GIỚI
THỨ HAI
Mở
Rộng Lòng
Ý
thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và
bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để
đem lại niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi
loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài vật của
con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không
lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do
mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ
khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích
trữ và làm giàu một cách bất lương tên sự đau khổ của
con người và của muôn loại.
Bóc
lột, bất công xã hội, và trộm cắp có nhiều dạng. Áp
bức là một dạng trộm cắp gây ra nhiều đau khổ ở cả
các nước phát triển lẫn các nước thế giới thứ ba. Giờ
phút chúng ta phát nguyện học phát triển lòng Từ thì lòng
Từ phát khởi trong ta, và chúng ta nỗ lực để ngăn chặn
sự bóc lột, bất công xã hội, trộm cắp, và áp bức.
Trong
Giới thứ nhất, chúng ta thấy có chữ ‘Bi.’ Ở đây, chúng
ta thấy có chữ ‘Từ.’ Từ và Bi là hai yếu tố của tình
thương trong giáo pháp của Bụt. Bi, tiếng Sankrit và Pali là
Karuna, có nghĩa là ý hướng và khả năng làm vơi đi nỗi
khổ nơi một người hay một chúng sinh khác. Từ, tiếng Sankrit
là maitri và tiếng Pali là metta, có nghĩa là ý hướng và khả
năng mang niềm vui tới cho một người hay một chúng sinh khác.
Bụt Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán rằng vị Bụt kế tiếp
sẽ có tên là Maitreya hay Từ Thị, vị Bụt của Tình Thương.
‘Ý
thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp, và
bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại Từ để
đem lại niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi
loài.’ Cho dù đã có Maitri như một nguồn năng lượng trong
ta, chúng ta vẫn cần phải học nhìn sâu để biết cách biểu
lộ lòng Từ ấy. Chúng ta tập làm như những cá nhân, và
rồi tìm cách để làm như một dân tộc. Muốn nâng cao phúc
lợi của con người, cỏ cây, cầm thú, và đất đá, chúng
ta phải đến với nhau như một cộng đồng để xem xét tình
trạng của mình, vận dụng thông minh và khả năng nhìn sâu
của chúng ta để có thể tìm ra những giải pháp thích hợp
để biểu hiện lòng Từ giữa những vấn đề có thật.
Giả
sử ta muốn giúp những người đang đau khổ dưới ách độc
tài. Trong quá khứ có thể ta đã từng thử gửi quân sang
lật đổ nhà cầm quyền của họ, nhưng ta đã thấy rằng
trong khi làm như vậy, ta gây ra chết chóc cho không biết bao
nhiêu người vô tội, và dù vậy, ta có thể vẫn không lật
đổ được kẻ độc tài. Nếu chúng ta tập nhìn sâu hơn,
với lòng từ, để tìm một giải pháp tốt đẹp hơn để
giúp những người này mà không gây khổ đau, ta có thể nhận
ra rằng thời điểm tốt nhất để giúp là trước khi nước
ấy rơi vào tay độc tài. Nếu ta làm việc đó ba mươi năm
trước thì bây giờ nước đó có thể đã là một nước
dân chủ, và ta đã không phải bỏ bom hay gởi quân để ‘giải
phóng’ họ. Đây chỉ là một ví dụ về việc nhìn sâu và
học hỏi có thể giúp ta tìm ra những cách làm phù hợp với
lòng Từ ra sao. Nếu chúng ta đợi cho đến khi tình trạng
trở nên tồi tệ rồi thì quá trễ. Nếu chúng ta cùng hành
trì Giới với các nhà chính trị, quân nhân, thương gia, luật
sư, người làm luật, nghệ sĩ, nhà văn, và nhà giáo, thì
chúng ta có thể tìm ra được những phương pháp tốt đẹp
nhất để thực tập Từ, Bi, và Hiểu Biết.
Muốn
thực tập tâm rộng rãi thì cần phải có thời gian. Chúng
ta có thể rất muốn giúp những người nghèo đói, nhưng chúng
ta lại bị kẹt vào những vấn đề trong cuộc sống hằng
ngày của riêng mình. Đôi lúc, một viên thuốc hay một chút
gạo đã có thể cứu mạng một em bé, nhưng ta lại không
dành thời giờ để giúp, vì ta nghĩ ta không có giờ. Ở thành
phố Hồ Chí Minh chẳng hạn, có những em bé sống ngoài hè
phố, các em tự gọi mình là ‘bụi đời.’ Những đứa
trẻ này không nhà, lang thang ngoài đường ban ngày và về
ngủ dưới gốc cây ban đêm. Chúng bới những đống rác để
tìm những thứ như bao nylon để bán với giá hai xu nửa ký.
Các thầy và các sư cô ở thành phố Hồ Chí Minh đã mở
cửa chùa cho những đứa trẻ này, và nếu các em chịu ở
lại bốn tiếng buổi sáng để học đọc, học viết, chơi
với quý thầy và quý sư cô, thì các em được mời ăn cơm
chay. Xong các em lại có thể vào Phật đường ngủ trưa. (Ở
Việt Nam, người ta luôn luôn ngủ trưa sau khi ăn vì trời
quá nóng. Khi người Mỹ đến, họ mang sang lối làm việc
tám giờ liên tục của mình, từ chín đến năm giờ. Nhiều
người trong chúng tôi thử làm, nhưng không làm được. Chúng
tôi cần giấc ngủ trưa lắm lắm.)
Đến
hai giờ, lại có thêm giờ học và chơi với các em, những
em ở sinh hoạt buổi chiều sẽ được ăn tối. Chùa không
có chỗ cho các em ngủ ban đêm. Trong cộng đồng chúng tôi
ở bên Pháp, chúng tôi vẫn đang yểm trợ cho quý thầy và
quý sư cô này. Chỉ tốn có hai mươi xu cho một đứa trẻ
ăn trưa và ăn tối, và sẽ giữ em không lang thang ngoài đường,
nơi em có thể đánh cắp thuốc lá, hút thuốc, dùng ngôn ngữ
của du côn, và tập những lề thói xấu. Bằng cách khuyến
khích các em lại chùa, ta giúp ngăn không để cho các em trở
thành du đãng và phải vào tù sau này. Cần có nhiều thời
gian để giúp những em bé này, chứ không phải nhiều tiền.
Có biết bao nhiêu việc đơn giản như vậy ta có thể làm
để giúp người, nhưng vì ta không thể tự mình tháo gỡ
bớt đi những ràng buộc của hoàn cảnh và cách sống của
mình, ta chẳng làm gì cả. Chúng ta cần phải đến với nhau
như một cộng đồng, nhìn sâu, tìm ra những cách tháo gỡ
cho mình để chúng ta có thể thực tập Giới thứ hai.
‘...để
chia xẻ thời giờ, năng lực, và tài vật của con đến những
kẻ thiếu thốn.’ Câu này thật rõ ràng. Có lòng và có khả
năng chưa đủ. Ta còn phải thể hiện tâm hào hiệp đó. Chúng
ta có thể có cảm tưởng mình không có thời giờ để mang
hạnh phúc cho người khác – ‘Thời giờ là tiền bạc,’
chúng ta nói – nhưng thời giờ còn nhiều hơn là tiền bạc
nữa. Đời sống có nhiều ý nghĩa hơn là dùng thời giờ
để kiếm tiền. Thời giờ là để sống, để chia sẻ niềm
vui và hạnh phúc với mọi người. Người giàu thường lại
không có khả năng làm cho người khác hạnh phúc. Chỉ có
những người có thời giờ mới có thể làm điều này.
Tôi
biết một người đàn ông ở tỉnh Thừa Thiên, Bác Siêu,
không ngừng thực hành hạnh bố thí trong suốt năm mươi năm;
Bác là một vị Bồ Tát đích thực. Chỉ với một chiếc
xe đạp, bác đã đến thăm nhiều làng xã trong suốt mười
ba tỉnh, mang cho nhà này món này, nhà kia món kia. Khi tôi gặp
Bác năm 1965, tôi hơi hãnh diện về Trường Thanh Niên Phụng
Sự Xã Hội của chúng tôi. Chúng tôi đã bắt đầu huấn
luyện cho ba trăm tác viên xã hội, trong đó có các thầy và
các sư cô, để đi đến các làng quê xa xôi hẻo lánh giúp
người dân cất nhà và đổi mới cơ cấu kinh tế địa phương,
hệ thống y tế, giáo dục. Rốt cuộc chúng tôi đã có mười
ngàn tác viên trong toàn quốc. Trong khi kể cho Bác Siêu nghe
về các đề án của trường, tôi nhìn chiếc xe đạp của
Bác và nghĩ rằng với một chiếc xe đạp Bác chỉ có thể
giúp ít người thôi. Nhưng khi người Cộng Sản tiếp quản
và đóng cửa Trường chúng tôi, Bác Siêu vẫn tiếp tục,
vì cách làm việc của Bác vô hình vô tướng. Các cô nhi viện,
trạm phát thuốc, trường học, và các trung tâm giúp người
chạy loạn ổn định nơi chốn của chúng tôi đều bị đóng
cửa hay bị nhà nước tịch thu. Hàng ngàn tác viên phải ngưng
làm việc và ẩn lánh. Nhưng Bác Siêu không có gì để mất.
Bác là một vị Bồ Tát đích thực, làm việc vì phúc lợi
của kẻ khác. Tôi thấy khiêm nhượng hơn bây giờ về cách
tu tập hạnh Thí.
Chiến
tranh đã tạo ra hàng ngàn trẻ mồ côi. Thay vì gây quỹ để
lập cô nhi viện, chúng tôi đã tìm người bảo trợ ở các
nước Tây phương để xin bảo trợ cho từng em bé. Chúng tôi
tìm các gia đình trong làng chịu chăm sóc một em, và gởi
cho họ $6 đô một tháng để nuôi và cho em đi học. Bao giờ
có thể chúng tôi đều cố gửi em vào nhà bà con, dì, chú
hoặc ông bà của em. Chỉ với $6 đô, em bé được ăn và
được học, những em bé khác trong gia đình cũng được giúp
theo. Trẻ em được lợi lạc rất nhiều khi lớn lên dưới
một mái gia đình. Sống trong cô nhi viện nhiều khi giống
như ở trong quân đội – các em không lớn lên một cách bình
thường. Nếu chúng ta chịu tìm và chịu học những cách để
thực hành hạnh Thí, chúng ta sẽ luôn có sự tiến bộ.
Con
nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào
không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư
hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không
cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự
đau khổ của con người và của muôn loại.’ Khi ta hành trì
một Giới cho sâu sắc, ta sẽ khám phá ra rằng mình đang hành
trì cả năm Giới. Giới thứ nhất là về sự giết hại,
một dạng lấy cắp -- lấy cắp đi cái quý nhất của kẻ
khác: mạng sống. Khi quán chiếu về Giới thứ hai, chúng ta
thấy trộm cắp, dưới hình thức bóc lột, đàn áp và bất
công xã hội, đều là những hành động giết hại -- giết
từ từ bằng sự bóc lột, duy trì tình trạng bất công, và
đàn áp kinh tế, chính trị. Vì vậy, Giới thứ hai dính dáng
rất nhiều đến Giới không giết hại. Chúng ta thấy tính
‘tương tức’ của hai Giới đầu. Điều này cũng đúng
với tất cả năm Giới. Có những người chỉ thọ một hay
hai Giới. Tôi không phiền gì cả, vì nếu các bạn giữ một
hay hai Giới cho sâu sắc thì cả năm Giới đều sẽ được
giữ.
Giới
thứ hai là không trộm cắp. Thay vì trộm cắp, bóc lột, hay
đàn áp, chúng ta thực tập Thí. Trong đạo Bụt, chúng ta nói
có ba loại tặng phẩm. Thứ nhất là tặng phẩm vật chất.
Thứ hai là giúp người tự lực tự cường, giúp cho họ kỹ
thuật cũng như giúp cho họ biết cách đứng vững trên hai
chân mình. Giúp bằng chánh Pháp để người ta có thể chuyển
hoá những sợ hãi, giận hờn, và tuyệt vọng của mình thuộc
vào loại tặng phẩm thứ hai. Loại thứ ba là món quà vô
úy. Chúng ta sợ đủ thứ. Chúng ta cảm thấy không an ninh,
sợ cô đơn, sợ bệnh, sợ chết. Để giúp người không bị
tàn phá bởi những nỗi sợ hãi của mình, chúng ta thực tập
loại bố thí thứ ba.
Bồ
Tát Quan Thế Âm là người thực tập điều này rất giỏi.
Trong Tâm Kinh Bát Nhã, Ngài chỉ chúng ta cách chuyển hoá, vượt
thắng sợ hãi, và mỉm cười cưỡi trên sóng sinh tử. Ngài
nói rằng không có sinh, không có diệt, không có có, không
có không, không có tăng, không có giảm. Nghe như vậy giúp
chúng ta nhìn sâu vào bản chất của thực tại để thấy
rằng sinh và diệt, có và không, đến và đi, tăng và giảm
đều là những ý niệm mà chúng ta gán lên cho thực tại,
trong khi đó, thực tại vượt lên trên mọi khái niệm. Khi
nhận ra được bản chất tương tức của vạn vật – rằng
ngay cả sinh và tử đều là những khái niệm – chúng ta vượt
thắng sợ hãi.
Năm
1991, tôi thăm một người bạn ở Nữu Ước đang trong tình
trạng hấp hối, Alfread Hassler. Chúng tôi đã cùng làm việc
với nhau trong phong trào hoà bình trong gần ba mươi năm. Có
vẻ như Alfred đã đợi tôi đến thăm trước khi ông ra đi,
và ông đã qua đời vài giờ sau cuộc thăm viếng ấy. Tôi
đến cùng với người đồng sự thân cận nhất, sư cô Chân
Không.
Alfred
không còn tỉnh khi chúng tôi đến. Cô Laura, con gái ông, tìm
cách thức ông dậy nhưng không được. Tôi nhờ sư cô Chân
Không hát Bài Ca Không Đến Không Đi cho Alfred: ‘Mắt này
không phải là tôi, Tôi không bị kẹt vào nơi mắt ấy. Thân
này không phải là tôi, Tôi không bị kẹt vào nơi thân ấy.
Tôi là sự sống thênh thang, Tôi chưa bao giờ từng sinh mà
cũng chưa bao giờ từng diệt’, lấy ý từ Kinh Tạp A Hàm[1]
. Cô Chân Không hát rất hay, tôi thấy những dòng nước mắt
lăn trên má của vợ con ông Alfred. Đó là nước mắt của
sự hiểu biết, rất trị liệu.
Bỗng
Alfred hồi tỉnh lại. Sư Cô Chân Không bắt đầu thực tập
những gì Cô đã học được từ Kinh Giáo Hoá Người Bệnh.
Sư Cô nói: ‘Alfred, ông có nhớ thời chúng ta làm việc với
nhau không?’ Sư Cô nhắc lại nhiều kỷ niệm hạnh phúc chúng
tôi đã từng chia sẻ, Alfred nhớ lại được từng kỷ niệm
một. Dù đau đớn thấy rõ, ông đã mỉm cười. Sự thực
tập này mang lại kết quả ngay tức thời. Khi một người
đang chịu những đau đớn về thân thể, đôi lúc ta có thể
làm vơi đi những đau đớn đó bằng cách tưới tẩm những
hạt giống hạnh phúc trong họ. Thăng bằng được lấy lại,
và người ấy thấy đỡ đau.
Trong
lúc đó, tôi xoa bóp bàn chân ông, tôi hỏi ông có cảm thấy
bàn tay tôi không. Khi hấp hối, các phần trên thân thể ta
trở nên tê cứng, ta có cảm giác như mình đã mất đi những
phần thân thể ấy. Xoa bóp nhẹ nhàng trong chánh niệm cho
người hấp hối cảm giác ông vẫn còn sống và đang được
quan tâm, săn sóc. Người ấy biết tình thương có mặt. Alfred
gật đầu, và mắt ông có vẻ như nói: ‘Có, tôi cảm thấy
tay Thầy. Tôi biết bàn chân tôi có đó.’
Sư
Cô Chân Không hỏi: ‘Ông có biết chúng tôi đã học rất
nhiều từ ông khi chúng ta sống và làm việc với nhau không?
Công việc ông khởi đầu, nhiều người trong chúng tôi vẫn
đang tiếp tục. Ông đừng lo gì cả.’ Sư Cô nói với ông
nhiều điều như vậy, và ông có vẻ bớt đau đớn. Có một
lúc ông hé miệng nói: ‘Mầu nhiệm. Mầu nhiệm.’ Và ông
thiếp đi.
Trước
khi rời, chúng tôi khuyến khích gia đình ông tiếp tục làm
như vậy. Ngày hôm sau tôi được tin Alfred đã qua đời năm
tiếng đồng hồ sau khi chúng tôi ra về. Đây là một món
quà thuộc vào nhóm thứ ba. Nếu chúng ta có thể giúp cho người
ta cảm thấy an toàn, bớt sợ đời sống, con người, và cái
chết, thì chúng ta đang thực tập loại Thí thứ ba.
Có
lần, trong lúc thiền, tôi có một hình ảnh rất mầu nhiệm
– hình dạng một con sóng, khởi đầu và kết thúc. Khi các
nhân duyên hội đủ, chúng ta thấy con sóng, và khi nhân duyên
không đầy đủ nữa, chúng ta không còn thấy con sóng. Sóng
được làm bằng nước. Ta không thể dán lên con sóng nhãn
hiệu có hay không có. Sau cái mà chúng ta gọi là sự chấm
dứt của con sóng, không có gì mất đi, không có gì chết
cả. Sóng đã rút về với nước, và bằng cách này hay cách
khác, thời gian sẽ mang sóng trở lại. Không có tăng, giảm,
sinh, hay diệt. Khi hấp hối, ta nghĩ rằng mọi người đều
đang sống, chỉ có mình đang chết mà thôi, cảm giác cô đơn
của chúng ta có thể không chịu đựng nổi. Nhưng nếu ta
có thể quán tưởng hàng trăm ngàn người đang cùng hấp hối
với ta, cái chết của chúng ta có thể sẽ trở nên thanh thản
hay thậm chí vui. ‘Tôi đang chết trong cộng đồng. Hàng triệu
chúng sinh cũng đang chết đi trong giờ phút này. Tôi thấy
tôi đang cùng với triệu triệu chúng sinh khác; chúng ta chết
có tăng thân. Đồng lúc ấy, triệu triệu chúng sinh cũng đang
ra đời. Tất cả chúng ta đều đang làm việc đó với nhau.
Tôi vẫn đang tiếp tục được sinh ra, và đồng thời đang
chết. Chúng ta tham dự vào toàn bộ sự việc ấy như một
tăng thân.’ Đó là những gì tôi thấy trong khi thiền quán.
Trong Tâm Kinh, Bồ Tát Quan Thế Âm chia sẻ tuệ giác này và
giúp ta vượt thắng sợ hãi, lo lắng, và đau đớn. Món quà
Vô Úy mang lại một sự chuyển hoá trong ta.
Giới
thứ hai là một pháp thực tập rất sâu. Chúng ta đã nói
đến thời giờ, năng lực, và tài vật, nhưng thời giờ không
phải chỉ để dành cho năng lực và của cải. Thời giờ
là để có đó cho nhau -- có đó với một người đang hấp
hối hay đang đau khổ. Thật sự có mặt dù chỉ năm phút
thôi cũng có thể đã là một món quà hết sức quan trọng.
Thời giờ không phải chỉ để làm ra tiền bạc. Thời giờ
là để tạo ra món quà Chánh Pháp và Vô Úy.
[1]
Tương đương với Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikaya.)