PHẦN
HAI: TAM BẢO
TAM BẢO
Bụt, Pháp, Tăng
Con về nương tựa
Bụt,
Người đưa đường chỉ lối
cho con trong cuộc đời
Con về nương tựa Pháp,
Con đường của tình
thương và sự hiểu biết
Con về nương tựa Tăng,
Đoàn thể của những người
nguyện sống cuộc đời hòa hợp và tỉnh thức
Trong truyền thống đạo
Bụt, khi phát nguyện học hỏi và hành trì Năm giới, chúng ta cũng qui y Tam Bảo.
Thực tập Năm Giới tức là có niềm tin vào con đường của chánh niệm, tình thương
và sự hiểu biết, bởi vì Năm Giới được làm bằng những chất liệu này. Tam Bảo
cũng được làm bằng những chất liệu ấy. Chánh niệm, hiểu biết và tình thương là
những giá trị phổ quát vượt ra ngoài những biên giới văn hóa. Trong mọi truyền
thống tâm linh đều có những giá trị tương đương với Năm Giới và Tam Bảo.
Khi còn nằm trong bụng
mẹ, chúng ta cảm thấy được bảo vệ một cách an toàn khỏi những nóng, lạnh, đói
khát, và nghịch cảnh khác. Dù chưa ý thức được như bây giờ, nhưng chúng ta vẫn
biết đó là nơi an ổn. Giờ phút chúng ta chào đời và tiếp xúc với nghịch cảnh,
chúng ta bắt đầu khóc lên và từ lúc đó chúng ta không ngừng khát khao sự an
ninh trong bụng mẹ.
Chúng ta sống trong một
thế giới vô thường, đầy những khổ đau, và chúng ta cảm thấy bất an. Chúng ta ao
ước sự thường hằng, nhưng mọi thứ đều biến đổi. Chúng ta khao khát một bản sắc
tuyệt đối, nhưng không có những thực thể cố định, kể cả cái mà ta gọi là ‘cái
ta’ của mình. Tìm nơi nương tựa, trước hết, là tìm một nơi an toàn, vững chãi,
và không đổi thay, một nơi mà ta có thể trông cậy lâu dài. Chúng ta muốn một
chốn như Thiên Đường, nơi có một đấng hùng mạnh, vững vàng như Đức Chúa Cha che
chở cho chúng ta, và chúng ta sẽ không phải lo lắng về bất cứ điều gì. Nhưng
Thiên Đường lại nằm ở tương lai.
Trong văn chương Á Đông,
một số thi sĩ đã diễn đạt niềm tin cho rằng họ từng sống ở một nơi an ổn, hạnh
phúc trước khi bị đày xuống trần gian, và lúc qua đời, họ sẽ có thể trở về lại
được cái cõi an vui, hoan lạc đó. Lại có những người Á Đông khác tin rằng họ là
những vị tiên trong những kiếp trước, nhưng vì phạm lỗi họ đã bị đày xuống trần
gian. Nếu đái công chuộc tội ở đời này, họ tin mình sẽ được trở lại chốn bình
an kia. Ước muốn được nương tựa là ước muốn của tất cả mọi người, mong được trở
về một nơi an toàn, bảo đảm. Trong tiếng Việt, cụm từ ‘Quy y’ có nghĩa là “quay
về và nương tựa.”
Nhưng làm sao ta có thể
cảm thấy an ninh được bây giờ? Sự vật là vô thường. Nếu một hạt bắp không vô
thường, nó sẽ chẳng bao giờ có thể mọc thành cây bắp. Nếu con gái của bạn không
vô thường, cô ấy sẽ không bao giờ lớn lên thành một thiếu nữ xinh đẹp. Nếu
những chế độ độc tài không vô thường, sẽ chẳng có hy vọng gì thay thế được họ.
Chúng ta cần vô thường và chúng ta nên vui vẻ nói: “Vạn tuế Vô Thường, vì nhờ
đó mà sự sống có mặt.”
Trong đạo Bụt có hai
cách thực tập: thực tập tín mộ và thực tập chuyển hóa Thực tập tín mộ tức là
trông cậy chủ yếu vào tha lực, đó có thể là một vị Bụt hay một Thượng Đế. Thực
tập chuyển hóa tức là trông cậy phần lớn vào tự lực và con đường mình đang
theo. Sùng mộ vào giáo pháp khác với thực tập giáo pháp. Khi ta nói “Con về
nương tựa Pháp,” ta có thể đang bày tỏ lòng tin vào Pháp, nhưng đó chưa hẳn là
sự thực tập Giáo pháp. ‘Tôi muốn trở thành một bác sĩ’ là diễn tả cái quyết tâm
muốn hành nghề y. Nhưng để trở thành một bác sĩ, ta phải bỏ ra bảy hay tám năm
để học và thực tập y khoa. Khi ta nói ‘Con về nương tựa nơi Bụt, Pháp và Tăng’,
thì đây có thể mới chỉ là thiện chí muốn tu tập. Không phải vì thốt lên câu đó
mà ta đã đang thực tập. Ta chỉ đi vào con đường chuyển hóa khi nào ta bắt đầu
thực tập những điều ta tuyên bố.
Nhưng những lời tuyên bố
cũng có tác dụng. Khi ta nói ‘Tôi nhất định học y khoa’, thì lời nói đó đã có
tác động lên trên đời sống của ta, ngay cả trước khi ta nộp đơn vào trường y
khoa. Ta muốn làm điều đó, và vì sự tự nguyện và mong muốn đó, ta sẽ tìm cách
đi học. Khi ta nói ‘Con về nương tựa Pháp’, thì ta đang biểu lộ lòng tin tưởng
vào Chánh Pháp. Ta thấy Chánh Pháp là một cái gì lành thiện, và ta muốn hướng
đời mình về đó. Đó là sự sùng mộ. Khi ta học hỏi và áp dụng Chánh Pháp vào đời
sống hàng ngày, đó là sự thực tập chuyển hóa. Trong mỗi tôn giáo đều có sự phân
biệt giữa sự thực tập tín mộ và sự thực tập chuyển hóa.
Nhiều Phật tử tụng Tam
Qui như sự thực tập tín mộ. Chúng ta cần đức tin và sự xác quyết (tin cậy) để
tu tập. Trong đạo Bụt đức tin và sự xác quyết (tin cậy) có liên hệ với nhau và
đôi khi có cùng một nghĩa. Tuy vậy, niềm tin mù quáng lại không được khuyến
khích. Chúng ta phải thấy, phải sờ chạm, thử nghiệm và kiểm chứng sự việc trước
khi thực sự tin vào chúng. Bụt, Pháp và Tăng là những gì ta có thể tiếp xúc
được. Tam Bảo không phải là những vấn đề của sự ức đoán. Bụt là một người đã
từng sống trong lịch sử. Cuộc đời và giáo pháp của Ngài chúng ta đã được biết.
Chúng ta có thể sử dụng thời gian, năng lực và trí thông minh của mình để tiếp
xúc với Bụt. Niềm tin và sự xác quyết (tin cậy) đích thực nảy sinh từ việc có
tiếp xúc, không phải ai mới nói điều gì là chúng ta đã phải buộc tin ngay.
Chúng ta có thể đến
thẳng với Pháp. Pháp tồn tại trong văn tự, trong truyền thống, và trong sự tu
tập của con người. Ở những nơi người ta hành trì Chánh Pháp, chúng ta có thể
thấy hoa trái của sự tu tập của họ. Pháp cũng là những gì cụ thể mà ta có thể
tiếp xúc, thử nghiệm và kiểm chứng, và điều này dẫn đến niềm tin và sự xác
quyết đích thực.
Tăng là đoàn thể tu tập
Pháp. Một tăng thân tốt thể hiện được Chánh Pháp. Khi chúng ta thấy một tăng
thân tu tập biểu lộ một mức độ nào đó của bình an, tịnh lạc và chuyển hóa, niềm
tin và sự tin cậy sẽ phát khởi trong chúng ta. Hãy tưởng tượng tôi là một người
đã từ lâu không có gì để tin tưởng cả. Tôi không có bình an. Nhưng bỗng tôi gặp
một nhóm người qua sự tu tập đã chuyển hóa đến một mức nào đó. Bấy giờ tôi có
niềm tin và sự xác quyết (tin cậy), và điều đó mang lại cho tôi một mức độ bình
an nào đó. Sự sùng mộ trong đạo Bụt không phải là việc chấp nhận một lý thuyết
mà không có sự tiếp xúc với thực tế.
Nhiều cư sĩ trong các
quốc gia Phật giáo tụng: ‘Con về nương tựa Bụt, con về nương tựa Pháp, con về
nương tựa Tăng’ nhưng lại trông cậy các thầy và các sư cô tu tập dùm cho họ. Họ
yểm trợ Tăng chúng tu tập qua việc cúng dường thực phẩm, chỗ ở, và những thứ
khác để giúp cho Tăng Chúng thành tựu việc tu tập Chánh Pháp. Họ cảm nhận rằng
sự thực tập của một người an trú trong chân hạnh phúc mang lại hạnh phúc cho
nhiều người. Đây là sự thực tập tín mộ. Với những người này, khi đọc lên: ‘Con
về nương tựa Bụt, con về nương tựa Pháp, con về nương tựa Tăng’ là đã đủ để có
an lạc rồi. Nhưng ở Bắc Mỹ và châu Âu người tại gia muốn thực tập chuyển hóa.
Cộng đồng tu thiền Vipassana (minh sát) ở Tây phương chẳng hạn, gồm có những
hành giả -- không phải chỉ trông cậy vào người xuất gia -- và có nhiều giáo thọ
cư sĩ.
Khi cư cư sĩ Cấp Cô Độc
sắp qua đời, thầy Xá Lợi Phất , biết ông thương quí Bụt và có niềm tin nơi Pháp
và nơi Tăng như thế nào, đã mời ông quán niệm về Tam Bảo. Ông Cấp Cô Độc cảm
thấy vơi nhẹ hẳn, và lại được thầy Xá Lợi Phất mời quán niệm các đề tài khác
thường chỉ được dành cho những vị xuất gia. Những kinh nghiệm này đã tưới tẩm
những hạt giống an lạc của ông Cấp Cô Độc.
Vài tháng trước khi thị
tịch, Bụt dạy các đệ tử của Ngài hãy nương tựa vào chính mình. ‘Này Các vị tỳ
kheo, các vị hãy là một hải đảo cho chính mình. Đừng nương tựa vào bất cứ một
điều gì khác. Hãy nương tựa vào Chánh Pháp. Lấy Chánh Pháp làm ngọn đèn của
mình. Lấy Chánh Pháp làm hải đảo của mình.’ Ngài đã chuẩn bị rất kỹ cho việc ra
đi của mình.
Bụt nói, ‘Nhục thân tôi
không còn đây nữa, nhưng Pháp thân (Dharmakaya) tôi sẽ luôn còn ở lại với quí
vị. Nếu muốn nương tựa vào Pháp thân tôi thì bất cứ lúc nào quí vị cũng có thể
làm được điều ấy.’ Trong lịch sử đạo Bụt sau này, Pháp thân đã trở thành tinh
thần hay linh hồn của Bụt, tức là đức Bụt thật sự, lúc nào cũng có mặt. Nếu
biết cách tiếp xúc với Pháp thân, thì Pháp thân lúc nào cũng có mặt đó cho
chúng ta, và con cháu chúng ta. Thấy rõ được rằng nhục thân không quan trọng
bằng Pháp thân là một an ủi lớn cho các hàng đệ tử của Bụt. Ngày nay xã hội
chúng ta có quá nhiều khổ nạn, như một dòng nước phăng phăng cuốn chúng ta vào
biển khổ. Để tự bảo hộ, chúng ta cũng có thể thực tập làm hải đảo của tự thân.
Tăng thân (Sanghakaya)
là một từ mới. Mỗi đức Bụt và mỗi hành giả đều có Tăng thân của mình. Một vị
Bụt chỉ có thể thực sự là một vị Bụt khi Pháp có mặt trong vị ấy. Một người
không có Pháp, thì không thể gọi là Bụt. Bụt và Pháp là hai, nhưng cũng là một.
Một vị Bụt không thể có nếu không có Pháp. Pháp không thể có nếu không có Bụt.
Tăng thân là đoàn thể thực tập Chánh Pháp. Nếu không có Tăng thì ai là người
thực tập Pháp? Pháp không thể sờ mó được nếu không có người hành trì. Nếu
muốn Chánh Pháp được hành trì, ta cần phải có Tăng. Vì vậy trong Tăng có chứa
đựng Bụt và Pháp. Bụt, Pháp và Tăng tương tức với nhau. Chúng ta có thể gọi đó
là Ba Ngôi của đạo Bụt: triratna (hay ratna traya), Tam Bảo. Trong Tam Bảo, mỗi
Bảo chứa đựng hai Bảo kia. Khi qui y một Bảo, ta qui y luôn cả ba Bảo. Khi ta
có sự tin cậy, phó thác nơi Tăng và thực tập với Tăng, ta cũng đang biểu lộ sự
tin tưởng của ta nơi Bụt và nơi Pháp. Thực tập Năm Giới với Tăng thân, một cộng
đồng tu tập, là rất thiết yếu. Ta cần có một Tăng thân nâng đỡ ta trong sự tu
tập. Một Tăng thân đích thực luôn mang trong cốt lõi yếu tố Bụt và Pháp.
Trong đạo Bụt, thực tập
tín mộ đặt nền tảng trên những gì ta có thể thấy, nghe, và tiếp xúc. Nếu chúng
ta không tiếp xúc được với báo thân của Bụt, chúng ta cũng không thể tiếp xúc
được với Pháp thân, hay Tăng thân của ngài. Vì chúng ta có các thông tin về
cuộc đời của báo thân Bụt, lòng mộ đạo của chúng ta có cơ sở. Điều này cũng
đúng trong đạo Cơ Đốc. Chúa Jesus là một người ta có thể tiếp xúc được. Những
thông tin về cuộc đời và giáo lý của Ngài hiện có đó.
Trong Tăng Chi Bộ
(Anguttara Nikaya), Bụt nói rằng khi ta bất an, sợ hãi, thiếu tự tin hay yếu
đuối, nếu ta thực tập quay về nương tựa nơi Bụt, Pháp và Tăng thì sự sợ sệt và
thiếu vững chãi của ta sẽ tan biến. Ngài kể câu chuyện chiến đấu giữa vua trời
Đế Thích (Sakra) và các A Tu La (Asuras.) Đế Thích ra lệnh cho các thiên binh
giương lá cờ bẩy báu của mình cho tung bay phất phới. Mỗi lần họ thiếu tự tin
trong việc chiến đấu với A Tu La, nếu họ nhìn vào lá cờ, họ sẽ tìm được sức
mạnh và sự tự tin cần thiết. Đây là chuyện tự nhiên. Nếu ta có lòng tin nơi vị
thủ lãnh, ta sẽ chiến đấu tốt với tư cách một người lính. Khi tin tưởng vào một
chính nghĩa, ta có can đảm giữ vững lập trường của mình. Bụt đã dùng thí dụ này
để nói về việc quay về nương tựa. Khi ta có những nghi ngờ, yếu đuối và bất an,
nếu ta chuyên tâm quán tưởng về Bụt, Pháp và Tăng, ta sẽ thấy vững lại. Đây là
hoa trái của sự thực tập Tam Quy dưới dạng sùng tín.
Nhưng quay về nương tựa
cũng có thể là một sự thực tập chuyển hóa. Cái làm cho Bụt thành Bụt chính là
sự giác ngộ, là Pháp sống tức hoa trái của sự thực tập. Tam tạng kinh điển
(Tripitaka) là Pháp nhưng không phải là Pháp sống. Pháp trong các băng ghi âm,
ghi hình hay trong sách vở không phải là Pháp sống. Pháp sống phải được nhận
biết từ nơi một Bậc Toàn Giác, một vị Bụt, hay nơi các bậc chân tu chưa giác
ngộ hoàn toàn. Tinh ba của Pháp là sự giác ngộ, tức là tính hiểu, biết.
Thực tập chánh niệm là
chìa khóa để đi tới giác ngộ. Khi ta bắt đầu nhận biết điều gì, ta bắt đầu có
giác ngộ. Khi ta uống một ly nước và biết rằng mình đang uống nước một cách sâu
sắc với cả con người mình, sự giác ngộ ở dạng phôi thai có mặt ngay lúc đó.
Giác ngộ là giác ngộ về một điều gì. Tôi giác ngộ về sự kiện là tôi đang uống
một ly nước. Tôi có thể có an lạc, hạnh phúc chỉ bởi sự giác ngộ đó. Khi nhìn
lên bầu trời xanh và ý thức được bầu trời xanh, bầu trời xanh trở nên có thực
và ta cũng trở nên có thực. Đó là sự giác ngộ, và giác ngộ đưa tới đời sống
chân thật và hạnh phúc chân thật.
Bản chất của một vị Bụt
là chánh niệm. Mỗi lần ta trở về với hơi thở và thực tập thở một cách sâu sắc
trong chánh niệm, ta là một vị Bụt sống. Khi chúng ta phân vân không biết phải
làm gì, hãy trở về với hơi thở -- hãy thở vào và thở ra một cách có ý thức --
và hãy nương tựa vào chánh niệm. Điều tốt nhất phải làm trong những giây phút
khó khăn là trở về với chính mình và an trú trong chánh niệm. Khi trằn trọc
trên giường không thể ngủ được, điều hay nhất để làm là trở về với hơi thở. Ta
an ổn và hạnh phúc biết rằng dù chuyện gì có xảy ra đi nữa, ta đang làm những
gì tốt nhất ta có thể làm được. Việc quay về nương tựa Bụt, không phải như một
sự sùng bái, mà như một sự thực tập đích thực, cho ta nhiều yên ủi. Mỗi khi ta
cảm thấy rối ren, giận dữ, hoang mang, bất an, hay sợ hãi, ta luôn luôn có một
nơi chốn để trở về. Chánh niềm về hơi thở là hải đảo của riêng ta. Nơi đó rất
an toàn. ‘Hãy làm hải đảo của chính mình’ có nghĩa là ta nên biết cách quay về
với chính mình trong trường hợp hiểm nguy, thiếu vững chãi, hay hoang mang bối
rối. Sự thực tập quay về nương tựa này rất cụ thể. Khi ta trở về với hơi thở
của mình -- thở vào, thở ra một cách sâu sắc -- và thắp sáng ngọn đèn chánh
niệm trong ta, thì ta có an toàn. Trong trạng thái chánh niệm đó, ta đích thực
là ta. Ngọn đèn đã được thắp rồi, khả năng thấy được sự vật một cách rõ ràng
hơn giờ đây rất lớn.
Giả dụ ta đang ở trên
một con thuyền vượt đại dương. Nếu gặp bão, ta hãy giữ bình tĩnh, chớ hốt
hoảng. Để làm được điều đó, ta quay về với hơi thở và với chính mình. Vì ta
bình tĩnh, thật sự là hải đảo của chính mình, ta sẽ biết điều gì nên làm và
điều gì không nên làm. Nếu không làm như vậy, con thuyền có thể bị lật nhào.
Chúng ta tự hủy hoại mình do làm những điều mà ta lẽ ra không nên làm. Nương
vào chánh niệm, ta sẽ thấy sự việc rõ ràng hơn và biết phải làm gì để cải thiện
tình trạng. Điều này là một sự thực tập rất sâu sắc. Chánh niệm đưa đến định,
và định đưa đến tuệ giác và trí tuệ. Đây là nơi an toàn nhất để quay về nương
tựa ngay chính lúc này, chứ không phải chỉ dành cho tương lai.
Sự an toàn và vững chãi
mà hải đảo của ta có thể cung cấp tùy thuộc vào sự thực tập của ta. Tất cả mọi
thứ -- nướng một cái bánh, dựng một căn nhà, chơi bóng -- đều tùy thuộc vào sự
thực tập của ta. Nếu ta là một người mới tu, thực tập quay về hải đảo tự thân
mỗi khi ta thấy bất ổn, ta sẽ được hưởng phần nào yếu tố niệm, định và an. Giờ
phút ta bắt đầu thực tập, Bụt, Pháp và Tăng đã có mặt cho ta đến một mức nào
đó. Nhưng mức độ này không thể so sánh được với mức độ niệm, định và an của
người đã tu tập lâu ngày. Ban đầu, Bụt của ta có thể chỉ là vài kiến thức ta đã
đọc được về Ngài, Pháp chỉ là những gì ta nghe được từ bạn, và Tăng chỉ là một
cộng đồng ta mới tiếp xúc một đôi lần. Trong khi ta tiếp tục thực tập, Bụt,
Pháp và Tăng sẽ tự hiển lộ cho ta một cách toàn diện hơn. Bụt của anh không
đồng với Bụt của tôi. Đồng là Bụt, nhưng mức độ hiển lộ tùy thuộc vào sự tu tập
của chúng ta.
Bụt dạy rằng đời sống có
ba đặc tính căn bản: vô thường, vô ngã và Niết Bàn. Giáo lý nào đi ngược lại
với bất cứ một trong ba Pháp Ấn này đều không phải là giáo lý đích thực của đạo
Bụt. Nếu chúng ta không biết mọi sự đều vô thường thì chúng ta sẽ đau khổ. Nếu
chúng ta không biết mọi sự đều không có ngã, không có một cái ta tuyệt đối, thì
chúng ta sẽ đau khổ. Nhưng không khổ đau là điều có thể có được, nhờ có Niết
Bàn. Niết Bàn là sự vắng bóng của ảo tưởng về bản chất của vô thường và vô ngã.
Khi ta nhìn sâu vào bản chất đích thực của thực tại, nếu ta nhận ra được bản
chất của vô thường và vô ngã, ta thoát ra khỏi khổ đau. Ta có thể cho rằng Niết
Bàn là điều ngược lại với vô thường và vô ngã. Nhưng nếu tiếp tục thực tập,
chúng ta sẽ thấy rằng Niết Bàn được tìm thấy ngay trong thế giới của vô thường
và vô ngã.
Hãy tưởng tượng đại
dương với vô vàn đợt sóng. Một mặt ta thấy mọi đợt sóng đều bắt đầu bằng sinh
và kết thúc bằng diệt. Sóng có thể lớn hoặc nhỏ, cao hoặc thấp. Nếu nhìn vào
bản chất của sóng, chúng ta thấy rằng những đợt sóng là vô thường và vô ngã.
Nhưng nếu nhìn sâu hơn nữa, chúng ta sẽ thấy sóng còn là nước. Giờ phút sóng
nhận ra mình là nước, tất cả những lo sợ về chết, vô thường, và vô ngã đều sẽ
tan biến. Nước đồng thời là sóng và không-phải-sóng, thế nhưng sóng lại chỉ
được làm bằng nước mà thôi. Những ý niệm như lớn hay nhỏ, cao hay thấp, sinh
hay diệt chỉ có thể áp dụng với sóng, nhưng nước thì vượt thoát ra ngoài những
phân biệt đó. Niết Bàn có thể được tìm ngay trong lòng sự sống được biểu thị
bằng sinh và diệt. Đó là vì sao nếu ta thực tập quy y một cách sâu sắc thì có
ngày ta biết mình đã thoát khỏi sinh tử. Ta thoát ra khỏi những hiểm nạn đã và
đang bức bách ta. Khi thấy được điều đó, ta có thể làm một chiếc thuyền để cưỡi
trên sóng sinh tử, mỉm cười, như một vị Bồ Tát. Ta không còn sợ sinh tử nữa. Ta
không phải lìa bỏ thế giới này và đi tìm một thiên đường xa xôi nào đó để được
giải thoát.
Bụt hiếm khi nói tới
Niết Bàn, cái không do điều kiện làm ra (vô vi), vì Ngài biết rằng nếu Ngài nói
về điều đó, chúng ta sẽ dùng tất cả thời giờ của mình để nói về nó mà không
chịu tu tập. Nhưng Ngài có tuyên bố vài câu rất hiếm hoi liên quan tới Niết
Bàn. Chúng ta hãy đọc câu này từ Udana VIII, 3: ‘Quả thật, có một cái không
sinh, không có khởi đầu, không được tạo lập, không được hình thành. Nếu không
có cái không sinh, không có khởi đầu, không được tạo lập, không được hình thành
này, thì sẽ không thể nào có được sự thoát ly ra khỏi thế giới có sinh, có khởi
đầu,có tạo lập, và có hình thành.’ Đạo Bụt thời ban đầu chưa nhuốm mùi bản thể
học như đạo Bụt sau này. Bụt làm việc với thế giới hiện tượng nhiều hơn. Lời
dạy của Ngài rất thiết thực. Các nhà thần học tốn rất nhiều hơi, mực, và thì
giờ để nói về Thượng Đế. Đây chính là điều Bụt không muốn học trò của Ngài làm,
vì Ngài muốn họ có thì giờ để thực tập samatha (chỉ, dừng, lắng), vipassana
(quán, nhìn sâu), nương tựa vào Tam Bảo, Năm Giới v..v...
Ở những chỗ khác, lời
dạy của Bụt tiết lộ cho chúng ta cái vô vi. Thí dụ như Ngài nói: ‘Khi
nhân duyên đầy đủ, con mắt được chúng ta nhận thức là có mặt. Khi nhân duyên
không còn đầy đủ nữa, con mắt không được ta nhận thức là có mặt. Con mắt không
từ đâu đến cả. Con mắt không đi về đâu cả.’ Các ý niệm đến, đi, có, không là
những miêu tả và khái niệm cần được dẹp trừ. Nếu điều gì ta không thể bàn về nó
được thì tốt nhất hãy đừng bàn về nó. Wittgenstein cũng nói như vậy trong quyển
Tractatus Logicos-Philosophicus của mình: ‘Với những gì chúng ta không thể bàn
tới được thì chúng ta chớ nên nói gì về nó.’ Chúng ta không thể bàn về nó,
nhưng chúng ta có thể chứng nghiệm về nó. Chúng ta có thể chứng nghiệm được cái
bất sinh, bất diệt, vô thỉ, vô chung bởi vì nó chính là tự thân thực tại. Con
đường để chứng nghiệm điều đó là từ bỏ thói quen nhận thức mọi sự qua các khái
niệm và miêu tả. Các nhà thần học đã bỏ ra hàng ngàn năm để nói về Thượng Đế
như một biểu tượng. Đây gọi là Bản-thể học, và môn này bàn về cái mà chúng ta
không nên bàn về.
Đức Bụt mà chúng ta
chứng nghiệm bây giờ và ở đây là chánh niệm. Chánh niệm là một tâm hành như bất
cứ một tâm hành nào khác. Nó có hạt giống trong tâm thức cá nhân và tâm thức
cộng đồng. Nó là một viên ngọc quí vùi sâu trong lòng Đất để chúng ta phát hiện
và khám phá. Khi chúng ta làm cho nó hiển lộ ra, chúng ta có thể chuyển đổi
toàn bộ tình trạng. Đó là sự xuất hiện của một vị Bụt – không phải từ hư vô,
không phải từ không có gì -- mà từ hạt giống Bụt, tánh Bụt. Tánh Bụt, trước
hết, là chánh niệm. Sự thực tập chánh niệm là sự thực tập làm cho đức Bụt toả sáng
trong giây phút hiện tại. Đây là Đức Bụt đích thực. Đó là tại sao trong Đạo Bụt
Đại Thừa, Bụt đôi khi được xưng tả là Như Lai (Tathagata, ‘người từ Chân Như
tới, từ thực tại như-chính-nó-là.’) Chân Như không thể diễn tả được bằng ngôn
từ, hay khái niệm. Niết Bàn, chân lý tuyệt đối, thực tại như-chính-nó-là, là
đối tượng của nhận thức đúng đắn và tuệ giác của chúng ta. Nhưng đối tượng của
nhận thức luôn bao hàm chủ thể nhận thức. Với chánh niệm, chúng ta có thể thấy
rõ bản chất thực tại. Chánh Niệm, với sự hỗ trợ của Định, hơi thở có ý thức, và
sự quán chiếu trở nên một năng lực có thể xuyên thẳng sâu vào lòng sự vật. Đó
không phải là ức tưởng, dùng khái niệm và ngôn từ, mà là nhìn một cách trực
tiếp. Cuối cùng, bản chất đích thực của thực tại sẽ được hiển bày cho chúng ta
như chính chân như. Thực tại như-chính-nó-là không thể mô tả được bằng khái
niệm và ngôn từ, nhưng có thể thâm nhập được bằng Bát Nhã (prajna), sự hiểu
biết đích thực. Trong mỗi chúng ta, hạt giống chánh niệm có thể được mô tả như
Như Lai Tạng (tathagatagarbha).
Tất cả chúng ta đều là
mẹ của Bụt, vì mỗi chúng ta đều đang thai nghén một vị Bụt. Nếu chúng ta biết
cách chăm sóc em bé Bụt trong ta, thì một ngày kia vị Bụt ấy sẽ hiển lộ cho
chúng ta. Đó là vì sao ở Làng Mai chúng tôi xá chào nhau, nhủ thầm: ‘Sen búp
xin tặng người, Một vị Bụt tương lai.’ Chúng ta nhìn người kia như mẹ của một
vị Bụt tương lai. Trong mỗi chúng ta đều có một vị Bụt phôi thai, hạt giống của
chánh niệm, và đây là cái chúng ta cần quay về nương tựa trong đời sống hằng
ngày. Bụt được cho là có mười danh hiệu, và danh hiệu đầu tiên, Như Lai, có
nghĩa là’người đã đến từ Chân Như, vẫn không rời Chân Như, và sẽ trở về Chân
Như.’ Cũng như Bụt, chúng ta đã tới từ Chân Như, vẫn không rời Chân Như và sẽ
trở về Chân Như. Chúng ta không phải đi đâu, không đến từ đâu, và cũng không
đang đi đâu cả.
Không phải chỉ có thực
tại tuyệt đối là không thể nghĩ bàn. Không phải chỉ có Bụt là không thể nghĩ
bàn. Tất cả chúng ta cũng đều như vậy. Không một điều gì có thể khái niệm hay
bàn về được cả. Một ly nước cam chính nó đã là thực tại tuyệt đối. Chúng ta
không thể nói về nước cam cho người chưa từng nếm vị nước cam. Chúng ta có nói
gì đi chăng nữa, người kia cũng không thể biết được hương vị đích thực của nước
cam ra sao. Chỉ có một cách duy nhất là uống nó. Cũng giống như một con rùa kể
cho một con cá nghe về đời sống trên cạn. Ta không thể mô tả đất liền cho một
con cá. Cá sẽ không bao giờ hiểu nổi làm sao người ta có thể thở mà không có
nước. Sự vật không thể mô tả được bằng ngôn từ và khái niệm. Sự vật chỉ có thể
được tiếp cận bằng kinh nghiệm trực tiếp.
Khi Wittgenstein nói:
‘Với những điều ta không thể bàn tới được, thì chúng ta chớ nên nói gì về nó’,
ta có thể nghĩ rằng có những điều chúng ta có thể bàn và có những điều ta không
thể bàn. Nhưng thực ra, không một điều gì có thể bàn tới, khái niệm, hay mô tả
được bằng sự biểu đạt. Nếu ta bàn về những điều mình chưa từng kinh nghiệm, thì
ta đang lãng phí thì giờ của mình cũng như của người. Khi ta tiếp tục sự thực
tập quay về nương tựa, ta sẽ càng thấy rõ điều này, và chúng ta sẽ tiết kiệm
được không biết bao nhiêu là thì giờ, giấy mực, các hoạt động xuất bản, và có
thêm thì giờ để uống trà và sống cuộc sống hằng ngày trong chánh niệm.
Danh hiệu thứ hai của
Bụt là Ứng Cúng (Arhat), có nghĩa là ‘Bậc xứng đáng để được tôn kính và cúng
dường.’ Thứ ba là Chánh Biến Tri (Samyaksambuddha), ‘Bậc tự thức tỉnh một cách
đích thực.’ và toàn vẹn.’ Thứ tư là Minh Hạnh Túc (Vidyacaranasampana),
‘Bậc có đầy đủ công hạnh và tuệ giác.’ Thứ năm là Thiện Thệ (Sugata), ‘Bậc đã
qua tới một cách nhiệm mầu.’ Thứ sáu là Thế Gian Giải (Lokavida), ‘Bậc
hiểu thấu thế gian.” Thứ bảy là Điều Ngự Trượng Phu
(Anutta-rapurusa-damyasarathi), ‘Bậc thầy điều phục cao tột của những con người
có thể điều phục được.’ Thứ tám là Thiên Nhân Sư (Sastadeva-manussana), ‘Bậc
Thầy của trời và người.’ Thứ chín là Bụt (Buddha), ‘Bậc Giác Ngộ.’ Thứ mười là
Thế Tôn (Bhagavat), ‘Bậc được tôn quí trên đời.’ Mỗi khi quay về nương tựa Bụt,
chúng ta quay về nương tựa nơi bậc có những đặc tính này. Khi trở về nương tựa
nơi chánh niệm, chúng ta trở về nương tựa nơi hạt giống của những đặc tính ấy
trong chúng ta.
Trong đạo Bụt Đại Thừa,
Như Lai Tạng (tathagatagarbha) tương đương với Pháp-thân (Dharmakaya.) Khi
chúng ta nói về Chân Như hay Niết Bàn, chúng ta đang nói về cái mà lẽ ra không
nên bàn về. Bụt hầu hết tránh nói về những điều này, nhưng thỉnh thoảng Ngài
cũng đã có gợi ý bằng cách nhắc đến những điều khác. Giáo lý không đến, không
đi, không có, không không đã rất rõ trong đạo Bụt buổi ban đầu. Trong đạo Bụt
Đại Thừa (Mahayana), những khái niệm này đã được triển khai hết mực, đôi khi
còn quá triển khai nữa. Chúng ta không nên đeo đuổi quá nhiều vào những vấn đề
như vậy. Chúng ta nên giữ tính chất thực tiễn của Phật Pháp. Bằng không, chúng
ta sẽ trở thành những triết gia thay vì những hành giả.
Khi thực tập quay về
nương tựa nơi hơi thở của mình, tôi nói: ‘Thở vào: quay về nương tựa. Thở ra,
hải đảo tự thân. Chánh niệm là Bụt -- soi sáng xa gần.’ Tôi thực tập hơi thở
chánh niệm như là một sự thực tập quay về nương tựa.
Chúng ta sống trong một
thế giới của vô thường, vô ngã, một thế giới mà trong đó có bao nhiêu là đợt
sóng đang chực chờ cuốn chúng ta đi. Chúng ta thực tập an trú trong chánh niệm
như là an trú trong hải đảo của chính mình. Chánh niệm là tự thân của Bụt.
Chánh niệm cũng là Pháp và Tăng. Thực tập hơi thở có chánh niệm, chúng ta chiếu
ánh sáng chánh niệm vào năm uẩn (skandhas), hay năm nhóm tụ hợp của sự hiện
hữu, gọi là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Trong ta có một Tăng thân (Sangha)
gồm năm yếu tố, và có thể có sự thiếu hoà hợp giữa các yếu tố ấy. Khổ là hậu
quả từ sự xung khắc giữa các uẩn. Hơi thở chánh niệm có thể làm lắng dịu sự
xung khắc, và thiết lập lại sự hoà hợp trong ta. Hoa trái của sự thực tập này
là an lạc.
Khi nhìn sâu, tính bất
sinh, bất diệt, không đến, không đi sẽ hiển lộ ra cho chúng ta, và nỗi lo sợ
mình có thể bị mất đi cái này hay cái kia sẽ tan biến. Ta không cần phải bỏ thế
giới này. Ta không cần phải đến Thiên Đàng để nương tựa. Ta không cần phải đợi
đến tương lai để có nơi nương tựa. Ta quay về nương tựa ngay ở đây và bây giờ.
Chiều sâu của nơi nương tựa tùy thuộc vào sự thực tập của mình. Bụt, Pháp và
Tăng luôn có đó. Như Lai Tạng luôn có đó. Chúng ta chỉ cần quay về đó để được
an toàn.
Trong nhà thờ Chính
Thống Giáo Hy Lạp, các nhà thần học nói về ‘ Thần học Apophatic’ hay ‘Thần học
phủ định’. ‘Apophatic’ có gốc từ chữ ‘apophasis’ trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa
là ‘phủ nhận. Ta có thể nói Thượng Đế không phải là thế này, Thượng Đế không
phải là thế kia, cho tới khi ta tháo bỏ được tất cả mọi ý niệm về Thượng Đế.
Thầy Long Thọ (Nagarjuna), nhà luận sư Phật giáo của thế kỷ thứ hai, đã khai
triển một phép biện chứng tương tự để lấy đi các ý niệm về thực tại. Thầy không
mô tả thực tại, vì thực tại là như vậy đó, không thể nào mô tả được. Khi các
Phật tử trong nhà thiền nói đến việc sát Phật, họ muốn nói rằng ý niệm về Bụt
phải được diệt trừ để đức Bụt đích thực được trực tiếp chứng đạt.
Ý niệm về Ba Ngôi trong
phái Cơ Đốc Chính Thống khá thâm áo. Có khi những người bạn Chính Thống giáo
của chúng ta nói rằng Ba Ngôi là chương trình xã hội của họ. Họ bắt đầu với đức
Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha có lẽ khó tiếp xúc, tư duy và lĩnh hội
hơn. Đức Chúa Cha thuộc về lĩnh vực không thể diễn đạt, và đáng được để yên
trong địa hạt huyền bí đó. Đức Chúa Con và Chúa Thánh Thần thì có thể tiếp xúc
được. Tương tự, trong Đạo Bụt, chúng ta nói đến việc thực tập với Pháp và với
Tăng, rồi sau đó đến việc tiếp xúc với Niết Bàn, ‘Như Lai Tạng.’
Chúa Thánh Thần tạo ra
Chúa Con để Chúa Con có thể dẫn dắt chúng ta đến với Đức Chúa Cha. Tôi từng nói
với một tu sĩ KiTô giáo: ‘Bắt đầu bằng Chúa Thánh Thần thì an toàn hơn nhiều.
Ta có khả năng nhận ra được sự có mặt của Chúa Thánh Thần bất cứ lúc nào và bất
cứ nơi nào Chúa Thánh Thần hiển lộ. Đó là sự có mặt của chánh niệm, hiểu biết,
va thương yêu, năng lượng làm nên sức sống không chỉ nơi đức Jesus mà còn nơi
mỗi chúng ta. Năng lượng ấy giúp chúng ta nhận ra được đức Chúa Ngàn Đời và
tiếp xúc được với nền tảng của hiện hữu là Đức Chúa Cha. Trong Đạo Bụt, Chúa
Thánh Thần được gọi là chánh niệm, sự tỉnh thức, Bát Nhã (prajna), Từ (maitri),
và Bi (karuna). Tiếp xúc với năng lượng này, chúng ta tiếp xúc với Bụt và Niết
Bàn.’
Thuyết thần học về cái
chết của Thượng Đế, tư tưởng vô thần và đạo Cơ Đốc thế tục cũng nằm trong tinh
thần đó. Ta dựa vào con người của đức Jesus Christ, lời dạy và sự hành trì của
Ngài. Đây là điều rất thông minh và thực dụng. Nếu ta bắt đầu với khái niệm
Thượng Đế, chúng ta có thể bị kẹt. Trong Chính Thống giáo Hy Lạp, tư tưởng thần
thánh hoá, cho rằng con người là hình ảnh thu nhỏ lại của Thượng Đế, là rất thú
vị. Đó là điều đã rất hiển nhiên ở thế kỷ thứ tư rồi, và rất gần với truyền
thống Á Đông cho rằng ‘thân người là một tiểu vũ trụ.’ Thượng Đế đã tạo ra con
người để con người có thể trở thành Thượng Đế. Con người là một tiểu Thượng Đế,
một mầm mống thánh thần. Điều này gần với tư tưởng Như Lai nằm trong mỗi người
chúng ta. Tất cả chúng ta đều đang thai nghén một đức Bụt. Theo giáo thuyết có
khuynh hướng thánh hoá con người, thì con người được tạo ra để tham dự vào tính
thần thánh của Thượng Đế, chứ không phải chỉ là những tạo vật riêng biệt với
Thượng Đế. Sự thánh hoá không phải chỉ làm bằng phần hồn, mà còn làm bằng phần
xác. Theo giáo lý Ba Ngôi Một Thể trong Chính Thống Giáo, Chúa Cha là nguồn
thánh thiêng sinh ra Chúa Con. Với ‘Phúc Âm’ (‘Lời Thánh Phán’, tiếng Hy Lạp:
Logos) Ngài tạo nên linh hồn sống động trong đức Chúa Con. Điều này có thể so
sánh với tính bất nhị của Bụt, Pháp, và Tăng.
Điều quan trọng nhất
trong một cuộc đối thoại giữa các tôn giáo là mỗi bên chia sẻ cho nhau họ thực
tập như thế nào. Nếu chúng ta đến với nhau trong năm hay mười ngay, thì thế nào
chúng ta cũng phải có dịp để chia sẻ với nhau cách chúng ta sống đời sống hằng
ngày, cách chúng ta thực tập quay về nương tựa, cách chúng ta cầu nguyện, hành
thiền, v.v... Với tôi, Năm Giới là sự thực tập chánh niệm. Ba Sự Quay Về Nương
Tựa cũng là sự thực tập chánh niệm. “Con về nương tựa Tăng” là một sự thực tập,
chứ không phải là một sự sùng mộ.
Huyền bí trong đạo Cơ
Đốc đôi khi được mô tả như bóng tối. Khoảng thế kỷ thứ ba hay thứ tư, trong
Chính Thống Giáo Hy Lạp đã có khái niệm bóng tối, và khái niệm này đã trở thành
nguồn gốc cho chủ nghĩa thần bí trong đạo Cơ Đốc. Bóng tối có nghĩa là ta không
biết được nó; không thể thấy nó một cách rõ ràng bằng trí năng; nó bí ẩn. Khi
Victor Hugo mất cô con gái, Leopoldine, ông than rằng: ‘Con người thấy chỉ một
bề sự vật, Bề bên kia đang ngập chìm trong đêm đen của bí ẩn hãi hùng.’ Trong
đạo Bụt, sự huyền bí được diễn tả bằng ánh sáng. Trong Kinh Hoa Nghiêm
(Avatamsaka Sutra), Bụt là ánh sáng. Nếu chúng ta được một trong những tia sáng
chạm tới, chúng ta sẽ được giác ngộ. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Bụt thuyết pháp
dưới hình thức của đức Bụt Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), tức là đức Bụt Pháp Thân,
mọi người trong chúng hội -- người, trời, chư Bụt, chư Bồ Tát, thợ thuyền, vua,
quan ... -- đều cảm nhận hạnh phúc tột cùng vì họ đã được ánh sáng từ Bụt phát
ra chạm tới. Trong đạo Bụt, từ ‘vô minh’ (avidya), có nghĩa là sự thiếu trí
tuệ, tuệ giác và ánh sáng. Minh (Vidya), sự hiểu biết, được làm bằng ánh sáng.
Tất cả những gì huyền bí và mầu nhiệm đều nằm bên phía ánh sáng, chứ không phải
bên phía bóng tối. Nó là ánh sáng, mặc dầu nó không thể nắm bắt được bằng kiến
thức khái niệm.
Trong một truyện ngắn,
Alphonse Daudet nói đến một người chăn cừu trên núi làm dấu thánh giá khi anh
ta trông thấy một ngôi sao băng. Theo niềm tin dân gian thì lúc ta trông thấy
một vì sao băng cũng là lúc một linh hồn đang bước vào thiên đàng. Làm dấu
thánh giá là một hình thức trở về nương tựa nơi Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh
Thần. Khi bạn cho một cái gì là hiện thân của xấu ác thì bạn đưa thánh giá ra
để xua đuổi nó đi. Trong đạo Bụt dân gian, khi thấy một điều gì họ nghĩ là bất
thiện, người ta cũng niệm danh hiệu Bụt. Đó là sự thực tập tín mộ. Khi có ánh
sáng, bóng tối sẽ tan biến.
Nhưng nếu học lý bất
nhị, cái hiểu của chúng ta sẽ thay đổi. Khi bật đèn, chúng ta đọc bài kệ này
như một thực tập chánh niệm:
Thất niệm là bóng đêm
Chánh niệm là ánh sáng
Đưa tỉnh thức trở về
Cho thế gian tỏ rạng.
Chúng ta có thể hiểu đây
là một cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối, nhưng trên thực tế đây là một sự
ôm ấp. Chánh niệm, nếu được thực tập liên tục, sẽ đủ sức để ôm ấp cơn giận hay
cái sợ của ta và chuyển hoá chúng. Niệm Chú không giống với việc đưa thánh giá
ra để xua đuổi tà ma. Việc đối trị với cái bất thiện phải được thực tập một
cách bất bạo động và bất nhị.
Trong đạo Cơ Đốc, việc
trở về nương tựa được biểu đạt qua hình hài của chúa Jesus. Với một số người,
hình ảnh cây thánh giá biểu lộ quá nhiều đau khổ. Phải có những cách để tượng
trưng cho đức Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần như sự an bình, hỷ lạc,
khác hơn là bằng hình ảnh cây thập tự. Một số người nói họ cảm thấy bình an hơn
khi trông thấy hình ảnh đức Bụt ngồi mỉm cười. Nhìn một người bị đóng đinh vào
thập tự giá trong hai ngàn năm có thể là quá nặng nề. Tôi rất thích sự kiện sự
thực tập được biểu hiện qua một hình hài, bạn nghĩ sao với hình ảnh chúa Jesus
ôm một chú cừu non? Có vẻ dễ thương hơn. Khi chúng ta ngồi thiền, sự thực tập
quay về nương tựa cũng được biểu hiện nơi thân thể. Khi chúng ta lạy, thì đó
cũng là hành động quy y. Cả năm uẩn đều tập trung về một hướng, chánh niệm là
chỗ quy về.
Trong đạo Cơ Đốc, Lễ Ban
Chịu Mình Thánh là một hành động trở về nương tựa nơi Jesus, Thượng Đế. Ít nghe
nói đến việc tiếp xúc sâu sắc với Pháp và Tăng. Không có Tăng thân, cộng đồng
giáo xứ, không có việc ăn bánh và uống rượu vang trong sự tỉnh giác, thì chúa
Jesus sẽ không thể có mặt. Tăng thân đã trở nên quan trọng trong đạo Cơ Đốc.
Người ta không bao giờ làm Lễ Ban Chịu Mình Thánh một mình mà đến với nhau làm
Lễ với tư cách một Tăng thân. Trong giáo đoàn lúc đầu, thành ngữ ‘chúng ta đều
cùng một cơ thể’ thường hay được sử dụng. Nhưng hệ thống thứ bậc của nhà thờ đã
trở nên nặng nề ngột ngạt, và hậu quả là Tăng thân yếu đi.
Trong thực tập đạo Bụt,
chúng ta nhấn mạnh đến Tăng thân. Hành giả xa lìa Tăng thân được ví như một con
hổ xa lìa núi. Một con cọp xuống đồng bằng có thể bị người ta bắt, giết. Một
hành giả không có Tăng thân có thể đánh mất sự thực tập.
Tăng có nghĩa là chúng.
Có bốn chúng: xuất gia nam, xuất gia nữ, tại gia nam, tại gia nữ. Tôi xin thêm
vào các yếu tố hỗ trợ không phải người như cỏ cây, toạ cụ, đá, nước, và chim
muông. Một hạt sỏi, một tờ lá, một bông hoa thược dược, một cái cây, một con
chim, một con đường ... thảy đều đang thuyết Pháp Hoa Kinh’ (Saddharmapundarika
Sutra), nếu chúng ta biết cách lắng nghe. Trong Kinh A Di Đà (Sukhavativyuha
Sutra) nói rằng mỗi khi có gió nhẹ xao động các hàng cây, chúng ta đều nghe
được tiếng diễn xướng các pháp môn Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo, Tứ Thần Túc
v.v... Cả vũ trụ đều đang thuyết và hành trì Pháp Bụt. Nếu để ý, chúng ta có
thể tiếp xúc được với Tăng thân đó.
Ai muốn tu cũng cần phải
có Tăng thân. Chúng ta phải lập những Tăng thân nhỏ quanh mình để yểm trợ mình
trong việc tu học. Không có Tăng thân thì khi đuối sức chúng ta sẽ không có
phương tiện để nuôi dưỡng bản thân mình. Qua việc tạo ra một Tăng thân nhỏ,
chúng ta có thể tìm được một Tăng thân lớn hơn quanh ta và trong ta.
Sự thực tập quay về
nương tựa có thể được làm mỗi ngày, nhiều lần trong ngày. Mỗi khi ta cảm thấy
bất an, bồn chồn, buồn, sợ, hay lo lắng – thì đó là những lúc để trở về nơi hải
đảo chánh niệm. Nếu ta từng thực tập trở về hải đảo tự thân khi không có vấn
đề, thì khi gặp khó khăn, việc thực tập sẽ dễ dàng và thú vị hơn. Đừng đợi sóng
gió ập đến rồi mới chịu quay về nơi hải đảo tự thân. Hãy thực tập quay về nơi
hải đảo của chính mình bằng cách sống chánh niệm trong từng phút giây của sự
sống. Nếu sự thực tập đã trở thành thói quen rồi, thì khi khó khăn đến, việc
thực tập sẽ tự nhiên, dễ dàng. Thiền hành, thiền toạ, thở, ăn cơm im lặng, uống
trà trong chánh niệm đều là những phép thực tập quay về nương tựa. Mỗi phép
thực tập chánh niệm đều chứa đựng tất cả các phép thực tập khác. Nếu chỉ thực
tập quay về nương tựa thôi, chúng ta cũng đang thực tập Bát Chánh Đạo, Tứ Niệm
Xứ, và các pháp khác. Một Pháp môn chứa đựng tất cả các Pháp môn khác.
Quay về nương tựa không
phải là vấn đề tín ngưỡng. Sự thực tập này đặt căn bản trên kinh nghiệm của
chúng ta. Ta biết trong ta có hạt giống của chánh niệm. Ta có hải đảo nơi tự
thân. Đây không phải là một vấn đề siêu hình. Hơi thở vào, hơi thở ra có đó;
hạt giống chánh niệm luôn có đó. Quay về nương tựa là vấn đề thực tập hằng
ngày. Trong các chùa, chúng ta dùng chữ ‘công phu’ (tiếng Tàu là: kung fu), có
nghĩa là ‘sự thực tập hằng ngày’, chứ không phải là ‘võ nghệ.’ Một người học
trò hay một vị thầy giỏi luôn biết quay về nương tựa nơi phép quán niệm hơi thở
mỗi khi có lo âu, buồn bực.
Khi ta nhận tin buồn và
bị chấn động, điều hay nhất để làm lúc đó là quay về nương tựa. Ở Tây phương,
khi phải báo cho ai một tin buồn, ta đều mời người đó ngồi xuống. Ngồi xuống là
tốt, vì ta sợ người đó sẽ xỉu. Nhưng ta cũng có thể mời người đó thở vào-ra cho
được bình tĩnh và vững chãi. Ngay tin vui cũng có thể làm người ta xỉu. Nếu
nghe tin mình vừa trúng số mười triệu đô, ta có thể cũng bị đứng tim mà chết.
Thực tập quay về nương
tựa như vậy không phải lúc nào cũng dễ. Bởi vì chúng ta có khuynh hướng tin vào
một cái ngã thường hằng, cho nên chúng ta cần thực tập cho đủ sâu để chứng
nghiệm được tính không đến, không đi. Bằng không, chúng ta sẽ khăng khăng với ý
niệm trước khi sinh ra, mình đã từng ở một nơi nào đó, và sau khi chết mình sẽ
đi về một nơi nào đó. Vì không biết mình sẽ đi về đâu cho nên chúng ta cảm thấy
sợ hãi. Giáo lý Tịnh Độ bảo đảm với người ta rằng nếu thực tập tốt bây giờ, họ
sẽ được sinh về Tịnh Độ của đức Bụt A Di Đà. Còn có những Tịnh Độ khác như cõi
Diệu Hỷ (Abhirati) của Bụt A Súc Bệ (Aksobhya hay Bụt Dược Sư.) Nhiều Phật tử
muốn sinh về cõi trời Đâu Suất (Tushita) để được gần gũi đức Bụt Di Lặc
(Maitreya), và đến khi Ngài hạ sinh về cõi Ta Bà thì họ muốn được cùng sinh về
đó với Ngài. Để được sinh về Tịnh Độ, ta phải thực tập niệm Bụt
(buddharusmrti.) Suốt trong đời sống hằng ngày, ta phải niệm danh hiệu Bụt và
hướng tâm về Bụt. Đây là một hình thức quay về nương tựa. Ta có thể thực tập
bằng cách quán tưởng về Bụt với ba mươi hai tướng tốt, hay bằng cách niệm danh
hiệu Ngài. Danh hiệu của Bụt có thể gợi lên những phẩm chất tốt đẹp của Ngài.
Trong suốt thời gian thực tập, ta an trú trong vùng bảo hộ ấy của Bụt. Ta gần
với Ngài, với hải đảo. Ta tưới tẩm hạt giống Bụt – chánh niệm và sự hiền thiện
trong ta. Sau này, ta được học từ Thầy ta rằng Tịnh Độ vốn ở nơi tâm ta. Đây là
những bước dần dẫn đến giáo lý không đến – không đi. Nhiều người cần một nơi để
tới trước khi nhận ra rằng mình không cần phải đi đâu cả.
Chúng ta cần phải nhớ
rằng Tịnh Độ là vô thường. Trong đạo Cơ Đốc, nước Chúa là nơi ta sẽ đến ở cho
đến muôn đời. Nhưng trong đạo Bụt, Tịnh Độ là một thứ trường đại học, nơi ta sẽ
thực tập với một vị thầy trong một thời gian, tốt nghiệp, và sau đó quay lại
cõi này. Một bậc giác ngộ có tên là Bụt A Di Đà mời những ai thích pháp môn
thực tập này đến thực tập với Ngài, để một ngày kia họ có thể tốt nghiệp và trở
thành những bậc giác ngộ hoàn toàn. Nếu ta nhận ra rằng Tịnh Độ ở ngay trong
tâm mình, như giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra), thì ta không cần
một nơi chốn xa xôi, hay một khoảng thời gian nào đó để thiết lập Tịnh Độ. Ta
có thể thiết lập một Tăng thân, một tiểu Tịnh Độ ngay tức thì, tại nhà.
Tôi xin trình bày lại công
thức quy y cổ điển: ‘Quay về nương tựa Bụt trong con, con xin nguyện thể nhận
Đạo Cả để phát được tâm vô thượng.’ Tâm vô thượng là tâm Bồ Đề (bodhicitta), ý
hướng hay ý nguyện tu tập và giúp vô lượng chúng sinh cho đến khi giác ngộ hoàn
toàn. Có những người thực tập chỉ để làm vơi đi nỗi khổ niềm đau của mình mà
không màng đến nỗi khổ niềm đau của kẻ khác. Đó không phải là tâm vô thượng.
‘Quay về nương tựa Pháp
trong con, con xin nguyện đạt được trí tuệ và hiểu biết rộng lớn như biển cả.’
Pháp sống chỉ có thể được tiếp xúc qua sự thể hiện của một vị Bụt, một Tăng
thân, hay một hành giả giỏi.
‘Quay về nương tựa Tăng
trong con, con xin nguyện cùng với mọi loài, giúp xây dựng nên một Tăng thân
không có chướng ngại.’ Nếu ta được thúc đẩy bởi ý muốn xây dựng một Tăng thân
nhỏ để tu tập và làm hạnh phúc cho người xung quanh bằng sự thực tập, thì ta
đang thực tập điều Nương Tựa thứ Ba. Nếu ta đau khổ vì không có niềm tin vào sự
thực tập của mình, và cảm thấy sắp sửa rời bỏ tăng thân, thì đó là một điều bất
hạnh. Nếu ta cảm thấy không hạnh phúc trong Tăng thân, nếu ta thấy Tăng thân
mình quá khó, thì tốt nhất là hãy phấn đấu để duy trì. Chúng ta không cần một
Tăng thân toàn hảo. Một Tăng thân không toàn hảo là đủ tốt rồi. Chúng ta có thể
nỗ lực để biến mình trở thành một phần tử tích cực của Tăng thân, và nâng đỡ
những người trong nhóm bằng nỗ lực của mình.
Tam Quy là một thực tập
rất sâu sắc. Chúng ta đã đơn giản hoá cách hành văn thành những câu đơn giản để
tuổi trẻ cũng có thể dễ dàng hiểu được:
Con về nương tựa Bụt,
người đưa đường chỉ lối
cho con trong cuộc đời.
Con về nương tựa Pháp,
con đường của tình
thương và sự hiểu biết.
Con về nương tựa Tăng,
đoàn thể của những người
nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.
Chúng ta biết Tam Bảo
tương tức với nhau. Không có Pháp và Tăng, Bụt không phải là Bụt. Ngay cả những
vị Bụt-sẽ-thành cũng cần có Pháp thân và Tăng thân. Những thân này tùy thuộc
vào sự xây dựng của chúng ta. Pháp thân của chúng ta phải là một thực thể sống
động, chứ không phải chỉ là một mớ tư tưởng, giáo điều. Tăng thân của chúng ta
phải là một cộng đồng sinh động, chứ không phải chỉ là một mơ ước đi tìm một
vùng đất hay đi tìm những con người có cùng một tâm hồn. Hay nhất là làm cho nó
hiển lộ ra bây giờ và ở đây, biến Tăng thân này thành một Tăng thân sống ngay
ngày hôm nay, biến Pháp ta vừa học thành Pháp sống ngay ngày hôm nay. Nếu chúng
ta có quyết tâm thì thế nào cũng thành. Lấy bài học từ Kinh Người Biết Sống Một
Mình, chúng ta thực tập ngay trong giờ phút này, vui với cái hiện tại, đó là
Tăng thân bây giờ và ở đây.
Một đức Bụt như Đức
Thích Ca Mâu Ni có thể được nhìn qua Pháp thân và Tăng thân của Ngài. Khi tiếp
xúc với Pháp thân hay Tăng thân Ngài, ta tiếp xúc được Ngài. Chúng ta không nên
than rằng mình sinh ra trễ đến 2500 năm, vì vậy mà không tiếp xúc được với
Ngài. Chúng ta đang tiếp xúc với Ngài. Chúng ta đang tiếp xúc với Pháp thân và
Tăng thân của Ngài ngay lúc này. Tất cả những vị Bụt-sẽ-thành chúng ta cần phải
thể hiện mình qua Pháp Thân và Tăng thân chúng ta. Khi có ai nói điều gì khiêu
khích chúng ta, chúng ta có thể mỉm cười, quay về với hơi thở, và người kia sẽ
có cơ hội tiếp xúc với Pháp thân chúng ta. Khi chúng ta cư xử có chánh niệm và
từ bi, Pháp của ta là Pháp sống. Mỗi khi có khó khăn hay buồn bực, nếu chúng ta
trở về với hơi thở và an trú trong hải đảo chánh niệm, mọi người có thể tiếp
xúc với Pháp sống của chúng ta. Khi chúng ta có một nhóm những người bạn cùng
nâng đỡ nhau trong sự tu tập, thì mỗi khi đến uống trà với chúng ta, người ta
tiếp xúc với Tăng thân chúng ta.
Bụt nói Pháp thân Ngài
sẽ ở lại với học trò Ngài, nhưng Pháp thân có tồn tại được hay không là tùy ở
nơi họ. Nếu chúng ta không chịu thực tập thì chỉ có băng sách mà thôi, nhưng
nếu chúng ta có tu tập thì Pháp thân sẽ là Pháp sống. ‘Pháp Thân’ (Dharmakaya)
sau này có thêm nghĩa là ‘linh hồn của Bụt’, ‘tinh túy của Bụt’, ‘đức Bụt đích
thực’, ‘nền tảng của Bụt.’ Từ này đã phát triển thêm hơi hướng bản thể học,
‘nền tảng của mọi chúng sinh’, ‘nền tảng của mọi sự giác ngộ.’ Cuối cùng, từ
này trở thành một cái tương đương với ‘chân như’, ‘Niết Bàn’, và
‘tathagatagarbha’ (Như Lai Tạng.) Đó là một phát triển tự nhiên. Pháp là cánh
cửa dẫn đến tất cả những nghĩa ấy. Chúng ta chỉ phải lưu tâm xem mình dành bao
nhiêu thời giờ để nói về những việc này.
Pháp thân (Dharmakaya)
là Bụt trong bản thể. Có khi chúng ta gọi là Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), đức Bụt
bản thể, đức Bụt nền tảng, hiện thân của Pháp, luôn toả sáng, luôn chiếu soi cỏ
cây, chim chóc, con người v.v... luôn phát ra ánh sáng. Chính đức Bụt đó đang
thuyết Kinh Hoa Nghiêm ngay bây giờ, chứ không phải chỉ vào 2500 năm trước. Ai
đã tiếp xúc với đức Tỳ Lô Giá Na thì không cần phải có đức Thích Ca Mâu Ni
(Shakyamuni.) Đức Thích Ca Mâu Ni chỉ là một đạo hào quang phóng ra từ đức Bụt
Tỳ Lô Giá Na. Đức Thích Ca Mâu Ni là Nirmanakaya, Ứng Hoá Thân, như một đốm
sáng phóng ra từ đống lửa, một tia sáng phóng ra từ mặt trời. Ta không phải lo
âu nếu một tia sáng ngừng biểu hiện. Mặt trời luôn có đó. Pháp thân luôn ở đó.
Nếu ta không được nghe trực tiếp từ Thích Ca Mâu Ni, thì nếu mở tâm cho đủ, ta
có thể nghe được đức Bụt Tì Lô Giá Na. Ngoài đức Thích Ca Mâu Ni còn có bao
nhiêu là đức Bụt Ứng Hoá Thân đang thuyết pháp. Cỏ cây, chim chóc, trúc tím,
hoa vàng đều đang thuyết cùng Diệu Pháp mà đức Thích Ca Mâu Ni đã thuyết cách
đây 2500 năm. Chúng ta có thể tiếp xúc được với Ứng Hoá Thân (Nirmanakaya), qua
cách này hay cách khác.
Thân đầu tiên là Pháp
Thân (Dharmakaya), thân thứ hai là Báo Thân (Sambhogakaya), thân thứ ba là Ứng
Hoá Thân (Nirmanakaya.) Báo Thân là thân phước trí. Ta có thể tiếp xúc với thân
đó vì Bụt đã thành tựu viên mãn chí nguyện giác ngộ. Chánh niệm là nền tảng của
hiểu biết, từ bi, và an lạc. Khi chúng ta thở vào, thở ra, ý thức được bầu trời
xanh, thì chúng ta hưởng được niềm vui ấy. Khi chúng ta uống trà trong chánh
niệm, thì chúng ta đang tiếp xúc. Bình an, hỷ, lạc là hoa trái của chánh niệm.
Bụt là người thực tập chánh niệm, Ngài có vô lượng bình an, hỷ, lạc, và chúng
ta có thể tiếp xúc được với thân thọ dụng này. Mỗi khi ta tiếp xúc với một yếu
tố hoà hợp, toả sáng, ta tiếp xúc với Báo Thân (Sambhogakaya) của Bụt. Đó là
thân phước báo, thân thọ dụng, tượng trưng cho sự an lạc của Bụt, hoa trái của
sự tu tập của Ngài.
Báo thân có thể được
diễn tả theo hai cách. Thứ nhất là tự thọ dụng. Thứ hai là tha thọ dụng. Khi ta
thực tập chánh niệm, ta tự hưởng hoa trái của sự thực tập. Những người chung
quanh ta cũng được thừa hưởng từ hạnh phúc và hoa trái của sự thực tập của ta.
Khi một người có an lạc, sự an lạc ấy toả ra quanh họ cho những người khác được
hưởng. Nếu ta thực tập giỏi, ta sẽ có thể gửi nhiều Báo Thân vào cuộc đời để
giúp làm vơi nhẹ khổ đau của chúng sinh. Một người có khả năng chuyển hoá nhiều
chúng sinh nếu người ấy biết cách khám phá hạt giống giác ngộ trong mình.
Một hôm, khi đang ở trên
máy bay, tôi có ý nghĩ này: Giả dụ phi công báo tin máy bay sắp sửa rơi ầm
xuống thì tôi sẽ làm gì? Rõ ràng là tôi sẽ thực tập hơi thở và nụ cười có chánh
niệm. Đó là điều hay nhất tôi có thể làm được trong giờ phút ấy. Và nếu ở dưới
này, các bạn biết rằng tôi đang thực tập thở và cười trong giờ phút khó khăn
ấy, thì các bạn sẽ có niềm tin nơi chính mình. Cốt yếu là chúng ta đừng đợi cho
đến giờ phút nguy ngập ấy mới bắt đầu thực tập.
Tôi luôn thực tập hơi
thở chánh niệm trong suốt thời gian máy bay cất cánh và hạ cánh. Không có nghĩa
là ngoài những lúc ấy tôi không thực tập, nhưng tôi không bao giờ quên thực tập
trong những lúc ấy. Điều đó không phải vì tôi sợ mà vì nó đã trở thành một thói
quen. Tôi bay qua bay lại quá nhiều. Tôi còn có thói quen thực tập thiền hành ở
các phi trường. Tôi luôn tìm cách ra phi trường sớm để không phải vội vàng khi
đến đó. Ai nấy đều vội vã, nhưng tôi biết chúng ta có thể bình tĩnh và đi thiền
hành được, ngay cả ở phi trường.
Tam Bảo và Năm Giới đều
là những giáo lý về sự thực tập chánh niệm. Tam Bảo chứa đựng mọi giáo lý và là
nền tảng của mọi thực tập. Đây là loại thực tập ta có thể đo lường. Ta sẽ thấy
được sự tiến bộ của mình. Sự tin tưởng và đức tin nơi Tam Bảo của ta sẽ lớn
mạnh mỗi ngày.
Thực tập tín mộ và thực
tập chuyển hoá nghe có vẻ như hoàn toàn khác biệt, nhưng điều đó không đúng. Cả
hai đều là những thực tập tích cực (chủ động.) Thực tập tín mộ cũng có thể là
thực tập chuyển hoá. Thực tập tín mộ nương nhiều vào tha lực, dù cũng có tự lực.
Thực tập chuyển hoá thì nương vào những gì mình có, nhưng vì ta cần thầy, cần
Tăng thân, ta cũng phải nương vào kẻ khác. Sự khác biệt không tuyệt đối, nhưng
có sự khác biệt.
Thực tập chánh niệm có
thể được tìm thấy trong cả hai phép thực tập tín mộ và chuyển hoá. Nhiều người
cho rằng thực tập chánh niệm là thực tập duy nhất của đạo Bụt. Hơi thở chánh
niệm hợp nhất lại thân tâm. Đó là điều kiện trước tiên để tiếp xúc với những gì
ta muốn tiếp xúc, kể cả đấng cao cả. Khi thực tập hơi thở chánh niệm, ta trở
nên an ổn, vững vàng, và con người ta đã bước lên một bậc cao hơn.