GIỚI
THỨ NHẤT
Tôn
Trọng Sự Sống
Ý
thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin
học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người
và mọi loài. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán
thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù
là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.
Sự
sống thật quý giá. Sự sống có mặt khắp mọi nơi, trong
ta và quanh ta; nó đa hình đa dạng.
Giới
thứ nhất đến từ chỗ ý thức rằng sự sống khắp nơi
đang bị hủy diệt. Chúng ta thấy được những khổ đau do
sự sát hại gây ra, và chúng ta nguyện phát triển lòng từ
bi, lấy đó làm nguồn năng lượng để bảo vệ con người,
cỏ cây, cầm thú, và đất đá. Giới thứ nhất là một phép
tu luyện tâm Bi, karuna -- khả năng làm vơi nhẹ và chuyển
hoá khổ đau. Khi thấy được nỗi khổ thì tâm Bi phát sinh
trong ta.
Tiếp
xúc với khổ đau của cuộc đời là điều rất cần thiết.
Ta cần nuôi dưỡng ý thức ấy thông qua nhiều phương tiện
– hình ảnh, âm thanh, tiếp xúc trực tiếp, thăm viếng, v.v...
-- để giữ tâm Bi sống trong ta. Nhưng ta phải cẩn thận,
chớ đưa vào nhiều quá. Bất cứ phương thuốc nào cũng phải
có liều lượng. Ta nên tiếp xúc với khổ đau trong chừng
mực giúp ta không quên lãng, để tình thương tuôn chảy trong
ta, và biến thành năng lượng hành động. Nếu lấy sự phẫn
nộ làm động cơ hành động, ta sẽ có thể làm những điều
tai hại, những điều mà ta sẽ hối tiếc sau này. Theo đạo
Bụt, tình thương là nguồn năng lượng duy nhất có ích, và
an toàn. Với tình thương, năng lượng của chúng ta được
sinh ra từ tuệ giác; đó không phải là năng lượng mù quáng.
Con
người chúng ta được làm bằng những yếu tố không-phải-con-người,
như cỏ cây, khoáng chất, đất, mây, và ánh nắng. Để cho
sự thực tập của chúng ta được sâu và được thật, chúng
ta phải bảo vệ luôn cả hệ sinh thái. Nếu sinh môi bị tàn
phá, con người cũng sẽ bị hủy diệt. Không thể bảo vệ
sự sống của con người mà không đồng thời bảo vệ sự
sống của cỏ cây, cầm thú, và đất đá. Kinh Kim Cương dạy
chúng ta rằng không thể phân chia ranh giới giữa các loài
hữu tình và vô tình. Đây là một trong những kinh điển cổ
của đạo Bụt dạy về sinh thái học ở mức độ sâu. Mỗi
hành giả trong đạo Bụt phải là một người bảo vệ môi
trường. Đất đá cũng có đời sống của chúng. Trong Chùa,
chúng ta tụng: ‘Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí.’
Giới thứ nhất là sự thực tập bảo vệ mọi sự sống,
kể cả sự sống của khoáng vật.
‘Con
nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết
chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng
hay trong cách sống hằng ngày của con.’ Chúng ta không thể
tán thành bất cứ một hành động giết chóc nào; không một
sự giết hại nào có thể được biện hộ cả. Nhưng không
giết thôi không đủ. Chúng ta còn phải tìm cách ngăn không
cho kẻ khác giết hại. Chúng ta không thể nói: ‘Tôi không
chịu trách nhiệm. Họ làm chuyện đó, còn tay tôi sạch.’
Nếu chúng ta sống ở Đức trong thời Nazis, ta không thể nói:
‘Họ làm chuyện đó. Tôi không làm.’ Nếu trong cuộc chiến
tranh vịnh Gulf, chúng ta không nói hay làm gì cả để ngăn
cản việc giết chóc thì chúng ta đã không thực tập giới
này. Cho dù những gì chúng ta nói hoặc làm không cản được
cuộc chiến, điều quan trọng là ở chỗ chúng ta đã cố
làm, vận dụng tuệ giác và tình thương của mình.
Không
phải chỉ không dùng thân giết hại mới là giữ Giới thứ
nhất. Nếu chúng ta để cho sự giết hại diễn ra trong tư
tưởng, chúng ta cũng đã phạm Giới. Chúng ta phải nhất quyết
không chấp nhập sự giết hại, kể cả trong tâm tưởng.
Theo Bụt, tâm là nền tảng của mọi hành động. Giết trong
tâm là nguy hiểm nhất. Khi chúng ta tin tưởng, chẳng hạn
như đường lối của chúng ta là đường lối duy nhất cho
nhân loại và kẻ nào đi theo đường lối khác là kẻ thù
của chúng ta, thì hàng triệu người có thể bị giết vì
ý niệm đó.
Tư
duy nằm đằng sau mọi việc. Ta cần phải để con mắt ý
thức nằm đằng sau mỗi ý nghĩ của mình. Không có sự hiểu
biết đúng đắn về một hoàn cảnh hay một con người, suy
nghĩ của ta có thể lầm lạc và gây ra hoang mang, tuyệt vọng,
giận hờn, hay thù hận. Công việc quan trọng nhất của chúng
ta là phát triển sự hiểu biết đúng đắn. Nếu chúng ta
thấy được một cách sâu sắc bản chất tương tức, nghĩa
là tất cả nương nhau mà có mặt, chúng ta sẽ thôi không
còn trách móc, cãi vã, và giết hại, chúng ta sẽ trở nên
bè bạn với tất cả mọi người. Muốn thực tập bất bạo
động, trước hết chúng ta phải học cư xử một cách hoà
bình với chính mình. Nếu ta tạo được một sự hoà hợp
đích thực trong chính con người mình, chúng ta sẽ biết cách
cư xử với gia đình, bạn bè, và những người cộng tác
với ta.
Khi
phản đối chiến tranh chẳng hạn, ta có thể cho rằng ta là
một con người hiền hoà, đại diện cho hoà bình, thế nhưng
điều này lại có thể không đúng. Nếu nhìn sâu, ta sẽ thấy
rằng gốc rễ của chiến tranh nằm ngay trong cách sống thiếu
chánh niệm bao lâu nay của chúng ta. Chúng ta chưa gieo trồng
đủ những hạt giống bình an và hiểu biết nơi ta và nơi
những người khác, vì vậy chúng ta liên đới chịu trách
nhiệm: ‘Vì tôi như thế này, cho nên họ như thế đó.’
Lối đặt vấn đề có tính toàn triệt hơn cả là lối nhìn
‘tương tức’: ‘Cái này như thế này vì cái kia như thế
kia.’ Đây là con đường của Hiểu và Thương. Với cái thấy
này, ta có thể nhìn một cách sáng suốt và giúp cho chính
phủ ta nhìn một cách sáng suốt. Khi ấy ta có thể đi biểu
tình và nói: ‘Cuộc chiến tranh này bất công, hủy diệt
và không xứng đáng với đất nước cao quý của chúng ta.’
Điều này hữu hiệu hơn là giận dữ buộc tội cho nhau. Sự
tức giận bao giờ cũng gây thêm đổ vỡ.
Tất
cả chúng ta, kể cả những người theo chủ nghĩa hoà bình,
đều có những nỗi khổ niềm đau trong lòng. Chúng ta cảm
thấy bực tức, thất vọng, và chúng ta cần tìm một người
nào đó sẵn sàng lắng nghe và có khả năng hiểu được những
nỗi khổ niềm đau của chúng ta. Trong nghệ thuật mô tả
bằng hình tượng của đạo Bụt có một vị Bồ Tát nghìn
tay nghìn mắt tên là Quan Thế Âm. Nghìn tay tượng trưng cho
hành động, và con mắt trong mỗi bàn tay tượng trưng cho sự
hiểu biết. Khi chúng ta hiểu một hoàn cảnh hay một con người
thì những gì chúng ta làm sẽ giúp được cho tình trạng và
sẽ không gây thêm đau khổ. Khi có con mắt ở trong bàn tay,
chúng ta sẽ biết cách thực tập bất bạo động đích thực.
Muốn
thực tập bất bạo động, trước hết ta phải thực tập
với chính mình. Trong mỗi chúng ta đều có một mức độ
bao động và bất bạo động nào đó. Tùy thuộc vào tình
trạng của chúng ta lúc ấy, cách chúng ta phản ứng đối
với sự việc sẽ mang ít hay nhiều tính chất bạo động.
Cho dù ta có hãnh diện rằng mình là người ăn chay đi nữa
thì ta cũng phải công nhận rằng trong nước chúng ta luộc
rau có biết bao nhiêu là vi sinh vật. Chúng ta không thể hoàn
toàn bất bao động, nhưng với việc ăn chay, chúng ta đang
đi về hướng bất bạo động. Nếu muốn đi về hướng Bắc,
ta có thể dùng sao Bắc Đẩu để nhắm hướng, nhưng không
thể nào đến được sao Bắc Đẩu. Nỗ lực của chúng ta
chỉ nhằm đi về hướng đó.
Ai
cũng có thể thực tập bất bạo động ở một mức nào đó,
kể cả các tướng lĩnh quân đội. Chẳng hạn họ có thể
chỉ huy cuộc hành quân của mình như thế nào để tránh không
giết hại những người vô tội. Để giúp những người lính
đi về hướng bất bạo động, chúng ta phải tiếp xúc với
họ. Nếu chúng ta chia thực tại ra làm hai phe -- bạo động
và bất bạo động – rồi đứng về một phe chống lại
phe kia, thế giới sẽ không bao giờ có hoà bình. Chúng ta sẽ
luôn trách cứ và buộc tội những người chúng ta cho là chịu
tránh nhiệm cho tình trạng chiến tranh và bất công xã hội
mà không hề nhận ra mức độ bạo động trong chính con người
mình. Chúng ta phải cải hoá chính mình, đồng thời làm việc
với những người chúng ta buộc tội nếu muốn có một ảnh
hưởng đích thực.
Vạch
một ranh giới và gạt một số người sang hàng ngũ kẻ thù
-- dù là người hành xử bạo động – chẳng bao giờ giúp
được gì cả. Ta phải đến với họ với tình thương trong
trái tim ta và làm mọi cách có thể để giúp họ đi về hướng
bất bạo động. Nếu chúng ta hoạt động cho hoà bình bằng
sự phẫn nộ, chúng ta sẽ chẳng bao giờ thành công. Hoà bình
không phải là điểm kết thúc. Hoà bình không bao giờ có
thể đến được bằng những phương tiện không hoà bình.
Quan
trọng nhất là trở thành bất bạo động, để khi một tình
huống xảy đến, chúng ta sẽ không tạo thêm đau khổ. Để
thực tập bất bạo động, chúng ta cần có sự nhẹ nhàng,
từ, bi, hỷ, xả đối với thân tâm mình, và đối với kẻ
khác. Bằng chánh niệm -- sự thực tập bình an – ta có thể
bắt đầu bằng việc chuyển hoá những cuộc chiến trong ta.
Có những kỹ thuật để làm chuyện này. Hơi thở có ý thức
là một. Mỗi khi ta cảm thấy bất mãn, ta có thể ngưng những
gì mình đang làm, tránh không nói bất cứ điều gì, và thở
vào thở ra vài lần, ý thức từng hơi thở vào, ra. Nếu vẫn
còn không vui, ta có thể đi thiền hành, chánh niệm với từng
bước chân chậm rãi và từng hơi thở của mình. Nuôi dưỡng
hoà bình bên trong, chúng ta mang lại hoà bình cho xã hội. Tùy
thuộc vào ta cả. Tu tập hoà bình trong ta có nghĩa là giảm
thiểu đến mức tối đa những cuộc chiến tranh giữa cảm
thọ này với cảm thọ khác, ý niệm này với ý niệm khác,
rồi ta cũng có thể có hoà bình với những người khác, kể
cả những thành viên trong gia đình mình.
Tôi
thường được hỏi: ‘Nếu anh thực tập bất bạo động
mà có người xông vào nhà, bắt cóc con hay giết vợ mình
thì sao? Anh phải làm gì? Anh có còn hành xử theo cách bất
bạo động không?’ Câu trả lời tùy thuộc vào trạng thái
của anh. Nếu đã có sự chuẩn bị, anh có thể phản ứng
một cách trầm tĩnh và thông minh, theo cách bất bạo động
nhất mà anh có thể làm. Nhưng muốn sẵn sàng để có thể
phản ứng với sự thông minh và bất bạo động, anh phải
có sự rèn luyện từ trước. Có thể phải mười năm, hay
lâu hơn. Nếu chờ cho đến khi có chuyện mới hỏi câu hỏi
ấy thì sẽ quá muộn. Câu trả lời theo kiểu nên-thế-này-hay-thế-khác
sẽ là hời hợt vô ích. Ở giây phút quyết định ấy, cho
dù anh có biết rằng bất bạo động thì tốt hơn là bạo
động, nếu cái hiểu của anh chỉ ở trên trí óc mà không
nằm trong toàn bộ con người anh, anh sẽ không hành xử bất
bạo động. Sự sợ hãi và tức giận trong anh sẽ ngăn không
cho anh hành động theo cách bất bạo động nhất.
Chúng
ta cần phải nhìn sâu mỗi ngày để thực tập tốt Giới
này. Mỗi lần mua sắm hay tiêu thụ một thứ gì, ta có thể
đang thao túng cho một dạng giết chóc nào đó.
Trong
khi thực tập bảo vệ con người, cỏ cây, cầm thú, và đất
đá, ta biết ta đang bảo vệ cho chính mình. Ta cảm được
mối dây liên hệ bền vững, thân thương với tất cả mọi
loài trên trái đất. Chúng ta được bảo hộ bởi chánh niệm
và lòng từ bi của Bụt và của bao thế hệ Phật tử đã
hành trì Giới pháp. Năng lượng từ bi này mang đến cho ta
cảm giác an ninh, lành mạnh và hoan hỷ, và như vậy mới xứng
đáng với giây phút mà chúng ta quyết định thọ trì giới
thứ nhất.
Xót
thương chưa đủ. Ta phải học cách biểu lộ tình thương
ấy. Đó là vì sao ta phải có hiểu biết đi kèm. Sự hiểu
biết và tuệ giác chỉ cho ta nên hành động như thế nào.
Kẻ
thù đích thực của chúng ta chính là sự lãng quên. Nếu chúng
ta nuôi dưỡng chánh niệm mỗi ngày và tưới tẩm những hạt
giống bình an trong ta và trong những người xung quanh ta, ta
sẽ trở nên sống động, và ta có thể giúp cho chính mình
cũng như những người khác đạt đến an ổn và từ bi.
Sự
sống thật quý giá, vậy mà trong đời sống hằng ngày ta
lại thường bị cuốn theo những quên lãng, giận hờn, và
lo lắng, ta đắm chìm trong quá khứ, và không có khả năng
tiếp xúc với sự sống trong giờ phút hiện tại. Khi chúng
ta thật sự sống động, những gì ta làm hay tiếp xúc đều
là phép lạ. Thực tập chánh niệm tức là quay trở về với
sự sống trong giờ phút hiện tại. Phép thực tập của Giới
thứ nhất chính là một lễ hội tôn vinh sự sống. Khi chúng
ta biết trân quý cái đẹp của sự sống, chúng ta sẽ làm
bất cứ việc gì trong khả năng mình để bảo vệ cả cuộc
đời.