Tạng thư Sống Chết
The Tibetan Book Of Living And
Dying
Sogyal Rinpoche
Ni sư Thích Nữ Trí Hải
dịch
--- o0o --
PHẦN HAI: CHẾT
12-
Lòng bi mẫn : viên ngọc như ý
Săn sóc người sắp chết làm cho bạn ý thức thấm thía
không những nỗi tử vong của họ mà còn của chính bạn. Bao nhiêu tấm màn ảo
tưởng đã ngăn chúng ta với tri kiến rõ rệt phũ phàng là chúng ta đang
chết. Bởi thế, khi cuối cùng ta biết được rằng mình đang chết và tất cả
hữu tình khác cũng đang chết, thì ta khởi sự có một ý thức nóng bỏng, nát
lòng về sự mong manh quý báu của mỗi lúc và mỗi sinh vật, và từ đấy có thể
phát sinh một lòng bi mẫn vô hạn, sâu xa, trong sáng đối với tất cả hữu
tình. Sir Thomas More - tôi nghe nói - đã viết những dòng này trước khi bị
chặt đầu : “Tất cả chúng ta đều đang tiến đến nơi hành quyết, làm sao tôi
có thể thù ghét hay mong hại người nào ?” . Cảm thấy trọn vẹn sức mạnh của
cái chết nơi bạn, hoàn toàn mở lòng ra với nó, chính là để tăng trưởng
trong bạn lòng từ bi bao la vô úy làm chất liệu nuôi dưỡng cuộc đời của
bất cứ ai muốn thực sự giúp đỡ người khác.
Bởi thế
mọi sự tôi nói từ trước đến đây về săn sóc người chết có thể tóm gọn trong
hai chữ : từ bi. Bi là gì ? - Không phải chỉ là một sự đồng cảm hay săn
sóc cho người đang khổ, hay một tấm lòng nồng nàn đối với người trước mắt
bạn, hay biết rõ nhu cầu và nỗi đau của họ, mà đấy là một quyết định thực
tiễn, kiên trì, muốn làm mọi sự cần thiết khả dĩ làm vơi bớt khổ đau của
họ.
Bi mẫn
không thực sự là bi mẫn nếu nó không tích cực. Ðức Quán Tự Tại, vị Phật
của lòng bi mẫn, thường được biểu trưng có ngàn mắt để thấy nỗi khổ trong
mọi xó góc của vũ trụ, và ngàn tay duỗi ra khắp nơi để giúp đỡ.
Cái hợp lý
của bi mẫn
Tất cả
chúng ta đều biết và cảm nhận một vài lợi lạc của lòng bi mẫn. Nhưng sức
mạnh đặc biệt của Phật giáo là nó chứng minh cho bạn một cách rõ ràng cái
lý của lòng bi mẫn. Một khi bạn đã nắm vững nó, thì cái lý này làm cho sự
thực hành của bạn càng cấp thiết, càng bao quát, càng vững chãi và có căn
cứ, vì dựa trên sự sáng suốt của một lý luận mà chân lý của nó bạn càng
theo đuổi, thí nghiệm, thì càng trở nên rõ rệt.
Chúng ta
có thể nói, và hơi tin rằng đức bi mẫn thật tuyệt, nhưng hành động chúng
ta lại rất thiếu bi mẫn, phần nhiều đem lại cho chúng ta và người khác bất
mãn đau buồn, chứ không phải là hạnh phúc mà tất cả chúng ta đều tìm kiếm.
Vậy có
phải là phi lý không, khi tất cả chúng ta đều mong mỏi hạnh phúc, thế mà
hầu hết mọi hành động và cảm nghĩ của chúng ta đều đi xa khỏi hạnh phúc ấy
? Có dấu hiệu nào rõ hơn thế để chứng tỏ toàn bộ quan điểm chúng ta về
hạnh phúc chân thật - và cách đạt đến nó - là sai lầm căn để.
Ðiều gì
chúng ta tưởng tượng sẽ làm mình hạnh phúc ? Sự bảo vệ ích kỷ cho tự ngã,
có thể làm cho chúng ta có lúc vô cùng tàn ác. Nhưng kỳ thực cái ngược lại
mới đúng. Sự chấp thủ tự ngã, tự thương mình, chính là cội gốc mọi tai hại
cho kẻ khác và cho chính mình - nếu bạn nhìn sâu vào điều ấy.
Mỗi việc
tiêu cực mà chúng ta đã nghĩ hay làm đều phát sinh từ sự chấp thủ của ta
vào một tự ngã giả tạo, và sự yêu mến cái ngã ấy, cho nó là yếu tố quan
trọng nhất đời. Tất cả những tư tưởng tiêu cực, cảm xúc, dục vọng và hành
động làm nhân cho ác nghiệp của chúng ta, đều do sự chấp thủ bản ngã, yêu
mến bản ngã mà ra. Chúng ta là cục nam châm mãnh liệt u ám cuốn hút tới
chúng ta mọi trở ngại, mọi bất hạnh, lo buồn, tai ách - đời này qua đời
khác ; bởi thế chúng là căn nguyên mọi khổ đau trong sinh tử.
Khi
chúng ta đã nắm được định luật về nghiệp trong mọi năng lực ghê gớm của
nó, sự vang dội của nó qua nhiều đời ; khi chúng ta đã thấy rõ ngã thủ,
ngã ái đã lôi chúng ta vướng vào cái lưới vô minh dường như càng ngày càng
thắt chặt như thế nào ; khi chúng ta hiểu rõ cái tâm thường ngày và những
hoạt động của ta đều bị thu hẹp, trở nên hắc ám vì sự chấp thủ bản ngã,
làm cho chúng ta không thể mở lòng ra để thương yêu vô điều kiện ; khi ta
thấy sự chấp thủ ấy đã làm bế tắc mọi suối nguồn yêu thương chân thật -
thì sẽ có một lúc ta nhận định một cách vô cùng sáng suốt, như Shantideva
rằng :
Nếu tất cả tai hại
Sợ hãi và đau khổ trong đời
Phát sinh từ ngã chấp
Thì ta cần gì đến ác ma lớn ấy ?
Và trong ta nẩy sinh
quyết định diệt trừ con ma kia, kẻ thù lớn nhất của ta. Khi ác ma ấy chết
rồi, thì cái nhân của mọi khổ đau sẽ hết, và bản tính chân thật của ta sẽ
chiếu sáng, bao la và năng động.
Trong
trận chiến chống lại kẻ thù lớn nhất đó - ngã chấp, ngã ái - thì đồng minh
lớn nhất của bạn là sự thực hành tâm đại bi, đấy là lòng bi mẫn, hiến mình
phụng sự kẻ khác, gánh lấy đau khổ của họ thay vì tự yêu thương ta. Lòng
bi mẫn ấy song hành với trí vô ngã, sẽ phá hủy một cách toàn vẹn sự cố
chấp vào một tự ngã giả tạo đã từng là nguyên nhân của cuộc lang thang bất
tận của chúng ta trong sinh tử. Bởi thế, trong truyền thống Tây Tạng,
chúng tôi xem đại bi như là nguồn cội tinh túy của giác ngộ, trọng tâm của
hoạt động giác ngộ. Shantideva nói :
Còn gì cần nói nữa ?
Kẻ ngu làm việc cho tự lợi
Chư Phật làm việc cho tha lợi
Hãy nhìn sự khác nhau
Nếu tôi không đổi hạnh phúc mình
Lấy khổ đau của người
Thì tôi sẽ không đạt thành Phật quả
Và trong sinh tử tôi cũng không có niềm vui chân thật.
Nhận chân được cái
mà tôi gọi là “trí tuệ của đại bi” là thấy rõ lợi lạc của bi mẫn, cũng như
tai hại mà điều ngược lại với tâm bi mẫn đã đem lại cho ta. Chúng ta cần
phân biệt rõ ràng cái gì là lợi lộc ích kỷ của tự ngã, và cái gì là lợi
lạc tối hậu của chúng ta, vì chính do lẫn lộn hai thứ ấy mà tất cả khổ đau
đã đến. Chúng ta cứ tiếp tục tin một cách ngoan cố rằng tự che chở mình là
tốt hơn hết trong đời, nhưng sự thực trái lại. Ngã chấp tạo ra ngã ái, và
ngã ái trở lại tạo ra sự thù ghét thâm căn đối với đau khổ và điều hại.
Tuy nhiên đau khổ và điều hại vốn không có hiện hữu khách quan, cái làm
cho nó thực hữu chính là thái độ thù ghét của chúng ta đối với nó. Khi
hiểu điều này, bạn sẽ hiểu rằng chính sự thù ghét của ta đã thực sự thu
hút vào nơi ta mọi trở ngại và tiêu cực có thể xảy đến, làm cho đời ta đầy
những lo âu, mong chờ, sợ hãi. Hãy làm mòn sự thù ghét ấy bằng cách làm
mòn tâm chấp ngã và sự bám víu của nó vào một cái ngã phi thực, và khi ấy
bạn sẽ tiêu mòn mọi trở ngại và tiêu cực đeo theo bạn. Vì làm sao bạn có
thể tấn công một người hay một vật không có ở đấy ?
Vậy
chính tâm đại bi mới là sự che chở lớn nhất, và những bậc thầy quá khứ còn
biết đấy là nguồn suối chữa lành mọi bệnh tật. Giả sử bạn bị một chứng
bệnh như ưng thư hay sida. Bằng cách gánh lấy tất cả đau đớn của những
người đồng bệnh, cọng vào nỗi đau của bạn, với một tâm đầy bi mẫn, bạn sẽ
- chắc chắn - thanh lọc ác nghiệp cũ, mà chính là nguyên nhân bây giờ và
trong tương lai, của đau khổ tiếp nối.
Ở Tây
Tạng ngày xưa tôi nhớ đã nghe có nhiều trường hợp lạ lùng, những người khi
nghe mình bị bệnh nan y sắp chết, đã bố thí mọi sở hữu và đi đến nghĩa địa
để chết. Ở đây họ thực tập sự chịu thay những đau khổ cho người khác, và
điều kỳ diệu xảy ra là họ không chết, mà trở về nhà hoàn toàn khỏi bệnh.
Khi làm
việc với người sắp chết, ta sẽ có được cơ hội trực tiếp thực hiện lòng bi
mẫn trong hoàn cảnh mà lòng bi mẫn có lẽ cần thiết nhất.
Lòng bi
mẫn của bạn có ba lợi ích cho người sắp chết : trước hết, vì nó mở lòng
bạn nên bạn dễ tỏ cho người ấy niềm yêu thương vô điều kiện mà họ rất cần.
Trên một bình diện tâm linh sâu xa hơn, nếu bạn cố thể hiện tâm đại bi và
hành động từ tâm ấy, bạn sẽ tạo một bầu không khí trong đó người sắp chết
có thể được gợi hứng để tưởng đến chiều hướng tâm linh hay cả đến bắt đầu
tu tập. Trên bình diện sâu xa nhất, nếu bạn thường xuyên thực hành đại bi
đối với người chết, và làm cho họ cũng làm theo bạn, bạn có thể chẳng
những chữa lành tâm bệnh mà cả đến thân bệnh của họ. Khi ấy, bạn sẽ ngạc
nhiên thấy năng lực của tâm đại bi thực là vô giới hạn, như các bậc thầy
đã nói.
*
Asanga
(Vô Trước) là một bậc thánh tăng Ấn Ðộ, sống vào thế kỷ thứ tư. Thầy lên
núi nhập thất tu thiền quán về Phật Di Lặc với hy vọng được thấy ngài và
được ngài chỉ giáo.
Trong 6
năm thầy thiền định ráo riết mà không bao giờ thấy được một điềm lành. Quá
thất vọng, thầy bỏ nhập thất để xuống núi. Khi đi chưa bao xa, thầy trông
thấy một người đang dùng một dãi lụa để mài một thỏi sắt khổng lồ. Thầy
đến hỏi ông ta đang làm gì, ông trả lời : “Tôi mài cho thành một cây kim”.
Thầy kinh ngạc nghĩ, dù trong một trăm năm, ông ta có làm được cây kim đi
nữa, thì có lợi ích gì ? Hãy xem con người ta phải khổ nhọc về những việc
hoàn toàn phi lý như vậy. Ta đang tu tập một pháp môn thực sự có giá trị
tâm linh, vậy mà ta không chuyên tâm được đến thế. Thầy quay trở lại nơi
nhập thất. Ba năm nữa trôi qua, vẫn không có dấu hiệu nào về Phật Di Lặc.
Thầy nghĩ : “Bây giờ ta biết chắc chắn ta sẽ không bao giờ thành công”.
Bởi vậy, thầy rời chỗ ấy bỏ đi. Thầy gặp một tảng đá khổng lồ nơi một khúc
quanh của đường núi, và thấy dưới châng tảng đá ấy có một người đang bận
chà xát tảng đá bằng một cái lông chim nhúng trong nước. Thầy hỏi y làm gì
vậy, y bảo : “Tảng đá này to quá, ngăn bít mặt trời không chiếu vào nhà
tôi được, bởi thế tôi mài cho nó mòn” .
Thầy
Asanga lại kinh ngạc trước nghị lực không nao núng của người ấy, và hổ
thẹn vì mình không đủ tin tưởng bằng ông ta. Thầy bèn quay trở lại nơi
nhập thất. Lại thêm ba năm nữa trôi qua, mà vẫn chưa có được một giấc mơ
tốt. Thầy quyết định một lần cuối cùng sẽ bỏ đi không trở lại. Thầy đi
trọn một ngày, đến xế chiều thì gặp một con chó nằm bên đường. Nó chỉ còn
hai chân trước, toàn thân sau của nó đã thối rửa và đầy bọ chét. Mặc dù đã
rơi vào tình trạng thảm thương như vậy, con chó vẫn sủa người qua đường,
cố lê lết hai chân trước tới cắn người ta. Cảm thấy tràn ngập một lòng bi
mẫn sâu xa không thể chịu nổi, thầy bèn cắt một miếng thịt nơi thân mình
cho chó ăn, rồi cúi xuống bắt bọ chét. Nhưng thầy nghĩ, có lẽ nó sẽ đau
đớn vô cùng nếu thầy dùng ngón tay để bắt. Thầy bèn quỳ gối xuống đất,
nhìn vào cái đống thịt thối ghê tởm, và nhắm mắt lại. Thầy cúi sát hơn,
thè lưỡi... Ðiều kế tiếp thầy được biết là cái lưỡi thầy chạm xuống đất.
Thầy mở mắt nhìn lên, thì con chó đã biến mất, thay vì đức Phật Di Lặc
trong hào quang chói lọi đang ở trước thầy. Thầy Asanga nói : “Có thế chứ.
Tại sao trước đây ngài không bao giờ xuất hiện cho con ?” . Ðức Phật Di
Lặc nhẹ nhàng bảo : “Không phải ta chưa từng xuất hiện trước con đâu. Ta
vẫn ở trước con luôn luôn, nhưng ác nghiệp và chướng ngại ngăn che làm cho
con không trông thấy ta mà thôi. Mười hai năm khổ tu của con đã tiêu hao
một ít nghiệp chướng, nên cuối cùng con mới thấy được con chó. Rồi nhờ
lòng bi mẫn chân thành tha thiết của con mà tất cả nghiệp chướng tiêu tan,
và con có thể trông thấy ta. Nếu không tin, con hãy mang ta lên vai mà đi
xem có ai trông thấy ta chăng ?” . Asanga mang đức Phật trên vai đi vào
chợ. Thầy hỏi mọi người : “Cái gì trên vai tôi đây ?”. Phần đông đều nói :
“Có gì đâu ?” . Chỉ có một bà già đã hơi sạch nghiệp, trả lời rằng : “Thầy
đang mang một cái thây chó già thối tha trên vai thầy chứ gì”. Cuối cùng
thầy Asanga mới hiểu được năng lực bao la của lòng từ bi đã chuyển hóa ác
nghiệp, làm cho thầy trở thành một pháp khí có thể chứa đựng hình ảnh đức
Di Lặc và sự chỉ giáo của ngài. Rồi đức Di Lặc, Phật dòng họ Từ, đưa thầy
lên cung trời Ðâu Suất, ở đấy thầy nhận được nhiều giáo lý siêu việt,
thuộc về phần quan trọng nhất của Phật giáo.
Câu chuyện về
Tonglen và năng lực tâm đại bi
Các học
trò tôi thường đến hỏi tôi : “Nỗi đau đớn của bạn tôi, bà con tôi, làm cho
tôi rất khó chịu, tôi rất muốn giúp đỡ. Nhưng tôi thấy tôi thực sự không
có đủ tình yêu để giúp họ. Lòng bi mẫn của tôi bị tắt nghẽn. Tôi có thể
làm gì ?”. Ðương nhiên ai trong chúng ta cũng đã từng biết đến nỗi bất
bình sầu não vì không thể tìm ở trong tim ta đủ lòng từ bi đối với những
người đau khổ quanh ta, và do đó không đủ sức mạnh để giúp họ.
Một
trong những đức lớn lao của của Phật giáo là có nhiều pháp tu tập rất ích
lợi trong những tình huống ấy. Một phương pháp trong đó là Tonglen, Tạng
ngữ có nghĩa là “cho và nhận”. Ðấy là phương pháp hữu hiệu nhất. Khi bạn
cảm thấy mình bị khóa kín trong tự ngã của mình, thì Tonglen mở ra cho bạn
sự thật về nỗi khổ của người khác ; khi tim bạn bị bế tắt, nó phá hủy
những năng lực đang bít lấp, và khi bạn cảm thấy xa lạ với người đang đau
đớn trước mặt mình, hoặc cảm thấy cay đắng tuyệt vọng, thì phương pháp này
giúp cho bạn tìm thấy trong chính mình, để rồi tỏa ra, ánh sáng từ bi lớn
rộng của tự tâm bạn. Hơn pháp môn nào hết, pháp này rất hiệu lực để phá
trừ ngã chấp, ngã ái, nguồn gốc của mọi đau khổ của ta và cũng là gốc rễ
của mọi sự nhẫn tâm, vô cảm.
Một
trong những bậc thầy vĩ đại của pháp môn Tonglen ở Tây Tạng là Geshe
Chekhawa sống vào thế kỷ 11. Ngài rất đa văn và đã thành tựu được nhiều
hình thức thiền quán. Một hôm, khi đang ở trong phòng của bậc thầy mình,
ngài tình cờ đọc thấy hai dòng chữ trên một quyển sách mở :
Hãy cho mọi người khác tất cả lợi lộc
Hãy nhận vào mình tất cả thiệt thòi.
Lòng đại bi bao la
khó thể tưởng ở trong hai dòng chữ ấy làm ngài kinh ngạc. Ngài khởi hành
tìm xem bậc thầy nào đã viết câu ấy. Một ngày, trên đường đi ngài gặp một
người cùi cho biết là bậc thầy đó đã viên tịch. Nhưng Geshe Chekhawa vẫn
kiên trì tìm kiếm và gặp được đồ đệ chính thức của bậc thầy đã chết. Ngài
hỏi vị ấy : “Ông nghĩ tầm quan trọng của lời dạy trong câu đó là thế nào
?” . Người đệ tử đáp : “Dù ông thích hay không, ông vẫn phải thực hành lời
dạy ấy nếu muốn thành Phật” . Câu trả lời này làm Geshe Chekhawa ngạc
nhiên không khác khi ông đọc câu ấy lần đầu. Ngài ở lại bên vị đệ tử ấy 12
năm để học hỏi giáo lý ấy và thuộc nằm lòng pháp môn cho và nhận,
tức Tonglen. Trong thời gian ấy, ngài phải đương đầu với nhiều thử thách,
chịu đủ thứ gian khó, chỉ trích, chê bai. Nhưng lời dạy quá hiệu nghiệm,
sự kiên trì của ngài quá mãnh liệt, đến độ sáu năm sau, ngài đã nhổ tận
gốc rễ ngã chấp, ngã ái. Sự thực hành Tonglen cho và nhận đã chuyển hóa
ngài thành một bậc thầy của lòng từ mẫn.
Lúc đầu
Geshe Chekhawa chỉ giảng dạy pháp môn Tonglen cho một vài đệ tử gần gũi,
vì nghĩ rằng nó chỉ công hiệu đối với những người có lòng tin vào pháp môn
ấy mà thôi. Rồi ngài bắt đầu giảng dạy cho một nhóm người cùi. Bệnh cùi
vào thuở ấy khá phổ biến ở Tây Tạng, không bác sĩ nào chữa khỏi. Nhưng có
nhiều người cùi nhờ thực hành pháp Tonglen mà khỏi bệnh. Tin đồn lan rộng
rất nhanh, nhiều người cùi đến nhà ngài, dần dà trông như một bệnh viện.
Nhưng
Geshe Chekhawa vẫn không giảng dạy rộng rãi pháp môn Tonglen. Chỉ khi để ý
hiệu nghiệm của nó trên người em trai, ngài mới khởi sự phổ biến rộng rãi
pháp môn ấy. Người em của Geshe Chekhawa là một kẻ hoài nghi thâm căn cố
đế, luôn nhạo báng mọi sự tu hành. Tuy nhiên, khi ông ta trông thấy những
gì xảy đến cho những người cùi thực hành Tonglen, ông không khỏi cảm khái,
lạ lùng. Một hôm ông nấp sau cửa để nghe Geshe Chekhawa giảng dạy Tonglen,
và ông bí mật khởi sự thực hành, một mình ông biết. Khi Geshe Chekhawa để
ý thấy tính tình người em bắt đầu thuần lại, thì ngài cũng đoán đã xảy ra
chuyện gì.
Ngài
nghĩ : “Nếu pháp môn này có thể công hiệu đối với em ta, cải hóa được y,
thì cũng có thể công hiệu và cải hóa được bất cứ người nào khác” . Ðiều
này làm cho ngài thêm tin tưởng để giảng dạy pháp môn này rộng rãi hơn.
Bản thân ngài không bao giờ ngưng thực hành nó. Vào cuối đời, Geshe
Chekhawa bảo các học trò rằng, từ lâu ngài đã tha thiết cầu tái sinh vào
các địa ngục để có thể giúp đỡ tất cả những chúng sanh đau khổ ở đấy. Rủi
thay, ngài nói thêm, gần đây ngài có nhiều giấc mộng rõ ràng cho biết ngài
sẽ tái sinh vào cõi Phật. Ngài vô cùng thất vọng, nước mắt ràn rụa, ngài
nhờ các đệ tử cầu xin chư Phật cho chuyện ấy đừng xảy ra, để ngài được mãn
nguyện cứu giúp chúng sanh ở địa ngục, ước nguyện tha thiết nhất của ngài.
Làm sao để
đánh thức tâm đại bi
Trước
khi thực hành “cho và nhận”, bạn cần phải khơi dậy tâm đại bi trong bạn.
Ðiều này khó hơn ta tưởng, bởi vì suối nguồn của từ và bi nơi ta đôi khi
bị che khuất, chúng ta có thể không đạt đến được. May thay Phật giáo có
nhiều kỹ thuật đặc biệt để đào luyện tâm đại bi, giúp ta khơi mở khả năng
thương yêu bị khuất lấp ấy. Trong vô số phương pháp, tôi đã chọn ra những
pháp sau, và sắp xếp chúng theo cách đặc biệt để có được lợi ích lớn nhất
cho người hiện đại.
1-
Lòng từ : khơi nguồn
Khi
chúng ta tin rằng trong ta không có đủ tình yêu, thì có một phương pháp để
tìm ra và hô triệu nó lên. Hãy trở lại trong tâm bạn và tạo lại, quán
tưởng một tình yêu mà một người nào đã cho bạn, làm bạn thực cảm động, vào
thuở ấu thời chẳng hạn. Thông thường người ta bảo bạn hãy nhớ đến mẹ và
một đời tận tụy hy sinh của bà, nhưng nếu bạn thấy điều ấy không ổn với
mình, thì có thể nghĩ đến bà ngoại, ông ngoại, hay bất cứ ai đã từng rất
tốt với bạn trong đời. Hãy nhớ lại một ví dụ đặc biệt lúc họ thực sự chứng
tỏ tình yêu thương của họ cho bạn, và bạn cảm thấy tình yêu ấy một cách
mãnh liệt.
Bây giờ,
hãy để cho cảm thức ấy sống dậy trong tim bạn, làm cho bạn tràn ngập niềm
tri ân. Khi làm thế, tình yêu của bạn sẽ tự nhiên hướng đến người ấy. Bạn
sẽ nhớ rằng, mặc dù bạn không luôn luôn cảm thấy mình đã được hưởng đầy đủ
tình thương yêu, tuy vậy ít nhất bạn cũng đã từng có lần được yêu một cách
chân thực. Bây giờ khi biết điều ấy bạn sẽ cảm thấy - như người kia đã làm
cho bạn cảm thấy lúc đó - rằng bạn cũng đáng được yêu thương, và thực sự
là rất dễ thương.
Bây giờ
bạn hãy mở lòng ra để tình yêu tuôn tràn từ tim bạn, và trải tình yêu ấy
lên khắp mọi loài. Hãy bắt đầu với những người gần nhất, rồi trải tình yêu
đến thân hữu và những người quen biết, đến láng giềng, đến người xa lạ,
đến những người bạn không ưa, hoặc thường gặp rắc rối với họ, rồi đến
những kẻ mà bạn có thể xem như “kẻ thù” , cuối cùng là trải tình yêu khắp
cả vũ trụ. Hãy để cho tình yêu ấy càng lúc càng rộng ra vô biên. Xả là một
trong bốn phương diện cốt yếu (từ, bi, hỷ, xả) làm nên ước nguyện của tâm
đại bi. Cái thấy của tâm “xả” vô tư, thấm nhuần khắp - thực sự là khởi
điểm, là căn bản của con đường đại bi.
Bạn sẽ
thấy pháp tu này mở ra một dòng suối từ tâm, nhờ đó mà bạn sẽ thấy nó gợi
cảm cho sự sanh khởi tâm đại bi (thương xót). Như đức Di Lặc đã bảo
Asanga : “Nước đại bi chảy qua kênh lạch lòng từ” .
2-
Ðồng thể đại bi : xem người như mình
Một
phương pháp hiệu lực để khơi dậy tâm đại bi, như tôi đã nói là nghĩ người
cũng như mình. Ðức Dalai Lama nói : “Chung quy, mọi con người đều giống
nhau, làm bằng thịt, xương và máu. Tất cả chúng ta đều muốn được hạnh phúc
và tránh đau khổ. Hơn nữa, chúng ta đều có bình quyền được sung sướng. Nói
tóm, thực là quan trọng để nhận ra chỗ giống nhau của chúng ta, là thân
phận làm người” .
Hãy ví
dụ bạn đang gặp khó khăn gay cấn với một người thân, như cha, mẹ, chồng,
vợ, người yêu hay bè bạn. Ðiều hay nhất là bạn hãy xem người ấy như chính
mình, một người cũng có những cảm xúc như mình, cũng muốn tránh đau khổ.
Sự nghĩ đến người ấy như mình, sẽ làm cho bạn mở lòng ra với họ, đem lại
cho bạn nhiều trí tuệ hơn để biết cách giúp đỡ. Nếu bạn xem người như
mình, thì dễ mở ra và đem lại một ý nghĩa mới cho những mối tương quan.
Hãy tưởng tượng mọi xã hội, quốc gia khởi sự nhìn nhau bằng cách ấy, thì
cuối cùng chúng ta sẽ có được khởi nguyên của một nền tảng hòa bình vững
chắc trên quả địa cầu, và sẽ có sự sống chung an lạc của mọi dân tộc.
3-
Tâm đại bi : đổi địa vị mình với người khác
Khi một
người đang khổ mà bạn không biết làm sao để giúp đỡ họ, bạn hãy đặt mình
hoàn toàn vào địa vị của họ. Bạn hãy tưởng tượng một cách sống động, mình
sẽ như thế nào nếu phải đau khổ như vậy, tự hỏi : “Tôi sẽ cảm thấy ra sao
? Tôi sẽ muốn bạn bè tôi đối xử với tôi như thế nào ? Tôi cần nhất cái gì
nơi họ ?” .
Khi bạn
đổi địa vị với họ như thế là bạn đang di chuyển lòng thương yêu của mình
đối với mình thành ra lòng thương yêu người khác. Như vậy, đấy là cách rất
hiệu nghiệm để nới lỏng kềm tỏa của ngã chấp, ngã ái và làm bung ra trọng
tâm của lòng bi mẫn.
4-
Dùng một người bạn để phát tâm
Một cách
cảm động khác để khơi dậy đức bi mẫn đối với người đang đau khổ là tưởng
tượng một trong những người mà bạn thương mến nhất, đang ở vị trí của
người đau khổ ấy
Hãy
tưởng tượng anh ruột, hay con gái, hay bà con, hay bạn thân của bạn đang ở
trong hoàn cảnh đau khổ như thế, tự nhiên bạn sẽ mở lòng ra, và sự bi mẫn
sẽ thức dậy : bạn không mong muốn gì hơn là giải thoát họ khỏi nỗi đau
đớn. Bây giờ, bạn hãy di chuyển lòng bi mẫn đã được khơi dậy trong tâm
bạn, và hướng nó về con người đang cần sự giúp đỡ của bạn. Khi ấy bạn sẽ
thấy mình tự nhiên muốn giúp và dễ dàng hướng tâm đến việc giúp đỡ.
Ðôi khi
người ta hỏi tôi : “Nếu tôi làm như vậy, liệu người thân mà tôi tưởng
tượng đang đau khổ ấy có bị hại không ?”. Ngược lại, nếu bạn nghĩ về họ
với niềm yêu thương, bi mẫn như thế, thì rất dễ có lợi cho họ, có thể làm
cho họ hết khổ, hết cơn đau đớn mà họ có thể đã, đang hoặc sẽ trải qua.
Nhờ bạn đem họ làm khí cụ để khơi dậy tâm bi mẫn, dù chỉ trong chốc lát,
mà họ sẽ được vô vàn lợi ích. Vì họ đã góp phần giúp bạn mở lòng ra, phát
tâm giúp đỡ người khác, nên công đức của hành vi ấy tự nhiên sẽ quay về
cho họ.
Bạn cũng
có thể hồi hướng công đức của hành vi ấy cho người bà con hay bạn của
mình, người đã giúp bạn mở lòng ra. Bạn có thể mong sự an lạc đến với họ,
và cầu nguyện trong tương lai họ sẽ hết khổ. Bạn sẽ biết ơn người bạn ấy,
và người này cũng cảm thấy vui và tri ân bạn, nếu bạn cho họ biết là họ đã
giúp cho bạn phát tâm đại bi.
Bởi thế
khi bạn hỏi : “Làm như thế (tưởng tượng một người thân sắp chết hoặc ốm
đau) thì người thân của tôi có hại gì không ?” là chứng tỏ bạn chưa thực
sự hiểu thấu năng lực mầu nhiệm của tâm đại bi. Nó ban ân sủng và chữa
lành mọi người liên hệ : người phát tâm, người làm khí cụ qua đó tâm đại
bi được phát, và người mà tâm đại bi hướng đến. Như Shakerpeare nói qua
lời Partia (trong vở kịch Merchant of Venice) :
Ðức tính của tình yêu không hạn cuộc
Rơi như mưa xuân từ trời cao
Xuống đến trần gian nó ban ân sủng
Ðến người cho, cũng như kẻ nhận...
Tâm đại bi là viên
ngọc châu như ý mà ánh sáng chữa lành tất cả bệnh tỏa khắp muôn phương.
Có một
câu chuyện rất đẹp chứng minh điều này mà tôi yêu thích. Ðức Phật có lần
kể chuyện tiền thân của Ngài, trước khi Ngài đạt chánh giác. Một vị vua có
ba con trai, đức Phật trong kiếp ấy là con út, tên gọi là Ðại hữu tình.
Ðại hữu tình bẩm chất rất từ bi, xem tất cả muôn loài như con đẻ. Một hôm,
khi vua và đình thần vào rừng cắm trại, ba vị hoàng tử đi chơi trong rừng
sâu. Họ gặp một con hổ cái đã sinh con, đang quá đói đến nỗi sắp ăn thịt
bầy hổ con của nó. Ðại hữu tình hỏi các anh :
“Con cọp
mẹ cần ăn cái gì bây giờ để lai tỉnh ?” .
Họ trả
lời : “Chỉ có thịt và máu tươi” .
“Ai có
thể cho nó thịt và máu để cứu sống nó và đàn con nó ?”
“Quả
thế, ai nhỉ ?” . Các anh trả lời.
Ðại hữu
tình rất xúc động trước nỗi đau đớn của con hổ cái và đàn con. Ông nghĩ :
“Ðã bao lâu ta lang thang không mục đích qua dòng sanh tử, hết đời này đến
đời khác, và vì tham sân si ta đã không làm được gì để giúp đỡ chúng sanh.
Ðây là một cơ hội lớn cho ta” .
Các
hoàng tử sắp trở về lại chỗ cha mẹ, nhưng Ðại hữu tình nói : “Hai anh đi
về trước đi, em sẽ theo kịp” .
Lặng lẽ,
Ngài bò tới con hổ đói, đến thẳng nơi nó, nằm xuống trước mặt nó để hiến
mình làm thực phẩm cho hổ. Hổ cái nhìn Ngài nhưng quá yếu đến nỗi không
thể mở miệng. Bởi thể, vị hoàn tử tìm một cây gậy nhọn, chọc thủng một lỗ
sâu nơi thân mình cho máu vọt ra. Con hổ liếm máu ấy rồi mới đủ sức há
miệng ra mà ăn thịt Ngài.
Ðại hữu
tình đã đem thân cho con hổ cái ăn thịt để cứu sống bầy con nó, và do công
đức của tâm đại bi ấy, Ngài đã tái sinh lên các cõi cao hơn, và cuối cùng
đạt giác ngộ, thành Phật. Nhưng không phải qua hành vi ấy Ngài chỉ làm lợi
ích cho chính Ngài thôi ; năng lực đại bi nơi Ngài còn tịnh hóa con hổ cái
và bầy con của nó thoát khỏi ác nghiệp, và khỏi nợ nghiệp mà chúng có thể
mắc Ngài do Ngài cứu chúng. Vì hành vi bi mẫn quá mãnh liệt ấy đã tạo một
dây nối lâu xa về sau : mẹ con hổ đã thác sinh làm 5 đệ tử đầu tiên của
Ngài sau khi Ngài thành đạo. Câu chuyện này cho ta thấy năng lực của tâm
đại bi thật bao la mầu nhiệm xiết bao.
5-
Làm sao để thiền quán tâm Bi
Nhưng
như tôi đã nói, khơi dậy năng lực tâm bi mẫn này trong ta không phải luôn
luôn dễ dàng. Tôi tự thấy những cách đơn giản nhất lại là cách trực tiếp
và hiệu nghiệm nhất. Mỗi ngày, cuộc sống đem lại cho ta vô số cơ hội để mở
lòng ra, chúng ta chỉ cần tóm lấy chúng : một bà già đi qua trước mặt bạn
với vẻ cô đơn buồn bã, gân chân bong lên, hai tay khó nhọc xách hai túi
đầy ; một ông già đang lê gót trước mặt bạn vào bưu điện ; một bé trai
chống nạng đang bối rối cố băng qua đường trong một buổi chiều kẹt xe ;
một con chó chảy máu gần chết nằm trên đường ; một cô bé ngồi khóc nức nở
trong tàu hầm. Bật truyền hình lên có lẽ bạn sẽ thấy ngay một bà mẹ ở
Beyrut quỳ bên xác con, một bà ngoại ở Moscou chỉ vào bát cháo duy nhất
trong ngày, đang lo ngày mai không được như thế ; hoặc một em bé mắc phải
Sida ở Roumanie đang nhìn bạn với đôi mắt cạn hết sức sống. Bất cứ một
cảnh nào trên đây cũng có thể mở con mắt lòng bạn ra trước thực trạng khổ
đau lớn rộng của loài người. Ðừng xao lãng tình thương, nỗi buồn đau mà
cảnh ấy gợi cho bạn. Trong lúc bạn cảm thấy lòng bi thương dâng trào, thì
đừng có dẹp nó xuống, rũ sạch nó đi, và cố quay về thật nhanh trạng thái
“bình thường” của bạn. Ðừng sợ cảm xúc, đừng lúng túng vì nó, hoặc làm
khuây lãng nó, để trở thành vô cảm. Hãy bén nhạy với nỗi thương tâm : hãy
xử dụng sự dâng trào tâm xót xa ấy, tập trung vào nó, thiền quán thật sâu
về nó. Khi làm thế, bạn sẽ nhận thấy lâu nay mình thật đui mù trước cảnh
khổ đau làm sao, rằng cái khổ đau bạn kinh quá hay trông thấy, chỉ là một
phần bé nhỏ của nổi khổ nhân loại. Tất cả mọi loài ở khắp nơi đều khổ, hãy
để lòng bạn đi ra, đến với tất cả trong niềm bi mẫn tự nhiên và vô lượng,
và hướng sự bi mẫn ấy, cùng với ân sủng chư Phật, đến việc giảm bớt thống
khổ ở khắp nơi.
Ðức bi
mẫn là một điều lớn lao cao cả, hơn sự thương hại rất nhiều. Lòng thương
hại có gốc rễ trong nỗi sợ hãi và cảm thức kiêu căng, bề trên, đôi khi là
một cảm giác nhẹ nhõm ngụ ý “may thay ta không bị” . Stephen Levine nói :
“Khi bạn chạm xúc nỗi đau của người nào với sự sợ hãi, thì đó là lòng
thương hại ; với tình thương thì đó là lòng bi mẫn” . Tập luyện đức bi mẫn
là ý thức rõ mọi loài chúng sanh đều bình đẳng và đau khổ như nhau, tôn
trọng những người đau khổ , và biết bạn không khác gì, không hơn gì bất cứ
ai.
Bởi vậy, phản ứng
đầu tiên của bạn khi thấy người nào đau khổ, trở thành - không chỉ là
thương hại - lòng bi mẫn sâu xa. Bạn còn cảm thấy niềm kính trọng, tri ân
đối với họ, vì họ giúp bạn phát triển cái đức tính mà bạn cần nhất trên
đường tiến đến giác ngộ. Bất cứ ai với sự đau khổ của họ đã nhắc nhở bạn
phát tâm đại bi, thì quả là họ đem cho bạn một món quà quý nhất. Bởi thế,
ở Tây Tạng chúng tôi nói người ăn xin xin bạn tiền, hay bà già ốm đau làm
bạn thương tâm, có thể là Phật trá hình hiện ra để giúp bạn tăng trưởng
tâm đại bi, và nhờ thế mà tiến đến cõi Phật.
6-
Làm sao hướng tâm đại bi của bạn
Khi bạn
thiền quán sâu xa về đại bi tâm, thì trong bạn sẽ phát sinh một quyết định
mạnh mẽ muốn làm nhẹ bớt khổ đau cho muôn loài, và một ý thức trách nhiệm
mãnh liệt đối với mục tiêu cao quý ấy. Vậy có hai cách để hướng tâm đại bi
và làm cho nó trở nên tích cực.
Cách thứ
nhất là cầu nguyện với chư Phật và các bậc giác ngộ, tự tâm khảm sâu xa
của bạn, rằng mọi sự bạn làm, nói và nghĩ đều đem lại lợi ích, hạnh phúc
cho hữu tình. Lời một bài kinh có câu : “Cho con được hữu ích” . Hãy cầu
nguyện sao cho bạn làm lợi lạc mọi người nào tiếp xúc bạn, và giúp họ
chuyển hóa được nỗi khổ và cuộc đời của họ.
Cách thứ
hai và cách phổ quát, là hướng tâm đại bi đến tất cả hữu tình bằng cách
hồi hướng tất cả thiện nghiệp của bạn, sự tu tập của bạn, cho sự an vui
hạnh phúc của hữu tình, và nhất là cho họ tiến đến giác ngộ. Vì khi thiền
quán sâu xa về tâm đại bi, bạn sẽ nhận chân rằng cách duy nhất để bạn có
thể giúp đỡ trọn vẹn chúng sanh là chính bạn phải đạt giác ngộ. Từ đó phát
sinh một quyết định và tinh thần trách nhiệm đại đồng, và ước nguyện đại
bi khởi lên nơi bạn - mong muốn đạt giác ngộ để lợi lạc tất cả hữu tình.
Ước
nguyện đại bi ấy, Phạn ngữ gọi là Bồ-đề tâm (Bodhicitta). Bodhi là
tính giác của chúng ta, còn citta là tâm. Vậy có thể dịch là “cái
trọng tâm hay trái tim của tâm giác ngộ” . Ðánh thức và phát triển trọng
tâm của tâm giác ngộ đó tức là làm cho chín mùi hạt giống Phật tính, cái
hạt giống - mà khi sự luyện tập về đại bi đã trở nên toàn hảo, bao trùm
khắp - sẽ đơm hoa kết trái thành quả Phật. Bồ-đề tâm như vậy là gốc rễ,
suối nguồn của toàn thể con người tu tập Ðó là lý do mà truyền thống chúng
tôi tha thiết cầu nguyện như sau :
Mong ai chưa phát Bồ-đề tâm thì hãy phát
Ai đã phát Bồ-đề tâm rồi
Mong cho Bồ-đề tâm ấy ngày càng tăng.
Và đấy là lý do
Shatideva ca tụng Bồ-đề tâm như sau :
Ðấy là vị cam lồ tối thượng thắng lướt cả uy thế của thần chết.
Ðó là kho tàng vô tận, trừ diệt nghèo khó trong thế gian,
Ðó là vị thuốc hay làm dịu cơn đau cuộc đời.
Ðó là tàng đại thụ che chở muôn loài lang thang mỏi mệt trên đường sinh
tử.
Ðó là cây cầu lớn đưa đến giải thoát các đọa xứ.
Ðó là vầng trăng mới mọc trong tâm, xua tan phiền não của phân biệt.
Ðó là mặt trời vĩ đại xóa sạch mây mù vô minh của thế nhân.
Những giai
đoạn của Tonglen
Bây giờ
sau khi đã giới thiệu nhiều phương pháp khởi tâm đại bi, và sự quan trọng
cùng năng lực của tâm ấy, tôi có thể trình bày cho bạn pháp môn Tonglen
một cách hữu hiệu hơn. Vì bây giờ bạn đã có được động lực, sự hiểu biết,
và khí cụ để làm việc ấy, để lợi lạc nhất cho chính bạn và cho tất cả
người khác. Tonglen là một pháp môn trong đạo Phật, nhưng tôi tin chắc bất
cứ ai cũng có thể làm. Dù bạn không tin theo tôn giáo nào, tôi cũng đề
nghị bạn cứ thực tập mà xem. Tôi đã thấy Tonglen có lợi ích rất lớn.
Nói rất
đơn giản, thì Tonglen, pháp môn “cho và nhận” là rước vào đau đớn khổ sở
của những người khác, và ban cho họ hạnh phúc của bạn, niềm an lạc, thoải
mái của bạn. Cũng như một phương pháp thiền đã giải thích trước đây,
Tonglen xử dụng trung gian là hơi thở. Geshe Chekhawa viết : “Cho và nhận
cần thực tập xen kẽ. Sự xen kẽ này nên đặt vào trung gian là hơi thở”.
*
Tôi biết
bằng chính kinh nghiệm bản thân, thật khó mà tưởng tượng rước vào đau khổ
của người khác, nhất là người bệnh và người sắp chết, nếu trước đấy bạn
không xây dựng trong bạn một năng lực và niềm tin vào đại bi tâm. Chính
năng lực và niềm tin này sẽ đem lại cho bạn cái khả năng để chuyển di khổ
đau của họ.
Ðây là
lý do tôi luôn khuyên bạn khởi sự thực tập Tonglen trên chính mình trước
khi làm cho người khác. Trước khi bạn trải từ bi đến người khác, bạn hãy
mở lòng từ bi, làm cho sâu sắc, tăng cường nó ngay trong chính bạn, và
chữa cho bạn khỏi sự dè dặt, lo buồn, giận dữ, sợ hãi có thể gây chướng
ngại trên đường thực hành Tonglen.
Qua
nhiều năm, một phương pháp giảng dạy Tonglen đã được phát triển, mà các
học viên của tôi đã cho là rất bổ ích và có hiệu lực chữa trị. Có 4 giai
đoạn.
Pháp tu
Tonglen sơ khởi
Cách hay
nhất tu tập pháp này hay bất cứ pháp nào của Tonglen là khởi đầu bằng cách
gợi lên tự tánh tâm và an trú trong đó : Khi bạn an trú tự tánh của tâm và
thấy mọi sự một cách trực tiếp là “trống không”, như huyễn, như mộng, tức
là bạn đang trú trong trạng thái gọi là “tuyệt đối” hay “Bồ-đề tâm tuyệt
đối”, trái tim của tâm giác ngộ. Giáo lý ví tâm Bồ-đề tuyệt đối này với
một kho tàng bất tận của bố thí ; và tâm đại bi, khi được hiểu trong ý
nghĩa sâu xa nhất của nó, chính là tia sáng tự nhiên của tự tính tâm,
phương tiện thiện xảo vươn lên từ trái tim của trí giác.
Hãy khởi
sự ngồi, và đưa tâm về nhà. Hãy để cho tất cả ý tưởng của bạn an vị, đừng
mời mọc chúng, cũng đừng theo dõi chúng. Nhắm mắt lại nếu bạn muốn. Khi
nào bạn cảm thấy thực sự an tịnh, tập trung, thì bạn khởi động chút xíu và
bắt đầu pháp tu.
1-
Tonglen cho hoàn cảnh
Chúng ta
đều biết trạng thái và bầu không khí của tâm ta có một mãnh lực lớn đối
với ta. Hãy ngồi với tâm bạn và cảm thọ trạng thái tâm và bầu không khí
của nó. Nếu bạn cảm thấy trạng thái ấy là khó chịu, hay bầu không khí tối
tăm, thì bạn hãy hít vào, hãy thấm vào trong tâm bất cứ gì bất thiện, và
khi bạn thở ra, trong tâm đưa ra sự an tịnh, sáng sủa, niềm vui, như vậy
bạn có thể thanh lọc, chữa lành bầu không khí và môi trường trong tâm bạn.
Ðấy là lý do tôi gọi giai đoạn này là thực tập “Tonglen hoàn cảnh”.
2-
Tonglen tự ngã
Vì mục
đích sự tập luyện, bạn hãy chia con người bạn ra hai khía cạnh A và B. A
là khía cạnh lành mạnh trong bạn, khía cạnh bi mẫn, yêu thương ấm áp, như
một người bạn chân tình, thực sự muốn ở đấy vì bạn, rất sẵn sàng, cởi mở,
không bao giờ phê phán bạn, dù bạn có lỗi lầm nào. B là khía cạnh của bạn
đã bị tổn thương, cảm thấy bị hiểu lầm, bất mãn, cay đắng, giận dữ, có thể
chẳng hạn lúc nhỏ đã bị đối xử bất công, bị lợi dụng, hoặc đã khổ đau
trong các mối tương quan bạn bè, bị xã hội ruồng rẫy.
Bây giờ,
khi bạn hít vào, hãy tưởng tượng A đang hoàn toàn mở lòng ra, từ bi chấp
nhãn và ôm choàng mọi đau khổ, tiêu cực, tổn thương của B. Cảm động vì
điều này, B mở lòng ra, và tất cả đau khổ tiêu tan trong cái ôm của lòng
bi mẫn ấy.
Khi bạn
thở ra, hãy tưởng tượng A gửi đến B tất cả niềm yêu thương tin cậy, tiện
nghi, hạnh phúc và niềm hỷ lạc.
3-
Tonglen trong một hoàn cảnh sống
Hãy
tưởng tượng ra một hoàn cảnh trong đó bạn đã hành động rất quấy, một hoàn
cảnh trong đó bạn cảm thấy phạm tội, làm bạn không muốn nghĩ tới.
Khi bạn
hít vào, hãy nhận biết trách nhiệm về hành vi bạn trong hoàn cảnh đặc biệt
ấy, không cố biện minh cho hành vi của bạn. Hãy nhận chân rằng bạn đã làm
sai, và tha thiết cầu tha thứ. Bây giờ, khi thở ra, bạn hãy tuôn ra sự hòa
giải, tha thứ, hàn gắn, cảm thông.
Cứ như
thế, hít vào sự quở trách, thở ra sự giải trừ tai hại ; hít vào trách
nhiệm, thở ra sự chữa lành, tha thứ và hòa giải.
Thực tập
này rất hiệu nghiệm, có thể cho bạn cái can đảm đi đến thăm người mà bạn
đã làm tổn thương, cho bạn sức mạnh và thiện chí để nói thẳng với họ và
thực sự xin lỗi họ từ đáy lòng bạn.
4-
Tonglen cho người khác
Hãy
tưởng tượng một người mà bạn cảm thấy rất gần gũi, nhất là một người đang
đau khổ. Khi thở vào, tưởng tượng bạn thở vào tất cả đau khổ của họ với
tâm đại bi, và khi thở ra, bạn gở đến nơi họ niềm thân thiết, hàn gắn, yêu
thương, niềm vui, hạnh phúc.
Cũng như
trong thực tập về tâm từ, hãy nới rộng dần dần phạm vi của bi tâm bao gồm
trước nhất những người thân, rồi đến những người dưng, rồi đến những người
bạn ít ưa, thường gặp rắc rối với họ, và cuối cùng cả đến những người mà
bạn cho là quỷ quái, tàn bạo thực sự. Hãy để cho bi tâm của bạn lan khắp
không chừa một ai :
Hữu tình vô lượng như hư không
Mong tất cả đều dễ dàng chứng được tự tính
Mong cho mỗi chúng sanh trong sáu đường
Ðã từng là cha mẹ tôi trong đời này hay đời khác đều đạt đến thật địa,
sự toàn hảo tối sơ.
Trong đoạn này tôi
đã đưa ra đường lối thực hành toàn diện để chuẩn bị cho pháp Tonglen chính
thức, mà bạn sẽ thấy bao hàm một tiến trình quán tưởng phong phú hơn
nhiều. Thực tập sơ khởi này làm việc với thái độ tâm thức của bạn, khiến
bạn chuẩn bị mở lòng ra và gợi cảm hứng cho bạn.
Không
những nó giúp bạn chữa lành hoàn cảnh tâm bạn, nỗi đau khổ quá khứ của
bạn, và khởi sự giúp ích mọi hữu tình nhờ bi tâm của bạn, mà nó còn giúp
bạn thân thiết, quen thuộc, an trú tiến trình “cho và nhận” trong phép
Tonglen chính thức.
Pháp Tonglen
chính thức
Trong
phép “cho và nhận”, chúng ta nhận vào, qua tâm đại bi - tất cả đau khổ
thân tâm của mọi hữu tình - nỗi sợ hãi, bất mãn, đau đớn, giận dữ, tội
lỗi, cay đắng, hoài nghi, điên tiết ; và chúng ta cho họ, qua tâm đại từ,
tất cả hạnh phúc, sự thoải mái, an tâm, chữa lành và sự thành tựu của ta.
1- Trước
khi thực tập, ngồi yên tĩnh và đưa tâm về nhà. Rồi xử dụng bất cứ phương
pháp nào đã chỉ, mà thích hợp với bạn. Hãy thiền quán sâu xa về tâm đại
bi. Triệu thỉnh tất cả Phật, Bồ-tát, thánh chúng, để nhờ ân phước các
ngài, mà tâm bạn có thể phát sinh đại bi.
2- Hãy
tưởng tượng trước mặt bạn - càng sống động càng tốt - một người thân đang
đau khổ, hãy cố tưởng đến mọi khía cạnh của cơn đau và nỗi buồn khổ của
họ. Khi đã thấy tâm mình mở ra với họ trong niệm đại bi, bạn hãy tưởng
tượng tất cả khổ đau của họ nhóm tụ thành một khối lớn khói nóng màu đen.
3- Bây
giờ, hãy quán tưởng khi bạn thở vào, luồng khói đen ấy tan ra theo hơi thở
của bạn và đi vào cốt lõi của ngã chấp trong tim bạn. Ở đấy nó hoàn toàn
phá hủy mọi dấu vết của ngã ái, và nhờ vậy tịnh hóa tất cả ác nghiệp trong
bạn.
4- Tưởng
tượng, vì ngã ái của bạn đã bị phá hủy, nên cốt lõi của tâm giác ngộ, tức
Bồ-đề tâm được hoàn toàn hiển bày. Vậy, khi thở ra, hãy quán tưởng bạn
đang gởi đến người bạn đang đau khổ của bạn, tia sáng mát dịu của hỷ lạc,
hạnh phúc, bình an, và ánh sáng ấy đang tịnh hóa mọi ác nghiệp của họ.
Theo
Shantieva, bạn hãy quán tưởng Bồ-đề tâm đã chuyển hóa tim bạn, toàn thân,
toàn thể bạn thành một viên bảo châu như ý có thể ban cho ai bất cứ gì họ
mong muốn, và cung cấp đúng cái gì họ đang cần. Tâm đại bi là viên bảo
châu như ý, vì nó sẵn có năng lực đem lại cho mỗi hữu tình cái mà nó cần
nhất, để giảm bớt đau khổ và đem lại cho họ sự viên mãn chân thực.
5- Như
vậy, khi ánh sáng của Bồ-đề tâm bạn tuôn ra đến nơi người đang khổ, thì
điều cốt yếu là bạn phải tin chắc mọi nghiệp ác của y đã sạch, và cảm thấy
một niềm vui sâu xa bền bỉ vì người ấy đã thoát khổ hoàn toàn.
Khi tiếp
tục thở vô ra bình thường, bạn hãy tiếp tục tập luyện như thế. Thực tập
đối với một người thân đau khổ giúp bạn nới rộng dần phạm vi của lòng bi
mẫn để chịu thay đau đớn và tịnh hóa nghiệp ác của tất cả hữu tình, đem
cho họ tất cả hạnh phúc, hỷ lạc, an bình của bạn. Ðây là mục tiêu kỳ diệu
của pháp môn Tonglen, và trong nghĩa rộng, của toàn thể con đường đại bi.
Tonglen cho
một người sắp chết
Bây giờ,
tôi nghĩ các bạn đã thấy Tonglen có thể đặc biết hướng về người sắp chết
như thế nào, nó đem lại cho bạn sức mạn và lòng tin như thế nào khi bạn
giúp đỡ người sắp chết ; và nó có thể cống hiến cho người ấy lợi ích thực
tiễn chuyển hóa ra sao.
Tôi đã
nói đến pháp Tonglen chính thức. Bây giờ bạn thay vì quán tưởng người thân
đang đau đớn, hãy quán tưởng người sắp chết. Hãy trải qua các giai đoạn
đúng như trong pháp Tonglen chính thức. Trong pháp quán phần 3, hãy tưởng
tượng mọi khía cạnh của nỗi đau đớn nơi người sắp chết, nỗi sợ hãi của họ,
tất cả tụ lại thành một đống khói đen nóng ghê rợn, mà bạn thở vào, và khi
làm thế, hãy quán bạn đang phá hủy ngã chấp, ngã ái, và thanh lọc tất cả
nghiệp ác nơi bạn.
Rồi cũng
như trên, khi thở ra, bạn quán ánh sáng của tâm Bồ-đề đang tỏa đến người
sắp chết, đem lại bình an, thoải mái, và thanh lọc mọi ác nghiệp nơi họ.
Vào mọi
lúc trong đời, chúng ta đều cần tình thương, nhưng không lúc nào cấp thiết
cho bằng lúc ta đang chết. Còn món quà an ủi mầu nhiệm nào hơn cho người
sắp chết khi họ biết mình đang cầu nguyện cho họ, đang hóa giải hết khổ
đau của họ và tịnh hóa ác nghiệp họ bằng cách thực hành pháp “chịu thay”
cho họ ?
Dù họ không biết bạn
đang tu tập cho họ, bạn vẫn là đang giúp họ, đồng thời họ đang giúp bạn.
Họ đang thực sự giúp bạn phát triển tâm đại bi, và nhờ thế bạn thanh lọc
bản thân, chữa lành chính bạn. Với tôi, mỗi người sắp chết là một vị thầy
đem lại cho tất cả những người giúp đỡ vị ấy một cơ hội để tự chuyển hóa
nhờ phát triển tâm đại bi.
Bí quyết
thánh linh
Bạn có
thể tự hỏi : “Nếu tôi chịu thay tất cả đau đớn khổ sở của người khác, liệu
tôi có tự hại mình chăng ?”. Nếu bạn còn chút do dự nào, và cảm thấy chưa
đủ năng lực, can đảm hay đại bi để thực tập Tonglen một cách nhiệt tâm,
thì đừng lo lắng. Bạn chỉ cần tưởng mình đang làm việc ấy, tự nhủ trong
tâm : “Khi thở vào, tôi đang mang vào đau khổ của bạn tôi hay người khác ;
và khi thở ra, tôi đang đem cho họ hạnh phúc và bình an” . Chỉ cần làm thế
cũng tạo một khí hậu trong tâm, khiến bạn dễ dàng khởi sự thực tập Tonglen
một cách trực tiếp.
Nếu bạn
do dự hoặc không thể làm trọn vẹn sự tu tập, bạn cũng có thể làm phép
“chịu thay” dưới dạng một lời cầu nguyện, ước vọng sâu xa muốn giúp đỡ cho
hữu tình. Bạn có thể cầu, chẳng hạn : “Mong cho con có thể chịu thay người
khác ; mong sao con có thể cho họ niềm an lạc hạnh phúc của con”. Sự cầu
nguyện này sẽ tạo điều kiện tốt lành để đánh thức khả năng thực hành “chịu
thay” của bạn về sau.
Ðiều duy
nhất bạn nên biết chắc, đó là pháp Tonglen chỉ có làm hại cho một cái đã
hại bạn nhiều nhất, đó là ngã ái, ngã thủ nơi bạn, gốc rễ của đau khổ. Nếu
bạn thực tập thường xuyên, ngã chấp ấy sẽ yếu dần, và bản tính chân thực,
tâm đại bi sẽ có cơ hội xuất đầu lộ diện, càng ngày càng mạnh. Tâm đại bi
của bạn càng mạnh càng lớn, thì niềm tin, đức vô úy nơi bạn càng sâu xa.
Bởi thế tâm đại bi lại hóa ra là tài nguyên lớn nhất của bạn, sự che chở
bảo đảm nhất. Shantideva nói :
Ai muốn nhanh chóng có được sự che chở
Cho cả mình lẫn người
Thì hãy thực hành bí quyết thánh linh :
Chịu thay khổ đau và ban vui kẻ khác.
Bí quyết linh thiêng
của pháp Tonglen này là một pháp mà mọi bậc thánh và đạo sư của mọi truyền
thông đều biết, sống và thể hiện nó. Và chính sự từ bỏ, cùng với nhiệt
tình của trí tuệ và đại bi chân thực, đã làm cho đời họ tràn đầy hỷ lạc.
Một tấm gương hy
sinh cho người ốm và người chết, tỏa sáng niềm vui của “cho và nhận” ngày
nay là Mẹ Teresa. Không lời nào diễn tả tinh túy của Tonglen hay hơn lời
của bà : “Tất cả chúng ta đều mong mỏi được lên thiên đường với Chúa,
nhưng có điều là chúng ta đều có khả năng ở thiên đường với Chúa ngay lúc
này. Và sống hạnh phúc với Chúa ngay bây giờ có nghĩa là :
Yêu thương như ngài yêu thương
Giúp đỡ như ngài giúp đỡ
Cho như ngài cho
Phụng sự như ngài phụng sự
Cứu giúp như ngài cứu giúp
Ở với ngài trọn hăm bốn tiếng
Sờ hóa thân của ngài dưới dạng đau thương.
Một tình yêu rộng
lớn như thế đã chữa lành những người bệnh cùi của Geshe Chekhawa ; nó cũng
có thể giúp chữa chúng ta khỏi một căn bệnh nguy hiểm hơn thế : bệnh vô
minh, mà nhiều đời kiếp đã ngăn che ta trực nhận tự tánh tâm, ngăn cản ta
giải thoát.