Tạng thư Sống Chết
The Tibetan Book Of Living And
Dying
Sogyal Rinpoche
Ni sư Thích Nữ Trí Hải
dịch
--- o0o --
PHẦN HAI: CHẾT
14-
Những hành trì cho người sắp chết
Tôi
nhớ nhiều người thường đến thầy Jamyang Khientse tôi để xin thầy chỉ dẫn
cho lúc sắp chết. Ngài được yêu mến, kính trọng khắp xứ Tây Tạng, nhất là
ở vùng tỉnh Kham về phía Ðông. Nhiều người đã du hành hàng tháng để đến
gặp ngài và xin ngài ban ân phước một lần trước khi họ chết. Tất cả các
bậc thầy của tôi đều cho lời khuyên sau đây, vì nó là cốt tủy tối cần cho
bạn vào lúc chết : “Hãy giải thoát mọi sự bám víu và ghét bỏ. Hãy để
tâm thanh tịnh. Hợp nhất tâm bạn với tâm Phật” .
Toàn thể thái độ của
đạo Phật đối với lúc chết có thể tóm tắt trong đoạn thơ sau, của
Padmasambhava trong Tử Thư Tây Tạng :
Khi Trung Ấm chết xuất hiện
Tôi sẽ từ bỏ mọi chấp thủ, khát khao, lưu luyến
Thể nhập không tán loạn vào minh sát giáo lý
Và chiếu tâm tôi vào không gian của Tự Tánh vô sanh
Khi xả cái thân do máu thịt tập hợp này
Tôi sẽ biết nó chỉ là phù du mộng huyễn.
Vào lúc chết, có hai
việc đáng kể : những gì ta đã làm trong đời, và tâm trạng ta lúc sắp chết.
Dù ta có tích lũy rất nhiều ác nghiệp, song nếu ta có thể thật sự thay đổi
lòng dạ vào lúc chết, thì điều ấy chắc chắn có thể ảnh hưởng đến tương lai
ta và chuyển hóa nghiệp của ta, bởi vì giờ phút chết là một cơ hội vô vàn
mãnh liệt để tịnh hóa nghiệp chướng.
Giây phút chết
Hãy nhớ mọi tập quán
khuynh hướng đã chất chứa trong nền tảng tâm thông thường của ta, đang nằm
sẵn để có thể bị khởi động bởi bất cứ một ảnh hưởng nào. Ngay hiện tại ta
cũng biết chỉ cần một khiêu khích nhỏ cũng đủ để làm cho những phản ứng
quen thuộc, bản năng nơi ta nổi lên. Ðiều này càng đúng hơn vào lúc chết.
Ðức Dalai Lama giải thích :
“Vào lúc chết, những
thái độ ta đã quen thói từ lâu thường thắng lướt để hướng dẫn tái sinh.
Cũng vì lý do này, sự chấp thủ mãnh liệt đối với tự ngã được phát sinh, vì
người ta sợ tự ngã mình đang biến mất. Sự chấp thủ này là dây nối ở khoảng
giữa hai đời sống. Ước muốn có một thân xác mới là cái nhân để tạo ra thân
Trung Ấm”.
Bởi vậy, tâm trạng
chúng ta vào lúc chết vô cùng quan trọng. Nếu ta chết trong tâm trạng tích
cực, ta có thể cải thiện tái sinh kế tiếp của mình, mặc dù nghiệp ta xấu.
Nhưng nếu ta tán loạn, buồn khổ thì ảnh hưởng sẽ tai hại, mặc dù có thể ta
đã xử dụng đời ta một cách tốt đẹp. Ðiều này có nghĩa ý tưởng và cảm xúc
cuối cùng mà ta có trước khi chết, có một hiệu lực vô cùng quyết liệt đối
với đời sống tương lai kế tiếp của chúng ta. Cũng như người điên thì tâm
trí hoàn toàn bị xâm chiếm bởi một ám ảnh duy nhất, tái đi tái lại nhiều
lần ; tâm ta khi chết cũng thế, rất nhạy cảm và hoàn toàn bị phơi ra cho
bất cứ ý tưởng nào xâm chiếm tâm vào lúc đó. Ý nghĩ hay cảm xúc cuối cùng
ta có, có thể khuếch đại hết cỡ và tràn ngập toàn thể nhận thức của ta. Vì
vậy các bậc thầy nhấn mạnh rằng, tính chất bầu không khí xung quanh lúc ta
chết rất là quan trọng. Cho nên khi thân quyến, bạn bè chết, ta nên làm
mọi cách có thể để gây những cảm xúc tích cực, thiêng liêng, như lòng từ
bi, sự sùng kính, và giúp “buông xả chấp thủ, khát khao, ràng buộc” .
Buông xả ái luyến
(ràng buộc)
Cách lý tưởng để
chết là buông xả hết mọi thứ trong cũng như ngoài, càng ít khát khao, chấp
thủ, ái luyến càng tốt, để cho cái tâm vào thời điểm tối hậu đó không còn
gì để vương vấn. Bởi vậy trước khi chết, ta nên cố giải thoát ái luyến đối
với tài sản, bạn bè, người thân. Ta không thể đem theo bất cứ gì, bởi thế
ta dự tính cho hết đồ đạc của mình trước, hoặc hiến tặng vào quỹ từ thiện.
Ở Tây Tạng, các bậc
thầy trước khi từ bỏ thân xác thường chỉ định cho những thầy khác những
vật gì. Ðôi khi một bậc thầy định tái sanh sẽ chừa lại một số đồ vật cho
thân tái sanh của ông sau này, và chỉ định rõ ràng cái gì ông muốn để lại.
Tôi cũng tin chắc rằng chúng ta nên chỉ định chính xác ai sẽ nhận tài sản
hay tiền bạc của ta. Những điều này cần được diễn tả càng rõ ràng càng
tốt. Nếu không, sau khi chết, đang ở trong Trung Ấm chờ tái sanh, mà thấy
bà con giành giật của cải, hoặc sử dụng sai tiền của bạn, bạn sẽ khó chịu.
Khi xác định mọi sự một cách rõ ràng cho đến từng chi tiết, thì bạn sẽ an
tâm và dễ buông xả.
Như đã nói, bầu
không khí xung quanh lúc ta chết cần phải hết sức thanh bình. Bạn bè thân
thuộc nào khóc lóc buồn thảm không nên ở cạnh người sắp chết, vì họ sẽ gây
một cảm xúc rầy rà vào lúc chết. Những người làm việc trong các nhà Tiếp
dẫn kể lại rằng, đôi khi người sắp chết yêu cầu thân quyến đừng đến thăm
lúc họ hấp hối, chính vì sợ khêu gợi những cảm giác đau khổ và ái luyến
mãnh liệt. Ðôi khi điều này thực vô cùng khó hiểu đối với gia đình, họ
tưởng là người sắp chết không yêu họ nữa. Nhưng họ nên hiểu rằng, chỉ cần
những người thương yêu có mặt cũng đủ gợi lên những cảm tình ái luyến nơi
người sắp chết, làm cho họ càng khó buông xả.
Thật vô cùng khó mà
không khóc khi ta ở bên tử sàng của một người ta yêu mến. Tôi khuyên mọi
người hãy cố gắng thanh toán nỗi ái luyến đau buồn với người sắp chết
trước khi cái chết xảy đến : Hãy cùng nhau khóc, hãy diễn đạt tình yêu của
bạn, nói lời từ biệt..., nhưng hãy cố chấm dứt những màn này trước khi cái
chết thực sự xảy đến. Bởi vì tâm thức người chết vào giờ phút hấp hối rất
dễ tổn thương, bén nhạy. Tử Thư Tây Tạng nói rằng, sự khóc lóc và nước mắt
của bạn xung quanh người chết làm cho họ cảm thụ đau đớn như là sấm sét và
mưa đá. Nhưng nếu bạn đã từng lỡ khóc bên một người chết nào, thì cũng
đừng lo, bạn không cần phải hoảng hốt và cảm thấy phạm tội (khi biết điều
này) .
*
Một bà dì của tôi,
Ani Pelu, là một hành giả phi thường. Bà đã theo học với một vài bậc thầy
lỗi lạc vào thời ấy, nhất là với Jamyang Khientse, và thầy tôi đã ban ân
sủng bằng cách viết riêng cho bà một “lời khuyên tâm huyết”. Bà có thân
thể khỏe mạnh, tròn trịa, với một gương mặt đẹp cao quý và bản chất tự
nhiên, hơi nóng tính. Bà có vẻ là một phụ nữ rất thực tế, chịu trách nhiệm
trực tiếp quản trị công việc trong đại gia đình. Nhưng một tháng trước khi
bà chết, bà hoàn toàn thay đổi, một cách thực cảm động. Bà, mà thường ngày
luôn luôn bận rộn như thế, bây giờ bỗng buông xuôi mọi sự, với một sự từ
bỏ thản nhiên, không lo lắng. Bà có vẻ luôn luôn ở trong trạng thái thiền
định, và không ngừng tụng lên những đoạn kinh bà thích, rút từ những trước
tác của Longchenpa, bậc thánh về pháp đốn ngộ Dzogchen. Bà thường rất
thích ăn thịt, nhưng trước khi chết, bà không muốn động đến một chút thịt
nào. Bà thường sống như chúa tể trong thế giới của bà, ít ai ngờ được bà
là một hành giả thiền. Nhưng khi chết, bà mới chứng tỏ cho mọi người biết
bà là ai. Tôi không bao giờ quên vẻ an tịnh sâu xa toát ra từ nơi bà trong
những ngày ấy.
Ani Pelu gần như là
thiên thần hộ mạng cho tôi, ở nhiều phương diện. Tôi nghĩ bà thương tôi
bởi vì bà không có con riêng. Cha tôi luôn bận rộn vì ông làm quản ý cho
thầy Jamyang tôi, còn mẹ tôi cũng bận việc nhà bề bộn, và bà không bao giờ
nghĩ tới những chuyện mà Ani Pelu không bao giờ quên. Ani Pelu thường hỏi
thầy tôi : “Cái gì sẽ xảy đến cho thằng nhỏ này khi nó lớn lên ? Nó có an
toàn không ? Nó có gặp trở ngại gì không ?” . Ðôi khi thầy trả lời cho bà,
và nói những điều về tương lai tôi, mà nếu bà không hỏi thì chẳng bao giờ
thầy nói.
Và cuối đời bà, Ani
Pelu có một vẻ trong sáng dị thường trong con người bà, và sự kiên trì
trong việc tu tập của bà. Thế mà ngay cả bà, khi gần chết, cũng yêu cầu
rằng đừng để tôi hiện diện lúc đó, sợ rằng sự yêu mến của bà đối với tôi
có thể gây cho bà một phút giây quyến luyến. Ðiều ấy chứng tỏ bà đã ghi
nhớ nằm lòng lời khuyên tâm huyết của thầy Jamyang tôi như thế nào :
“Vào lúc chết hãy từ bỏ mọi ý tưởng thương hoặc ghét” .
Thể nhập sự tỉnh
giác sáng suốt
Ani Rilu, em gái bà
tôi, cũng dành trọn đời để tu tập, và cũng gặp được những bậc thầy vĩ đại
như thế. Bà có một bộ kinh dày, và thường đọc kinh tu thiền suốt ngày.
Thỉnh thoảng bà ngủ gật, và khi bà giật mình dậy, bà lại tiếp tục chỗ bà
đã ngủ. Suốt ngày bà làm như vậy, đến nỗi bà không bao giờ ngủ trọn đêm,
rốt cuộc là bà thường tụng kinh sáng vào buổi tối và tụng kinh tối vào
buổi sáng. Chị của bà bà, bà Ani Pelu, là một người cả quyết và ngăn nắp
hơn nhiều, và vào cuối đời bà không thể chịu được cái cảnh luôn luôn phá
rối trật tự thông thường như vậy nơi người em, nên bảo : “Sao em không
tụng kinh sáng vào buổi sáng, kinh tối vào buổi tối, rồi tắt đèn đi ngủ
như mọi người khác ?” . Ani Rilu sẽ thì thầm : “Vâng... vâng...”, nhưng
rồi vẫn chứng nào tật ấy.
Vào thời ấy, tôi
thường theo phe bà Ani Pelu, nhưng bây giờ tôi lại thấy bà Ani Rilu làm
vậy là khôn. Bà luôn chìm đắm mình trong một dòng tu tập tâm linh, và trọn
cuộc đời bà trở thành một dòng tương tục của sự cầu nguyện. Quả thế, sự tu
tập của bà mạnh đến nỗi bà tiếp tục cầu nguyện ngay cả trong mộng, và bất
cứ ai làm vậy sẽ có một cơ hội rất tốt để giải thoát trong các cõi Trung
Ấm.
Cái chết của Ani
Rilu cũng có tính chất thanh bình thụ động như sự sống của bà. Bà đau ốm
một thời gian, và một buổi sáng mùa đông, vợ thầy tôi bỗng cảm thấy cái
chết của bà đang đến gần. Mặc dù khi ấy Ani Rilu không nói được nữa, bà
vẫn còn tỉnh táo. Người ta tức tốc đi mời Dodrupchen Rinpoche, một bậc
thầy nổi tiếng ở gần đấy, đến để cho những chỉ dẫn cuối cùng và làm pháp
chuyển di tư tưởng vào lúc chết.
Trong gia đình tôi
có một ông già tên Apé Dorje, chết vào năm 1989 lúc ông 85 tuổi. Ông đã ở
với gia đình tôi qua năm thế hệ và là một người có trí tuệ và khôn ngoan
như một bậc tổ tiên. Ông có lòng tốt và sức mạnh tâm linh phi thường, và
có biệt tài dàn xếp những cuộc cãi vả. Ðối với tôi, ông là hiện thân của
tất cả những đức tính dân tộc : một con người chắc chắn, thực tiễn, bình
dị, sống tự nhiên theo tinh thần giáo lý. Ông đã dạy cho tôi thật nhiều
lúc tôi còn bé, nhất là sự quan trọng phải đối xử tốt với người khác, và
không bao giờ ôm giữ ý tưởng xấu, dù có ai hại mình. Ông có một năng khiếu
tự nhiên để san sẻ những giá trị tâm linh một cách giản dị nhất. Ông gần
như bỏ bùa mê để cho bạn phải là cái tự ngã tốt nhất của bạn. Apé Dorje là
một người có khiếu bẩm sinh về kể chuyện, và ông thường làm cho tôi mê mẩn
vì những chuyện cổ tích và anh hùng ca của Tây Tạng, hoặc về những cuộc
kháng chiến ở các tỉnh miền đông, khi quân Trung Quốc xâm nhập Tây Tạng
vào đầu thập niên 1950. Bất cứ đi đâu ông cũng mang theo niềm vui, sự
thoải mái, tính hài hước, làm cho mọi tình huống khó khăn cũng bớt vẻ rắc
rối. Ngay cả lúc đã 80 tuổi, ông vẫn còn nhanh nhẩu vui tươi, gần như ngày
nào cũng đi mua hàng cho tới lúc ông chết.
Ông thường đi chợ
vào khoảng 9 giờ sáng. Ông đã nghe tin bà Ani Rilu sắp chết, nên đến phòng
bà. Ông có thói nói hơi lớn, gần như hét : “Ani Rilu !” . Ông gọi to. Bà
dì tôi mở mắt. Ông mỉm cười rạng rỡ nhìn bà với một nụ cười thương mến :
“Con ơi, bây giờ chính là lúc để chứng tỏ lòng can đảm của con. Ðừng do
dự, đừng lung lay. Con đã có phước được gặp và thụ giáo nhiều bậc thầy kỳ
diệu. Không những thế, con lại còn được cơ hội quý báu để thực hành Pháp.
Con còn đòi gì hơn được nữa ? Bây giờ con chỉ việc ghi nhớ tinh yếu của
lời dạy trong tim, nhất là những chỉ dẫn về lúc chết mà các thầy đã dạy
cho con. Nhớ kỹ điều ấy, đừng xao lãng. Ðừng lo gì cho chúng ta, chúng ta
sẽ không sao đâu. Ta đi mua hàng cái đã, có lẽ lúc về ta sẽ không gặp con.
Bởi thế, xin chào” . Ông nói với một nụ cười. Ani Rilu vẫn còn tỉnh táo
nên bà mỉm cười khẽ gật.
Apé Dorje biết điều
cốt yếu khi sắp chết là nhớ lại tinh yếu của sự tu tập, như Padmasambhava
bảo : “Hãy thể nhập không tán loạn, vào sự tỉnh thức sáng suốt về giáo
lý” .
Ðói với người đã
nhận ra tự tánh tâm và đã hành trì vững vàng, điều này có nghĩa là an trú
trong trạng thái Rigpa, tự tánh Bồ-đề. Nếu bạn không có sự an trú đó, thì
hãy nhớ trong đáy tim bạn tinh yếu của lời thầy dạy, nhất là những lời dạy
cốt yếu dành cho lúc chết. Bạn hãy nhớ điều ấy trong tâm trí, nghĩ đến bậc
thầy, hợp nhất tâm mình với tâm thầy vào lúc chết.
Những chỉ dẫn vào
lúc hấp hối
Người ta thường ví
trạng thái Trung Ấm sau khi chết với hình ảnh một người nữ tài tử đẹp ngồi
trước tấm gương soi. Buổi trình diễn cuối cùng của nàng sắp bắt đầu, nàng
đang đánh son phấn và kiểm soát lại một lần cuối toàn thể dáng dấp mình
trước khi bước ra sân khấu. Cũng thế, vào lúc chết bậc thầy khai thị cho
ta tinh yếu của giáo lý - trong tấm gương tự tánh tâm và trực chỉ cho ta
trọng tâm của sự tu tập. Nếu bậc thầy không hiện diện thì những bạn đạo có
duyên với ta nên có mặt để giúp ta nhớ lại.
Người ta bảo thời
gian tốt nhất để khai thị là sau khi hơi ra đã ngưng, và trước khi “hơi
thở bên trong” chấm dứt ; mặc dù bảo đảm nhất là bắt đầu khai thị trong
tiến trình chết, trước khi các giác quan hoàn toàn suy sụp. Nếu bạn không
có cơ hội gặp thầy ngay trước khi chết, thì phải thụ giáo và tập cho quen
với những chỉ dẫn này trước.
Nếu bậc thầy hiện
diện bên tử sàng, những gì vị ấy làm lúc ấy theo truyền thống chúng tôi
như sau :
Vị thầy xướng : “Hỡi
thiện nam (hay thiện nữ) hãy lắng nghe...” , rồi dẫn chúng ta qua từng
giai đoạn một của tiến trình chết. Rồi vị ấy tóm thâu tinh yếu của sự khai
thị một cách mạnh mẽ rõ ràng, bằng vài từ ngắn gọn, để tạo một ấn tượng
mạnh trong tâm ta, và bảo ta hãy an trú trong tự tánh tâm. Nếu việc này
ngoài khả năng ta, thì thầy sẽ nhắc cho ta phép Chuyển di tâm thức, nếu ta
biết ; nếu không vị ấy sẽ làm phép Chuyển di ấy cho ta. Rồi, để phòng xa,
vị thầy có thể giải thích bản chất những kinh nghiệm trạng thái Trung Ấm
sau khi chết, bảo rằng tất cả những cảnh tượng ấy đều do tâm biến hiện,
cần phải nhận chân rõ như thế vào mọi lúc. “Này thiện nam, bất cứ gì con
thấy, dù kinh hãi đến đâu, hãy nhận chân đấy là tâm con biến ra ; hãy nhận
đấy là ánh sáng, tia chiếu tự nhiên của tâm con” . Cuối cùng vị thầy sẽ
dạy ta nhớ lại những cõi Phật thuần tịnh để phát sinh niềm sùng kính, và
cầu nguyện được tái sinh về đấy. Vị thầy sẽ lặp lại lời khai thị ba lần,
rồi an trú trong trạng thái thiền để hướng ân sủng của vị ấy về phía người
đệ tử đang chết.
Hành trình cho người
sắp chết
Có ba pháp hành trì
cho sự chết :
- Tốt nhất là an trú
trong tự tánh tâm, hay gợi lên tâm yếu của sự tu tập.
- Kế tiếp, pháp
Chuyển di tâm thức.
- Cuối cùng, dựa vào
năng lực của cầu nguyện, sùng kính, nguyện lực và ân sủng của các bậc giác
ngộ.
Những hành giả
thượng thặng về Dzogchen, như tôi đã nói, đã hoàn toàn trực nhận tự tánh
tâm trong suốt đời họ, nên khi chết, họ chỉ cần tiếp tục an trú trong
trạng thái Rigpa, khi làm cuộc chuyển tiếp qua sự chết. Họ không cần
chuyển di tâm thức vào một vị Phật nào hay cõi Phật nào, vì họ đã thực
chứng tâm giác ngộ của chư Phật ngay trong chính họ. Cái chết đối với họ
là giải thoát tối hậu - cao điểm của sự chứng đắc, tột đỉnh của một đời tu
tập. Tử Thư Tây Tạng chỉ có vài lời này để nhắc nhở một hành giả như vậy :
“Bạch ngài, bây giờ Ánh sáng căn bản đã ló dạng. Hãy nhận ra, và an trú
trong sự tu tập”.
Người ta nói những
người đã hoàn tất pháp tu Dzogchen thì chết “như một hài nhi mới sinh”,
không một chút lo âu, quan tâm về sự chết. Họ không cần quan tâm về chuyện
họ sẽ chết lúc nào, ở đâu, họ cũng không cần gì đến những lời dạy, chỉ
dẫn, hay nhắc nhở.
Những hành giả trung
bình hạng nhất thì “chết như hành khất trên đường” , không ai để ý đến họ,
không gì có thể quấy rầy họ. Vì họ đã tu tập vững vàng nên tuyệt đối không
bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xung quanh. Họ có thể chết dễ dàng trong một
bệnh viện bận rộn, hay ở nhà giữa một gia đình đang tranh chấp rộn ràng.
Tôi không bao giờ
quên được một hành giả thiền ở Tây Tạng mà tôi từng biết. Trẻ con theo ông
khắp nơi, vì đi đâu ông cũng ca hát làm cho mọi người phải tụ lại, rồi ông
dạy họ tu hành và tụng câu :
“OM MANI PADME HUM”
. Ông có một bánh xe lớn để cầu nguyện, và khi ai cho ông vật gì, ông lại
may vào áo quần ông, nên cuối cùng toàn thể người ông trông như một bánh
xe cầu nguyện di động. Ông cũng có một con chó luôn luôn theo ông, mà ông
đối xử như con người, cùng ăn cùng ngủ với nó, chuyện trò với nó như bạn.
Không ai xem ông ra gì, có người còn gọi ông là “hành giả cuồng” song
nhiều vị Lama rất ca tụng ông, và bảo chúng tôi không nên coi thường ông.
Ông nội tôi và cả nhà thường đối xử với ông rất lễ phép, thường mời ông
vào phòng thờ để uống trà và ăn bánh. Ở Tây Tạng có tục lệ viếng thăm ai
thì phải mang quà. Một ngày, trong khi đang uống trà, ông ngừng lại : “Ô,
xin lỗi, tôi suýt quên mất... Ðây là món quà cho ông” . Ông đưa ngay dãi
khăn quàng trắng và bánh mì mà ông nội tôi đã tặng ông, để làm quà lại.
Ông thường ngủ ngoài trời, giữa đất trống. Một hôm ông chết ở gần tu viện
phái Dzogchen, với con chó bên cạnh, trong một đống rác. Không ai chờ đợi
việc gì xảy ra kế tiếp, nhưng việc ấy đã được nhiều người chứng kiến. Xung
quanh ông, xuất hiện một vòng ánh sáng cầu vồng chói lọi.
Người ta bảo rằng
“hành giả bậc trung, khả năng trung bình thì chết như những thú hoang hay
sư tử trên núi tuyết, trong động đá và thung lũng vắng vẻ”. Họ có thể hoàn
toàn tự lo liệu lấy, và thích đi đến những nơi hoang dã để lặng lẽ chết,
không bị bạn bè quyến thuộc quấy rầy làm rộn ràng.
Những hành giả đã
thuần thục như những người kể trên thường được thấy họ nhắc nhở về những
pháp hành trì mà họ nên xử dụng khi gần chết. Sau đây là hai ví dụ rút từ
truyền thống Dzogchen :
Ví dụ thứ nhất, hành
giả được khuyên nên nằm theo dáng nằm sư tử . Rồi họ được bảo phải tập
trung ý thức vào đôi mắt, và dán chặt cái nhìn vào bầu trời trước mặt. Cứ
để tâm họ không thay đổi, an trú trong trạng thái ấy, để cho tính giác
Rigpa của họ hòa vào không gian nguyên sơ của chân lý. Khi Ánh sáng Căn
bản của cái chết sanh khởi, họ lướt vào đó một cách hoàn toàn tự nhiên và
đạt giác ngộ. Nhưng điều này chỉ có thể thực hiện đối với một người do tu
tập đã an trú vững vàng trong sự trực nhận bản tâm.
Ðối với những người
chưa đạt tới trình độ này, và cần một phương pháp trịnh trọng hơn để tập
trung, thì có một pháp thực hành khác : Quán tâm thức của họ như một chữ A
màu trắng, và phóng nó qua huyệt đạo từ tim, rồi thoát ra trên đỉnh đầu để
đi vào cõi Phật. Ðây là một pháp Chuyển di tâm thức mà thầy tôi đã giúp
Lama Tseten thực hành khi ông chết.
Những người làm
thành công một trong hai phương pháp nói trên thì vẫn phải kinh quá tiến
trình chết của thể xác, song họ sẽ không kinh quá những trạng thái Trung
Ấm sau đó.
Phowa : Pháp chuyển
di tâm thức
Bây giờ, khi giai đoạn Trung Ấm chết bắt đầu xuất hiện cho tôi,
Tôi sẽ từ bỏ mọi bám víu, khát khao và quyến luyến
Thể nhập không tán loạn vào ý thức sáng suốt về giáo lý
Và chiếu tâm thức tôi vào khoảng không gian của Tự tánh vô sanh
Khi tôi từ bỏ hợp thể máu thịt này
Tôi biết nó chỉ là một ảo ảnh phù du.
“Chiếu tâm thức vào
không gian của tự tánh vô sanh” là ám chỉ pháp chuyển di tâm thức gọi là
Phowa - một pháp thực hành thông thường nhất khi chết - và chỉ dẫn đặc
biệt liên hệ đến Trung Ấm của sự chết. Chuyển di tâm thức là một phép yoga
và thiền đã được xử dụng qua nhiều thế kỷ để giúp người sắp chết và để
chuẩn bị cho cái chết. Nguyên tắc là, vào lúc chết, hành giả chiếu cái tâm
của mình ra và hòa nhập với tâm giác ngộ của chư Phật, mà Padmasambhava
gọi là “không gian của tự tánh vô sanh”. Pháp này có thể thực hiện bởi cá
nhân người sắp chết, hoặc bởi một vị thầy đủ tư cách, hoặc một hành giả
thiện xảo làm thay cho người chết.
Có nhiều loại Chuyển
di tương ứng với khả năng kinh nghiệm và sự luyện tập của từng người.
Nhưng pháp Chuyển di thông dụng nhất là pháp “Chuyển di với ba nhận thức”
: nhận ra huyệt đạo trung ương kể như con đường, nhận ra tâm thức như kẻ
lữ hành, và nhận ra cảnh Phật như đích đến.
Những người tại gia
ở Tây Tạng bận rộn với trách nhiệm, công việc gia đình không thể dành suốt
đời để học pháp và tu tập, nhưng họ có lòng tin kiên cố vào giáo lý. Khi
con cái họ lớn lên và họ gần đến cuối đời - như tuổi về hưu ở Tây phương -
họ thường đi hành hương, hoặc gặp những bậc thầy và tập trung vào sự tu
hành ; họ thỉnh thoảng lại sự một khóa tu về Chuyển di tâm thức để chuẩn
bị cho cái chết. Pháp này được giáo lý xem là một phương pháp đạt giác ngộ
mà không cần phải tu thiền suốt cả đời.
Trong pháp Chuyển di
tâm thức, hình ảnh chính được triệu thỉnh là đức Phật A Di Ðà, vị Phật với
ánh sáng vô lượng. Ðức Phật này rất phổ thông đối với thường dân ở Trung
Hoa và Nhật Bản, cũng như ở Tây Tạng và dãy Hy Mã Lạp Sơn. Ngài là vị Phật
nguyên ủy thuộc dòng họ Hoa sen, nhân loại thuộc vào dòng họ vị Phật này.
Ngài tượng trưng cho bản tánh thanh tịnh của chúng ta, và tượng trưng sự
chuyển hóa của dục vọng, cảm xúc mạnh nhất nơi cõi người. A Di Ðà còn là
bản chất sáng suốt vô hạn của tâm. Khi chết, bản tánh chân thật ấy của tâm
sẽ hiển lộ vào lúc Ánh sáng Căn bản hiện ra, nhưng không phải ai trong
chúng ta cũng có được sự quen thuộc để nhận ra ánh sáng ấy. Quả thực chư
Phật đã đầy từ bi và phương tiện thiện xảo xiết bao khi truyền lại cho
chúng ta một phương pháp để triệu thỉnh chính cái nhập thể của ánh sáng
ấy, tức là đức Phật A Di Ðà với hào quang chói lọi.
Ở đây không phải chỗ
để giải thích chi tiết pháp Chuyển di tâm thức cổ truyền, một pháp cần
phải thực hành dưới sự hướng dẫn của một bậc thầy tư cách. Bạn đừng bao
giờ cố tự tập pháp này nếu không có người hướng dẫn.
Vào lúc chết, giáo
lý giải thích, tâm thức chúng ta được đặt lên một ngọn “gió”, bởi thế cần
một chỗ mở để thoát ra khỏi thân xác. Nó có thể từ bỏ thân xác qua bất cứ
một chỗ mở nào trong 9 chỗ. Con đường mà nó đi sẽ định đoạt chính xác cõi
hữu nào ta sẽ tái sinh đến. Người ta nói, khi nó thoát ra từ đỉnh đầu, thì
chúng ta sẽ tái sinh vào một cõi đất tịnh, ở đấy chúng ta có thể tiến dần
đến giác ngộ.
Pháp này tôi cần
phải nhấn mạnh lần nữa, chỉ có thể thực hiện dưới sự hướng dẫn của một bậc
thầy đủ tư cách, có được ân sủng để truyền thừa thích nghi.
Muốn thành công
trong pháp Chuyển di tâm thức này, không cần phải có một tri thức rộng hay
sự chứng đắc sâu xa, chỉ cần lòng sùng kính, từ bi, nhất tâm quán tưởng,
và một cảm giác sâu xa về hiện diện của Phật A Di Ðà. Người học sau khi
nhận chỉ giáo sẽ thực hành theo đó cho đến khi có những triệu chứng thành
công xuất hiện. Những triệu chứng này gồm có : trên đỉnh đầu có cảm giác
ngứa, nhức đầu, chảy nước trong, xung quanh vùng sọ nổi sưng lên hoặc mềm
ra, đôi khi còn có một lỗ nhỏ mà theo truyền thống, bậc thầy sẽ nhét vào
đó một cọng cỏ để đo lường mức thành công của sự tu tập.
Mới đây có một nhóm
cư sĩ Tây Tạng đã lớn tuổi ở Thụy Sĩ được tập luyện dưới sự hướng dẫn của
một bậc thẩy nổi tiếng về phép Chuyển di. Con cái họ đã lớn lên tại Thụy
Sĩ, rất hoài nghi về công hiệu của phép này. Nhưng họ rất kinh ngạc khi
thấy cha mẹ họ đã thực sự thay đổi và chứng tỏ vài dấu hiệu của thành công
nói trên sau 10 ngày nhập thất.
Bác sĩ Hiroshi
Motoyama, nhà khoa học Nhật Bản có làm một nghiên cứu về những hậu quả tâm
sinh lý của pháp Chuyển di tâm thức. Ông khám phá ra những thay đổi về
sinh học rõ ràng trong hệ thống thần kinh và các kinh mạch trong thời kỳ
thực tập Chuyển di tâm thức. Một trong những khám phá của bác sĩ Motoyama
khi khảo sát cơ thể bậc thầy về pháp này là : khí tuôn chảy trong kinh
mạch của vị ấy rất giống trường hợp được tìm thấy nơi những người có năng
lực mạnh về thần giao cách cảm. Não điện đồ cũng cho thấy những sóng não
trong thời gian thực hành Chuyển di tâm thức khác hẳn với sóng não được
tìm thấy nơi những hành giả thực hành các pháp thiền khác, chứng tỏ rằng
pháp này gây ra sự kích thích hypothalamus, một phần của não bộ, cũng như
sự chấm dứt những hoạt động bình thường của tâm, để có thể kinh nghiệm một
trạng thái thiền sâu xa.
Ðôi khi nhờ pháp
Chuyển di tâm thức mà người thường có thể có những kinh nghiệm thị giác
mãnh liệt. Sự thấy được niềm an lạc, ánh sáng của cõi Phật và sự thấy được
đức Phật A Di Ðà, đều tương tự một vài khía cạnh của kinh nghiệm cận tử.
Và cũng như kinh nghiệm cận tử, sự thành công trong pháp Chuyển di cũng
đem lại niềm tin và vô úy khi đối diện với cái chết.
*
Sự thực hành phần
cốt yếu của pháp Chuyển di mà tôi đã nói trong một chương trước, là một
pháp chữa bệnh cho người sống, cũng như một pháp thực hành cho lúc chết,
và có thể làm bất cứ lúc nào không nguy hiểm. Tuy nhiên, thời gian của sự
thực hành pháp Chuyển di cổ truyền có một tầm quan trọng lớn lao. Chẳng
hạn, nếu một người nào thực sự chuyển di tâm thức được thành công trước
thời điểm cái chết tự nhiên, thì điều ấy cũng tương đương với sự tự sát.
Thời điểm để làm pháp Chuyển di là lúc hơi thở bên ngoài đã ngừng, mà hơi
thở bên trong vẫn tiếp tục. Nhưng muốn bảo đảm hơn, hãy khởi sự thực hành
trong khi tiến trình tan rã xảy ra (trình bày ở chương kế tiếp) và nên lặp
lại nhiều lần.
Khi một bậc thầy đã
hoàn toàn thiện xảo trong pháp Phowa cổ truyền làm phép ấy cho một người
hấp hối, bằng cách quán cái tâm thức họ cho xuất ra ngoài qua đỉnh đầu,
thì cốt yếu là phải đúng thời điểm, không làm quá sớm. Nhưng một hành giả
tu cao, biết rõ tiến trình chết, có thể kiểm điểm những chi tiết như huyệt
đạo, sự di chuyển các luồng khí, và hơi ấm cơ thể, để xem lúc nào nên làm
pháp chuyển di. Nếu có xin một bậc thầy làm phép ấy cho một người sắp
chết, thì nên liên lạc ngay vị ấy, vì pháp này cũng có thể thực hiện được
từ một khoảng cách.
Có thể xảy ra một
vài trở ngại cho pháp Chuyển di. Bất cứ một hướng tâm bất thiện, một chút
khao khát tài sản, sẽ thành chướng ngại khi chết đến. Bạn không được có
một chút tư tưởng hay khát vọng tiêu cực nào. Ở Tây Tạng người ta tin rằng
rất khó làm pháp Chuyển di thành công nếu trong phòng người hấp hối có vật
gì làm bằng da thú, lông thú. Cuối cùng, khói thuốc hay bất cứ loại thuốc
kích thích nào cũng có hậu quả làm bế tắc huyệt đạo trung ương, khiến cho
pháp Chuyển di khó thực hiện.
Người ta bảo, ngay
cả một kẻ trọng tội cũng có thể được giải thoát vào lúc chết nếu có một
bậc thầy đã tu chứng, có năng lực, chuyển di tâm thức của người chết vào
một cõi Phật. Và dù cho người sắp chết thiếu công đức tu luyện, và bậc
thầy không hoàn toàn thành công trong pháp Chuyển di, thì pháp này vẫn ảnh
hưởng đến tương lai của người chết, giúp y tái sanh thượng giới. Nhưng nếu
muốn thực hành Chuyển di cho thành công, thì những điều kiện phải hoàn
hảo. Pháp Chuyển di có thể giúp một người nghiệp chướng nặng nề, song chỉ
khi người ấy có một liên lạc mật thiết và trong sáng với bậc thầy làm pháp
ấy, nếu y có lòng tin vào giáo lý, và nếu y đã thành tâm sám hối.
Trong một khunh cảnh
lý tưởng ở Tây Tạng, những người trong gia đình thường mời các Lạt-ma đến
làm pháp Chuyển di nhiều lần, cho tới khi dấu hiệu thành công xuất hiện.
Họ có thể làm suốt nhiều giờ, hàng trăm lần, có khi suốt cả ngày. Vài
người chỉ cần làm một hai lần pháp này là đã thấy triệu chứng tốt, trong
khi có nhiều người làm cả ngày cũng không xong. Ðương nhiên việc này tùy
thuộc phần lớn ở nghiệp của người sắp chết.
Ở Tây Tạng có những
hành giả có khả năng đặc biệt làm pháp Chuyển di, các triệu chứng tốt sẵn
sàng xảy đến. Có nhiều dấu hiệu chứng tỏ một bậc thầy làm pháp Chuyển di
đã thành công nơi người sắp chết : đôi khi một nhúm tóc nơi sọ người ấy
rớt ra, hoặc cảm thấy trên đỉnh họ có hơi nóng tuôn ra. Trong vài trường
hợp đặc biệt, năng lực bậc thầy khi thốt ra âm thanh chữ A để chuyển di
tâm thức, mãnh liệt đến độ mọi người trong phòng té xỉu, hoặc từ sọ người
chết vọt ra một mảnh xương theo thần thức họ bay ra quá mạnh.
AÂn sủng của sự cầu
nguyện vào lúc chết
Trong mọi truyền
thống tôn giáo, người ta đều cho rằng chết trong khi được cầu nguyện là
rất tốt. Bởi vậy, điều tôi hy vọng bạn có thể làm khi chết là triệu thỉnh
chư Phật và thầy của bạn. Cầu nguyện rằng do sám hối ác nghiệp đời này và
các đời trước, nghiệp bạn được thanh lọc và bạn có thể tỉnh giác an bình
vào lúc chết, có tái sanh tốt và cuối cùng đạt giải thoát.
Hãy phát nguyện tái
sanh vào cõi tịnh hoặc làm người nhưng để giúp đỡ người khác. Chết với
niệm từ bi trong tâm như vậy cho đến hơi thở cuối thì cũng là một pháp
Chuyển di tư tưởng, và bảo đảm cho bạn có được một thân người quý báu
trong tương lai.
Tạo ấn tượng tích
cực nhất trong dòng tâm thức trước khi chết là điều cốt yếu. Pháp tu hiệu
nghiệm nhất để có được điều này là pháp Ðạo sư Du-già, ở đấy người sắp
chết hòa nhập tâm mình với tâm giác ngộ của bậc thầy, hay Phật, hay một
bậc thánh. Dù bạn không thể quán ra hình ảnh thầy trong lúc đó, ít nhất
hãy nhớ đến vị ấy trong tim của bạn và chết trong niệm sùng kính. Khi tâm
thức của bạn tỉnh dậy trở lại sau khi chết, ấn tượng về hiện diện bậc thầy
sẽ thức dậy trong bạn, và bạn sẽ được giải thoát. Nếu bạn chết trong khi
nhớ đến thầy, thì khả năng của ân sủng bậc thầy thực vô hạn : ngay cả
những âm thanh, màu sắc và ánh sáng trong cõi trung gian của pháp tánh
cũng có thể xuất hiện như là sự ban ân sủng của thầy và tia sáng chiếu ra
từ trí tuệ của thầy.
Nếu bậc thầy có mặt
bên giường chết, vị ấy sẽ bảo đảm cho dòng tâm thức của người chết mang
dấu ấn của hiện diện vị ấy. Vị thầy có thể giúp cho người chết khỏi tán
loạn bằng một vài nhận xét đầy ý nghĩa, gây chú ý. Chẳng hạn có thể nói
lớn : “Hãy nhớ ta !” . Vị thầy sẽ gây chú ý của người ấy bằng bất cứ cách
nào để tạo một ấn tượng khó phai mờ, sẽ trở lại trong trạng thái Trung Ấm
của người chết như một “hoài niệm về bậc thầy”. Khi mẹ của một bậc thầy
nổi tiếng đang hấp hối và rơi vào trạng thái hôn mê, Dilgo Khientse
Rinpoche có mặt nơi giường chết đã làm một chuyện rất bất ngờ : ngài đánh
vào đùi bà. Nếu bà không quên Dilgo Khientse Rinpoche khi bà đi vào cõi
chết, thì quả thực là bà đã được ân sủng.
Theo truyền thống
chúng tôi, những hành giả thường cầu nguyện bất cứ một vị Phật nào họ cảm
thấy tin tưởng và có duyên với ngài. Nếu vị ấy là Liên Hoa Sanh, thì họ sẽ
cầu được sanh vào cõi thuần tịnh vinh quang của ngài, là lâu các Liên Hoa
trên đỉnh núi màu đồng ; nếu họ thích Phật A Di Ðà thì họ sẽ cầu sanh vào
nước Cực lạc.
Bầu không khí để
chết
Làm sao để giúp đỡ
một cách tế nhị nhất, những hành giả thông thường khi họ chết ? Tất cả
chúng ta đều cần đến sự thương mến và săn sóc chân tình và thực tiễn,
nhưng đối với người có tu tâm, thì bầu không khí, cường độ và chiều sâu
tâm linh còn có một ý nghĩa đặc biệt. Ðiều lý tưởng và một ân sủng lớn cho
họ là thầy họ có mặt ở đấy, nhưng nếu không thể, thì bạn đạo cũng có thể
giúp đỡ rất nhiều để nhắc nhở người chết nhớ lại giáo lý và pháp tu quen
thuộc nhất của họ trong lúc sống. Với một hành giả sắp chết thì bầu không
khí tin tưởng và sùng kính là cốt yếu. Sự hiện diện trìu mến của thầy và
bạn đạo, sự khích lệ của giáo lý và năng lực sự hành trì của riêng họ, tất
cả phối hợp lại để tạo ra và nâng cao nguồn cảm hứng rất cần thiết vào
những tuần, những ngày cuối cùng, có lẽ cần thiết như chính hơi thở.
Một người học trò
thân yêu của tôi chết vì ung thư đã hỏi tôi cách tập luyện nào tốt nhất để
làm khi nàng tiến gần đến cái chết, nhất là khi không còn đủ sức để tập
trung vào một phép tu trịnh trọng ? Tôi bảo nàng :
“Con hãy nhớ con đã
được may mắn như thế nào khi đã gặp được nhiều bậc thầy, hấp thụ nhiều
giáo lý và có thì giờ cùng khả năng để tu tập. Ta hứa với con rằng lợi ích
của những điều ấy sẽ không bao giờ rời con. Thiện nghiệp mà con đã làm sẽ
ở mãi với con, nâng đỡ con. Ðược nghe giáo lý dù chỉ một lần, hoặc gặp
được một bậc thầy như Dilgo Khientse Rinpoche và có liên lạc mật thiết với
ngài như con, chính đã là giải thoát. Ðừng bao giờ quên điều ấy, và cũng
đừng quên bao nhiêu người trong địa vị con mà lại không được có cơ hội kỳ
diệu ấy.
“Nếu con đến lúc
không tu tập một cách tích cực được, thì điều duy nhất quan trọng là thư
giãn, nghỉ ngơi, càng sâu càng tốt trong niềm tin của Kiến, và an trú
trong tự tánh tâm. Không hề gì nếu thân con, não bộ con vẫn còn hoạt động
hay không hoạt động, tự tánh tâm con luôn luôn ở đấy, giống như bầu trời,
chiếu sáng đầy ân sủng, vô biên không thay đổi... Hãy biết điều ấy không
hồ nghi, và để cho sự hiểu biết ấy đem lại cho con sức mạnh để nói với nỗi
đau đớn của con, dù có khốc liệt cách mấy, rằng : “Hãy đi đi, để cho ta
yên” . nếu có điều gì làm con bực tức hay khó chịu, thì đừng phí thì giờ
cố thay đổi nó ; cứ quay về với chánh kiến.
“Hãy tin sâu vào tự
tánh của tâm con, và thư giãn hoàn toàn. Không có gì mới con cần phải học
thêm, có thêm, hoặc hiểu biết thêm. Hãy để cho những gì đã ở nơi con tự
khai mở và trở nên sâu xa.
“Hãy nương tựa vào
pháp môn nào con thích nhất. Nếu con thấy khó mà quán tưởng hay theo một
sự tu tập trịnh trọng nào, thì hãy nhớ lời Dudjom Rinpoche : cảm thấy sự
hiện diện là quan trọng hơn có được sự quán tưởng rõ ràng chi tiết. Bây
giờ là lúc con nên cảm thụ, càng mãnh liệt càng tốt, với toàn thể con
người của con, sự hiện diện của các bậc thầy, của đấng Liên Hoa Sanh, và
của chư Phật. Dù bất cứ gì có thể xảy đến cho thân con, con hãy nhớ tâm
con chưa từng đau ốm, què quặt bao giờ.
“Con đã yêu mến
Dilgo Rinpoche, hãy cảm thụ hiện diện của ngài, thực sự xin ngài giúp đỡ
và thanh luyện con. Ðặt tất cả tính mạng của con trong tay bậc thầy : tâm,
thân và hồn. Tính giản dị của lòng tin tuyệt đối là một trong những năng
lực hữu hiệu nhất trên đời.
“Ta đã kể cho con
nghe câu chuyện về Ben ở Kongpo chưa nhỉ ? Ông ta là một người rất đơn
giản, có lòng tin vô biên, đến từ Kongpo, một tỉnh miền đông nam Tây Tạng.
Ông đã nghe rất nhiều về Jowo Rinpoche, một pho tượng đẹp của Phật lúc
ngài còn là thái tử 12 tuổi, được cất giữ trong nhà thờ chính tại Lhasa.
Tương truyền pho tượng ấy được tạc lúc Phật còn sống, đấy là pho tượng
thiêng liêng nhất trong toàn cõi Tây Tạng. Ben không thể biết được đấy là
Phật hay người thường, và quyết đi đến tận nơi thăm viếng Jowo Rinpoche để
hỏi cho ra lẽ. Ông khởi hành nhiều tuần mới đến Lhasa ở trung tâm Tây
Tạng.
“Lúc vừa tới nơi ông
rất đói, và khi vào đền thờ, ông thấy pho tượng Phật rất lớn, trước mặt là
một dãy đèn bơ và bánh đặc biệt làm để cúng Phật. Ông nghĩ ngay đấy là
những gì Jowo Rinpoche ăn : “Chắc hẳn bánh này là để nhúng vào bơ trong
đèn, còn đèn thì phải cháy để cho bơ khỏi đông cứng lại. Ta hãy làm như
kiểu Jowo Rinpoche làm” . Thế là ông nhúng bánh vào đĩa bơ mà ăn, rồi nhìn
lên tượng Phật dường như cũng đang mỉm cười từ bi nhìn ông. Ông nói :
“Thầy thực tốt làm sao. Chó vào ăn trộm thức ăn người ta cúng cho thầy,
thầy cũng chỉ mỉm cười. Gió thổi đèn tắt hết, thầy cũng mỉm cười... Nhưng
bây giờ tôi phải kinh hành quanh điện thờ để cầu nguyện và chứng tỏ lòng
sùng kính. Vậy thầy làm ơn giữ giùm tôi đôi ủng cho đến lúc tôi trở lại,
được chứ ?” . Nói xong, ông cổi bỏ đôi ủng cũ dơ dáy để lên bàn thờ trước
mặt pho tượng, rồi bỏ đi.
“Khi Ben đang tản bộ
quanh ngôi điện khổng lồ, thì người giữ đền trở về và hoảng hồn trông thấy
kẻ nào đã ăn mất đồ cúng và để một đôi ủng dơ dáy trên bàn thờ. Ông ta
giận dữ cầm lấy đôi ủng ném ra ngoài, nhưng bỗng nghe một tiếng nói từ pho
tượng phát ra : “Ðừng. Ðể lại chỗ cũ. Ta đang canh chừng giùm Ben của xứ
Kongpo” .
“Sau đó Ben trở lại
để lấy ủng. Nhìn lên gương mặt pho tượng, vẫn nụ cười an lạc đang tỏa
chiếu xuống ông ta. “Thật ông đúng là một vị Lạt-ma rất tốt. Sao ông không
xuống chỗ chúng tôi chơi ? Tôi sẽ quay một con heo và nấu rượu thết ông” .
Lần thứ hai, pho tượng Jowo Rinpoche lại cất tiếng, hứa sẽ đi thăm Ben.
“Ben trở về nhà ở
Kongpo, kể cho vợ nghe mọi sự, dặn nàng hãy canh chừng để đón Jowo
Rinpoche vì không biết chừng nào ông ta đến. Năm ấy trôi qua, một hôm vợ
ông chạy về nhà báo tin đã trông thấy một cái gì sáng rực như mặt trời,
đang ở dưới nước. Ben bảo nàng pha trà, và vội vã chạy ra sông. Ông thấy
Jowo Rinpoche đang lấp lánh trong nước, và nghĩ có lẽ ngài đã rớt xuống
sông đang chết đuối. Ông lao ngay vào nước vớt ngài lên. Khi họ cùng trở
về nhà Ben, vừa đi vừa trò chuyện, họ đi ngang một tảng đá to, Jowo
Rinpoche nói : “Thực sự là tôi không thể vào nhà được” . Nói xong, ngài
biến mất vào tảng đá. Cho đến ngày nay vẫn còn hai nơi hành hương danh
tiếng ở Kongpo : một là Jowo Ðá, gương mặt trên đá, ở đấy người ta có thể
trông thấy hình dạng một vị Phật ; và Jowo Sông, ở đấy hình dạng Phật có
thể thấy dưới sông. Người ta bảo năng lực ban phước và chữa bệnh của hai
nơi này cũng giống như pho tượng Jowo ở Lhasa. Và đấy là do lòng tin tưởng
vô biên của Ben đối với Phật.
“Ta muốn con cũng có
lòng tin như thế. Hãy để tim con tràn ngập niềm sùng kính đối với
Padmasambhava và Dilgo Rinpoche. Hãy tưởng như con đang ở trước mặt các
ngài, toàn thể không gian xung quanh con là ngài. Rồi hãy niệm ngài luôn
luôn. Hãy hợp nhất tâm con với tâm ngài, và nói từ đáy tim con : “Bây giờ
ngài cũng thấy đó, con không thể nào tu tập kiên trì được nữa. Con phải
hoàn toàn nương tựa vào ngài. Xin ngài che chở con” . Hãy làm pháp Ðạo sư
Du-già, tưởng tượng ánh sáng nơi bậc thầy đang tuôn tràn vào con để thanh
lọc con, đốt sạch mọi cấu uế bệnh tật trong con, chữa con lành ; thân con
tan thành ánh sáng ; và cuối cùng hãy hòa nhập tâm con vào tâm giác ngộ
của bậc thầy, trong niềm tin tưởng tuyệt đối.
“Khi thực tập như
vậy, con chỉ cần tin tưởng và cảm thấy điều ấy trong tim con. Mọi sự bây
giờ đều tùy thuộc vào cảm ứng, vì chỉ có điều ấy làm thư giãn sự lo lắng
và đánh tan cơn thác loạn thần kinh nơi con. Hãy giữ một hình tượng của
thầy con, hay Phật, trước mặt con. Tập trung nhẹ nhàng vào đó, rồi thư
giãn vào trong tia sáng của nó. Hãy tưởng giờ này bên ngoài nắng đang lên,
và con có thể lấy hết y phục ra mà tắm trong mặt trời ấm áp : tước hết mọi
tính dè dặt và thư giãn trong ánh sáng ân sủng. Và từ tâm khảm sâu xa, con
hãy buông xả mọi sự.
“Ðừng lo lắng gì.
Không có một vật gì con cần bám víu. Hãy buông ra và trôi bồng bềnh trong
ý thức về ân sủng đó. Ðừng để cho những câu hỏi nhỏ nhặt quấy rối tâm con,
chẳng hạn hỏi : “Ðó có phải là Rigpa không ?”. Cứ để cho tâm con càng lúc
càng tự nhiên. Hãy nhớ Rigpa luôn ở đấy, trong tự tánh tâm con. Nhớ lời
Dilgo Rinpoche thường nói : “Nếu tâm con không thay đổi, thì chính con
đang trong trạng thái Rigpa” . Vì con đã thụ giáo nên con cũng đã được
khai thị tự tánh tâm, hãy thư giãn, trong đó không có nghi ngờ.
“Con đã khá may mắn
có vài bạn đạo gần bên con. Hãy khuyến khích họ tạo một môi trường tu tập
quanh con, và tiếp tụ tu tập như thế cho đến khi con chết, và sau đó. Bảo
họ đọc cho con nghe một bài thơ mà con thích, hay một lời chỉ dẫn của bậc
thầy, hay giáo lý làm con lên tinh thần. Bảo họ cho con nghe băng giảng
của thầy con, hoặc băng tụng kinh, hay băng nhạc mà con ưa chuộng. Ta cầu
nguyện mỗi khi con thức tỉnh, hãy hòa tâm con với ân sủng của sự tu tập,
trong bầu không khí sáng sủa đầy cảm hứng. Khi nhạc hay lời dạy trong băng
từ đang tiếp tục, con cứ an nghỉ trong đó, ngủ và ăn với nó. Hãy để cho
bầu không khí tu tập thấm nhuần toàn thể đoạn cuối đời con, như bà dì Ani
Rilu của ta. Ðừng làm gì ngoài ra tu tập, để cho sự tu tập tiếp diễn ngay
cả trong mộng của con. Hãy để cho nó trở thành hoài niệm cuối cùng mãnh
liệt nhất đời, ảnh hưởng đến tâm con, thay thế cho những thói quen thường
ngày trong dòng tâm thức con. Và khi con cảm thấy gần chết, hãy chỉ nghĩ
đến thầy con trong từng hơi thở, từng nhịp tim đập. Bất cứ ý tưởng gì con
nghĩ tới vào lúc chết, sẽ là ý tưởng trở lại mãnh liệt nhất khi con thức
dậy trong trạng thái Trung Ấm sau khi chết”.
Từ giã thân xác
Bây giờ khi Trung Ấm cái chết xuất hiện
Tôi sẽ từ bỏ mọi bám víu khát khao chấp thủ
Thể nhập không tán loạn vào tinh yếu của giáo lý
Và chiếu tâm tôi vào không gian của tự tánh vô sanh.
Khi từ bỏ tập hợp máu thịt thân xác này
Tôi biết nó chỉ là ảo ảnh phù du.
Hiện giờ, thân ta có
lẽ là trung tâm của vũ trụ. Chúng ta liên kết nó với tự ngã của ta, với
cái tôi của ta, và sự liên kết sai lầm ấy cứ tăng cường cái ảo tưởng về
hiện hữu cụ thể bất khả phân này. Bởi vì thân ta dường như hiện hữu, nên
cái tôi cũng dường như có, và “anh” cũng dường như có, và cái toàn thể thế
giới nhị nguyên huyễn hóa mà ta không ngừng chiếu ra quanh ta, có vẻ tuyệt
đối chắc thực. Khi ta chết, toàn thể tập hợp này tan rã thành từng mảnh
vụn một cách thảm hại.
Nói giản dị thì điều
xảy ra là tâm thức ở tầng sâu xa vi tế nhất của nó vẫn tiếp tục không cần
thân xác và kinh quá chuỗi trạng thái gọi là “Trung Ấm”. Giáo lý dạy ta
rằng : chính vì ta không còn có một thân thể trong các trạng thái Trung
Ấm, nên không cần phải sợ bất cứ một kinh nghiệm nào, dù ghê rợn tới đâu,
có thể xảy ra sau khi chết. Có gì có thể làm hại một cái không-thân ? Tuy
nhiên điều rắc rối là trong các trạng thái Trung Ấm, phần đông người ta
vẫn tiếp tục chấp thủ một ý thức sai lầm về tự ngã, cùng với sự níu kéo ma
quái vào vật thể chắc chắn ; và sự tiếp diễn của ảo tưởng này, vốn đã là
gốc rễ mọi đau khổ trong đời, bây giờ lại làm cho người ta khổ thêm vào
lúc chết, nhất là trong những cõi “Trung Ấm của sự tái sanh” .
Bạn có thể thấy điều
thiết yếu là ngay bây giờ trong lúc còn cái thân xác sống, ta cần phải
nhận ra rằng tính bền vững rõ ràng của nó chỉ là một ảo tưởng. Cách hiệu
nghiệm nhất để nhận ra điều này là tập trở thành “một đứa con của ảo
tưởng” : đừng củng cố cái nhận thức về tự ngã và thế giới, như chúng ta
luôn luôn làm, mà phải tiếp tục cái thấy như trong thiền định, rằng mọi
hiện tượng đều như mộng như huyễn. Nhận thức về thân huyễn này là nhận
thức sâu sắc nhất giúp ta buông xả.
Ðược trang bị bằng
tri thức ấy, thì khi vào lúc chết, đối mặt với sự kiện rằng thân ta là một
ảo tưởng, ta sẽ nhận ra ngay được tính chất huyễn hóa của nó mà không hãi
sợ, bình thản thoát khỏi mọi bám víu thân xác, và vui vẻ bỏ nó lại sau
lưng, lại còn cảm ơn khi biết rõ mặt thật của nó. Quả thế, khi ấy ta có
thể, một cách thực sự và trọn vẹn, chết khi ta chết, và nhờ vậy hoàn toàn
giải thoát.
Vậy, hãy nghĩ đến
lúc chết như một vùng biên giới lạ lùng của tâm thức, một vùng đất không
của ai, trong đó một mặt nếu không hiểu bản chất như huyễn của thân xác,
thì khi chết ta có thể kinh hoảng vô cùng vì phải mất nó ; mặt khác chúng
ta có thể thấy cái chết đem lại khả năng giải thoát vô giới hạn, một sự
giải thoát tuôn phát từ chính sự vắng mặt của xác thân ấy.
Khi chúng ta cuối
cùng thoát khỏi cái thân xác đã thống trị quá lâu sự hiểu biết của ta về
chíùnh ta như vậy, cái thấy do nghiệp của cả một đời bây giờ hoàn toàn
kiệt quệ, nhưng nghiệp có thể tạo trong tương lai thì chưa khởi sự kết
tinh. Bởi thế, điều xảy ra trong cái chết là, có một khe hở, một khoảng
trống đầy những khả tính vô biên ; đó là một thời điểm có tiềm năng ghê
gớm, trong đó điều duy nhất đáng kể là tâm của ta đang là cái gì. Khi cởi
bỏ thân xác vật lý, tâm đứng chơ vơ và hiển bày một cách dễ sợ bộ mặt
nguyên ủy của nó, luôn luôn vẫn là : kiến trúc sư của đời ta.
Vậy nếu khi chết ta
đã có một nhận thức vững chãi về tự tánh của tâm, thì trong một nháy mắt
có thể thanh lọc tất cả nghiệp. Và nếu chúng ta tiếp tục cái thấy vững
chãi ấy, thì ta có thể thực sự chấm dứt tất cả nghiệp, bằng cách thể nhập
sự trong sáng sơ nguyên của tự tánh, và đạt giải thoát.
Padmasambhava giải
thích điều này như sau :
Bạn có thể tự hỏi,
tại sao trong trạng thái Trung Ấm, ta có thể giải thoát chỉ nhờ một thoáng
trực nhận tự tánh tâm ? Trả lời như sau : hiện tại tâm ta bị nhốt trong
một cái lưới của “gió nghiệp” , và gió nghiệp lại bị nhốt trong một cái
lưới là xác thân vật lý của ta. Kết quả là ta không có được tự do tự chủ.
Nhưng vừa khi thân xác ta đã chia lìa thành tâm và vật, trong khoảng hở
trước khi nó bị nhốt một lần nữa trong cái lưới của một thân sau, cái tâm,
cùng với những trình diễn ảo thuật của nó, bây giờ không có chỗ y cứ vật
lý cụ thể. Trong khi nó còn thiếu một cơ sở vật chất như thế, thì chúng ta
còn tự do - và ta có thể nhận ra được.
Khả năng đạt an trú
chỉ nhờ nhận chân được tự tánh tâm, là ví như một bó đuốc trong chớp mắt
có thể xua tan bóng tối ngàn kiếp. Bởi thế, nếu chúng ta có thể nhận ra tự
tánh tâm trong cõi trung gian như bây giờ, khi bậc thầy khai thị, thì chắc
chắn sẽ đạt giác ngộ. Bởi vậy, ngay từ bây giờ trở đi, ta phải tập quen
với tự tánh tâm nhờ thực hành thiền định.