PHẦN BỐN: NGHI THỨC
NGHI THỨC TRUYỀN THỌ BA QUY và NĂM GIỚI
Người chủ lễ nghi thức
này là một người có đạo đức được đại chúng kính nể, đang hành trì Giới Khất Sĩ,
Giới Nữ Khất Sĩ, Giới Bồ Tát Xuất Gia hya Giới Tiếp Hiện Xuất Gia đã được
truyền đăng làm Giáo Thọ hoặc đã được đặc biệt cho phép trao truyền Năm Giới.
1. (Thiền Hành) (30 phút, sau khi được hướng dẫn)
2. (Thiên Toạ) (12 phút, sau khi được hướng dẫn)
3. (Dâng Hương)
Đại chúng chắp tay
trước bàn thờ. Vị chủ lễ dâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng
chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:
Lò báu đốt danh hương
Khói trầm quyện toả khắp
mười phương
Tâm Bồ Đề dũng liệt phi
thường
Tiếp xúc đâu cũng phóng
hào quang
Khắp chốn an định tỏ
tường
Kính thành phụng hiến
đức Từ Tôn.
Chúng con kính dâng
hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)
4. (Tán Dương)
Hương đã cắm vào bình,
vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:
Xinh tốt như hoa sen
Rạng ngời như Bắc Đẩu
Xin quay về nương náu
Bậc Thầy của nhân,
thiên.
Sen quý nở đài giác ngộ
Hào quang chiếu rạng
mười phương
Trí tuệ vượt tầm pháp
giới
Từ bi thấm nhuận non
sông.
Vừa thấy dung nhan Điều
Ngự
Trăm ngàn phiền não sạch
không
Hướng về tán dương công
đức
Tinh chuyên Đạo nghiệp
vun trồng.
Nam mô Đức Bổn Sư Bụt
Thích Ca Mâu Ni. (C)
5. (Lạy Bụt)
Vị chủ lễ xướng các
danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau
mỗi danh hiệu:
Nhất tâm kính lễ Bụt,
Pháp, và Tăng thường trú trong mười phương (C)
Nhất tâm kính lể Đức Bổn
Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)
Nhất tâm kính lễ Đức Bồ
Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)
Nhất tâm kính lễ Đức Bồ
Tát Đại Hạnh Phổ Hiền. (C)
Nhất tâm kính lễ Đức Bồ
Tát Đại Bi Quan Thế Âm. (C)
Nhất tâm kính lễ Đức Bồ
Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Luật Sư Ưu Ba Ly. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Khải Giáo A Nan Đà. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Ni Trưởng Kiều Đàm Di. (C)
Nhất tâm kính lễ liệt vị
Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc cho đến Việt Nam. (CC.)
6. (Trì Tụng)
Đại chúng an toạ trên
toạ cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị
chủ lễ xướng Kệ Khai Kinh và Tâm Kinh:
Nam mô Đức Bổn Sư Bụt
Thích Ca Mâu Ni. (ba lần) (C)
Giới luật cao siêu mầu
nhiệm
Cơ duyên may được thọ
trì
Xin nguyện đi vào biển
tuệ
Tinh thông giáo nghĩa
huyền vi. (CC.)
Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba
La Mật Đa (C)
Bồ tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật
Tức diệu pháp Trí Độ
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn. (C)
“Nghe đây, Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì Không
Không chẳng khác gì Sắc
Sắc chính thực là Không
Không chính thực là Sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả. (C)
Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều Không
Không sanh cũng không
diệt
Không nhơ cũng không
sạch
Không thêm cũng không
bớt.
Cho nên trong tánh Không
Không có sắc, thọ,
tưởng,
Cũng không có hành, thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ,
Thiệt, thân, ý – sáu căn
Không có sắc, thanh,
hương,
Vị, xúc, pháp – sáu trần
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không Khổ, Tập, Diệt,
Đạo
Không trí cũng không
đắc. (C)
Vì không có sở đắc
Khi một vị Bồ Tát
Nương diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Thì tâm không chướng
ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi mộng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối.
(C)
Chư Bụt trong ba đời
Y diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác.
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật.”
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
Gate
Gate
Paragate
Parasamgate
Bodhi
Svaha. (3 lần) (CC)
7. (Tác Pháp Yết Ma)
Vị Yết Ma: Đại chúng đã tập họp đầy đủ chưa?
Vị Thủ Chúng: Thưa, đại chúng đã tập họp đầy đủ.
Vị Yết Ma: Có sự hoà hợp không?
Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hoà hợp.
Vị Yết Ma: Đại chúng hôm nay tập họp có chủ đích gì?
Vị Thủ Chúng: Thưa, để thục hiện Yết Ma truyền Năm Giới.
Vị Yết Ma: Xin đại chúng lắng nghe! Hôm nay là ngày
(.../.../...), ngày được chọn để truyền thọ Tam Quy và Ngũ Giới, chúng ta đã
tập họp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng hộ niệm việc truyền thọ quy
giới trong tinh thần hoà hợp, như vậy, việc truyền giới là hợp pháp. Bạch như
thế, thì phép tác bạch có thành hay không?
(Đại chúng đáp:) Thành.
8. (Khai Thị)
Hôm nay đại chúng tập
họp để chứng minh và hộ niệm cho lễ Quay Về và Nương Tựa Tam Bảo của các vị ...
và ... Xin đại chúng theo dõi hơi thở và an trú trong chánh niệm khi nghe ba
tiếng chuông gia trì. Tiếng chuông là tiếng gọi của Bụt để mọi người trở về
trong trạng thái tỉnh thức. (CCC)
(Khoảng thời gian giữa
hai tiếng chuông là ba hơi thở và và ba hơi thở ra)
9. (Lạy Báo Ân)
Các vị Giới Tử có tên
sau đây đứng dậy, chắp tay thành búp sen trình diện trước Tam Bảo (đọc tên.) Nghe lời xướng và tiếng chuông thì lạy xuống một lạy:
Giới tử mang ơn cha mẹ
sinh thành, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (C)
Giới tử mang ơn sư
trưởng giáo huấn, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (C)
Giới tử mang ơn bằng hữu
và các bậc thiện tri thức đã tác thành cho, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ
trong mười phương. (C)
Giới tử mang ơn mọi loài
chúng sanh, cây cỏ và đất đá, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười
phương. (CC)
10. (Truyền Thọ Tam Quy)
Hôm nay đại chúng tập
họp để chứng minh và hộ niệm cho các vị ... trong lễ phát nguyện thọ trì pháp
Quy Y Tam Bảo. Là người có duyên với Đạo, quý vị đã thấy rõ được con đường của
tình thương và sự hiểu biết mà tổ tiên chúng ta đã đi theo trong bao nhiêu thế
hệ, và hôm nay quý vị đã có chủ ý phát tâm quy y Tam Bảo.
Quy y Tam Bảo là quay về
nương tựa nơi Bụt, nơi Pháp, và nơi Tăng. Bụt, Pháp, và Tăng là ba viên ngọc
quý. Quay về nương tựa nơi Bụt là quay về nương tựa nơi bậc tỉnh thức, có khả
năng đưa đường chỉ lối cho ta trong cuộc đời. Quay về nương tựa Pháp là quay về
với con đường của trí tuệ và từ bi, nghĩ là con đường của hiểu biết và thương
yêu. Quay về nương tựa Tăng là quay về nương tựa nơi đoàn thể của những người
đang thực tập theo con đường trí tuệ và từ bi và sống trong tỉnh thức.
Bụt, Pháp, và Tăng có
mặt trong mười phương thế giới mà cũng có mặt trong mọi người và mọi loài. Quay
về nương tựa nơi Bụt, nơi Pháp, và nơi Tăng cũng có nghĩa là tin tưởng ở khả
năng giác ngộ nơi tự tánh mình, ở khả năng khai mở và phát triển hiểu biết và
thương yêu nơi bản thân mình và khả năng thực tập hành đạo của cá nhân và đoàn
thể mình.
Xin các vị giới tử cung
kính đọc theo đây ba lời phát nguyện lớn:
Con về nương tựa Bụt,
người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
(lặp lại, chuông)
Con về nương tựa Pháp,
con đường của tình thương và sự hiểu biết.
(lặp lại, chuông)
Con về nương tựa Tăng,
đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.
(lặp lại, chuông)
11. (Khai Thị)
Quý vị Phật tử! Quý vị
đã chính thức tiếp nhận pháp Tam Quy, đưa Ba Viên Ngọc Quý vào lòng và vào đời
sống hàng ngày của quý vị. Hôm nay quý vị đã trở nên những người học trò của
bậc Giác Ngộ, và đã nguyện sống theo nếp sống tỉnh thức của Người. Bắt đầu từ
hôm nay, quý vị phải để tâm hàng ngày học hỏi và hành trì theo con đường của
trí tuệ và từ bi, nghĩa là để phát triển khả năng hiuể biết và thương yêunơi
quý vị. Và cũng bắt đầu từ hôm nay, quý vị phải biết nương tựa vào đoàn thể của
quý vị để học hỏi và hành trì, tham dự những khoá tĩnh tu, tham dự những buổi
đọc tụng quy giới và những sinh hoạt tu học khác của đoàn thể. Thầy giáo thọ
của quý vị là Hoà Thượng (Thượng Toạ, Đại Đức) ... và pháp danh của quý vị là
do chính Hoà Thượng (Thượng Toạ, Đại Đức) ban cho. Quý vị phải nương vào thầy
của quý vị mà học Đạo và tu Đạo.
12. (Truyền Thọ
Năm Giới)
Các giới tử! Đây là giây
phút long trọng của sự truyền thọ Năm Giới. Năm Giới là nền tảng cho một cuộc
sống có hạnh phúc và có chí hướng vị tha, có năng lực bảo vệ sự sống và làm đẹp
cho cuộc đời.
Năm Giới là những nguyên
tắc hướng dẫn chúng ta về hướng an lạc, giải thoát và giác ngộ. Năm Giới là nền
tảng của hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình và xã hội. Học hỏi và thực hành
theo Năm Giới, ta sẽ đi đúng con đường chánh pháp, ta sẽ tránh được lỗi lầm,
khổ đau, sợ hãi và thất vọng, ta sẽ xây dựng được an lạc hạnh phúc cho ta, cho
gia đình ta và đóng góp vào phẩm chất an lạc và hoà bình của xã hội.
Đây là Giới tướng của
Năm Giới. Xin quý vị lắng nghe từng Giới một với tâm hồn thanh tịnh. Xin trả
lời ‘dạ có’ mỗi khi thấy mình có khả năng tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới
luật được tuyên đọc.
Các vị đã sẵn sàng chưa?
(trả lời:Sẵn sàng.)
Đây là Giới Thứ Nhất:
- Ý thức được những khổ
đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của
mọi người và mọi loài. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự
giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách
sống hàng ngày của con.
Đó là Giới Thứ
Nhất của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì Giới ấy
hay không? (đáp: ‘Dạ có’, chuông)
Đây là Giới Thứ
Hai:
- Ý thức được những khổ
đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh
đại từ để đem lại niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ
thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con
nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra.
Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ
khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương tên sự đau khổ của
con người và của muôn loại.
Đó là Giới Thứ Hai của
Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì Giới ấy hay
không? (đáp: ‘Dạ có’, chuông)
Đây là Giới Thứ Ba:
- Ý thức được những khổ
đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo
vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con
nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý
thức được rằng những hành động bất chính sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và
cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải
biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có
thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các
gia đình và của đời sống đôi lứa.
Đó là Giới Thứ Ba của
Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì Giới ấy hay
không? (đáp: ‘Dạ có’, chuông)
Đây là Giới Thứ Tư:
- Ý thức được những khổ
đau đo lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng
nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết
rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ
nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật
có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những điều
sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không
loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên
án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có thể tạo
nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia
đình và đoàn thể.
Đó là Giới Thứ Tư của
Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì Giới ấy hay
không? (đáp: ‘Dạ có’, chuông)
Đây là Giới Thứ Năm:
-Ý thức được những khổ
đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân
tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong
việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an
lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con nguyện không
uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản
phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo,
phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố
ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con
nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập
phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem
này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.
Đó là Giới Thứ Năm của
Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi và hành trì Giới ấy hay
không? (đáp: ‘Dạ có’, chuông)
Quý vị Phật tử!
Quý vị đã tiếp nhận xong Năm Giới Quý Báu, nền tảng của hạnh phúc gia đình và
chất liệu của chí nguyện lợi tha. Quý vị phải ôn tụng thường xuyên giới tướng
mỗi tháng ít nhất là một lần, đề sự học hỏi và hành trì Năm Giới càng ngày càng
sâu sắc và lớn rộng.
Lễ tụng giới được
tổ chức tại chùa, tại thiền đường, niệm phật đường, hay tại tư gia, có sự tham
dự của những người bạn tu của mình. Quý vị cũng có thể tổ chức lễ tụng giới
trong phạm vi gia đình mình, hoặc nếu sống độc thân xa chùa, xa bạn, thì cũng
có thể tụng giới một mình. Nếu trong vòng ba tháng mà không tụng giới ít nhất
là một lần thì quý vị tự động mất giới thể và lễ Quy Y Truyền Giới này sẽ mất
hiệu lực.
Quý vị Phật tử! Là
đệ tử của Bụt, quý vị nên tinh tiến tu học theo con đường mà Bụt đã dày công
chỉ dạy để tạo an lạc và hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người. Nghe
chuông, xin đứng dậy và lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính và biết ơn Tam
Bảo.
13. (Tuyên Đọc Phái Quy
Y)
Các Phật tử! Xin quý vị
lắng tai nghe thầy tuyên đọc phái quy y (đọc phái quy y, trong đó có pháp danh của người mới được quy y
và của vị bổn sư mình. Đọc xong, phái quy y được trao lại cho đương sự. Giới tử
đã quy y ra quỳ trước điện Bụt để nghe đọc phái và nhận phái.)
14. (Hộ Niệm)
Để hộ niệm cho các Phật
tử mới thọ phép Quy Y được đạo tâm kiên cố và đạo nghiệp tăng trưởng, xin đại
chúng nhiếp tâm trì niệm hồng danh chư Bụt và chư vị Bồ Tát theo phương pháp
trì danh nhất tâm bất loạn. (mỗi danh hiệu ba lần)
Nam mô Đức Bổn Sư Bụt
Thích Ca Mâu Ni (C)
Nam mô Đức Bồ Tát Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi (C)
Nam mô Đức Bồ Tát Đại
Hạnh Phổ Hiền (C)
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Bi
Quan Thế Âm (C)
Nam mô Đức Bồ Tát Đại
Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)
15. (Quay Về Nương Tựa)
Con về nương tựa Bụt,
người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
Con về nương tựa Pháp,
con đường của tình thương và sự hiểu biết.
Con về nương tựa Tăng,
đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)
Đã về nương tựa Bụt, con
đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.
Đã về nương tựa Pháp,
con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hoá.
Đã về nương tựa Tăng,
con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập.
(C)
Về nương Bụt trong con,
xin nguyện cho mọi người, thể nhận được Giác Tính, Sớm mở lòng Bồ Đề.
Về nương Pháp trong con,
xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hoá.
Về nương Tăng trong con,
xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hoá được muôn loài.
(CC)
16. (Hồi Hướng)
Truyền trì Giới thâm
diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sinh mọi miền.
(C)
Pháp môn xin nguyện học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện
đoạn
Quả Bụt xin chứng nên.
(CCC)
NGHI THỨC TỤNG GIỚI
THIẾU NHI VÀ NĂM GIỚI
Nghi thức tụng giới
cho thiếu nhi gồm có Ba Phép Quay Về Nương Tựa và Hai Lời Hứa, có thể được cử
hành trước Nghi Thức Tụng Năm Giới. Thiếu nhi từ mười tuổi trở lên, nếu muốn,
có thể ở lại để tham dự lễ tụng Năm Giới.
1. (Thiền Hành) (30 phút, sau khi được hướng dẫn)
2. (Thiên Toạ) (12 phút, sau khi được hướng dẫn)
3. (Dâng Hương)
Đại chúng chắp tay
trước bàn thờ. Vị chủ lễ dâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau ba tiếng
chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:
Hương đốt khói trầm xông
ngát
Kết thành một đoá tường
vân
Đệ tử đem lòng thành
kính
Cúng dường chư Bụt mười
phương.
Giới luật chuyên trì
nghiêm mật
Công phu thiền định tinh
cần
Tuệ giác hiện dần quả báu
Dâng thành một nén tâm
hương.
Chúng con kính dâng
hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)
4. (Tán Dương)
Hương đã cắm vào bình,
vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:
Xinh tốt như hoa sen
Rạng ngời như Bắc Đẩu
Xin quay về nương náu
Bậc Thầy của nhân,
thiên.
Sen quý nở đài giác ngộ
Hào quang chiếu rạng
mười phương
Trí tuệ vượt tầm pháp
giới
Từ bi thấm nhuận non
sông.
Vừa thấy dung nhan Điều
Ngự
Trăm ngàn phiền não sạch
không
Hướng về tán dương công
đức
Tinh chuyên Đạo nghiệp
vun trồng.
Nam mô Đức Bổn Sư Bụt
Thích Ca Mâu Ni. (C)
5. (Lạy Bụt)
Vị chủ lễ xướng các
danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông gia trì sau
mỗi danh hiệu:
Nhất tâm kính lễ Bụt,
Pháp, và Tăng thường trú trong mười phương (C)
Nhất tâm kính lể Đức Bổn
Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)
Nhất tâm kính lễ Đức Bồ
Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)
Nhất tâm kính lễ Đức Bồ
Tát Đại Hạnh Phổ Hiền. (C)
Nhất tâm kính lễ Đức Bồ
Tát Đại Bi Quan Thế Âm. (C)
Nhất tâm kính lễ Đức Bồ
Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Luật Sư Ưu Ba Ly. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Khải Giáo A Nan Đà. (C)
Nhất tâm kính lễ Tôn Giả
Ni Trưởng Kiều Đàm Di. (C)
Nhất tâm kính lễ liệt vị
Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc cho đến Việt Nam. (CC.)
6. (Trì Tụng)
Đại chúng an toạ trên
toạ cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai chuông mõ. Vị
chủ lễ xướng Kệ Khai Kinh và Tâm Kinh:
Nam mô Đức Bổn Sư Bụt
Thích Ca Mâu Ni. (ba lần) (C)
Giới luật cao siêu mầu
nhiệm
Cơ duyên may được thọ
trì
Xin nguyện đi vào biển
tuệ
Tinh thông giáo nghĩa
huyền vi. (CC.)
Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba
La Mật Đa (C)
Bồ tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật
Tức diệu pháp Trí Độ
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn. (C)
“Nghe đây, Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì Không
Không chẳng khác gì Sắc
Sắc chính thực là Không
Không chính thực là Sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả. (C)
Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều Không
Không sanh cũng không
diệt
Không nhơ cũng không
sạch
Không thêm cũng không
bớt.
Cho nên trong tánh Không
Không có sắc, thọ,
tưởng,
Cũng không có hành, thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ,
Thiệt, thân, ý – sáu căn
Không có sắc, thanh,
hương,
Vị, xúc, pháp – sáu trần
Không có mười tám giới
Từ nhãn đến ý thức
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không Khổ, Tập, Diệt,
Đạo
Không trí cũng không
đắc. (C)
Vì không có sở đắc
Khi một vị Bồ Tát
Nương diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Thì tâm không chướng
ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi mộng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết Bàn tuyệt đối.
(C)
Chư Bụt trong ba đời
Y diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác.
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú vô thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật.”
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
Gate
Gate
Paragate
Parasamgate
Bodhi
Svaha. (3 lần) (CC)
7. (Tác Pháp Yết Ma)
Vị Yết Ma: Chúng thiếu nhi đã tập họp đầy đủ chưa?
Vị Thủ Chúng: Thưa, chúng thiếu nhi đã tập họp đầy đủ.
Vị Yết Ma: Có sự hoà hợp không?
Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hoà hợp.
Vị Yết Ma: Có thiếu nhi nào vằng mặt đã yêu cầu được đại
diện và gởi theo sự thanh tịnh không?
Vị Thủ Chúng: Không có. (Trong trường hợp có thì nói (ví dụ): ‘Có thiếu nhi Trần Diễm Trúc pháp danh Tâm Lưu
Ly, vì lý do sức khoẻ không đến tụng giới được, đã yêu cầu thiếu nhi Nguyễn Văn
Nam pháp danh Tam Hy Mã đại diện và gửi theo sự thanh tịnh.’)
Vị Yết Ma: Đại chúng các thiếu nhi hôm nay tập họp có chủ
đích gì?
Vị Thủ Chúng: Thưa, để thục hiện Yết Ma tụng Ba Sự Quay Về
Nương Tựa và Hai Lời Hứa.
Vị Yết Ma: Xin toàn thể chúng thiếu nhi lắng nghe! Hôm nay
là ngày (.../.../...), ngày được chọn để thuyết tụng giới luật, chúng ta đã tập
họp đúng giờ giấc, chúng thiếu nhi đồng ý sẵn sàng nghe thuyết đọc quy giới
trong tinh thần hoà hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp pháp. Bạch như thế, thì
phép tác bạch có thành hay không?
(Đại chúng đáp:) Thành.
Vị chủ lễ nói: “Hôm nay chúng thiếu nhi tập họp để ôn lại Quy
Giới, tức là Ba Sự Quay Về Nương Tựa, Hai Lời Hứa, và sau hết là Tụng Năm Giới.
Trước hết là ôn lại Quy Giới. Xin các thiếu nhi đứng dậy, chắp tay búp sen,
trình diện trước Tam Bảo.”
Thiếu nhì nghe
tiếng chuông kính cẩn lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính Bụt, Pháp, và Tăng.
(Chuông, thiếu nhi lạy) (ba lần)
(Thiếu nhi quỳ,
chắp tay búp sen)
8. (Ôn tụng Ba Phép Quay
Về Nương Tựa)
Quý vị Phật tử trẻ tuổi!
Là học trò của Bụt, quý vị đã phát nguyện quay về nương tựa nơi Bụt, nơi Pháp
và nơi Tăng. Bây giờ đây, chúng ta ôn lại Ba Sự Quay Về và Nương Tựa ấy. Xin
đại chúng đọc theo đây:
Con về nương tựa Bụt,
người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời. (đại chúng lặp lại) (C)
Con về nương tựa Pháp,
con đường của tình thương và sự hiểu biết. (đại chúng lặp lại) (C)
Con về nương tựa Tăng,
đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (đạ i chúng lặp lại) (CCC)
9. (Bài Hát Quay
Về Nương Tựa)
Con về nương tựa Bụt,
người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
Namo Buddhaya.
Con về nương tựa Pháp,
con đường của tình thương và sự hiểu biết.
Namo Dharmaya.
Con về nương tựa Tăng,
đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức.
Namo Sanghaya.
Buddham Saranam
Gacchami.
Dharmam Saranam
Gacchami.
Sangham Saranam
Gacchami. (CC)
10. (Ôn Tụng Hai Lời
Hứa)
Quý vị Phật tử trẻ tuổi!
Qúy vị vừa ôn lại Ba Phép Quay Về và Nương Tựa. Bây giờ chúng ta ôn lại Hai Lời
Hứa tức là hai điều mà quý vị đã hứa là sẽ học tập và giữ gìn.
Đây là Lời Hứa Thứ Nhất, xin quý vị đọc theo:
- Con xin mở rộng lòng
thương (thiếu nhi lặp lại) và tìm cách bảo vệ sự sống (lặp lại) của mọi người
và mọi loài (lặp lại.)
Đó là Lời Hứa Thứ Nhất
mà quý vị đã cam kết với Bụt. Trong hai tuần qua, quý vị có học hỏi và giữ gìn
lời hứa đó hay không?
(Thiếu nhi đáp trong tâm: ‘Dạ có.’ Chuông.
Thiếu nhi xá và cúi đầu. Đại chúng chắp tay.)
Đây là Lời Hứa Thứ Hai:
- Con xin mở rộng tầm
hiểu biết (thiếu nhi lặp lại) để có thể thương yêu và chung sống (lặp lại)
với mọi người và mọi loài (lặp
lại.)
Đó là Lời Hứa Thứ Hai mà
quý vị đã cam kết với Bụt. Trong hai tuần qua, quý vị có học hỏi và giữ gìn lời
hứa đó hay không?
(Thiếu nhi đáp trong tâm: ‘Dạ có.’ Chuông.
Thiếu nhi xá và cúi đầu. Đại chúng chắp tay.)
11. (Bài Hát Hai Lời
Hứa)
Con xin mở rộng lòng
thương, để bảo vệ sự sống khắp mười phương. Nguyện che chở sinh mạng của mọi
người và mọi loài.
Con xin tập nhìn tập
hiểu thật sâu, để thấy được gốc rễ mọi niềm đau. Nguyện chung sống an lạc với
mọi người và mọi loài.
12. (Khai Thị)
Quý vị Phật tử! Lòng
thương và sự hiểu biết là hai điều quý báu nhất của Đạo Bụt và của con người.
Nếu không học cởi mở để hiểu biết những tâm trạng và những hoàn cảnh khổ đau
của người khác thì không thể thương yêu và chung sống với họ. Đối với các loài
động vật và thực vật, ta cũng phải học thái độ cởi mở và hiểu biết để thương
yêu và để bảo vệ như ta thương yêu và bảo vệ con người. Nếu không hiểu biết thì
không thể thương yêu. Bụt dạy phải biết nhìn mọi người và mọi loài bằng con mắt
hiểu biết và từ bi. Quý vị phải siêng năng học và làm theo lời Bụt dạy. Nghe
chuông, xin đứng dậy, và lạy xuống ba lạy để tỏ lòng cung kính Bụt, Pháp, và
Tăng trước khi rút lui.
(Chuông. Thiếu nhi đứng dậy. Chuông. Thiếu nhi
lạy xuống ba lần. Thiếu nhi đi ra. Đợi cho thiếu nhi ra hết, vị chủ lễ xướng
lại bài Kệ Khai Kinh để đại chúng trì tụng.)
13. (Kệ Khai Kinh)
Giới luật cao siêu mầu
nhiệm
Cơ duyên may được thọ
trì
Xin nguyện đi vào biển
tuệ
Tinh thông giáo nghĩa
huyền vi. (CC)
14. (Tụng Năm
Giới)
(Tác pháp Yết Ma tụng
Năm Giới)
Vị Yết Ma: Đại chúng đã tập họp đầy đủ chưa?
Vị Thủ Chúng: Thưa, đại chúng đã tập họp đầy đủ.
Vị Yết Ma: Có sự hoà hợp không?
Vị Thủ Chúng: Thưa, có sự hoà hợp.
Vị Yết Ma: Có vị nào vắng mặt đã yêu cầu được đại diện và gởi theo sự thanh
tịnh không?
Vị Thủ Chúng: Không có. (Trong trường hợp có thì nói (ví dụ): ‘Có cận sự nam, Nguyễn Văn Ý pháp danh Tâm
Khai, vì lý do sức khoẻ không đến tụng giới được, đã yêu cầu cận sự nữ, Trần
thì Xuyến pháp danh Tâm Quy, đại diện và gử theo sự thanh tịnh.’)
Vị Yết Ma: Đại chúng hôm nay tập họp có chủ đích gì?
Vị Thủ Chúng: Thưa, để thục hiện Yết Ma tụng Năm Giới.
Vị Yết Ma: Xin đại chúng các vị cận sự nữ và cận sự nam
lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../.../...), ngày được chọn để thuyết tụng Quy
Giới, chúng ta đã tập họp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng nghe thuyết
tụng quy giới trong tinh thần hoà hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp pháp.
Bạch như thế, thì phép tác bạch có thành hay không?
(Đại chúng đáp:) Thành.
Đại chúng! Đây là lúc
chúng ta tuyên thuyết Năm Giới. Năm Giới là nền tảng cho một cuộc sống có hạnh
phúc và có chí hướng vị tha, có năng lực bảo vệ sự sống và làm đẹp cho cuộc
đời. Xin các vị đã thọ trì Năm Giới quỳ lên, chắp tay búp sen, hướng về Đức Bổn
Sư.
Đại chúng! Năm Giới là
những nguyên tắc hướng dẫn chúng ta về hướng an lạc, giải thoát và giác ngộ. Năm
giới là nền tảng của hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc của gia đình và của xã hội.
Học hỏi và thực hành theo Năm Giới ta sẽ đi đúng con đường chánh pháp, ta sẽ
tránh được lỗi lầm, khổ đau, sợ hãi, và thất vọng, ta sẽ xây dựng được an lạc
hạnh phúc cho ta, cho gia đình ta và đóng góp vào phẩm chất an lạc và hoà bình
của xã hội.
Đây là giới tướng của
Năm Giới. Chúng ta hãy lắng nghe từng Giới một với tâm hồn thanh tịnh, lấy giới
luật làm tấm gương trong vắt để soi chiếu nội tâm mình. Xin im lặng thở và im
lặng trả lời ‘có’ mỗi khi thấy mình trong hai tuần qua có cố gắng học hỏi và
hành trì những giới luật được tuyên đọc.
Đây là Giới Thứ Nhất:
- Ý thức được những khổ
đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của
mọi người và mọi loài. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự
giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách
sống hàng ngày của con.
Đó là Giới Thứ Nhất của
Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay
không? (ba hơi thở, chuông)
Đây là Giới Thứ
Hai:
- Ý thức được những khổ
đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh
đại từ để đem lại niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ
thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con
nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra.
Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ
khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương tên sự đau khổ của
con người và của muôn loại.
Đó là Giới Thứ Hai của
Năm Giới.Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay
không? (ba hơi thở, chuông)
Đây là Giới Thứ Ba:
- Ý thức được những khổ
đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo
vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con
nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý
thức được rằng những hành động bất chính sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và
cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải
biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có
thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các
gia đình và của đời sống đôi lứa.
Đó là Giới thứ Ba của
Năm Giới. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay
không? (ba hơi thở, chuông)
Đây là Giới Thứ Tư:
- Ý thức được những khổ
đau đo lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng
nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết
rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ
nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân
thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những
điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện
không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình
và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói những điều có
thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ
gia đình và đoàn thể.
Đó là Giới thứ Tư của
Năm Giới. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay
không? (ba hơi thở, chuông)
Đây là Giới Thứ Năm:
-Ý thức được những khổ
đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân
tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong
việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an
lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con nguyện không
uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản
phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo,
phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố
ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con
nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập
phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem
này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.
Đó là Giới thứ Năm của
Năm Giới. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học hỏi và hành trì giới ấy hay
không? (ba hơi thở, chuông)
Đại chúng! Chúng ta đã
tuyên đọc xong Năm Giới quý báu, nền tảng của hạnh phúc gia đình và chất liệu
của chí nguyện lợi tha. Bụt dạy chúng ta phải ôn tụng thường xuyên giới tướng
mỗi tháng ít nhất là một lần, để sự học hỏi và hành trì Năm Giới càng ngày càng
sâu sắc và lớn rộng. Nghe chuông, xin lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính và
biết ơn Tam Bảo trước khi ngồi xuống.
15. (Niệm Bụt)
Xin đại chúng nhiếp tâm
trì niệm hồng danh chư Bụt và chư vị Bồ Tát theo phương pháp trì danh nhất tâm
bất loạn. (mỗi danh hiệu ba lần)
Nam mô Đức Bổn Sư Bụt
Thích Ca Mâu Ni (C)
Nam mô Đức Bồ Tát Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi (C)
Nam mô Đức Bồ Tát Đại
Hạnh Phổ Hiền (C)
Nam mô Đức Bồ Tát Đại Bi
Quan Thế Âm (C)
Nam mô Đức Bồ Tát Đại
Nguyện Địa Tạng Vương. (CC)
16. (Quy Nguyện)
Trầm hương xông ngát
điện
Sen nở Bụt hiện thân
Pháp giới thành thanh
tịnh
Chúng sanh lắng nghiệp
trần. (C)
Đệ tử tâm thành
Hướng về Tam Bảo
Bụt là thầy chỉ đạo
Bậc tỉnh thức vẹn toàn
Tướng tốt đoan trang
Trí và Bi viên mãn. (C)
Pháp là con đường sáng
Dẫn người thoát cõi mê
Đưa con trở về
Sống cuộc đời tỉnh thức.
(C)
Tăng là đoàn thể đẹp
Cùng đi trên đường vui
Tu tập giải thoát
Làm an lạc cuộc đời. (C)
Đệ tử nương nhờ Tam Bảo
Trên con đường học Đạo
Biết Tam Bảo của tự tâm
Nguyện xin chuyên cần
Làm sáng lòng ba viên
ngọc quý. (C)
Nguyện theo hơi thở
Nở nụ cười tươi
Nguyện học nhìn cuộc đời
Bằng con mắt quán chiếu
Nguyện xin tìm hiểu
Nỗi khổ của mọi loài
Tập từ bi
Hành hỷ xả
Sáng cho người thêm niềm
vui
Chiều giúp người bớt khổ
Đệ tử nguyện sống cuộc
đời thiểu dục
Nếp sống lành mạnh an
hoà
Cho thân thể kiện khương
Nguyện rũ bỏ âu lo
Học tha thứ bao dung
Cho tâm tư nhẹ nhõm
Đệ tử xin nguyện ơn sâu
đền báo
Ơn cha mẹ ơn thầy
Ơn bè bạn chúng sanh
Nguyện tu học tinh
chuyên
Cho cây bi trí nở hoa
Mong một ngày kia
Có khả năng cứu độ mọi
loài
Vượt ra ngoài cõi khổ.
(C)
Xin nguyện Bụt, Pháp,
Tăng chứng minh
Gia hộ cho đệ tử chúng
con
Viên thành đại nguyện.
(CC)
17. (Quay Về Nương Tựa)
Con về nương tựa Bụt,
người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
Con về nương tựa Pháp,
con đường của tình thương và sự hiểu biết.
Con về nương tựa Tăng,
đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. (C)
Đã về nương tựa Bụt, con
đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.
Đã về nương tựa Pháp,
con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển hoá.
Đã về nương tựa Tăng,
con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập.
(C)
Về nương Bụt trong con,
xin nguyện cho mọi người, thể nhận được Giác Tính, Sớm mở lòng Bồ Đề.
Về nương Pháp trong con,
xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hoá.
Về nương Tăng trong con,
xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hoá được muôn loài.
(CC)
18. (Hồi Hướng)
Trì Giới pháp thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sinh mọi miền.
(C)
Pháp môn xin nguyện học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện
đoạn
Quả Bụt xin chứng nên.
(CCC)
GÓP BÀI TRONG TẬP NÀY
ROBERT AIKEN, ROSHI
(LÃO SƯ), là vị Sư Trưởng của Diamond Sangha (Tăng Thân Kim Cang) tại Hawaii và
là một trong những sáng lập viên của Hội Ái Hữu Phật tử vì Hoà Bình (Buddhist
Peace Fellowship.) Ông là tác giả của các tập sách: Encouraging Words (Cảnh
Sách), The Dragon Who Never Sleeps (Con Rồng Chưa Bao Giờ Ngủ), Taking
the Path of Zen (Hành Thiền Đạo), và A Zen Wave (Đợt Sóng Thiền.)
STEPHEN BATCHELOR, tác
giả, dịch giả, và giáo sư Phật Học, sống ở nước Anh, là tác giả của các quyển:
‘The Awakening of the West: Buddhism and European Culture’ (Sự thức tỉnh của
phương Tây: đạo Bụt và văn hoá Âu châu), ‘The Faith to Doubt: Glimpses of
Buddhist Uncertainty’ (Đức Tin vào sự Nghi Ngờ: Khái lược về Vô Thường trong
Đạo Bụt), The Tibet Guide (Sách Hướng Dẫn thăm Tây Tạng), và là dịch giả của
nhiều tác phẩm viết từ tiếng Tây Tạng.
Sư Cô CHÂN KHÔNG, tỳ
kheo ni , làm việc thiện nguyện giúp trẻ em thiếu ăn và nhiều người nghèo khó
từ năm 14 tuổi, và phụ tá của thiền sư Thích Nhất Hạnh hơn ba mươi năm qua,
Giám Đốc Đạo Tràng Mai Thôn ở Pháp. Sư Cô là tác giả cuốn Learning True Love:
How I Learned and Practiced Social Change in Vietnam (Học Thương Đúng Nghĩa:
Tôi đã học và thực tập thay đổi xã hội như thế nào tại Việt Nam), và là Giáo
Thọ Đạo Tràng Mai Thôn, một trong 6 người đầu tiên thọ trì 14 giới của
dòng tu Tiếp Hiện cùng với Nhất Chi Mai năm 1966.
MAXINE HONG KINGSTON,
đạt Giải Thưởng Tác Phẩm Quốc Gia (National Book Award), là tác giả các quyển
‘The Woman Warrior: Memoirs of a Girlhood among Ghosts’ (Nữ chiến binh: Hồi ký
về tuổi thanh xuân giữa những bóng ma), ‘China Men’ (Những người đàn ông Tàu),
‘Hawaii’ One Summer’ (Một Mùa Hè Hawaii), và ‘Tripmaster Monkey: His Fake Book’
(Con Khỉ Tôn Hành Giả: Du Ký giả của nó.) Hiện bà đang viết quyển Book of Peace
(Sách An Bình) về sức mạnh chuyển hoá của các chiến binh.
JACK KORNFIELD, Giáo
Thọ và người đồng sáng lập Trung Tâm Thiền Linh Thạch (Spirit Rock Meditation
Center) ở miền Bắc California, là tác giả các quyền ‘A Path with Heart: A Guide
through the Perils and Promises of Spiritual Life’ (Con Đường với Trái Tim: Cẩm
Nang qua những Hiểm Nguy và Hứa Hẹn của Đời Sống Tâm Linh), và ‘Living Buddhist
Masters’ (Những vị Thầy Sống trong đạo Phật), và đồng tác giả quyển ‘Seeking
the Heart of Wisdom: The Path of Insight Meditation’ (Tìm Tâm Trí Tuệ: Con
Đường của Thiền Minh Sát.)
Sư Cô ANNABEL LAITY
(CHÂN ĐỨC), cựu giáo sư Phạn Ngữ Đại Học Luân Đôn Anh quốc, tỳ kheo ni
Giáo Thọ theo truyền thống của Đạo Tràng Mai Thôn, Trụ Trì Tu Viện Tùng Hạc,
tiểu bang Vermont, một tu viện em của Đạo Tràng Mai Thôn. Sư Cô giúp hướng dẫn
cách tu tập chánh niệm hằng ngày cùng khắp Bắc Mỹ Châu và Âu Châu. dịch
giả của nhiều quyển sách của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh.
SULAK SIVARAKSA, người
sáng lập Mạng Lưới Phật Tử Dấn Thân trên Thế Giới (International Network of
Engaged Buddhists) đóng ở Bangkok, và nhiều tổ chức khác, được đề cử giải Nobel
Hoà Bình năm 1993. Ông là tác giả của cuốn Seeds of Peace: A Buddhist Vision
for Renewing Society (Những Hạt Giống Hoà Bình: Viễn cảnh Phật Giáo về Một Xã
Hội Đổi Mới) và nhiều quyển sách khác.
GARY SNYDER, thi sĩ
đoạt giải Pulitzer Prize, sống ở miền Bắc California. Ông là người sáng lập
thiền đường Ring of Bone Zendo, và là tác giả các quyển No Nature (Vô Tính),
The Practice of the Wild (Sự thực tập của Hoang Dã), Axe Hanles (Những Cán
Rìu), Turtle Island (Đảo Rùa), Earth House Hold (Đất Quen), và nhiều quyển
khác.
DAVID STEINDL-RAST, tu
sĩ dòng Benedictine, sống ở tu viện Cama-Idolese ở California. Ông là tác giả
của các quyển ‘Gratefulness’ (Tri Ân), ‘The Heart of Prayer: An Approach to
Life in Fullness’ (Trái tim của sự Cầu Nguyện: một cách đến với Đời Sống trong
Sự Vẹn Toàn), và ‘A Listening Heart’ (Trái tim biết lắng nghe), và là một nhân
vật hàng đầu trong các phong trào đổi mới nếp sống tu viện và đối thoại
Đông-Tây.
PATRICIA MAX ELLSBERG
cùng với phu quân là DANIEL ELLSBERG đã công bố tài liệu mật về Tình Báo CIA
Hoa Kỳ nhằm phơi bày những tội ác kinh khiếp của tổ chức này. Bà và phu quân là
hai người Hoa Kỳ đã hết lòng tranh đấu cho Hòa Bình Việt Nam và nhiều nước khác
trên thế giới, hầu chấm dứt sự can thiệp quân sự mưu mô tàn ác của chính quyền
Hoa Kỳ vào nhiều nước trên thế giới.