BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM
Lê Mạnh Thát Chủ biên
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM 2005
ÁNH ĐUỐC
QUẢNG ĐỨC
Hoà
Thượng Thích Đức Nhuận
Ngày
20 tháng tư nhuận năm Quí Mão(11/6/1963) trong một cuộc diễn
hành của trên 800 vị Thượng Tọa, Ðại đức Tăng, Ni để
tranh đấu cho chính sách bình đẳng Tôn giáo, cho lá cờ quốc
tế không bị triệt hạ: tại ngã tư đường Phan Ðình Phùng,
Lê Văn Duyệt ( Sài Gòn), lúc 9 giờ sáng, Hòa Thượng Quảng
Ðức phát nguyện tự tay châm lửa thiêu thân làm ngọn đuốc
“ thức tỉnh” những ai manh tâm phá hoại Phật giáo. Dưới
đây là tiếng nói tâm huyết cuối cùng của Ngài gửi lại
cho đời.
“
Tôi pháp danh Thích Quảng Ðức, Hòa Thượng Trụ Trì chùa
Quán Âm, Phú Nhuận (Gia Ðịnh).” Nhận thấy Phật giáo nước
nhà đương lúc ngữa nghiêng, tôi là một tu sĩ, mệnh danh
là trưởng tử của Như Lai, không lẽ cứ ngồi điểm nhiên
tọa thị để cho Phậf pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát
nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật
để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mười
phương chư Phật chư Ðại đức Tăng, Ni chứng minh cho tôi
đạt thành chí nguyện như sau:
1.
Mong ơn Phật tổ gia hộ cho Tổng Thống Ngô Ðình Diệm sáng
suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo
Việt Nam ghi trong bản tuyên ngôn.
2.
Nhờ ơn Phật tổ gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường
tồn bất diệt.
3.
Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Ðại đức Tăng,
Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố bắt
bớ giam cầm của kẻ gian ác.
4.
Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.
5.
Trước khi nhắm mắt về cõi Phật, tôi trân trọng kính gửi
lời cho Tổng Thống Ngô Ðình Diệm nên lấy lòng từ bi đối
với quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để
giữ vững nước nhà muôn thuở”.
“
Tôi thiết tha kêu gọi chư Ðại đức Tăng, Ni, Phật tử nên
đoàn kết nhất trí hy sinh đễ bảo tồn Phật giáo.”
Nam
Mô Ðấu Chiến Thắng Phật.
Làm
tại chùa Ấn Quang, ngày mồng 8 tháng 4 nhuận năm Quí Mão.
Tỳ
khưu Thích Quảng Ðức kính bạch.
Hòa
Thượng Quảng Ðức, pháp danh Thị Thủy, thế danh Lâm Văn
Tức, sinh năm 1897 tại làng Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa (Nha Trang) Trung Việt, xuấ gia lúc lên 7 tuổi, được
nhị vị thân sinh chấp thuận cho đi theo hầu người
cậu ruột là Hòa Thượng Thích Hoàng Thâm đem về chùa nuôi
nấng dạy dỗ, và đổi tên là Nguyễn Văn Khiết. Năm 15 tuổi,
ngài được nghiệp sư ( Hòa thượng Hoàng Thâm) cho thụ Sa
di và năm 20 tuổi thụ Tỳ khưu. Sau khi thụ đại giới, Ngài
phát nguyện lên núi tĩnh tu 3 năm. Nổi tiếng là người gìn
giữ giới luật nghiêm minh. Ngài đã từng giữ các chức vụ:
-
Chứng minh đạo sư hội Phật giáo Ninh Hòa.
-
Phó trị sự và trưởng ban nghi lễ giáo hội Tăng già Nam
Việt.
Năm
1943, Ngài rời Khánh Hòa vào Nam, ròng rã 20 năm, đi khắp các
vùng: Sài Gòn, Gia Ðịnh, Hà Tiên, Ðịnh Tường, Cao Miên....
hoằng truyền chánh pháp. Ngài đã xây cất và trùng tu tất
cả 14 ngôi chùa. Gặp lúc Phật giáo nước nhà bị chế độ
tàn bạo, phi nhân nhà Ngô có dụng ý phá hủy nền đạo lý
truyền thống của dân tộc, ngày 27/5/1963, Ngài viết thư thỉnh
cầu Tổng Trị Sự Giáo hội Tăng Già Việt Nam xin tự đốt
mình để bảo vệ đạo pháp. Mặc dầu không được giáo
hội chấp thuận, nhưng ý nguyện quyết tâm thực hiện sự
tự thiêu, nên khoảng đầu giờ ngọ sáng ngày 20 tháng 4 nhuận
năm Quý Mão (11/6/1963) nhân cuộc diễn hành của gần
một ngàn Tăng, Ni qua các ngã đường Phan Ðình Phùng- Lê Văn
Duyệt, Ngài xuống xe, tự tẫm dầu ướt đẫm ba tấm cà
sa và ngồi kiết già giữa ngã tư đường, một tay kềt ấn
cam lộ, tay kia tự châm lửa. Ngọn lửa bốc cao phủ kín châu
thân. Mười lăm phút sau, nhục thể Ngài ngã lăn ra. Mọi người
quỳ xuống. Cả hiện trường lúc ấy những tiếng khóc nức
nở xen lẫn tiếng niệm Phật, tụng kinh. Bầu trời Sài Gòn
đang nhộn nhịp.... bỗng nhiên mang bộ mặt thê lương ảm
đạm, như báo trước một sự”bất thường” sẽ đến
với nhà Ngô trong một tương lai không xa.
Và
tiếng nói cuối cùng của Ngài nhắn với Tổng Thống Ngô
Ðình Diệm:
“Trước
khi nhắm mắt về cõi Phật, tôi trân trọng kính gửi lời
cho Tổng Thống Ngô Ðình Diệm nên lấy lòng từ bi đối với
quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ
vững nước nhà muôn thuở”.
“
Tôi thiết tha kêu gọi chư Ðại đức Tăng, Ni, Phật tử nên
đoàn kết nhất trí hy sinh đễ bảo tồn Phật giáo.”
Ngọn
lửa Quảng Ðức đã thắp sáng thời đại chúng ta, một thời
đại chiến tranh, hận thù đang bao trùm lên thân phận con
người (mà) tâm tư thì chứa những âu lo, buồn chán, nghi
kỵ, sợ sệt và mất niềm tin!
Cách
9 ngày sau ngày tự thiêu, 20/6/1963 nhục thể Hòa thượng
Quảng Ðức được rước từ chùa Xá Lợi đi theo đường
Trần Quốc Toản về An Dưỡng Ðịa ở Phú Lâm để làm lễ
hỏa thiêu. Chính quyền nhà Ngô sợ làn sóng người đưa tang
nên đã hạn chế chỉ cho phép 200 Tăng, Ni tham dự và buộc
phải đi bằng xe hơi. Suốt dọc hai bên lề đường dài hàng
cây số, các Phật tử đứng đông nghẹt để chờ chiêm bái
kim quan một vị cao Tăng đã tự thiêu thân thể để bảo
vệ chánh pháp.
Ngọn
lửa “thiêu” với sức nóng hàng ngàn độ đã không đốt
cháy được trái tim kim cương bất hoại của vị Bồ tát
“ vị pháp thiêu thân”. Ngọn lửa Quảng Ðức không chỉ
làm chấn động lương tâm nhân loại trên khắp thế giới
mà còn đốt luôn một chế độ hà chính bất công, thối
nát, sau 9 năm cai trị miền nam khiến người dân phải sống
cuộc sống trong quằn quại đau thương, tủi nhục....