Tạng thư Sống Chết
The Tibetan Book Of Living And
Dying
Sogyal Rinpoche
Ni sư Thích Nữ Trí Hải
dịch
--- o0o --
PHẦN BA: CHẾT VÀ TÁI SINH
18- Bardo tái sanh
Ðối với
phần đông người, kinh nghiệm về cái chết chỉ có nghĩa là bước vào một
trạng thái quên lãng ở cuối tiến trình chết. Ba giai đoạn của sự tan rã
bên trong có thể rất nhanh, “như ba cái búng tay”. Những tinh chất trắng
và đỏ của cha và mẹ gặp nhau ở tim, và kinh nghiệm màu đen gọi là “thành
tựu” khởi lên. Ánh sáng Căn bản xuất hiện, nhưng ta không nhận ra được nó,
và ta rơi vào trạng thái hôn mê bất tỉnh.
Như tôi
đã nói, đây là sự hụt trực nhận lần thứ nhất, hay giai đoạn vô minh thứ
nhất, Tạng ngữ gọi là Ma Rigpa, hay “Bất giác”, ngược lại với Rigpa, sự
tỉnh giác về tự tánh tâm. Ðiều này đánh dấu trong ta sự khởi đầu một chu
kỳ khác của sinh tử, chỉ bị gián đoạn chốc lát vào lúc chết. Khi ấy
Bardo pháp tánh xuất hiện và nó chỉ vút qua như một làn chớp, không
được nhận ra. Ðây là sự hụt trực nhận lần thứ hai, giai đoạn hai của vô
minh bất giác.
Ðiều đầu
tiên mà ta ý thức đến là “như thể trời và đất lại cách ngăn trở lại” :
Chúng ta thình lình tỉnh dậy trong trạng thái trung gian giữa cái chết và
một tái sanh mới. Ðây gọi là Trung Ấm của tái sanh, sipa Bardo, và
là Trung Ấm thứ ba của sự chết.
Khi chúng
ta không nhận ra được Ánh sáng Căn bản và không nhận ra Bardo pháp
tánh, những hạt giống của khuynh hướng tập quán trong ta được khơi dậy,
bừng tỉnh. Bardo tái sanh bắt đầu từ khi bừng tỉnh này cho đến khi
chúng ta nhập vào bào thai của đời sống mới.
Danh từ
Sipa trong Sipa Bardo dịch là “Trung Ấm tái sinh”, cũng có
nghĩa là “khả năng” và “hiện hữu”. Trong Trung Ấm này, vì tâm thức không
còn bị giới hạn và ngăn che bởi cái thân vật lý của thế giới này, nên
những “khả năng” là vô biên cho việc tái sinh trong các cõi. Và Bardo
này có “hiện hữu” bên ngoài là thân tâm lý và ‘hiện hữu” bên trong là
tâm.
Khía canh
nổi bật của Bardo tái sanh là, ở đây tâm đóng vai trò quan trọng,
trong khi ở giai đoạn Bardo pháp tánh, thì mọi sự diễn ra trong
phạm vi Tính giác Rigpa, cốt lõi của tâm. Bởi thế, trong Bardo pháp
tánh, chúng ta có một thân bằng ánh sáng, còn trong Bardo tái sinh
chúng ta có một thân do ý sanh.
Trong
Bardo tái sinh, tâm có được ánh sáng vô biên và sự di động không giới
hạn, nhưng hướng di chuyển của nó hoàn toàn được định đoạt bởi những
khuynh hướng tập quán cũ của ta. Vì vậy nó được gọi là Bardo tái
sinh. Kalu Rinpoche nói : “Ðó là hậu quả hoàn toàn thụ động, mù quáng của
những nghiệp đời trước, và không có gì xảy ra là hữu thức ; chúng ta hoàn
toàn bị nghiệp lực lôi kéo”.
Ở điểm
này, tâm đã đạt đến giai đoạn kế tiếp trong tiến trình tuần tự mở ra của
nó : Từ trạng thái thanh tịnh nhất của nó là Ánh sáng Căn bản, qua ánh
sáng và năng lượng của nó, tức là những tướng hiện ra trong Bardo
pháp tánh, và bây giờ đi vào sự biểu hiện thô hơn của một thân ý sanh
trong Bardo tái sinh. Những gì xảy ra bây giờ ở giai đoạn này là
một tiến trình tan rã ngược lại : những ngọn gió lại xuất hiện, cùng với
chúng là những trạng thái tư tưởng liên hệ đến ngu si, tham dục và giận
dữ. Rồi, vì ký ức về thân nghiệp sanh trong quá khứ của chúng ta đang còn
mới mẻ, chúng ta mang một “thân ý sanh”.
Thân ý sanh
Thân ý
sanh của chúng ta trong Bardo tái sanh mang một số đặc tính đặc
biệt. Nó có đủ tất cả các giác quan. Nó vô cùng nhẹ, sáng suốt và di động
; và sự bén nhạy của nó được nói là gấp 7 lần trong đời sống thực. Nó cũng
có được một loại thần thông lặt vặt, không được ý thức kiểm soát, nhưng
đem lại cho thân ý sanh khả năng đọc được tâm người khác.
Lúc đầu,
thân ý sanh này sẽ có một hình dáng giống như thân thể trong đời vừa qua,
nhưng không có một khuyết điểm nào, và đang ở độ tuổi xuân xanh. Ngay cả
khi bạn bị què quặt hay đau ốm trong đời sống, bạn vẫn có được thân ý sanh
toàn hảo trong Bardo tái sanh.
Một trong
những giáo điển cổ của Dzogchen cho chúng ta biết rằng thân ý sanh cỡ bằng
một đứa bé từ 8 đến 10 tuổi.
Do năng
lực của tư duy khái niệm, gọi là “gió nghiệp”, thân ý sanh không thể ở yên
dù chỉ trong chốc lát. Nó không ngừng di động. Nó có thể đi khắp nơi nó
muốn, không bị trở ngại. Vì thân ý sanh không có cơ sở vật lý nên nó có
thể đi xuyên qua tường vách hay núi.
Khi mang
thân ý sanh có thể thấy suốt những vật thể có ba chiều. Nhưng vì thiếu
tinh chất vật lý của cha mẹ, chúng ta không có ánh sáng mặt trời, mặt
trăng, mà chỉ có ánh sáng mờ soi tỏ khoảng không gian ngay trước mặt.
Chúng ta có thể thấy những chúng sanh khác trong cõi Trung Ấm, nhưng người
sống không thấy chúng ta, ngoại trừ những người đã có thần thông nhờ thiền
định. Bởi thế, chúng ta có thể gặp và nói chuyện vài giây phút thoáng qua
với nhiều kẻ đang du hành trong thế giới Bardo (Trung Ấm), nghĩa là
những kẻ chết trước chúng ta.
Do sự có
mặt của năm uẩn đang thành hình, nên thân ý sanh đối với chúng ta dường
như chắc thực, và chúng ta vẫn còn cảm thấy những cơn đói cồn cào. Giáo lý
Trung Ấm dạy rằng thân ý sanh này sống bằng mùi hương và rút dưỡng chất từ
những đồ cúng được đem đốt, nhưng nó cũng có thể hưởng được những đồ cúng
đặc biệt nhân danh nó.
Trong
trạng thái này, hoạt động tâm ý rất nhanh : tư tưởng liên tục trôi qua
nhanh, và chúng ta có thể làm một lúc nhiều công việc. Tâm tiếp tục duy
trì những mẫu mực thói quen của nó, nhất là thói bám víu những kinh
nghiệm, và thói tin rằng mọi sự tuyệt đối là thực có.
Những kinh nghiệm của cõi Trung Ấm
Suốt
trong những tuần đầu trong cõi Trung Ấm (Bardo), chúng ta có cảm
tưởng rằng mình là một người đàn ông hay một phụ nữ, hệt như khi ta còn
sống đời vừa qua. Chúng ta không nhận ra rằng mình đã chết. Chúng ta trở
về nhà để gặp bà con và những người thân yêu. Ta cố nói với họ, sờ vai họ.
Nhưng họ không trả lời, cũng không tỏ ra họ biết ta có ở đấy. Dù ta cố
gắng bao nhiêu, cũng không gì làm cho họ chú ý ta được. Ta bất lực đứng
nhìn họ khóc hay ngồi thẩn thờ với cõi lòng tan nát vì cái chết của ta. Ta
lại còn cố một cách vô hiệu để xử dụng những đồ đạc của ta khi trước. Chỗ
ta ngồi nơi bàn ăn không còn dành cho ta nữa, và người ta đang làm những
chuẩn bị để thanh toán của cải của ta. Ta cảm thấy tức tối, bị thương tổn,
hằn học, “như một con cá quằn quại trên cát nóng”, Tử Thư nói.
Nếu hết
sức quyến luyến cái xác của mình, thậm chí ta lại còn cố nhập vào nó hay
lảng vảng bên nó. Có những trường hợp quá khích, là thân ý sanh có thể lai
vãng gần tài sản hay xác của họ hàng tuần, hàng năm mà vẫn chưa có thể
nghĩ rằng mình đã chết. Chỉ khi họ thấy mình không có bóng in trên mặt
đất, không in dấu chân bước, cũng không phản chiếu trong gương, họ mới vỡ
lẽ. Và nội một nỗi kinh hoàng khi nhận ra mình đã chết, cũng đủ làm cho họ
ngất xỉu.
Trong cõi
Trung Ấm tái sanh, ta sống lại tất cả những kinh nghiệm của đời vừa qua,
ôn lại những kỷ niệm đã từ lâu phai mờ trong ký ức, và thăm lại những nơi
chốn cũ, “dù chỉ là nơi ta chỉ có khạc nhổ lên đấy”. Cứ bảy ngày một lần,
ta lại bắt buộc phải sống trở lại cái kinh nghiệm chết, với tất cả nỗi đau
khổ của nó. Nếu ta đã chết một cách an bình, thì trạng thái tâm an bình đó
được tái diễn ; nhưng nếu đó là một cái chết vật vã, sự vật vã ấy cũng
được tái diễn. Và nên nhớ rằng, mọi sự được tái diễn với một ý thức mãnh
liệt gấp bảy lần lúc sống. Và trong giai đoạn thoáng qua của Trung Ấm tái
sanh, mọi nghiệp ác của các đời trước trở lại, một cách cô đọng cường
liệt, làm cho tâm ta rối bời.
Cứ thế,
ta một mình lang thang không ngừng qua thế giới Trung Ấm, kinh hoảng như
trong một cơn ác mộng. Và cũng hệt như trong mộng, ta tin rằng mình thực
có một cái thân vật lý, và mình thực sự hiện hữu. Tuy thế, tất cả những
kinh nghiệm của Bardo này chỉ do tâm ta biến ra, do nghiệp và những
tập quán cũ của ta tái diễn.
Những
ngọn gió của tứ đại trở về, và như Tulku Urgyen Rinpoche nói : “Người ta
nghe những âm thanh to lớn của đất, nước, lửa, gió. Có tiếng như núi lở
sau lưng ta, tiếng con sông lớn gầm lên, tiếng một khối lửa khổng lồ như
hỏa diệm sơn, tiếng của một trận bão lớn”. Khi ta hoảng hốt cố chạy thoát
những thứ này, trong bóng tối kinh hoàng, thì trước mặt ta mở ra ba cái hố
thẳm trắng, đỏ, đen, “sâu và kinh khủng”. Ðấy là Tử Thư nói, tâm giận dữ,
tham dục và ngu si của ta. Ta bị tấn công bởi những ngọn thác đổ, mưa đá
bằng máu mủ ; bị ám ảnh bởi những âm thanh la hét của quỷ không đầu ; bị
săn đuổi bởi những yêu quái và thú dữ chuyên ăn thịt.
Cứ thế,
ta không ngừng bị ngọn gió nghiệp cuốn đi, không thể vin víu vào một căn
cứ nào cả. Tử Thư nói : “Vào lúc ấy, trận cuồng phong của nghiệp thức kinh
hoàng, khó chịu xoáy lên một cách dữ tợn, từ đằng sau sẽ đẩy ngươi tới
trước” . Bị ngốn ngấu bởi nỗi hoảng sợ, bị thổi giạt qua lại như những hạt
nhị hoa bay trước gió, ta lang thang vô vọng qua cõi Trung Ấm. Bị cơn đói
khát dày vò, ta tìm nơi trú ẩn chỗ này chỗ khác. Nhận thức của tâm ta thay
đổi từng chặp, lúc vui lúc buồn. Bỗng tâm ta đâm ra khao khát có một cái
xác thân vật lý nhưng lại không thể tìm được, làm cho ta lại rơi vào đau
khổ.
Toàn thể
khung cảnh ấy đều do nghiệp ta un đúc, cũng như thế giới trung gian có thể
chứa đầy những ảnh tượng ác mộng do vọng tưởng chúng ta tạo nên. Nếu bình
thường lúc sống, ta có hành động tích cực, thì kinh nghiệm và nhận thức
chúng ta trong cõi Trung Ấm sẽ là hạnh phúc và an lạc ; nếu đời ta tác hại
và làm người khác đau khổ thì kinh nghiệm trong cõi Trung Ấm của ta sẽ đầy
đau đớn buồn lo. Bởi thế, Tử Thư nói rằng : những người đánh cá, đồ tể,
thợ săn đều bị tấn công bởi những hình ảnh ghê rợn của những nạn nhân của
họ trước kia.
Vài người
nghiên cứu kỹ kinh nghiệm cận tử, nhất là khi nghiên cứu những “cuộn phim
đời” - một đặc điểm chung của tất cả mọi người chết đi sống lại - đã tự
hỏi : “Làm sao tưởng tượng nổi sự kinh khủng của những kinh nghiệm trong
cõi Trung Ấm của một nhà độc tài, một kẻ chuyên tra tấn ? “Cuộn phim đời”
cho ta thấy rằng, sau khi ta chết, ta có thể kinh quá tất cả những nỗi đau
khổ mà ta đã gieo, trực tiếp hay gián tiếp” .
Ðộ dài của Trung Ấm tái sanh
Toàn thể
Trung Ấm tái sanh kéo dài trung bình 49 ngày, và ít nhất là một tuần.
Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong
khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để
thành ma quỷ. Dudjom Rinpoche thường giải thích rằng suốt trong 21 ngày
đầu của thời gian Trung Ấm, bạn vẫn còn một số ấn tượng mạnh về đời sống
vừa qua, bởi thế đây là giai đoạn quan trọng nhất để người sống giúp đỡ
người chết. Sau đó, đời sống tương lai của bạn dần dần thành hình và trở
thành ảnh hưởng chính.
Chúng ta
phải chờ đợi trong thế giới trung gian (Bardo) cho đến khi nào
nghiệp ta bắt liên lạc được với cha mẹ tương lai. Ðôi khi tôi nghĩ về
Bardo này như một thứ hành lang chuyển tiếp, trong đó bạn có thể chờ
đợi đến 49 ngày trước khi chuyển sang đời sống mới. Nhưng có hai trường
hợp đặc biệt không cần phải đợi trong cõi Trung Ấm, bởi vì tính cách cường
liệt của nghiệp lực họ đẩy ngay họ vào tái sanh mới. Trường hợp đầu tiên
là những người đã sống một đời vô cùng lợi lạc và tích cực, đã tu luyện
tâm đến trình độ năng lực chứng ngộ của họ sẽ đưa họ trực tiếp vào một tái
sanh tốt đẹp. Trường hợp thứ hai là những người đã sống cuộc đời tiêu cực,
tác hại, họ đi rất nhanh xuống đời tái sanh kế tiếp, bất cứ ở đâu.
Phán xét
Một vài
mô tả về cõi Trung Ấm có nói đến một cảnh xét xử, một loại “quay lại cuộn
phim đời” giống như sự phán xét sau khi chết ở trong nhiều nền văn hóa của
nhân loại. Lương tâm tốt của bạn, một vị thiên thần hộ mạng màu trắng,
đóng vai cố vấn bào chữa, kể lại những việc tốt bạn đã làm ; trong khi
lương tâm xấu, một con quỷ đen, trình lên vụ án để xét xử. Tốt và xấu được
tính thành những hòn sỏi trắng đen. “Thần chết” hay Diêm vương chủ tọa
phiên xử, khi ấy soi vào kính nghiệp để làm cuộc phán xét.
Tôi nhận
thấy trong cái màn phán xét này có vài tương đồng với “cuộn phim cuộc đời”
ở kinh nghiệm cận tử. Cuối cùng, mọi cuộc phán xét đều xảy ra ngay trong
tâm ta. Chúng ta đồng thời là quan tòa và bị cáo. Raymond Moody nói :
“Ðiều đáng chú ý là sự phán xét trong những vụ mà tôi khảo sát, không phải
đến từ nơi thực thể ánh sáng - có vẻ yêu thương và chấp nhận mọi người -
mà lại đến từ cá nhân người bị xét xử”. (Tư duy về đời sau, 1977, p.30)
Một phụ
nữ đã trải qua kinh nghiệm cận tử nói với Kenneth Ring : “Bạn được chỉ cho
thấy lại cả cuộc đời bạn - và bạn làm việc phê phán... Bạn tự phán xét
mình. Bạn đã được tha thứ mọi tội lỗi, nhưng bạn có thể tha cho chính bạn
vì đã không làm những việc đáng lẽ bạn nên làm, và một vài vụ lường gạt
nhỏ mà có lẽ bạn đã làm trong đời hay không ? Bạn có thể tự tha thứ cho
mình chăng ? Ðây là sự phán xét” . (Tìm ý nghĩa kinh nghiệm cận tử, 1985,
p.70)
Cảnh phán
xét cũng chứng tỏ rằng trong sự phân tích tối hậu, chính cái động lực sau
mọi hành động của chúng ta mới là điều quan trọng, và không thể thoát khỏi
hậu quả của những hành động, lời nói và ý nghĩ của ta, và những dấu ấn,
những thói quen của những hành động này trên ta. Ðiều này có nghĩa chúng
ta hoàn toàn chịu trách nhiệm không những về cuộc đời hiện tại, mà cả
những đời tương lai của ta nữa.
Năng lực của tâm
Vì trong
cảnh giới Trung Ấm, tâm ta rất nhẹ nhàng linh động và bén nhạy, nên bất cứ
tư tưởng nào khởi lên, tốt hay xấu, đều có ảnh hưởng và năng lực ghê gớm.
Vì không có một cơ thể vật lý làm nền tảng, nên những ý tưởng trở thành
thực tại. Hảy tưởng tượng sự buồn bã giận dữ khốc liệt mà ta có thể cảm
thấy khi trông thấy người sống làm đám tang cho ta quá sơ sài, hay bà con
tham lam đang tranh giành những vật sở hữu của ta, hay bạn bè mà ta rất
yêu mến, và ta tưởng cũng yêu mến ta, bây giờ đang nói về ta một cách
khinh miệt, thương tổn, hổn láo. Một tình huống như vậy có thể rất nguy
hiểm, vì phản ứng bạo hành của ta có thể đưa ta thẳng đến một tái sanh bất
hạnh.
Như vậy,
năng lực mãnh liệt của tâm ta là vấn đề then chốt trong Trung Ấm tái sanh.
Cái giai đoạn cao điểm này hoàn toàn phơi bày chúng ta ra giữa những thói
quen và khuynh hướng cố hữu mà ta đã để cho tăng trưởng và thống trị đời
ta. Nếu bạn không kiểm soát những khuynh hướng ấy ngay bây giờ trong khi
sống, ngăn chúng xâm chiếm tâm bạn, thì trong Trung Ấm tái sanh bạn sẽ
thành nạn nhân tội nghiệp của chúng, bị mãnh lực của chúng đưa đẩy. Một sự
giận dữ nhỏ nhặt trong trạng thái Trung Ấm cũng có thể có một ảnh hưởng
tai hại, bởi thế mà theo truyền thống, người đọc Tử Thư cho bạn lúc sắp
chết phải là một người mà bạn có quan hệ tốt đẹp ; nếu không, nội một việc
nghe âm thanh tiếng nói của y cũng đủ làm cho bạn nổi tam bành, và điều
này sẽ có những hậu quả vô cùng khốc hại.
Giáo lý
cho ta thấy nhiều mô tả về tính chất sống sít của cái tâm ở trong trạng
thái Trung Ấm ; mô tả mạnh nhất nói rằng tâm ta lúc ấy giống như một thỏi
sắt nung đỏ sẵn sàng uốn bất cứ kiểu nào bạn muốn, cho đến khi nó nguội.
Bất cứ hình dáng gì nó được uốn nắn, nó sẽ mau chóng thành hình y như vậy.
Cũng thế, một tư tưởng tích cực duy nhất trong trạng thái Trung Ấm có thể
trực tiếp dẫn đến giác ngộ, một phản ứng tiêu cực duy nhất có thể làm bạn
chìm vào đau khổ lâu dài. Tử thư cảnh cáo chúng ta một cách mạnh mẽ như
sau :
Ðến đây là ngã rẽ
đôi đường lên cao và xuống thấp : đây là lúc mà chỉ cần lướt vào sự lười
biếng một chút ngươi cũng đủ chịu khổ miên viễn ; đây là lúc mà chỉ cần
tập trung một chút ngươi cũng sẽ hưởng được hạnh phúc lâu bền. Hãy chú tâm
không tán loạn, hãy nỗ lực kéo dài hậu quả thiện nghiệp !
Tử Thư cố
đánh thức dậy bất cứ một liên hệ nào với sự tu tập mà người chết có thể
có, và khuyến khích chúng ta từ bỏ bám víu người, của, từ bỏ sự khát khao
có một thân xác, đừng buông trôi theo giận dữ hay tham dục, đào luyện sự
tử tế hơn là thù hằn, đừng nghĩ đến việc ác. Tử Thư nhắc nhở người chết
không cần phải sợ hãi : Một mặt cho người chết biết những hình dạng ghê
rợn trong cõi Trung Ấm chỉ là do tâm họ chiếu ra, thực chất vốn trống rỗng
; mặt khác, nhắc người chết rằng bây giờ họ chỉ có cái thân ý sanh do tập
quán cũ, bởi thế cũng là trống rỗng. “Bởi thế cái trống rỗng không thể làm
hại cái trống rỗng” .
Bản chất
bấp bênh chóng qua của giai đoạn Trung Ấm có thể là nguồn suối cho nhiều
cơ hội giải thoát, và tính bén nhạy của tâm trong Trung Ấm này có thể hóa
ra lợi lạc cho chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhớ đến những lời giảng dạy, ta
chỉ cần có một tư tưởng tích cực khởi lên trong tâm ta. Nếu ta nhớ được
một giáo lý nào gợi cho ta tự tánh tâm, nếu ta có dù chỉ một khuynh hướng
tu tập, hay một liên hệ sâu xa với sự tu hành, ta cũng đủ nhờ vậy mà giải
thoát.
Trong
Trung Ấm tái sanh, các cõi Phật không hiện ra một cách tự nhiên như trong
Trung Ấm pháp tánh. Tuy nhiên, chỉ cần nhớ đến các vị Phật, bạn cũng có
thể đi thẳng đến các cõi ấy bằng năng lực tâm bạn, và tiến đến giải thoát.
Nếu bạn có thể niệm danh hiệu một vị Phật, vị ấy liền hiện ra trước bạn.
Nhưng nên nhớ, mặc dù các khả năng là vô giới hạn, chúng ta vẫn phải có sự
tự chủ tâm ý trong Trung Ấm này, và điều này vô cùng khó khăn, vì tâm ta ở
giai đoạn này hết sức bén nhạy, phân tán và bất an.
Bởi thế
trong Trung Ấm này, bất cứ khi nào bạn có thể có lại sự tỉnh giác dù chỉ
trong thoáng chốc, thì bạn hãy lập tức nhớ lại sự tu tập, nhớ thầy hay vị
Phật của bạn thờ, và tha thiết triệu thỉnh. Nhờ năng lực ân sủng của bậc
thầy hay Phật, tâm bạn sẽ được giải thoát vào trong khoảng không gian của
tâm giác ngộ. Sự cầu nguyện trong đời này dường như ít hiệu quả, nhưng
trong cõi Trung Ấm lại có hiệu quả mãnh liệt vô cùng.
Tuy
nhiên, sự mô tả trên đây về Trung Ấm chứng tỏ thực rất khó mà tập trung
tâm vào giai đoạn này, nếu ta không thực tập từ trước. Hãy tưởng tượng ta
dường như tuyệt nhiên không nhớ bài chú nào lúc gặp ác mộng, ta cảm thấy
bất lực như thế nào, thì trong cảnh giới Trung Ấm cũng khó như thế, nếu
không nói là khó hơn, để tập trung tâm ý. Ðấy là lý do Tử Thư luôn luôn
nhắc đi nhắc lại một lời “Ðừng xao lãng”, và Tử Thư nhấn mạnh :
Ðến
đây là ngã rẽ giữa Phật và hữu tình...
Trong
một giây, phân cách. Trong một giây, toàn giác.
Tái sanh
Vì trong
Trung Ấm tái sanh, thời gian tái sanh càng gần, nên ta càng thêm khát khao
một thân xác làm chỗ nương, và ta đi tìm một người nào có thể sử dụng để
được tái sanh vào đó. Những dấu hiệu bắt đầu hiện ra báo cho ta biết cái
cảnh giới ta có thể tái sanh vào. Những ánh sáng đủ màu chiếu từ sáu nẻo
luân hồi, và ta cảm thấy bị thu hút vào một cõi này hay khác, tùy theo cảm
xúc tiêu cực nào mạnh nhất trong tâm ta. Một khi ta đã bị lôi cuốn đến
đấy, thì thật vô cùng khó mà trở lui.
Rồi những
hình ảnh sẽ khởi lên, liên hệ đến những cõi khác nhau. Càng quen thuộc với
giáo lý, ta càng dễ nhận ra ý nghĩa thực của chúng. Những dấu hiệu thay
đổi phần nào theo những giáo lý khác nhau. Một số bảo rằng nếu sanh vào
cõi trời, ta sẽ thấy mình đi vào một thiên cung có nhiều tầng lầu. Nếu tái
sanh vào loài a tu la, ta sẽ thấy mình ở giữa những khí giới bằng lửa, hay
sắp ra chiến trường. Nếu sanh vào súc vật, ta sẽ thấy mình ở trong một
hang lỗ dưới đất, hay một cái ổ rơm. Nếu thấy một gốc cây, một rừng sâu,
hay một tấm vải dệt, thì đó là dấu hiệu sắp tái sanh làm quỷ đói.Và nếu
sắp sanh vào địa ngục thì ta sẽ thấy mình đang bị dẫn vào một hố đen,
xuống một con đường tối, vào một cõi đất mờ mịt có nhà màu đỏ hoặc đen,
hay về phía một thành phố bằng sắt.
Có nhiều
dấu hiệu khác, như là cách ta nhìn hay cử động, chứng tỏ cảnh giới ta đang
hướng đến. Nếu sắp sửa sanh vào cõi trời hay người, thì cái nhìn của ta sẽ
hướng lên trên ; nếu sanh vào cõi súc sinh, ta sẽ nhìn thẳng tới trước,
như chim ; nếu sanh vào địa ngục hay ngạ quỷ thì ta sẽ nhìn xuống, như thể
là sắp nhào xuống. Nếu có dấu hiệu nào như thế, thì ta nên coi chừng đừng
rơi vào một cõi tái sanh bất hạnh.
Ðồng
thời, ta sẽ có một khát khao mãnh liệt đối với một cảnh giới nào đó, và bị
cuốn hút vào đó theo bản năng. Giáo lý về Trung Ấm dạy rằng, vào điểm ấy,
có nguy cơ lớn là, do lòng nôn nóng thèm khát tái sanh, ta có thể xông tới
bất cứ một nơi nào, dù nó không có vẻ gì an ninh bảo đảm. Nếu ước muốn của
ta bị bất mãn, sự giận dữ khởi lên sẽ đưa giai đoạn Trung Ấm đến một kết
thúc, vì ta sẽ bị đẩy vào cõi dữ bằng chính năng lực cảm xúc của mình. Và
như thế, ta có thể thấy tái sanh tương lai của ta được trực tiếp định đoạt
bởi tham, sân và si. Hãy tưởng tượng ta đang chạy về phía một chỗ nấp, chỉ
để tránh thoát kinh nghiệm đau khổ của Trung Ấm. Rồi, vì sợ phải từ bỏ tất
cả, mà ta đâm ra ràng buộc với một tái sanh mới, bất kể ở đâu, miễn là
được tái sanh. Khi ấy ta có thể đâm ra thác loạn, như Tử Thư nói, và lầm
lẫn tái sanh tốt với xấu, xấu với tốt. Ta có thể nghe tiếng gọi của những
người thân yêu, hoặc giọng ca hấp dẫn, rồi chạy theo chúng, để cuối cùng
bị dẫn dụ xuống những cõi thấp kém.
Bảy vậy,
phải cẩn thận đừng mù quáng đi vào những cõi vô phúc ấy. Ðiều kỳ diệu là,
ngay lúc ta ý thức được cái gì xảy đến cho ta, thì ta có thể bắt đầu tác
động, và điều ấy ảnh hưởng đến số phận của ta.
Bị đẩy
tới bởi ngọn gió nghiệp, thân ý sanh đi đến một nơi ở đấy cha mẹ đang giao
hợp. Khi thấy họ, nó bị kéo vào trong cảm xúc ấy ; và do nghiệp quá khứ,
nó tự nhiên cảm thấy rất thương hoặc rất ghét. Sự quyến luyến người mẹ và
thù ghét, ganh tị với người cha sẽ đưa đến hậu quả là nó sinh thành con
trai ; ngược lại là gái. Nhưng nếu nó ngã quỵ trước những cảm xúc rất mạnh
thì nó có thể sanh vào một cảnh giới hèn hạ.
*
Có cách
nào ta có thể làm bây giờ, để tránh bị tái sanh hoặc hướng dẫn sự tái sanh
kế tiếp của ta không ? Giáo lý về Trung Ấm đưa ra hai chỉ dẫn đặc biệt :
phương pháp ngăn ngừa tái sanh, và nếu không ngăn được, thì chọn một tái
sanh tốt. Ðầu tiên là những chỉ dẫn để đóng cửa ngõ đi vào một đời sống
khác :
Phương
pháp tốt nhất là từ bỏ những cảm xúc như tham dục, giận dữ, hay ganh tỵ,
và nhận chân rằng không một trạng thái Trung Ấm nào có thực chất tối hậu.
Nếu bạn có thể nhận chân điều ấy, rồi để tâm an trú trong bản chất chân
không của nó, thì chính điều này sẽ ngăn ngừa tái sanh. Tử Thư Tây Tạng
báo cho chúng ta biết :
Than ôi ! Cha và mẹ,
cơn bão lớn, luồng gió xoáy, sấm sét, những cảnh tượng kinh hoàng và tất
cả những gì hiện ra đấy, bản chất đều huyễn ảo. Dù có hiện tướng gì đi
nữa, thì cũng không thực. Mọi chất liệu đều giả dối, trống rỗng. Chúng như
ảo ảnh, không trường tồn bất biến. Tham ái mà làm chi ? Sợ hãi mà làm chi
? Như vậy là xem cái không thành cái có...
Tử Thư
lại khuyến cáo tiếp :
“Tất cả đều do tâm
tôi biến ra, và tâm ấy vốn là chân không, vô sanh, không bị chướng ngại”.
Khi nghĩ vậy, hãy để tâm ngươi tự nhiên trong bản chất của nó, như nước đổ
vào nước, cứ như nó là, thong thả, phóng khoáng và thư giãn. Khi để nó an
trú tự nhiên và thong thả, ngươi có thể bảo đảm ngõ vào mọi lối tái sanh
chắc chắn bị đóng lại.
Phương
pháp hay nhất kế tiếp để ngăn ngừa tái sanh là nhìn những người có thể làm
cha mẹ bạn như là Phật, hay thầy, hay thần hộ mạng yidam của bạn.
Và ít nhất, bạn hãy cố phát sinh một cảm giác từ bỏ, không bị lôi kéo vào
những cảm xúc tham dục, và nghĩ đến những cõi Phật thanh tịnh. Ðiều này sẽ
ngăn ngừa tái sanh và khiến bạn được sanh vào một trong những cõi Phật.
Nếu bạn
không thể an trú tâm đủ vững vàng để làm như vậy, thì còn có những phương
pháp chọn lựa một tái sanh, liên hệ đến những điểm mốc và những tướng các
cảnh giới khác nhau. Nếu bạn nhất định phải tái sanh, hay cố ý muốn tái
sanh để theo đuổi con đường tu tập và làm lợi ích người khác, thì bạn
không nên đi vào cõi nào khác cõi người ta. Chỉ có ở đấy các điều kiện mới
thuận lợi cho sự tiến tu đạo nghiệp. Giáo lý về Trung Ấm cho biết, nếu bạn
sắp sửa sanh vào một hoàn cảnh tốt trong cõi người, thì bạn sẽ cảm thấy
mình đang đi vào một ngôi nhà sang trọng đẹp đẽ, hay vào một đô thị, hay ở
giữa một đám đông, hay thấy những người đang giao hợp.
Ngoài
những cách ấy ra, thông thường chúng ta không có chọn lựa nào. Chúng ta bị
lôi kéo về chỗ thọ sanh của ta “như con chim bị sa lưới, như cỏ khô bắt
lửa, hay súc vật sa đầm lầy” . Tử Thư nói : “Này hỡi thiện nam/nữ, dù
ngươi không muốn đi, ngươi cũng không có năng lực tự chủ, ngươi bị bắt
buộc phải đi”.
Tuy
nhiên, như giáo lý luôn luôn nhắc ta, vẫn còn có hy vọng, bây giờ là lúc
nên cầu nguyện. Nhờ tha thiết mong mỏi và tập trung mãnh liệt, ngay trong
lúc này, bạn vẫn còn có thể tái sanh vào một cõi Phật, hoặc bạn có thể
phát nguyện sâu xa tái sanh vào một gia đình loài người, ở đấy bạn có thể
gặp đường lối tu tập và tiếp tục tiến đến giải thoát. Nếu bạn có một
nghiệp nặng buộc bạn rơi vào một cảnh giới đặc biệt nào, thì có thể bạn
hết phương chọn lựa, tuy nhiên, lời nguyện quá khứ và sự mong cầu của bạn
có thể giúp bạn chuyển số phận để có thể tái sanh vào một đời sống mà một
ngày nào đó sẽ đưa bạn đến giải thoát.
Ngay cả
khi bạn đã nhập thai, cũng có thể cầu nguyện cho điều này xảy ra. Ngay cả
khi ấy, bạn có thể quán tưởng mình như một chúng sanh giác ngộ, như thần
Kam cang tát đỏa (Vajrasattva) - như các bậc thầy truyền thống nói - và
làm cho cái thai cung mà bạn đang vào biến thành một môi trường thiêng
liêng, “một cung trời”, ở đấy bạn tiếp tục tu luyện.
Bây
giờ, khi Trung Ấm tái sanh hiện ra
Tôi sẽ
tập trung nhất tâm thiền quán
Và cố
kéo dài những hậu quả của nghiệp tốt
Ðóng
cửa ngõ tái sanh, cố đừng sanh trở lại
Ðây là
lúc cần tinh tấn và nhận thức thuần tịnh
Hãy từ
bỏ cảm xúc tiêu cực, và quán tưởng bậc đạo sư.
Cuối
cùng, chính sự thúc giục của tự tâm muốn trú trong một cõi nào đó, đã buộc
ta tiến về tái sanh, và chính khuynh hướng chấp thủ của tự tâm đã tìm sự
thể hiện thành thân xác tái sanh. Ðây là giai đoạn kế trong tiến trình
xuất hiện mà ta đã thấy xảy ra trong các cảnh Trung Ấm.
Nếu bạn
thành công trong sự hướng dẫn tâm về phía một sự sanh làm người, thì tức
là bạn đã đi trọn chu kỳ. Bạn sẽ được sanh vào trong Trung Ấm tự nhiên của
đời này. Khi trông thấy cha mẹ bạn đang giao hợp, tâm bạn bị thu hút, và
bạn vào thai. Ðiều này báo hiệu sự kết thúc của Trung Ấm tái sanh, khi tâm
bạn một lần nữa kinh quá rất nhanh chóng những tướng của các giai đoạn tan
rã, và sự xuất hiện của Ánh sáng Căn bản. Rồi kinh nghiệm tối đen của sự
“thành tựu” lại khởi lên, và đồng thời sự liên lạc với bào thai mới bắt
đầu.
Như vậy
đời sống khởi đầu cũng như kết thúc bằng Ánh sáng căn bản.