bởi một động lực trong sạch nhất. Bất cứ gì ta làm, dù cuối cùng
không kết quả, cũng không thể bảo là gây nghiệp xấu hay có hại.
Khi một người chữa bệnh được con bệnh yêu cầu ngưng hệ
thống duy trì sự sống, thì điều ấy đặt người chữa bệnh vào một vị trí rất
khó xử, vì bản năng bảo họ: “Nếu cứ để họ tiếp tục thuốc men ăn uống, họ
sẽ sống. Nếu không, họ sẽ chết”. Hậu quả nghiệp này thuộc vào ý định của
người chữa, vì chính người này đang lấy mất phương tiện của bệnh nhân để
sống, dù việc ấy do bệnh nhân yêu cầu. Nếu động cơ chính yếu là muốn giúp
đỡ cho người bệnh hết đau đớn, thì trong tâm trạng ấy có lẽ không gây
nghiệp xấu nào.
Chọn giải
pháp chết
Cuộc trưng cầu ý kiến nói trên vào năm 1990 chứng tỏ có
66% người ở Mỹ tin rằng một người quá đau đớn không hy vọng khỏi bệnh, thì
có quyền tự sát. Trong một xứ sở như Hòa Lan, mỗi năm có 10.000 người chọn
phương pháp an tử để chấm dứt đời mình. Nhưng bác sĩ nào giúp cho bệnh
nhân chết phải chứng minh được rằng con bệnh bằng lòng, rằng con bệnh đã
thảo luận kỹ vấn đề với bác sĩ, và bác sĩ cũng đã bàn bạc vấn đề với một
đồng nghiệp để thêm ý kiến. Ở Mỹ, vấn đề đã đi tới chỗ có một quyển sách
bán rất chạy mô tả rõ ràng những phương pháp tự sát cho những người gặp
chứng bệnh hiểm nghèo, và có những phong trào khởi sự hợp pháp hóa việc
“an tử có tác động”, hay “giúp cho chết”.
Nhưng cái gì sẽ xảy ra nếu pháp an tử trở thành hợp pháp?
Nhiều người sợ rằng những con bệnh được xem là đến thời kỳ chót, nhất là
những người rất đau đớn, có thể chọn cái chết mặc dù cơn đau của họ còn có
thể chữa trị, và đời sống còn có thể kéo dài. Nhiều người khác sợ rằng
những người già cả có thể cho rằng bổn phận mình là phải chết, hoặc chọn
cách tự sát chỉ để cứu mạng sống và tiền bạc của gia quyến họ.
Nhiều người làm việc với người sắp chết cảm thấy rằng tiêu
chuẩn cao hơn trong việc chăm sóc bệnh sắp chết là giải đáp cho những yêu
cầu an tử. Khi được hỏi về chuyện hợp pháp cho việc làm pháp an tử,
Elizabeth Kubler-Ross trả lời: “Tôi nhận thấy thực buồn khi chúng ta phải
làm ra luật lệ về những vấn đề như thế. Tôi nghĩ chúng ta nên xử dụng sự
phán đoán của con người và khởi sự nghĩ đến nỗi sợ chết của chính chúng
ta. Khi ấy ta có thể tôn trọng nhu cầu của người bệnh, lắng nghe họ, và sẽ
không đi đến một vấn đề như vấn đề này”.
Người ta sợ rằng chết sẽ không chị nổi, sợ thình lình bị
bại liệt nằm một chỗ, hoặc bị điên loạn, và những đau đớn khốc liệt, vô
nghĩa. Giáo lý Phật cho ta một thái độ khác để nhìn nỗi đau khổ, đem lại
cho nó một mục đích. Đức Dalai Lama nói:
Nỗi đau khổ của bạn
là do nghiệp của chính bạn, và bạn phải gặt hái hậu quả của nghiệp ấy
trong đời này hay đời khác, trừ phi bạn tìm cách tịnh hóa nghiệp chướng.
Muốn tịnh hóa thì tốt hơn nên kinh quá nghiệp ấy trong đời người này, ở
đấy bạn có nhiều khả năng để chịu đựng đau khổ hơn, nếu làm một con thú
chẳng hạn.
Theo giáo lý Phật, ta nên làm bất cứ gì có thể để giúp
người sắp chết đối phó với sự xuống tinh thần, nỗi đau đớn sợ hãi của họ,
đem lại cho họ sự nâng đỡ đầy tình thương, làm cho đời họ kết thúc có ý
nghĩa. Bà Cicely Saunders, người sáng lập Tiếp dẫn đường ở Luân Đôn, nói:
“Nếu một bệnh nhân của chúng ta đòi được làm pháp an tử, điều đó có nghĩa
rằng chúng ta không làm bổn phận mình”. Bà cực lực phản đối sự hợp pháp
hóa giúp cho người bệnh chết theo yêu cầu họ. Bà nói:
Xã hội chúng ta không
đến nỗi quá nghèo đến độ không đủ thì giờ và tiền bạc để giúp cho người ta
sống cho đến khi họ chết. Chúng ta có bổn phận phải giúp họ diệt cơn đau
đớn đã khiến họ sợ hãi và chua chát. Muốn làm vậy, ta không cần phải giết
họ… Hợp pháp hóa việc an tử sẽ là một hành vi thiếu trách nhiệm, ngăn cản
sự giúp đỡ, gây áp lực cho người đã bị tổn thương, từ bỏ sự kính trọng và
trách nhiệm của ta đối với người già yếu, tàn tật và sắp chết.
Vài câu hỏi
khác:
Cái gì xảy đến cho
tâm thức một hài nhi bị sẩy thai hoặc chết non? Cha mẹ có thể làm gì để
giúp hài nhi ấy?
Dilgo Khientse Rinpohe giải thích:
Thần thức của những
người chết trước khi sinh, trong khi sinh, hoặc lúc còn bé, sẽ du hành một
lần nữa qua các trạng thái Trung Ấm, và lấy một hiện hữu khác. Cũng có thể
làm cho những vong linh này những hành vi công đức và pháp tu dành cho
người chết: pháp tịnh hóa nghiệp chướng, đọc thần chú Kim cương tát đỏa,
cúng đèn.v.v….
Trong trường hợp sẩy thai, ngoài những pháp tu thông
thường này, nếu cha mẹ cảm thấy ân hận, họ có thể nhận lỗi, xin tha thứ,
và chí thành làm pháp tịnh hóa Kim cương tát đỏa. Họ cũng có thể cúng đèn,
phóng sinh, bố thí, bảo trợ một số chương trình tu tập nhân đạo để hồi
hướng cho sự an lạc và giác ngộ trong tương lai của tâm thức hài nhi ấy.
Cái gì xảy đến cho tâm thức một người tự sát?
Dilgo Rinpoche nói:
Khi một người tự sát,
thần thức không có chọn lựa nào khác ngoài ra đi theo nghiệp xấu của mình,
và rất có thể xảy ra rằng một ác ma sẽ bắt lấy và chiếm hữu sinh lực người
ấy. Với cái chết tự sát thì một bậc thầy có năng lực phải làm nhiều phép
đặc biệt, như năm cuộc lễ và những nghi thức khác để giải thoát thần thức
người chết.
Ta có nên hiến tặng những bộ phận trong người ta khi ta chết không? Cái gì
sẽ xảy ra nếu những bộ phận này phải cắt bỏ trong lúc máu vẫn còn lưu
thông hay trước khi tiến trình chết hoàn tất? Việc này có trở ngại hay làm
hại tâm thức vào thời gian trước khi chết không?
Những bậc thầy mà tôi thỉnh ý việc này đều đồng ý rằng sự
hiến tặng ấy là một hành động rất tích cực, vì nó phát sinh từ một mong
muốn lợi lạc cho người khác với lòng bi mẫn chân thực. Bởi thế, nếu thực
sự đấy là ước nguyện của người sắp chết, thì nó tuyệt nhiên sẽ không hại
gì cho thần thức họ khi rời khỏi thân xác. Trái lại, hành vi bố thí tối
hậu này tích lũy nghiệp tốt. Một bậc thầy khác nói rằng bất cứ sự đau đớn
nào mà một người trải qua trong tiến trình hiến tặng thân phần, và mỗi một
giây phút tán loạn vì đau đớn, đều trở thành một nghiệp tốt, có công đức.
Dilgo Rinpoche giải thích: “Nếu người ấy chắc chắn vài
phút nữa sẽ chết, mà đã bày tỏ nguyện vọng bố thí thân phần của mình, lòng
đầy bi mẫn, thì có thể lấy những thân phần ấy ngay cả trước khi tim ngưng
đập”
Còn về những trường
hợp đông lạnh (cryonics) thì sao? Khi thân xác một người, hay chỉ cái đầu
được giữ cho đông cứng để chờ đến lúc y khoa tiến bộ sẽ sống lại?
Dilgo Rinpo che bảo chuyện này hoàn toàn vô nghĩa. Thần
thức người ấy không thể trở lại cái thân xác sau khi người ấy đã thực sự
chết. Sự tin tưởng rằng cái thây của người ta đang được giữ để làm sống
lại trong tương lai, rõ ràng có thể gài bẫy cho tâm thức người ta càng
thêm bám víu thân xác một cách bi thảm, tăng cường vô tận nỗi đau khổ của
họ, và bít lấp tiến trình tái sinh. Một bậc thầy so sánh pháp đông lạnh
này với sự đi thẳng đến địa ngục hàn băng mà không cần trải qua giai đoạn
Trung Ấm.
PHỤ LỤC HAI
HAI MẨU CHUYỆN
Học viên và bạn bè ở Tây phương đã kể cho tôi nghe nhiều
chuyện rất hay về những người đã nhờ giáo lý Phật trong khi họ chết. Ở đây
tôi xin kể hai mẩu chuyện của hai học trò tôi, và cách họ đối diện cái
chết.
Dorothy
Dorothy là một học viên của tôi đã chết vì bệnh ung thư
tại Tiếp dẫn đường St. Christopher ở Luân Đôn. Bà đã từng là một nghệ sĩ
có tài, một nhà thêu ren, một sử gia về nghệ thuật, một hướng dẫn viên du
lịch, cũng như một người chữa bệnh bằng màu sắc. Thân phụ bà là một người
chữa bệnh nổi tiếng. Bà có sự kính trọng lớn đối với mọi truyền thống tôn
giáo và tâm linh. Chỉ về sau này bà mới khám phá ra đạo Phật, và bà nói đã
“mắc câu” ; bà bảo giáo lý ấy đem lại cho bà cái nhìn toàn diện nhất về
bản chất thực tại. Hãy để cho một người bạn đạo của bà, người đã săn sóc
bà lúc chết, kể cho bạn nghe Dorothy đã được sự giúp đỡ của giáo lý Phật
như thế nào khi sắp chết.
“Cái chết của Dorothy là một nguồn cảm hứng cho tất cả
chúng tôi. Chị đã chết với một vẻ đẹp và tư cách, và bất cứ ai tiếp xúc
chị cũng cảm thấy sức mạnh tâm linh toát ra từ nơi chị - bác sĩ, y tá, y
công, các bệnh nhân khác, và nhất là những bạn đạo của chị, nhưng người có
may mắn gần gũi chị trong những tuần cuối của đời người.
Khi chúng tôi đến thăm Dorothy tại nhà trước khi chị vào
Tiếp dẫn đường, chúng tôi thấy rõ là bệnh ung thư của chị đã đến thời kỳ
ác liệt, các cơ quan trong người chị bắt đầu suy tàn. Chị đã dùng mót-phin
để giảm đau suốt cả năm trời, và bấy giờ chị không thể nào ăn uống. Tuy
vậy chị không bao giờ phàn nàn, và bạn không bao giờ biết được là chị đang
đau đớn lắm. Chị đã gầy đi một cách đáng sợ, và có những lúc rõ ràng chị
đã kiệt sức. Thế mà mỗi khi ai đến thăm, chị vẫn chào hỏi, tiếp đãi ân
cần, tỏa ra một nguồn năng lực và niềm vui hoàn toàn trong sáng. Một trong
những việc chị thích là nằm trên divan mà lắng nghe băng giảng của Sogyal
Rinpoche, và chị lấy làm thích thú khi ngài gửi từ Paris đến chị vài băng
giảng mà ngài bảo là sẽ có ý nghĩa đặc biệt cho chị.
Dorothy chuẩn bị và lên chương trình cho cái chết của chị
đến từng chi tiết. Chị muốn rằng sẽ không còn một việc gì dang dở để lại
cho người khác phải thu xếp, và chị bỏ ra nhiều tháng trời để làm tất cả
những sắp đặt thực tiễn. Chị dường như không sợ chết một chút nào, mà muốn
có cảm giác rằng sẽ không có việc gì chị chưa làm xong, để chị có thể tiến
đến cái chết không bị tán loạn. Chị rất hài lòng vì biết rằng trong đời
chị chưa từng làm hại ai, chị đã hấp thụ và tuân theo giáo lý, chị nói
“tôi đã làm xong bài tập ở nhà”.
Khi thời gian cho chị đến Tiếp dẫn đường đã tới, Dorothy
rừi căn nhà của chị lần cuối cùng - một căn nhà một thời đã chất đầy những
kho tàng quý báu sưu tập trong nhiều năm - chị chỉ ra đi với một va-li
nhỏ, không cả đến một cái ngoái nhìn. Chị đã phân phát tất cả những sở hữu
của chị, nhưng chị đem theo một tấm ảnh nhỏ của Rinpoche mà chị luôn giữ
bên mình, và quyển sách nhỏ của ngài nói về thiền định. Chị đã rút gọn đời
mình vào trong túi xách nhỏ ấy, mà chị gọi là “túi du lịch”. Chị rất tự
nhiên khi từ biệt, làm như chị chỉ có đi đâu đó trong chốc lát. Chị chỉ
nói “Ta đi nghe, nhà”, vẫy tay và bước ra khỏi cửa.
Phòng chị trong Tiếp dẫn đường trở thành một nơi rất đặc
biệt. Luôn luôn có một ngọn nến thắp bên giường chị, trước tấm ảnh của bậc
thầy, và có lần người ta hỏi chị có muốn nói chuyện với ngài không, chị đã
mỉm cười nhìn vào tấm ảnh mà nói: “Không, không cần, vì ngài luôn luôn ở
đây”. Chị thường nói đến lời khuyên của bậc thầy về sự tạo nên một khung
cảnh thích hợp, và đã có một bức họa ráng cầu vồng thật đẹp ở trên vách
tường trước mặt chị. Có thật nhiều hoa, do người đi thăm mang đến.
Dorothy vẫn làm chủ tình hình cho đến giây phút cuối, đức
tin của chị vào giáo lý không hề lay chuyển, dù chỉ một giây. Chúng tôi có
cảm tưởng chị đang giúp chúng tôi hơn là chúng tôi giúp chị. Chị luôn luôn
vui vẻ, đầy tin tưởng, hài hước, và một phong độ khả kính mà chúng tôi
thấy tuôn phát từ sự can đảm và niềm tin của chị. Chị luôn luôn đón chào
chúng tôi với một niềm vui, giúp cho chúng tôi ngầm hiểu rằng, chết tuyệt
nhiên không phải là cái gì u ám hãi hùng. Đấy là quà tặng mà chị dành cho
chúng tôi, làm cho chúng tôi cảm thấy được diễm phúc, được vinh dự ở gần
bên chị.
Chúng tôi đã trở thành hầu như lệ thuộc vào năng lực của
Dorothy, nên thật là xấu hổ cho chúng tôi khi nhận ra rằng chính chị mới
cần đến sức mạnh và sự giúp đỡ của mình. Chị đang nói đến vài chi tiết về
đám tang của chị, và chúng tôi chợt thấy rằng, sau khi đã quan tâm đến tất
cả mọi người, thì điều chị cần bây giờ chính là buông xả tất cả những tình
tiết ấy, để tập trung sự chú ý vào bản thân chị. Và chị cần chúng tôi để
cho chị làm cái việc buông xả ấy.
Cái chết của Dorothy không dễ dàng, đó là một cái chết đau
đớn, và Dorothy như một chiến sĩ anh dũng. Chị cố hết sức tự làm lấy những
gì có thể làm, để khỏi làm bận rộn các điều dưỡng viên, cho đến lúc cơ thể
chị không còn chịu nổi nữa. Một lần, khi còn có thể ra khỏi giường, một
người điều dưỡng tế nhị hỏi chị có cần ngồi trên ghế vệ sinh không.
Dorothy gắng gượng thật nhiều, rồi cười lớn bảo: “Nhìn cái thân này!” khi
cho chúng tôi xem thân thể chị đã rút lại chỉ còn là một bộ xương. Nhưng
chính vì cơ thể chị đang tan rã, mà tâm hồn chị dường như đang tỏa sáng và
tự do bay lượn. Dường như thể chị công nhận rằng thân thể chị đã làm xong
công việc của nó: đó không thực là cái gì “của chị” mà một cái gì trong đó
chị ở tạm, và bây giờ chị sẵn sàng buông ra.
Mặc dù tất cả ánh sáng và niềm vui tỏa ra từ chị Dorothy,
chúng tôi vẫn thấy rõ ràng chết không phải là chuyện dễ ; quả vậy, đó là
một việc gian nan (thiên cổ gian nan duy nhất tử!). Có những giây phút rất
buồn thảm đau đớn, nhưng chị đã kinh quá những giây phút ấy một cách dũng
cảm đầy cương nghị. Sau một đêm đau đớn kinh khủng làm chị ngất xỉu, chị
đã sợ rằng chị sẽ chết bất cứ lúc nào, hoàn toàn một mình, nên chị yêu cầu
chúng tôi thay phiên nhau ở lại với chị. Từ đấy, chúng tôi khởi sự thay
phiên canh chị suốt 24 tiếng.
Dorothy tu tập mỗi ngày, pháp tu “tịnh hóa” (sám hối) Kim
cương tát đỏa là pháp chị thích nhất. Bậc thầy dặn chị đọc những giáo lý
về cái chết, trong đó có phần cốt yếu là “Chuyển di tâm thức”. Đôi khi
chúng tôi cùng ngồi với nhau, đọc lớn lên những bản kinh cho chị nghe ;
đôi khi chúng tôi tụng thần chú của đấng Liên Hoa Sanh ; đôi khi chúng tôi
chỉ ngồi im lặng. Cứ thế chúng tôi dần phát triển một nhịp điệu nhẹ nhàng
giữa tu tập và nghỉ ngơi. Có những lúc chị ngủ thiếp đi một lát, rồi thức
dậy mà bảo: “Ồ, thật tuyệt vời làm sao!”. Khi chị trông khỏe hơn, và nếu
chị thích, thì chúng tôi sẽ đọc lên những đoạn trong giáo lý về các cõi
Trung Ấm để chị có thể nhận ra những giai đoạn mà chị sẽ trải qua. Chúng
tôi đều rất ngạc nhiên trước sự tỉnh táo sáng suốt của chị, nhưng chị vẫn
muốn tu miên mật một pháp đơn giản và cốt yếu nhất. Mỗi khi tới đổi phiên
trực, chúng tôi luôn luôn kinh ngạc trước bầu không khí thanh tịnh trong
gian phòng, với Dorothy nằm đó, mắt mở lớn nhìn vào khoảng không, ngay cả
khi ngủ, và người trực đang ngồi hoặc lặng lẽ trì chú.
Bậc thầy thường điện thoại hỏi thăm chị, và họ nói chuyện
thoải mái về việc chị đang tiến gần đến cái chết như thế nào. Dorothy
thường nói rất bình thản, như: “Chỉ còn vài ngày nữa thôi, thầy ạ”. Một
hôm, y tá đưa xe lăn có máy điện thoại vào phòng, bảo: “Có điện gọi từ
Amsterdam” . Mặt Dorothy sáng lên khi chị nhận điện thoại từ vị thầy. Sau
khi gác máy, nhìn chúng tôi chị sung sướng nói “Thầy”, đã bảo chị không
nên tập trung vào việc đọc kinh, mà đã đến lúc chỉ nên “an trú tự tánh
tâm, an trú trong ánh sáng”. Khi chị rất gần cái chết, và vị thầy gọi chị
lần cuối, chị kể cho chúng tôi nghe rằng, thầy đã bảo chị: “Đừng quên
chúng tôi, hãy tìm chúng tôi sau này”.
Một lần, khi bác sĩ đến thăm bệnh để điều chỉnh thuốc men
cho chị, Dorothy đã nói với vẻ thẳng thắng bình dị: “Bác sĩ thấy không,
tôi là một Phật tử, và chúng tôi tin rằng khi chết chúng tôi sẽ thấy rất
nhiều ánh sáng. Tôi nghĩ, tôi bắt đầu trông thấy vài tia sáng, nhưng chưa
rõ ràng lắm”. Các bác sĩ hết sức kinh ngạc trước sự sáng suốt, vui vẻ của
chị, nhất là theo kinh nghiệm của bác sĩ, họ biết chị đang ở vào tình
trạng cao điểm của cơn đau đáng lẽ làm cho chị bất tỉnh.
Khi cái chết tiến đến gần hơn, sự phân biệt ngày đêm dường
như phai mờ, và Dorothy càng lúc càng lịm dần vào trong bản thể chị. Màu
da mặt chị đã đổi khác, những lúc tỉnh táo của chị trở nên thưa dần. Chúng
tôi có thể theo dõi những dấu hiệu của tiến trình tứ đại phân tán nơi chị.
Dorothy sẵn sàng để chết, nhưng cơ thể của chị chưa sẵn sàng buông, vì tim
chị rất mạnh. Bởi thế mỗi đêm chuyển thành một cực hình cho chị, và chị
thường ngạc nhiên vào buổi sáng khi thấy chị còn đang sống qua một ngày
khác. Chị không bao giờ than phiền, nhưng chúng tôi cũng thấy được chị đau
đớn như thế nào. Chúng tôi cố hết sức làm mọi sự để cho chị cảm thấy đỡ
hơn, và mỗi khi chị không còn sức để hút nước vào được nữa, thì chúng tôi
thấm ướt môi cho chị. Cho tới 36 giờ cuối cùng, chị vẫn một mực lịch sự
chối từ không chịu dùng bất cứ thứ thuốc gì có thể ảnh hưởng đến sự tỉnh
thức của chị.
Không lâu trước khi Dorothy chết, các y tá bế chị dời
phòng. Chị nằm cong người trong tư thế bào thai, và mặc dù khi ấy cơ thể
chị đã mòn mỏi hầu như không còn gì nữa, chị không cử động, cũng không nói
được nữa, thế mà đôi mắt chị vẫn mở lớn, linh động, nhìn thẳng phía trước,
qua cửa sổ trước mặt, và nhìn ra bầu trời. Trong giây phút cuối ngay trước
khi chết, chị làm một cử động rất khẽ, nhìn thẳng vào mắt Debbie mà nói
một điều gì rất cả quyết. Đó là tia nhìn của sự nhận ra, như thể đang nói:
“Nó đây rồi”, với bóng dáng một nụ cười. Rồi chị lại nhìn ra bầu trời, thở
một hay hai lần nữa, và ra đi. Debbie nhẹ nhàng buông tay Dorothy ra, để
cho chị có thể tiếp tục cuộc hành trình không bị quấy nhiễu, vào lộ trình
phân tán bên trong.
Ban quản trị Tiếp dẫn đường bảo rằng họ chưa bao giờ trông
thấy ai chuẩn bị cho cái chết một cách tốt đẹp như Dorothy. Sự hiện diện
của chị, nguồn cảm hứng mà chị gieo rắc vẫn còn được nhiều người nhắc nhở
cả năm sau khi chị chết”.
Rick
Rick sống ở Oregon và mắc bệnh Sida. Anh 45 tuổi, trước là
chuyên viên điện toán. Một thời gian trước đây, anh đến tham dự khóa nhập
thất mùa hè mà tôi hướng dẫn hàng năm ở Hoa Kỳ, và nói chuyện cho chúng
tôi nghe về cái chết, về cuộc đời, và về cơn bệnh có nghĩa gì đối với anh.
Tôi rất ngạc nhiên trước trình độ thâm nhập giáo lý của Rick, khi anh chỉ
mới học đạo vài năm. Trong thời gian ngắn ngủi ấy, anh đã nắm được tinh
yếu của giáo lý: sự sùng kính, đức bi mẫn và cái Thấy tự tánh tâm, pháp tu
ấy trở thành một phần của đời anh. Rick ngồi trong chiếc ghế đối diện với
chúng tôi và kể cho chúng tôi biết anh có cảm tưởng gì về cái chết. Tôi hy
vọng rằng những trích đoạn sau đây sẽ cho bạn vài hương vị của cái dịp cảm
động ấy:
“Khi tôi nghĩ rằng tôi sắp chết, hai năm về trước, tôi đã
làm một điều tự nhiên: tôi kêu cầu, và tôi đã được đáp ứng. Tôi trải qua
nhiều tuần lên cơ sốt kinh khủng, đêm nào cũng tưởng như là sẽ chết vào
nửa đêm… Sự sùng tín này, sự kêu cầu này,… Padmasambhava hứa là ngài sẽ ở
đấy, khi bạn tha thiết kêu cầu. Và ngài đã không nói dối: ngài đã chứng
cho lời cầu xin của tôi nhiều lần.
Nếu không có Padmasambhava, - mà thầy bảo chính là tự tánh
thanh tịnh, Phật tính của ta - nếu không có sự hiện diện đầy quang vinh
ấy, thì tôi đã không thể nào qua khỏi những gì tôi phải chịu. Tôi biết là
tôi không thể.
Điều đầu tiên tôi nhận thấy là, ta phải gánh lấy trách
nhiệm về mình. Lý do tôi sắp chết là tôi mắc bệnh Sida. Đấy là trách nhiệm
của tôi, không đáng trách ai cả, kể cả chính tôi. Nhưng tôi nhận trách
nhiệm về điều ấy.
Tôi đã làm một lời nguyện với chính mình và với bất cứ
thượng đế nào, trước khi tôi vào đạo Phật, rằng tôi chỉ muốn được hạnh
phúc. Khi tôi làm quyết định ấy, tôi bám lấy nó. Và điều này rất quan
trọng khi làm bất cứ một pháp tu luyện nào về tâm linh. Bạn phải làm cái
quyết định là bạn thực tình muốn thay đổi. Nếu bạn không muốn thay đổi,
thì không ai sẽ làm công việc ấy cho bạn.
Phần của chúng ta là làm việc với những khía cạnh hàng
ngày của tình huống chúng ta. Trước hết là cảm thấy tri ân vì bạn được ở
trong thân xác này, và ở trên hành tinh này. Đấy là khởi điểm của tôi -
cám ơn trái đất, cám ơn các sinh loài. Bây giờ khi thấy mọi sự từ từ tuột
mất, tôi càng cám ơn mọi người và mọi sự. Bởi thế, bây giờ việc tu tập của
tôi xoay quanh niềm tri ân ấy, một sự dâng hiến, ca tụng cuộc đời, ca tụng
đấng Liên Hoa Sanh, người đang sống dưới thiên hình vạn trạng.
Đừng lầm tưởng như bao nhiêu năm tôi đã lầm, rằng “tu
luyện” có nghĩa là ngồi thẳng lưng nhẩm đọc thần chú, mà trong tâm cứ nghĩ
“xong việc này là tôi mừng lắm!” . Tu luyện có ý nghĩa hơn thế rất nhiều.
Tu luyện là mỗi một người mà bạn gặp ; tu luyện là mỗi một lời nói khiếm
nhã mà bạn nghe, hoặc có thể được nhắm thẳng vào bạn.
Khi rời khỏi nơi ngồi thiền, mới là lúc bạn thực sự bắt
đầu tu luyện. Chúng ta cần phải có rất nhiều nghệ thuật sáng tạo trong
cách tu tập, áp dụng giáo lý vào sự sống. Trong hoàn cảnh ta sống, bất cứ
động đến vật gì ta cũng có thể dùng làm đề tài tu tập. Bởi thế, nếu tôi
quá chóng mặt không thể quán Kim cương tát đỏa trên đầu, thì tôi đứng lên
đi rửa chén. Cái chén hay đĩa tôi đang cầm chính là thế giới với muôn vàn
chúng sanh đau khổ. Khi ấy, tôi đọc câu thần chú
OM VAJRA SATTVA HUM…
và rửa sạch nỗi đau khổ của chúng sanh. Khi tôi đi tắm thì trên đầu tôi
không phải là búp sen, mà chính là Kim cương tát đỏa. Khi tôi ra ngoài
nắng thì đấy là ánh sáng của ngàn mặt trời chiếu từ thân Kim cương tát đỏa
đang vào trong tôi. Khi tôi trông thấy một người đẹp đi dưới đường, lúc
đầu tôi có thể nghĩ: “Người đâu mà xinh đẹp thế”, nhưng rồi tôi hiến dâng
ngay cái đó cho Padmasambhava với tất cả tim tôi, và buông xả. Bạn phải
lấy ngay những hoàn cảnh thực tế trong đời để làm đối tượng tu tập.
Nếu không, thì bạn chỉ có niềm tin trống rỗng, không đem
lại cho bạn một nguồn an ủi nào, một sức mạnh nào, khi bạn bắt đầu gặp rắc
rối. Không bao giờ có chuyện: “Một ngày kia, tôi sẽ ở thiên đàng, một ngày
kia tôi sẽ thành Phật”. Đó chỉ là một niềm tin. Bạn là một vị Phật ngay
bây giờ. Và khi bạn tu tập, bạn đang tập để là chính bạn.
Điều rất quan trọng là xử dụng tất cả hoàn cảnh đang xảy
đến trong đời bạn làm đối tượng tu tập. Như thầy thường nói, nếu bạn đã
bạn thực tập kêu cầu Phật cứu giúp, thì trong các cõi Trung Ấm bạn sẽ làm
việc ấy một cách tự nhiên… Tôi đã biến câu sau đây của Dudjom Rinpoche
thành một thần chú: “Hỡi Lama, bậc thầy từ bi vô lượng, con chỉ nhớ đến
thầy”. Một ngày nào đó, đây là tất cả những gì tôi có thể nhớ được, đây là
pháp tu duy nhất tôi có thể làm, nhưng nó vô cùng công hiệu.
Vậy, hạnh phúc, tự thức trách nhiệm, tri ân… Đừng lẫn lộn
một kiểu tu theo lễ tục, chết cứng, với một pháp tu linh động, miên mật,
thay đổi, khoáng đạt, quang vinh. Vì, chính kinh nghiệm của tôi ngay bây
giờ - có lẽ nghe như là vô nghĩa, song tôi biết rằng không - là tôi thấy
Padmasambhava ở khắp nơi. Đó chỉ là sự tu tập của tôi. Mọi người, nhất là
những người đang gây khó khăn cho người khác, đối với tôi đấy là ân sủng
của đấng Liên Hoa Sanh. Với tôi, cơn bệnh này là ân sủng của bậc thầy. Ân
sủng tràn trề, tôi có thể tha hồ thưởng thức.
Nhưng được như vậy là nhờ tôi đã luyện tâm… Khi mới khởi
sự, tôi luôn luôn ngấm ngầm phê phán mọi sự trong tâm tôi. Tôi phê bình
người này, phê bình người nọ. Tôi phê bình cái kiểu anh ta nhìn, tôi phê
bình cái kiểu chị ấy ngồi. Tôi thường phê bình: “Tôi không thích ngày hôm
nay, bầu trời xám, mưa nhiều quá. Ôi, đáng thương cho tôi! Hãy thương tôi,
hãy giúp đỡ tôi!”. Tôi khởi sự như thế, tâm tôi luôn luôn có một bình luận
nào đó. Nhưng rồi tôi khởi sự thay đổi. Tôi viết cho tôi những mảnh giấy
dán vào đồ đạc trong nhà: “Đừng phê phán!”
Khi bạn sống với tâm bạn - chọn lựa giữa cái này cái kia,
như: điều này tốt, điều kia xấu, tôi không thích…”, giữa hy vọng và sợ
hãi, ghét và thương, vui và buồn, khi bạn thực sự tóm lấy một trong hai
thái cực ấy, thì sự an ổn nội tâm của bạn bị xáo trộn. Một vị Tổ thiền
nói: “Con đường lớn không có gì khó, chỉ tối kỵ sự chọn lựa”. Vì Phật tánh
của bạn vẫn ở đấy, hạnh phúc ở khắp nơi.
Như vậy, tôi khởi sự làm việc với cái tâm phân biệt khái
niệm của tôi. Lúc đầu có vẻ là một chuyện bất khả, nhưng càng tập luyện,
tôi khám phá rằng nếu bạn cứ để yên những ý nghĩ khởi lên trong tâm thì
chúng hoàn toàn ở nguyên chỗ cũ, không sao cả. Cứ ở với chúng và sung
sướng, vì bạn biết bạn có Phật tính.
Bạn không cần phải cảm thấy như bạn có Phật tính. Không
phải vậy. Vấn đề là lòng tin cậy, tức là đức tin. Vấn đề là lòng sùng
kính, tức là sự quy phục. Điều này theo tôi là cốt yếu. Nếu bạn tin được
những gì thầy nói, học tập và cố đưa giáo lý vào tâm bạn những lúc khó
khăn, luyện tâm bạn cho khỏi rơi vào những mẫu mực tập quán, nếu bạn có
thể chỉ ở với cái gì xảy ra, với một chú ý toàn triệt, thì sau một lúc bạn
để ý rằng không có gì ở lâu, ngay cả những ý tưởng tiêu cực. Nhất là thân
thể chúng ta. Mọi sự đều biến dịch. Nếu bạn cứ để yên, thì nó sẽ tự giải
thoát.
Trong một hoàn cảnh như tình trạng tôi, khi nỗi sợ hãi trở
nên quá rõ rệt, quá tràn ngập, và bạn cảm thấy như bị nuốt chửng bởi sự
kinh hoàng, bạn phải xét lại tâm bạn. Tôi đã nhận ra rằng nỗi sợ hãi sẽ
không giết chết tôi. Đấy chỉ là một cái gì đi qua tâm tôi. Đây là một ý
nghĩ, và tôi biết những ý nghĩ sẽ tự giải phóng nếu tôi đừng thọc tay
vào. Tôi cũng nhận ra đấy chính là những gì xảy ra trong cõi Trung Ấm, khi
bạn thấy một hình ảnh có thể rất kinh hoàng. Nó không ở đâu ngoài tâm bạn.
Tất cả những năng lực ấy lâu nay chúng ta đã nén xuống trong thân thể, nay
đang được bung ra.
Tôi cũng khám phá rằng, khi tôi đang luyện tâm, có một
điểm, một đường mà ta phải vạch sẵn, không để cho tâm ta vượt qua. Nếu
vượt qua, ta sẽ có vấn đề, sẽ trở thành cau có, thành một người suy sụp
trước mặt mọi người: đó là chuyện nhỏ. Nhưng bạn có thể nổ tung. Người ta
thường nổ tung, mất quân bình vì tin vào những gì họ nghĩ trong tâm là có
thực . Tất cả chúng ta đều vậy, nhưng có một đường ranh mà bạn không thể
vượt qua… Tôi thường bị những cơn kinh hoàng. Tôi nghĩ có một hố lớn đen
ngòm nơi khoảnh đất trước mặt tôi. Từ khi tôi luôn luôn tự ban cho tôi cái
đặc quyền, cái ân sủng là được hạnh phúc, thì tôi không thấy những hố sâu
đen ngòm nữa.
Một vài người trong các bạn thân thiết với tôi còn hơn cả
ruột thịt, Vì các bạn đã để cho Padmasambhava đến với tôi bằng một cách
khác, bằng tình thương, sự quan tâm săn sóc. Các bạn dường như không cần
biết tôi bị Sida. Chưa có ai ở đây hỏi tôi: “Nào, anh làm sao mà bị thế?”
. Không có ai ở đây từng nói xa gần rằng đây là một nguyền rủa đối với
tôi, chỉ trừ một người bạn cũ cách đây một tuần lễ đã gọi điện cho tôi mà
nói: “Anh có nghĩ rằng đây là một nguyền rủa của Thượng đế giáng xuống cho
anh chăng?” . Sau khi dứt cơn cười lớn, tôi nói: “ Anh tin rằng Thượng đế
đã nguyền rủa trái đất, và thân thể con người là bất tịnh. Nhưng trái lại,
tôi tin rằng ân sủng là khởi điểm đầu tiên, chứ không phải sự nguyền rủa”
. Từ thời gian vô thủy, mọi sự đã hoàn tất, thuần tịnh và toàn hảo.
Vậy điều tôi làm bây giờ chỉ là an trú trong ánh sáng. Ánh
sáng ấy ở khắp nơi. Bạn không thể tránh xa ánh sáng ấy. Đôi khi tôi cảm
thấy ngây ngất như mình đang trôi bồng bềnh trong ánh sáng. Tôi đang để
cho Padmasambhava mang tôi theo, khi ngài bay qua bầu trời tâm thức.
Bây giờ nếu tôi ngồi đấy mà nghe điều này, tôi sẽ nói:
“Được rồi, thế thì tại sao bạn không được chữa khởi bệnh?”. Người ta đã
hỏi tôi như thế. Không phải là tôi đã không cố gắng: tôi mua một va-li đầy
thuốc. Nhưng tôi đã ngưng chuyện ấy từ lâu. Tôi nghĩ lý do vì sợ nó sẽ can
thiệp vào cái tiến trình đã khởi sự. Tiến trình này đối với tôi là một sự
thanh lọc, tịnh hóa rất tốt. Tôi biết có rất nhiều ác nghiệp đã được đốt
cháy. Có lẽ nó thanh lọc cho mẹ tôi, vì tôi hồi hướng cho bà. Bà rất đau
đớn. Rồi có những bạn đạo trong đây mà tôi yêu mến như ruột thịt, họ cũng
đau khổ. Tôi đã làm khế ước này với đấng Liên Hoa Sanh: “Nếu con phải ở
lại chịu đau đớn để giúp tịnh hóa phần nào ác nghiệp của người khác, thì
sung sướng biết bao!”. Đó là lời cầu nguyện của tôi. Tôi không phải là một
người thích đau khổ, tôi bảo đảm với bạn! Nhưng tôi cảm thấy chính ân
sủng, phước đức của đấng Liên Hoa Sanh đang nhẹ nhàng đưa tôi vào nỗi đau
khổ ấy.
Và ở điểm này khi học với Rinpoche về giáo lý Trung Ấm,
tôi thấy chết không phải là một kẻ thù… Và đời sống cũng không là một kẻ
thù. Sự sống là một điều vinh quang, vì chính trong đời này ta mới có thể
tỉnh giác để nhận ra ta là ai.
Bởi thế tôi xin bạn, từ đáy tim tôi, xin bạn đừng phí
phạm cái cơ hội mà bạn có - trong khi bạn đang còn tương đối khỏe mạnh -
để làm việc với những giáo lý mà bậc thầy đang cống hiến cho bạn… Ngài
biết cách đạt đến cái cốt tủy, khi giảng cho bạn nghe về giáo lý Dzogchen,
và cũng biết được cách thế nào để đưa bạn đến cốt tủy ấy. Đấy là điều quan
trọng: nhất là khi bạn đang chuẩn bị cho cái chết.
Vậy, tôi xin nói lời từ biệt ở đây. Ít nhất trong lúc này…
Tôi muốn nói lời từ biệt với những bạn đã thành anh chị em ruột tôi, những
bạn tôi mới quen mà chưa có hân hạnh được biết thêm, những bạn tôi chưa cả
từng gặp gỡ… Tôi có cảm tưởng tôi có thể chết trong vòng sáu tháng, nhưng
cũng có thể là ba tháng. Bởi thế, tôi giữ tất cả các bạn trong tim tôi, và
tôi thấy các bạn đều sáng ngời rực rỡ. Không có một bóng tối nào, chỉ
thuần là ánh sáng từ trái tim đấng Liên Hoa Sanh thấm nhuần khắp tất cả
chúng ta. Nhờ ân sủng của bậc thầy.
PHỤ LỤC BA
HAI BÀI THẦN CHÚ
Hai thần chú nổi tiếng nhất của Tây Tạng là thần chú của
Padmasambhava, gọi là thần chú Kim cang Thượng sư (Vajra Guru Mantra)
OM AH HUM VAJRA GURU
PADMA SIDDHI HUM, và thần chú của Quán Thế Âm, vị
Phật của lòng bi mẫn: OM
MANI PADME HUM. Hai thần chú này cũng như phần đông
thần chú, đều bằng Phạn ngữ, cổ ngữ thiêng liêng của Ấn Độ.
Thần chú Kim
cang Thượng sư
Thần chú này được giải thích căn cứ lời giảng dạy của hai
ngài Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche.
OM
AH HUM
Những âm
OM H HUM có nghĩa ngoài, nghĩa trong và nghĩa mật.
Nhưng ở mỗi tầng như vậy,
OM đều
tiêu biểu cho thân. AH
là lời và
HUM là ý.
Cả ba âm tiêu biểu năng lực ân sủng của chư Phật để chuyển hóa thân, lời,
ý.
Theo nghĩa ngoài,
OM tịnh
hóa mọi ác nghiệp của thân,
AH của
lời, và HUM
của ý. Nhờ tịnh hóa thân, lời, ý,
OM AH HUM
đem lại ân sủng của thân, lời, ý chư Phật.
OM cũng
là tinh túy của hình sắc,
AH của âm
thanh, HUM
của ý. Khi đọc thần chú này, là ta tịnh hóa hoàn cảnh cũng như bản thân và
những người ở trong đó.
OM tịnh hóa tất cả nhận thức,
AH tất cả
âm thanh, và HUM
tất cả tâm, ý nghĩ và cảm xúc.
Theo nghĩa trong,
OM tịnh
hóa những huyệt đạo vi tế,
AH tịnh
hóa nội phong hay khí lực, và
HUM tịnh
hóa tinh chất sáng tạo.
Ở tầng mức sâu hơn,
OM AH HUM
biểu trưng ba thân của Liên Hoa bộ:
OM là
Pháp thân, Phật A Di Đà, đức Phật của Ánh sáng vô lượng,
AH là Báo
thân, Quán Thế Âm, vị Phật của tâm đại bi, và
HUM là
Ứng hóa thân, Liên Hoa Sanh. Điều này có nghĩa, trong trường hợp của thần
chú này, cả ba thân đều thể hiện trong một vị là Padmasambhava, Liên Hoa
Sanh.
VAJRA
GURU PADMA
VAJRA
được ví như kim cương, đá quý nhất và cứng nhất. Cũng như kim cương có thể
cắt bất cứ gì, mà chính nó thì không có gì phá hủy được, cũng thế trí tuệ
bất nhị bất biến của chư Phật không bao giờ bị hại hay bị phá hủy bởi vô
minh, và có thể cắt đứt mọi vọng tưởng chướng ngại. Những đức tính và hoạt
động thân, lời, ý của chư Phật có thể làm lợi lạc hữu tình với năng lực
sắc bén vô ngại như kim cường. Và cũng như kim cương không tỳ vết, năng
lực sáng chói của nó tuôn phát từ sự chứng ngộ bản chất Pháp thân của thực
tại, bản chất của Phật A Di Đà.
GURU có
nghĩ là “sức nặng”, chỉ một người tràn đầy đức tính kỳ diệu, thể hiện trí
tuệ, hiểu biết, từ bi và phương tiện thiện xảo. Cũng như vàng ròng là kim
loại nặng nhất, quý nhất, cũng thế, những đức không lỗi, không thể nghĩ
bàn của bậc thầy làm cho vị ấy không ai vượt qua được, thù thắng hơn tất
cả. GURU
tương đương với Báo thân, và với Quán Thế Âm, vị Phật của
tâm đại bi. Lại nữa, vị Padmasambhava (Liên Hoa Sanh) giảng dạy con đường
Mật tông, biểu tượng là Kim cương, và nhờ thực hành Mật tông mà ngài đạt
giác ngộ tối thượng, cho nên ngài được biết dưới danh hiệu là Kim cang
thượng sư.
PADMA,
hoa sen, có nghĩa là Liên hoa bộ trong ngũ bộ, và nhất là khía cạnh Ngôn
ngữ giác ngộ của chư Phật ấy. Liên hoa bộ là dòng họ Phật mà con người
thuộc vào. Vì Padmasambhava là ứng thân trực tiếp của Phật A Di Đà, vị
Phật nguyên ủy của Liên hoa bộ, nên ngài được gọi là “PADMA”,
hoa sen. Danh hiệu Liên Hoa Sanh của ngài kỳ thực ám chỉ câu chuyện ngài
sinh ra trên một đóa sen nở.
Khi những âm
VAJRA GURU PADMA
đi liền nhau, thì cũng có nghĩa là tinh tuy và ân sủng của Kiến, Thiền và
Hành. VAJRA
nghĩa là tinh chất của chân lý bất khả hoại, bất biến, cứng chắc như kim
cương, mà chúng ta cầu mong thực hiện được trong Kiến của chúng ta.
GURU tiêu
biểu tính chất ánh sáng và sự cao quý của giác ngộ, mà ta cầu cho kiện
toàn trong thiền định của mình.
PADMA
tiêu biểu Bi mẫn, mà chúng ta cầu thể hiện được trong Hành động của chúng
ta.
Vậy, nhờ tụng đọc thần chú này mà ta nhận được ân sủng của
tâm giác ngộ, những đức cao quý và lòng bi mẫn của Padmasambhva và tất cả
chư Phật.
SIDDHI HUM
SIDDHI là
thành tựu, đạt đến, ân sủng và chứng ngộ. Có hai thứ thành tựu: tương đối
và tuyệt đối. Nhờ nhận được ân sủng tương đối, tất cả chướng ngại trong
đời như bệnh tật được tiêu trừ, mọi ước nguyện tốt được thành tựu, những
lợi lạc như sống lâu, tiền của tăng và mọi hoàn cảnh đều tốt lành, giúp
cho tu tiến và chứng ngộ. Thành tựu, hay ân sủng tuyệt đối đem lại giác
ngộ, trạng thái thực chứng hoàn toàn của đấng Liên Hoa Sanh để tự lợi và
lợi tha. Bởi thế, nhờ nhớ đến và cầu nguyện với những năng lực thân, lời,
ý của ngài mà chúng ta sẽ được những ân sủng tương đối và tuyệt đối.
SIDDHI HUM
được xem là thâu tóm vào tất cả ân sủng, như nam châm hút
sắt.
HUM tiêu
biểu tâm giác ngộ của chư Phật, và là xúc tác thiêng liêng của thần chú.
Giống như tuyên bố lên quyền năng và chân lý của thần chú: “Hãy là như
vậy!” .
Ý nghĩa cốt yếu của
bài chú là: “Con triệu thỉnh ngài, đấng Kim cang thượng sư, với ân sủng
của ngài, xin hãy ban cho con những thành tựu thế gian và xuất thế gian”.
Dilgo Khientse Rinpoche giải thích:
Mười hai âm
OM AH HUM VAJRA GURU PADMA
SIDDHI HUM mang tất cả ân sủng của mười hai bộ kinh
giáo của Phật, tinh túy của tám muôn bốn ngàn pháp môn. Bởi thế, tụng một
lần thần chú Kim cang thượng sư cũng có phước như là đã đọc mười hai bộ
loại kinh điển và thực hành các pháp môn khác. Mười hai bộ loại kinh điển
là phương thuốc giải cứu chúng ta khỏi mười hai nhân duyên giam giữ chúng
ta trong vòng sinh tử. Vô minh, hành, thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ,
ái, thủ, hữu, sanh, già chết ; mười hai móc xích này là guồng máy của luân
hồi sinh tử, làm cho luân hồi tiếp nối. Nhờ tụng đọc mười hai âm này của
thần chú Kim cang thượng sư, mười hai nhân duyên được tịnh hóa, tẩy sạch
cấu uế của nghiệp cảm và giải thoát sinh tử.
Mặc dù ta không thể trông thấy đức Liên Hoa Sanh, nhưng
tâm giác ngộ của ngài đã thể hiện dưới hình thức thần chú này, thần chú
này có được toàn thể ân sủng ngài. Bởi thế khi bạn kêu cầu ngài bằng cách
tụng đọc mười hai âm thần chú này thì bạn sẽ được ân sủng và công đức vô
lượng. Trong thời đại khó khăn này, không có chỗ nương nào bảo đảm hơn là
đấng Liên Hoa Sanh, cũng như không có thần chú nào thích hợp hơn thần chú
Kim cang thượng sư của ngài.
Thần chú của
đại bi tâm
OM MANI
PADME HUM
Tạng ngữ đọc là Om Mani Pémé Hung. Thần chú này tiêu biểu
tâm đại bi và ân sủng của tất cả chư Phật, Bồ-tát, nhất là ân sủng của
Quán Tự Tại, vị Phật của lòng bi mẫn. Quán Tự Tại (hay Quán Thế Âm) là
hiện thân của Phật trong hình thức Báo thân, và thần chú của ngài được xem
là tinh túy của lòng bi mẫn của chư Phật đối với hữu tình. Nếu Liên Hoa
Sanh là bậc thầy quan trọng nhất của người Tây Tạng, thì Quán Tự Tại là vị
Phật quan trọng nhất của họ, là vị thần hộ mạng của dân tộc này. Có câu
nói nổi tiếng là vị Phật của lòng bi mẫn đã ăn sâu vào tiềm thức Tây Tạng
tới nỗi một hài nhi vừa biết nói tiếng “Mẹ” là đã biết đọc thần chú này,
OM MANI PADME HUM.
Tương truyền vô lượng
kiếp về trước có một ngàn thái tử phát tâm Bồ-đề nguyện thành Phật. Một vị
nguyện thành Phật Thích Ca mà ta đã biết ; nhưng Quán Tự Tại thì nguyện sẽ
không đạt thành Chánh giác khi mà tất cả ngàn thái tử chưa thành. Với tâm
đại bi vô biên, ngài còn nguyện giải thoát tất cả chúng sanh ra khỏi khổ
sinh tử luân hồi trong lục đạo. Trước mười phương chư Phật, ngài phát
nguyện: “Nguyện cho con cứu giúp được tất cả hữu tình, và nếu có khi nào
con mệt mỏi trong công việc lớn lao này thì nguyện cho thân con tan thành
một ngàn mảnh”. Đầu tiên, ngài xuống cõi địa ngục, tiến lên dần đến cõi
ngạ quỷ, cho đến các cõi trời. Từ đấy ngài tình cờ nhìn xuống và trông
thấy than ôi, mặc dù ngài đã cứu vô số chúng sanh thoát khỏi địa ngục, vẫn
còn có vô số khác đang sa vào. Điều này làm cho ngài đau buồn vô tận,
trong một lúc ngài gần mất tất cả niềm tin vào lời nguyện vĩ đại mà ngài
đã phát, và thân thể ngài liền nổ tung thành ngàn mảnh. Trong cơn tuyệt
vọng, ngài kêu cứu tất cả chư Phật. Những vị này từ mười phương thế giới
đều bay đến như mưa tuyết để tiếp cứu. Với thần lực nhiệm mầu, chư Phật
làm cho ngài hiện toàn thân trở lại, và từ đấy Quán Tự Tại có mười một cái
đầu, một ngàn cánh tay, trên mỗi lòng tay có một con mắt. Ý nghĩa rằng sự
phối hợp giữa trí tuệ và phương tiện thiện xảo là dấu hiệu của đại bi chân
thực. Trong hình thức này, ngài còn sáng chói rực rỡ, và có nhiều năng lực
hơn trước để cứu giúp tất cả chúng sanh. Tâm đại bi của ngài khi ấy còn
mãnh liệt hơn nữa, và ngài lại phát lời nguyện này trước chư Phật: “Con
nguyện không thành chánh giác khi tất cả chúng sanh chưa thành”.
Tương truyền rằng vì đau buồn trước nỗi khổ luân hồi sinh
tử, hai giọt nước nướt mắt đã rơi từ đôi mắt ngài, và chư Phật đã làm phép
biến hai giọt nước mắt ấy thành hai nữ thần Tara. Một nữ thần có
màu xanh lục, năng lực hoạt động của tâm đại bi, và một nữ thần có màu
trắng, khía cạnh như mẹ hiền của tâm đại bi. Tara có nghĩa là người
giải cứu, người chuyên chở chúng ta vượt qua biển sinh tử.
Theo kinh điển đại thừa, chính Quán Tự Tại đã cho đức Phật
câu thần chú, và đức Phật trở lại giao phó cho ngài công tác cao quý đặc
biệt là cứu giúp tất cả chúng sanh tiến đến giác ngộ. Vào lúc ấy, chư
thiên tung hoa xuống ca ngợi hai ngài, quả đất chấn động, và không trung
vang lên âm thanh OM MANI
PADME HUM HRIH.
Có câu thơ về ngài ý
nghĩa như sau:
“Quán Thế Âm như vầng trăng, với ánh sáng mát dịu, dập tắt
những thiêu đốt của sinh tử. Trong ánh sáng ấy, đóa sen từ bi - lọai hoa
nở về đêm - mở ra những cánh trắng tinh khôi” .
Giáo lý giải thích rằng mỗi âm trong sáu âm của thần chú
OM MANI PADME HUM
có một hiệu quả đặc biệt để mang lại sự chuyển hóa thuộc nhiều tầng lớp
khác nhau của bản thể ta. Sáu âm này tịnh hóa tất cả sáu phiền não gốc,
biểu hiện của vô minh khiến chúng ta làm những ác nghiệp của thân, lời, ý,
tạo ra luân hồi sinh tử và những khổ đau của chúng ta, trong đó kiêu mạn,
ganh tị , dục vọng, ngu si, thèm khát và giận dữ, nhờ thần chú mà được
chuyển hóa trở về bản chất thực của chúng, trí giác của sáu bộ tộc Phật
thể hiện trong tâm giác ngộ. (Chú thích: Giáo lý thường nói đến năm bộ tộc
Phật, bộ tộc thứ sáu là tổng hợp của năm bộ tộc trên).
Bởi thế, khi ta tụng thần chú
OM MANI PADME HUM
thì sáu phiền não nói trên được tịnh hóa, nhờ vậy ngăn ngừa được sự tái
sinh vào sáu cõi, xua tan nỗi khổ ẩn tàng trong mỗi cõi. Đồng thời thần
chú này cũng tịnh hóa các uẩn thuộc ngã chấp, hoàn thành sáu hạnh siêu
việt của tâm giác ngộ (sáu ba la mật): bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định và trí tuệ. Người ta cũng nói rằng thần chú
OM MANI PADME HUM
có năng lực hộ trì rất lớn, che chở ta khỏi những ảnh hưởng xấu và các thứ
tật bệnh.
Thường có chủng tự
HRIH của
Quán Thế Âm được thêm vào sau câu thần chú, làm thành
OM MANI PADME HUM
HRIH.
HRIH
là tinh yếu tâm đại bi của tất cả chư Phật, là chất xúc tác đã khởi động
tâm đại bi chư Phật để chuyển hóa các phiền não của ta thành bản chất trí
tuệ của các ngài.
Kalu Rinpoche viết:
Một cách khác để giải thích thần chú này là:
OM là
tính chất của thân giác ngộ,
MANI PADME
tiêu biểu ngữ giác ngộ,
HUM tiêu
biểu ý giác ngộ. Thân, ngữ, ý của tất cả chư Phật được tàng ẩn
trong âm thanh của thần chú này. Thần chú này tịnh hóa những chướng ngại
của thân, lời, ý, và đưa tất cả hữu tình đến trạng thái chứng ngộ. Khi
tụng thần chú này, mà phối hợp với đức tin và tinh tấn thiền định thì năng
lực chuyển hóa của thần chú sẽ phát sinh và tăng trưởng. Quả vậy, chúng ta
có thể tịnh hóa bản thân bằng phương pháp ấy.
Đối với những người đã quen thuộc với thần chú này, suốt
đời tụng đọc với nhiệt thành và niềm tin, thì Tử Thư Tây Tạng nói, ở trong
cõi Trung Ấm: “Khi âm thanh của pháp tánh gầm thét như ngàn muôn sấm sét,
nguyện cho tất cả tiếng này trở thành âm thanh của thần chú sáu âm”. Tương
tự, kinh Lăng Nghiêm cũng nói:
“Mầu nhiệm thay là âm
thanh siêu việt của Quán Thế Âm. Đấy là âm thanh tối sơ của vũ trụ… Đó là
tiếng thì thầm âm ỉ của thủy triều trầm lắng. Tiếng mầu nhiệm ấy đem lại
giải thoát bình an cho tất cả hữu tình đang kêu cứu trong cơn đau khổ, và
đem lại một sự an trú thanh tịnh cho tất cả những ai đang tìm sự thanh
tịnh vô biên của niết bàn”.