BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM
Lê Mạnh Thát Chủ biên
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM 2005
ÁNH ĐUỐC
QUẢNG ĐỨC
và
Một Vài Điều
Chưa Nói về Phật Đản 1963
Hoàng
Nguyên Nhuận
Không
có biến cố Phật Đản ngày 8/5/1963 thì cũng chưa chắc đã
có vụ thảm sát ở Đài Phát Thanh biến Huế đêm 8/5.
Không có vụ thảm sát ở Đài Phát Thanh biến Huế thì cũng
chưa chắc đã có vụ tự thiêu của TT Quảng Đức ngày 11/6.
Ánh đuốc Quảng Đức là mồi lửa làm cháy rụi cả một
cơ đồ chính trị tôn giáo xây dựng hơn trăm năm qua.
Quả vậy, khi vụ Phật Đản mới bùng nổ, một nhà thừa
sai kỳ cựu với ba mươi bảy năm kinh nghiệm ở Viễn Đông
là Linh Mục Jean Renou đã phải lo ngại thốt lên: 'Thằng cha
nầy [Diệm] điên rồi! Hắn đang hủy hoại tất cả
những gì chúng ta hoàn thành được suốt một trăm năm mươi
năm qua!'[1]
Câu
hỏi đặt ra: ánh đuốc Quảng Đức bùng lên đã cho người
Phật tử, đồng bào Việt Nam, chính phủ và quần chúng Hoa
Kỳ cũng như dư luận thế giới thấy gì về thực trạng
Miền Nam, thực trạng Việt Nam và Phật Giáo Việt Nam trong
thời điểm 1963?
Nhưng
trước hết, tại sao có biến cố Phật Đản 63, và biến
cố đó xảy ra như thế nào?
MỘT
THỰC TRẠNG NHIỀU TÊN GỌI
Biến
cố Phật Đản 63 thường được sử sách nhắc tới nhiều
cách khác nhau như vụ Đài Phát Thanh Huế, vụ cờ Phật Giáo,
phong trào Phật Giáo chống chính quyền, phong trào tranh đấu
Phật Giáo, vụ Phật Đản 63... Sử sách cho đến bây giờ
cũng chưa đồng ý về một vài điểm như lệnh cấm treo cờ
Phật Giáo, như điều gọi là bài diễn văn của Thượng Tọa
Trí Quang trong lễ Phật Đản 63, cuộc biểu tình tại Đài
Phát Thanh Huế đêm Phật Đản, thỏa hiệp giửa chính quyền
và Phật Giáo sau vụ Đài Phát Thanh Huế, Hoa Kỳ và biến
cố 1963, chiến dịch Nước Lũ 20/8, việc TT Trí Quang tỵ nạn
chính trị trong Tòa Đại Sứ Mỹ, Phật Giáo và Cách Mạng
1/11 v.v...
BIẾN
ĐỘNG NƠI THÁNH ĐỊA
M.
MacLear gọi Huế là thánh địa của Phật Giáo Việt Nam như
Mecca là thánh địa của tín đồ đạo Hồi hay Vatican là thánh
địa của Ki-Tô tử. [2] Huế là cái nôi và là trụ sở của
Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam [THPGVN] thành lập ngày 6/5/1951
do sự hợp nhất các đoàn thể và hệ phái Phật Giáo cả
ba miền Bắc Trung Nam. Trụ sở trung ương của Tổng Hội
là Chùa Từ Đàm, thường được gọi là Chùa Hội. [3]
THPGVN
là thành quả của một nổ lực liên tục ngót ba mươi năm
để đổi mới hay hiện đại hóa sinh hoạt tu hành của những
Phật tử hữu tâm hiếu hoạt để điều hợp một cách hiệu
quả hơn các Phật sự toàn quốc trong một tình thế đang
có nhiều chuyển biến. Nhưng luật pháp quốc gia không
để cho nguyện vọng đó thành tựu vì Dụ số 10 do Bảo Đại
ban hành ngày 6/8/1950 chỉ mặc nhiên thừa nhận một tôn giáo
duy nhất ở Việt Nam là Ki-Tô giáo La Mã. [4] Nói thế khác,
theo tinh thần của Dụ số 10 thì hồi đó Việt Nam là một
nước vô tôn giáo, bởi Phật Giáo cũng như Tin Lành, Cao Đài,
Hòa Hảo, Tiên Thiên Thánh giáo v.v... đều chỉ có tư cách
pháp nhân của hiệp hội, tương tự như hội tương tế, hội
đua ngựa, hội thể thao trong khi điều được gọi là Đạo
Công Giáo ở Việt Nam thời đó thực tế cũng chỉ là một
chi nhánh của Ki-Tô giáo Pháp do Hội Truyền Giáo Hải Ngoại
Pháp trực tiếp điều hành và mãi đến năm 1960 - nghĩa là
9 năm sau khi THPGVN được thành lập - mới được thay thế
bằng Hội Đồng Giám Mục được Vatican nặn ra để trông
coi Đạo Công Giáo sơ sinh. Thực tế là thế nhưng về
phương diện thực thể, chỉ duy nhất Đạo Công Giáo là không
bị ràng buộc bởi Dụ số 10. Điều nầy giải thích
tại sao khi đã hợp nhất rồi Phật Giáo vẫn phải núp dưới
cái tên Tổng Hội Phật Giáo chứ không thể xưng là Giáo
Hội Phật Giáo, chưa kể là bất cứ lúc nào chính quyền
có thể cấm dùng luôn hai chữ Phật Giáo và phải gọi là
Phật Học mới cho lập hội.
THPGVN
quyết định lấy cờ Phật Giáo quốc tế làm giáo kỳ.
Miếng vải ngủ sắc nầy quả đã ấp ủ nguyện vọng thâm
trầm của Phật Giáo trong giai đoạn đó là thoát khỏi những
áp lực tôn chính nặng nề và những ràng buộc kỳ thị bất
công của Dụ số 10 để được tồn tại như một tôn giáo
Việt Nam. Mầm mống của thực tại nhị diện tôn giáo-dân
tộc một lần nữa lại được ươm mầm nẩy nỡ. Huế
có hai cuộc lễ tôn giáo lớn là lễ Phật Đản và ngày cúng
âm hồn 23 tháng Năm âm lịch - thường được gọi là ngày
thất thủ kinh đô, dân Huế gián tiếp dùng tín ngưỡng để
kỷ niệm ngày độc lập quốc gia bị bức tử khi Pháp đánh
chiếm Huế.
MIẾNG
VẢI BA XU
Mục
chính trong chương trình kỷ niệm Phật Đản 63 là cuộc rước
Phật từ Chùa Diệu Đế về Chùa Từ Đàm để cử hành lễ
chính thức. Chịu trách nhiệm chung về buổi lễ Phật
Đản 63 là TT Trí Quang, Hội Trưởng Tổng Trị Sự HPGVN tại
Trung Phần, trực tiếp chịu trách nhiệm cuộc rước Phật
là TT Mật Hiển Trị Sự Trưởng GHTGTT. [5]
Theo
thông lệ hàng năm, năm 1963 Đài Phát Thanh Huế cũng dành cho
Phật Giáo mấy chương trình buổi tối để kỷ niệm Phật
Đản. Phụ trách buổi phát thanh Phật Giáo đêm 6/5 là
Gia Đình Phật Tử, đêm 7/5 là Đoàn Sinh Viên Phật Tử Huế,
và đêm 8/5 hay đêm Phật Đản do chính THPG Trung Phần, ngoài
phần tin tức Phật sự, chương trình thường cho phát thanh
lại phần phóng sự hay ghi âm buổi lễ Phật Đản chính thức
hồi trưa. Cũng như các năm trước, đến ngày Phật Đản
các tư gia đều treo cờ Phật Giáo, có nơi lập bàn thờ trước
nhà hay những nơi công cộng như ngã ba, ngã tư đường hay
các công viên công trường.
Bỗng
nhiên ngày 6/5 tức hai ngày trước lễ Phật Đản, các tỉnh
thị toàn quốc đã nhận được công điện số 9195 của Phủ
Tổng Thống [6] nhắc lại lệnh cấm treo cờ tôn giáo nơi
tư gia cũng như nơi công cộng nghĩa là trên đường phố,
nơi các lễ đài, các quyền môn mừng lễ. Phát ngôn
viên của Tòa Đại Sứ Mỹ sau nầy đã ví von rằng Tổng
Thống Việt Nam ra lệnh cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Phật
Đản thì cũng chẳng khác gì Tổng Thống Mỹ ra lệnh cấm
hát thánh ca trong lễ Giáng Sinh. [7] Cảnh sát công an cứ theo
lệnh mà thi hành khiến cho nhiều nơi xảy ra xô xát giữa
Phật tử và nhân viên công lực. Phật tử Huế còn xúc
động hơn vì suốt mấy tuần qua, Ki-Tô giáo và chính quyền
đã tưng bừng kỷ niệm lễ lớn, thứ nhất là tuần lễ
khánh thành nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, thứ hai là kỷ niệm
lễ bạc ngày thụ phong Linh mục của Ngô đình Thục.
Vào hai dịp đó, và thành phố Huế tràn ngập cờ Vatican,
ngay cả những nơi không có một tín đồ hay một cơ sở Ki-Tô
giáo nào cả.
Công
điện nầy đến Huế vào ngày 7/5 và trở thành giọt nước
rớt vào bình nước đã đầy be. Trong khi lệnh cấm treo
cờ hạ cờ lan khắp thành phố như một trận hỏa hoạn thì
THPGVN họp khẩn vào chiều 7/5 và sau đó cử một phái đoàn
Trưởng Lão đến gặp Thị Trưởng Huế kiêm Tỉnh Trưởng
Thừa Thiên Nguyễn văn Đẳng yêu cầu chính quyền ngưng thi
hành công điện về giáo kỳ. Phật Giáo đã quyết định
đến hồi phải ăn thua đủ. Cuộc đấu tranh của Phật
Giáo thực sự bắt đầu từ lúc đó chứ không phải đợi
đến ngày hôm sau với những phát biểu nẩy lửa của TT Trí
Quang hay thảm cảnh đẩm máu tại Đài Phát Thanh Huế.
Trong cuộc họp khẩn chiều 7/5 này, một số quý Thầy đã
chủ trương ôn hòa, một phần vì nghĩ rằng tình đồng hương
với gia đình Ngô đình Diệm có thể là nhịp cầu để có
thể nói qua nói lại. Lại nữa, dòng họ nhà Ngô là
gia đình Phật Giáo trước khi Ngô đình Khả theo Ky-tô giáo
thì hương linh và bài vị của chư tiên tổ này đã được
gởi lên hương khói ở một ngôi Chùa ở Huế. Phần
khác, số Thầy này cũng hy vọng có thể ảnh hưởng đến
chính quyền qua Thị Trưởng Nguyễn văn Đẳng vốn là một
Phật tử. Số Thầy chủ trương ôn hòa cuối cùng đã
thuận theo đa số.
Nếu
tinh ý, chính quyền hẳn thấy quyết tâm của Phật Giáo qua
hành động xuất tướng bằng phái đoàn trưởng lão đích
thân đến Tòa Tỉnh chiều 7/5 để rồi có thể đối phó
thức thời và uyển chuyển hơn. Đáng tiếc là chính
quyền địa phương cũng như trung ương không chịu thấy điều
đó cho nên phái đoàn đại diện Phật Giáo chỉ nhận được
những giải thích quanh co và những hứa hẹn mơ hồ tự thị,
cũng như khi biến động đã xảy ra rồi thì chính quyền cũng
đã giải quyết theo cung cách lấy thúng úp voi. Điều
này đã tạo cơ hội cho phe chủ trương làm mạnh có lý do
hơn để tiến tới.
Cơ
hội trôi qua phần lớn cũng vì uy quyền quốc gia trong chế
độ Ngô đình Diệm không nằm trong một hệ thống minh bạch
nào cả. Bên cạnh Thị Trưởng còn có Tiểu Khu Trưởng,
trên Thị Trưởng và Tiểu Khu Trưởng còn có Đại Biểu Chính
Phủ và Tư Lệnh Quân Khu, trên Đại Biểu Chính Phủ và Tư
Lệnh Quân Khu còn có Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung Ngô đình
Cẩn, trên Cẩn còn có ông bà Cố Vấn Chính Trị Ngô đình
Nhu, trên ông bà Nhu là Tổng Thống Ngô đình Diệm, trên Diệm
là Tổng Giám Mục Ngô đình Thục thực tế là vua đạo kiêm
vua đời, vì về mặt gia đình là quyền huynh thế phụ tuyệt
đối, về mặt quyền lực là kẻ vừa chăn chiên vừa giữ
thành. Và đương nhiên, trên hệ thống quyền lực bản
xứ đó là Đại Sứ Vatican được các Ki-tô tử cung kính
gọi là Khâm Mạng Tòa Thánh và trên tất cả là Toà Đại
Sứ Mỹ, kẻ khai sinh và thần hộ mạng của chế độ.
Khâm Mạng Tòa Thánh và Tòa Đại Sứ Mỹ thì lại như môi
với răng như Đại sứ Cabot Lodge xác nhận. [8] Hệ thống
quyền lực rối rắm đó thể hiện rõ qua câu nói của Tổng
Thống Ngô đình Diệm rằng 'sau Hiến Pháp còn có tôi' để
dằn mặt Phật Giáo và những thành phần đối lập đừng
hòng dựa vào Hiến Pháp hay luật pháp để đòi hỏi này nọ.
CUỘC
RƯỚC PHẬT VÀ NHỮNG BIỂU NGỮ BỐC LỬA
Lễ
Phật Đản 63 bắt đầu bằng cuộc rước Phật từ Chùa Diệu
Đế lên Chùa Từ Đàm do các đoàn thể như Khuôn Hội Phật
Giáo, Gia Đình Phật Tử, Sinh Viên Phật Tử, Công Chức Phật
Tử, Tiểu Thương Phật Tử... phụ trách. Hàng lãnh đạo
Phật Giáo, các hàng Phật tử, đại diện chính quyền trong
đó có Thị Trưởng Huế, các quan khách trong đó có đại
diện của Toà Lãnh Sự Mỹ và Đài Loan và đại diện của
Phòng Thông Tin Văn Hóa Pháp tại Huế và Phật tử thì tề
tựu ở sân Chùa Từ Đàm chờ Phật 'về' đến để cử hành
lễ chính thức.
Hôm
nay Phật về hơi trễ. Lý do vì đoàn rước Phật vừa
băng qua cầu Gia Hội để vào đường chính của thành phố
thì một loạt các biểu ngữ lạ xuất hiện ngay trong đoàn
rước Phật như sấm chớp làm ù tai hoa mắt không những số
công an cảnh sát đang lăm le canh chừng đoàn rước Phật mà
cả đối với những dân chúng và Phật tử đứng đầy hai
bên đường xem đoàn rước đi ngang. Những biểu ngữ
ấy viết:
-Chúng
tôi đã đến lúc bị bắt buộc phải tranh đấu cho chủ trương
tôn giáo bình đẳng. Chúng tôi không từ chối một hy sinh
nào.
-Phản
đối chính sách bất công gian ác.
-Cờ
Phật Giáo quốc tế không thể bị triệt hạ.
-Phật
Giáo đồ chỉ ủng hộ chính sách bình đẳng tôn giáo.
-Yêu
cầu chính phủ thi hành chính sách tôn giáo bình đẳng.
-Phật
Giáo đồ nhất trí bảo vệ Chánh Pháp dù phải hy sinh.
Không
đợi chính quyền phản ứng bằng cách ngăn chận và giải
tán đoàn rước, tịch thu các biểu ngữ và bắt giam những
người căng biểu ngữ v.v..., với tư cách người chịu trách
nhiệm về đoàn rước, TT Mật Hiển đã ra lệnh ngưng đoàn
rước và dẹp các biểu ngữ rồi mới cho đoàn rước tiếp
tục. Các biểu ngữ bị tịch thu, đoàn rước tiếp tục
tiến lên một quảng thì đợt biểu ngữ thứ hai với nội
dung y hệt lại lác đác xuất hiện ở những đoạn khác trong
đoàn rước. Tình trạng đó xảy ra mấy lần và cuối
cùng Ban Tổ Chức phải mời cả TT Trí Quang xuống hiện trường
ra lệnh dẹp các biểu ngữ và hứa với những người trương
biểu ngữ là khi về đến Từ Đàm TT sẽ trả lời về những
yêu sách hay thỉnh nguyện ghi trên các biểu ngữ đó.
Đoàn rước cuối cùng đã về đến Từ Đàm...
Với
tư cách trưởng ban tổ chức lễ Phật Đản 63 tại Huế,
TT Trí Quang đứng ra cáo lỗi vì lễ đã không cử hành đúng
chương trình. Lý do chậm trễ đó là các biểu ngữ đột
ngột xuất hiện trong cuộc tuần hành. Một lần nữa,
TT yêu cầu Phật tử căng các biểu ngữ ấy lên cao cho mọi
người thấy rõ họ muốn gì. Những biểu ngữ đã biến
mất hồi sáng giờ lại xuất hiện. TT đọc lần lượt
từng biểu ngữ, giải thích nội dung cũng như nguyên nhân
tại sai có biểu ngữ đó và ghi nhận nguyện vọng phản ảnh
qua những biểu ngữ đó. Không khí khuôn viên Chùa Từ
Đàm như có chuyền điện, mặt đất khuôn viên chùa như rung
chuyển theo từng lời của TT. TT không đọc một diễn
từ soạn sẵn hay ứng khẩu nào cả, nhưng những lời giải
thích các biểu ngữ của TT đã biến thành một cáo trạng
mạch lạc và minh bạch về thảm cảnh bất bình đẳng và
đàn áp tôn giáo mà Phật Giáo là nạn nhân từ thời Pháp
thuộc và nhất là từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Việc
xuất hiện các biểu ngữ một cách tự phát, cũng như việc
TT Mật Hiển và TT Trí Quang ra lệnh tịch thu các biểu ngữ,
rồi biểu ngữ lại xuất hiện, rồi lại bị tịch thu và
hứa hẹn thực tế chỉ là một cách dàn cảnh cho TT Trí Quang
có lý do công khai hóa những nguyện vọng, và cũng là những
mục tiêu đấu tranh của Phật Giáo mà thôi. Nội dung
của những biểu ngữ cũng như việc viết biểu ngữ, phân
công phụ trách căng biểu ngữ đã được quy định trong cuộc
họp khẩn chiều ngày 7/5. TT Thiện Minh là người chịu
trách nhiệm chuyện này. Một số anh em GĐPT thân tín được
phân công viết biểu ngữ và giữ các biểu ngữ để ngày
mai căng lên trong cuộc rước. Các biểu ngữ đã được
viết vội vàng bí mật trong các phòng tầng trệt của Giảng
Đường Chùa Từ Đàm khuya đêm ấy. Công đầu trong chuyện
này phải kể anh Nguyễn khắc Từ, một huynh trưởng GĐPT
xuất sắc tận trung với nước, với đạo. Đây là một
cách dàn cảnh tinh vi, đặt chính quyền và công an cảnh sát
vào thế tiến thối lưỡng nan trước quyết định đàn áp
hay không. Bởi nếu đàn áp xảy ra, đoàn rước Phật bị
giải tán, cuộc lễ Phật tại Từ Đàm cũng bị bãi bỏ và
TT Trí Quang sẽ không còn cơ hội công khai hóa những nguyện
vọng của Phật Giáo. Nói thế khác, nếu đàn áp xảy
ra, cuộc nổi dậy bị dẹp ngay trong trứng nước, trên đường
phố Huế.
Sau
phần ứng khẩu giải thích biểu ngữ của TT Trí Quang là
phần nghi lễ diễn ra một cách bình thường êm đẹp.
Buổi chiều hôm đó, TT Thiện Minh, Tổng Ủy Viên Thanh Niên
Phật tử của THPGVN và là nhà kiến trúc phong trào Phật Đản
63 đã lãnh đạo một phái đoàn thanh niên sinh viên học sinh
Huế ra Quảng Trị dự lễ thượng kỳ Phật Giáo do GĐPT Quảng
Trị tổ chức. Trong chuyến đi TT đã nói với người
trong đoàn tháp tùng khi được hỏi nếu thất bại thì sao?
Câu trả lời của TT như đinh đóng cột: Thất bại thì dắt
nhau về Tây Phương mà ở là cùng!
Không
khí Huế trở lại bình thường. Nhưng đó chỉ là bình
thường giữa hai cơn bão. Bởi theo đúng chương trình
thì những lời ứng khẩu nẩy lửa của TT Trí Quang trưa hôm
nay đã được ghi băng và sẽ được phát lại trong buổi
phát thanh Phật Giáo tối hôm nay...
ĐÀI
PHÁT THANH HUẾ ĐÊM PHẬT ĐẢN
Đài
Phát Thanh Huế nằm ngay chân cầu Tràng Tiền phía hữu ngạn
sông Hương. Đến tối, xướng ngôn viên đài xin lỗi
vì lý do kỷ thuật chương trình thường lệ không phát thanh
được và lấp chỗ trống bằng nhạc. Điều nầy khiến
Phật tử thắc mắc tức bực đổ về đài mỗi lúc một
đông. Không biểu ngữ, không hoan hô đả đảo, chỉ
lặng yên chờ cho đài giải quyết xong phần kỷ thuật để
được nghe lại những lời TT Trí Quang nói hồi sáng.
Thế thôi, ít ai nghĩ rằng mình đang được chứng kiến một
cuộc biểu tình, một cuộc đấu tranh bất bạo động đang
diễn ra từng phút.
Rồi
nhạc lấp chỗ trống cũng hết, làn sóng đài bỗng lặng
câm, mở đầu cho một đột biến khi một chiếc xe thông tin
gắn loa phóng thanh cực mạnh đến loan báo là chính quyền
được tin đêm nay Việt Cộng sẽ xâm nhập phá hoại một
vài cơ quan công quyền trong thị xã, chính quyền đã ban hành
lệnh giới nghiêm vậy yêu cầu đồng bào giải tán.
Thông báo đầy hăm dọa đó được lặp đi lặp lại nhiều
lần cùng với sự tăng cường dồn dập của cảnh sát công
an và quân đội tháp tùng một số xe cứu hỏa và xe bọc
thép từ từ tiến vào khuôn viên Đài Phát Thanh. Đoàn xe lừ
đừ húc đám đông, cán bừa lên xe đạp, xe gắn máy và đồng
bào mà tiến tới. Một trong những chiếc xe bọc thép
mang tên Ngô Đình Khôi. Đồng lúc, TT Trí Quang cùng với
Tỉnh Trưởng Nguyễn văn Đẳng đến và đi thẳng vào Đài
Phát Thanh. Hai người vừa vào trong đài chưa được bao
lâu thì các xe cứu hỏa bắt đầu xịt nước vào dân chúng
và tiếp đó là một tiếng nổ lớn rồi tiếng súng đồng
vọng vang rền từ các xe bọc thép, từ số quân nhân và công
an cảnh sát tăng cường. Các xe bọc thép vừa bắn vừa
húc bừa vào dân chúng. Khuôn viên Đài Phát Thanh Huế
diễn ra một cảnh hoảng loạn, đẩm máu và bi hài. Phe
chính quyền quyết liệt đánh đuổi dân chúng khỏi khuôn
viên Đài Phát Thanh Huế bằng những biện pháp sắt máu.
Phật tử cố chạy quanh né tránh. Họ không bỏ chạy
mà cứ chực nhào vào để cứu những người bị thương đang
quằn quại la liệt bên cạnh số bị chết tan xác, chưa kể
là họ không chịu bỏ chạy vì nóng lòng lo cho TT Trí Quang
đang kẹt trong Đài không biết sống chết ra sao. Tình
trạng kéo dài đến hai giờ sáng thì mới đưổi hết Phật
tử khỏi khuôn viên Đài Phát Thanh Huế và khu vực cầu Tràng
Tiền. Phe chính quyền vô sự, phía Phật Giáo thì TT Trí
Quang được hộ tống về chùa an toàn nhưng có 9 Phật tử
chết và 14 bị thương, được bí mật vội vàng đưa về
Bệnh viện Huế.
Kẻ
chỉ huy cuộc thảm sát này là Thiếu Tá Đặng Sĩ, Phó Tỉnh
Trưởng Nội An. Sỹ không chịu lệnh của Đẳng hay lệnh
của Cẩn. Sĩ trực tiếp nhận lệnh của TGM Ngô đình
Thục người đã xác quyết với Vatican rằng Phật tử chỉ
khoảng từ 2 triệu đến 2 rưỡi so với 1 triệu đến 1 triệu
rưỡi Công Giáo và ông quyết lấp bằng tỷ số đó bằng
bất cứ giá nào với phần thưởng là cái mũ đỏ Hồng Y
giáo chủ. [9] Khi biến động Phật Đản 63 xảy ra, Thục có
mặt ở Huế và đã nói thẳng 'lá cờ chỉ là một miếng
vải ba xu có chi mà phải tranh đấu...' [10]
NGUYỆN
VỌNG NĂM ĐIỂM
Huế
sôi sục. Suốt đêm 8/5 và ngày 9/5, hàng ngàn đám biểu
tình tự phát không chỉ của dân chúng thanh niên sinh viên
học sinh nội thành mà cả của đồng bào ngoại thành xa xôi
đổ về chùa Từ Đàm để bày tỏ nguyện vọng và hỏi thăm
tin tức. Công an cảnh sát quân đội tràn ngập phố phường.
Các đám biểu tình tuần hành nầy phải đi qua nhiều nút
chận. Không gian căng thẳng như có điện truyền vào
nhưng chưa có hành hung đập phá, đốt nhà đốt xe, đốt
công sở.
Suốt
cả ngày 9/5, Tỉnh Trưởng Nguyễn văn Đẳng đã đích thân
đưa TT Trí Quang đi khắp nơi trấn an đồng bào và Phật tử.
Hình ảnh một ông Tỉnh Trưởng lái chiếc Citroen 2CV và một
ông thầy tu mặc áo nâu đội nón lá đứng trên mui xe khản
cổ kêu gọi đồng bào Phật tử giải tán đợi lệnh chùa
là hình ảnh đặc thù ngày hôm đó. Chính quyền một
mặt nhờ chùa 'chữa lửa', một mặt lại rửa tay chạy tội
bằng cách tuyên bố cuộc thảm sát ở Đài Phát Thanh Huế
là do Việt Cộng gây ra. Điều nầy đã khiến cho quần
chúng Phật tử nổi nóng thêm, càng hăng biểu tình hơn, càng
quyết liệt hơn khi đối đầu với nhân viên công lực ngăn
chận biểu tình.
Chính
quyền cố tìm cách lấy thúng úp voi mà không ngờ rằng hình
ảnh các nạn nhân vụ thảm sát đã được bí mật chụp
hình và gửi ra ngoại quốc. Đây phải kể đến công
lao của Bác sĩ Erich Wulff, một giáo sư Đức giảng dạy ở
Đại Học Y Khoa Huế, Bác sĩ Lê khắc Quyến và bác Bữu Tu
những người đã ghi nhận hình ảnh các nạn nhân được
bí mật chuyển từ Đài Phát Thanh về nhà xác bệnh viện
Huế. Không có những hình ảnh đó thì cớ lẽ cũng còn
lâu dư luận thế giới mới tin là có cuộc thảm sát đó,
và nhìn thấy rõ bộ mặt của cuộc thảm sát đó. Wulff kể
rằng sau đêm Phật Đản đẩm máu, ông đem những hình ảnh
này cho hai phóng viên kỳ cựu là Turner của hãng Reuters và
Sheehan của UPI xem thì những người này làm lơ không dám đụng
đến vì thấy trầm trọng quá. Kết quả là như Wulff
than thở rằng: Sau 48 tiếng đồng hồ...ngoại trừ đài Hà
Nội, không một đài phát thanh nào đưa tin, ngay cả những
tờ báo lớn như Le Monde, New York Times đều im bặt. [11] Vì
thấy rõ như thế nên Wulff liều đem những hình ảnh này kể
cả âm bản ra nước ngoài qua ngã Phnom Penh. Thế giới
đã được nhìn thấy bộ mặt của chế độ nhờ hành động
liều lĩnh và can trường của Wulff.
Ngày
10/5 Phật Giáo triệu tập quần chúng về chùa Từ Đàm để
thông báo hai quyết định, thứ nhất tuyên thánh các Phật
tử bị thảm sát tại đài Phát Thanh Huế, thứ hai công
bố bản Tuyên Ngôn Của Tín Đồ Phật Giáo Việt Nam do HT
Thích Tịnh Khiết, Hội Chủ THPGVN ký phổ biến. Tuyên
ngôn này thường được gọi tắt là bản 'nguyện vọng năm
điểm' gồm có, thứ nhất lệnh cấm giáo kỳ phải được
thu hồi, thứ hai Phật Giáo phải được đối xử bình đẳng
như Ki-tô giáo, thứ ba chấm dứt đàn áp khủng bố Phật
tử, thứ tư Phật Giáo được tự do truyền đạo và hành
đạo, và thứ năm quy trách kẻ chủ mưu tàn sát và đền
bù cho các nạn nhân vụ Đài Phát Thanh Huế.
Phật
Giáo đã chính thức minh định vấn đề, đến lược chính
quyền phản ứng. TT Ngô đình Diệm thấy tình thế trầm
trọng có lẽ một phần qua những lời thở than của Ngô đình
Cẩn nên đã yêu cầu người thân tín của mình là Đỗng
Lý Văn Phòng Võ văn Hải bí mật ra Huế điều tra tại chỗ.
Hải trở về Sài Gòn thì bị Ngô đình Thục chận ngay ở
phi trường bảo: Anh đừng quên những gì anh đã long trọng
hứa với chúng tôi, đó là không làm chính trị. Vậy
anh đừng đụng vào chuyện trong nhà của chúng tôi. Thục
muốn nhắc lại một lời hứa cũ của Hải. Gia đình
Ngô đình Khả và gia đình Hải rất thân nhau, Hải và Diệm
coi nhau như anh em. Ngày Diệm về chấp chánh, Diệm năm
lần bảy lược mời Hải, cuối cùng Hải nhận với điều
kiện là giúp Diệm như bạn chứ đừng lôi kéo Diệm vào
chính trị. Hải báo cáo hết sự thực ở Huế, nghĩa
là cho Diệm thấy trách nhiệm của Thục trong vụ này và Diệm
đã ẩn nhẫn thở than với Hải: Anh thông cảm cho tôi, anh
Tổng tôi là quyền huynh thế phụ, tôi đâu dám chống lại.
Chính Cabot Lodge sau khi tham khảo với Đại sứ Vatican tại
Sài Gòn cũng đã kết luận: Rõ ràng là TGM Thục, anh của
Diệm, là ảnh hưởng mạnh nhất trong chính quyền, và đã
kích động đàn áp bất chấp nỗi quan ngại của Vatican. [12]
Gia đình Diệm thực sự bể làm đôi: Một bên là Diệm, Cẩn
và Luyện, một bên là Thục, vợ chồng Nhu và gia đình Nguyễn
văn Ấm thân phụ của cố Hồng Y Nguyễn văn Thuận.
CÔ
LẬP ĐÀN ÁP VÀ PHÁ VÒNG VÂY PHONG TỎA
Nguyện
vọng năm điểm của Phật Giáo công bố ngày 10/5, đến ngày
23/5 lại được bổ túc bằng một Phụ Đính, và đến 25/5
lại được thêm vào một Phụ Trương. Điều này chứng
tỏ chính quyền càng né tránh giải quyết vấn đề thì yêu
sách của Phật Giáo càng cô đọng cụ thể thêm.
Nhưng
Huế rất cách biệt với tai mắt và dư luận quốc tế, chính
quyền rất dễ bưng bít và dập tắt. Cho nên công việc
gấp rút là phải đối phó với những âm mưu và hành động
cô lập và đàn áp của chính quyền, vừa nuôi dưỡng tinh
thần quật khởi của Huế, vừa mở rộng địa bàn hoạt
động đấu tranh. Phật Giáo quyết định công việc ở
Huế giao lại cho quý TT Trí Thủ, Thiện Siêu, Mật Nguyện,
Mật Hiển cùng đảm nhận và HT Hội Chủ lãnh tụ tối cao
của phong trào, TT Trí Quang, linh hồn của phong trào, TT Thiện
Minh, đầu não chiến lược phải vào Sài Gòn. HT Hội
Chủ vào Sàigòn trước một mình trót lọt, nhưng TT Trí Quang
và TT Thiện Minh thì chưa chắc. Phật Giáo đang băn khoăn
chưa biết tính thế nào thì cơ duyên đến. Duyên may
đó hiện thân là Trung Tá Trương Khuê Quang người được
Bác sĩ Trần kim Tuyến dàn xếp máy bay riêng bí mật ra Huế
điều tra sự tình. Trung Tá Quang là đệ tử TT Thiện Minh
đã gặp các Thầy và hiểu rõ hoàn cảnh Phật Giáo.
Cho nên khi được yêu cầu tiếp tay Trung Tá Quang nhận lời
ngay, nhờ vậy TT Trí Quang và TT Thiện Minh đều bí mật lọt
vào Sài Gòn an toàn. Vào đến Sài Gòn, việc đầu tiên
là phải có một trụ sở đấu tranh thích hợp. Địa điểm
đó không đâu bằng Chùa Xá Lợi trụ sở chính của Hội
Phật Học Nam Việt thuộc quyền quản trị của Chánh Trí
Mai thọ Truyền. Cho nên chính TT Thiện Minh, đang đêm
phải đắp y gặp Chánh Trí Mai thọ Truyền để trình bày
nguyện vọng và thế là Chùa Xá Lợi biến thành tổng hành
dinh của phong trào. Nhưng giao Chùa Xá Lợi cho Phật Giáo
cũng không khác gì giao Lam Sơn cho Lê Lợi, và riêng Chánh Trí
Mai thọ Truyền là giao sinh mạng mình và gia đình mình cho
Phật Giáo. Tại sao Chánh Trí Mai thọ Truyền chịu hy
sinh vậy? Câu trả lời chỉ được tìm thấy 40 năm sau qua
lời kể của Sa Môn Mãn Giác: Tôi vẫn còn nhớ như in một
vài kỷ niệm về những chuyến Phật sự tôi được Phật
Giáo Trung Phần phái đến điều tra tình hình sinh hoạt của
các Phật tử các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Phan Thiết.
Hồi
đó là năm 1957, phong trào Dinh Điền đang được xúc tiến
mạnh. Theo như luật lệ quy định, dinh điền là một quốc
sách tự nguyện. Muốn được nhận cho lên cao nguyên
lập nghiệp thì đương sự phải là nghèo, không ruộng vườn
nhà cửa. Thế nhưng khi thực hiện chính sách này thì
những người nghèo xin đi không được, trái lại có những
người không xin đi, không muốn đi nhưng vẫn bị khủng bố,
bức ép ra đi. Đó là những Phật tử có nhà cửa ruộng
vườn, những Phật tử nhiệt thành với các Phật sự địa
phương, những Phật tử không chịu bỏ đạo để theo Ki-tô
giáo. Chương trình Dinh Điền đã bị lợi dụng như một
công cụ để phát triển Ki-tô giáo, đập tan tiềm lực Phật
Giáo ở những địa phương xa xôi. Tất cả những người
có danh sách di dân đều bị thu Thẻ Kiểm Tra, nghĩa là trở
thành mộ thứ tù giam lỏng. Cách duy nhất để được
khỏi đi dinh điền là phải bỏ đạo Phật theo Ki-tô giáo.
Chưa hết, lên đến khu dinh điền họ vẫn tiếp tục bị
đối xử tàn tệ nếu cứ ngoan cố giữ đạo Phật.
Trên khu dinh điền, họ chỉ được trồng một thứ cây là
cây đay. Mỗi người được phát hai lon tấm hay gạo
lức một ngày. Ai chịu theo Ki-tô giáo thì được phát
ba lon gạo. Nhà nào có thiết bàn thờ Phật thờ ông
bà đều bị đập phá đạp đổ và cấm không được tái
thiết.
Trong
một chuyến công tác, tôi được chỉ định vào phái đoàn
lên cao nguyên thăm đồng bào Phật tử tại các khu dinh điền.
Phái đoàn do Hòa Thượng Trí Thủ hướng dẫn và Cụ Chánh
Trí Mai thọ Truyền phụ tá. Vì tình trạng tồi tệ như
vừa kể nên phái đoàn bị cấm không được vào các khu dinh
điền. May mắn cho chúng tôi là khu vực đó có mấy Trung
Đội tân binh đang công tác. Một số quân nhân đau lòng
phẫn uất vì có bà con bị ép đi dinh điền nên họ tình
nguyện đi dẹp đường hộ tống chúng tôi đến tận nơi
thấy tận mắt, họ quyết phản ứng nếu bị ngăn cản.
Chỉ huy quân sự địa phương cao cấp thời đó chẳng ai khác
hơn là Tướng Tôn Thất Đính sau này. Thấy tình thế
căng thẳng, Tướng Đính phải can thiệp, điện thoại xin
phép Phủ Tổng Thống ở Sài Gòn. Được phép rồi phái
đoàn mới được vào thăm đồng bào Phật tử. Sự thật
đau lòng bày ra trước mắt chúng tôi. Bàn thờ bị đạp
đổ, không được thiết tượng Phật, không được đốt
hương, không được tụng kinh. Có một gia đình hai vợ
chồng và năm người con, mời phái đoàn vào nhà đóng cửa
lại rồi chỉ nhản hiệu bao hương có hình Phật Bà Quan Âm
dán nơi cột nhà làm bàn thờ, đêm đêm cả nhà xúm quanh
cột nhà niệm Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn
Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. Cụ Mai thọ Truyền
đã không cầm được nước mắt. Thấy một người khô
khan nghiêm nghị như cụ Truyền mà cũng phải động lòng nên
cả phái đoàn đều khóc theo. Điều này giải thích tại
sao năm 1963, khi các cấp lãnh đạo phong trào tranh đấu Phật
Giáo chuyển từ Huế vào Sài Gòn, cụ Truyền đã nồng nhiệt
hưởng ứng và hoan hỉ giao Chùa Xá Lợi cho các Thầy làm
trung tâm tranh đấu. [13] TT Tâm Châu đại diện Phật Giáo
Bắc Việt và là Phó Hội Chủ THPGVN được cử làm Chủ Tịch
phong trào đấu tranh dưới danh nghĩa Ủy Ban Liên Phái Bảo
Vệ Phật Giáo. Ủy Ban này là một tập hợp gồm 10 đoàn
thể từng ký tên vào tuyên ngôn ủng hộ 5 nguyện vọng của
THPGVN công bố tại Huế. [14]
Ở
Huế, sau ngày 10/5, phong trào được quạt lên với chiến dịch
mít-tinh, học tập, tuyệt thực, cầu nguyện cho năm nguyện
vọng của Phật Giáo được thành tựu. Chủ chốt của
chiến dịch nầy là sinh viên học sinh Phật tử. Lực
lượng trẻ có học nầy đem lại cho phong trào một sinh khí
và sắc diện mới chứng tỏ Phật Giáo không chỉ lôi cuốn
thành phần vong niên hay cao niên đã chán sự đời mà còn
hấp dẫn thế hệ đang hăm hở hướng về tương lai của
dân tộc và tín ngưỡng. Trong khi các Thầy chỉ nhắc
đến bình đẳng tôn giáo thì tầng lớp nầy lại nhắc nhở
nhiều hơn đến mấy chữ 'Công Bằng Xã Hội' trong ngôn từ
tranh đấu của họ. Hai tụ điểm chính của họ là Từ
Đàm và Diệu Đế. Họ đến nghe tin tức, trò chuyện
với bạn bè đồng lứa, tụng kinh cầu nguyện, phát thanh
tin tức Phật sự qua hệ thống phóng thanh trong chùa, phổ
biến truyền đơn tài liệu, tuyệt thực, xuống đường bày
tỏ nguyện vọng. Họ thường bị đàn áp thẳng tay.
Dùi cui, mũi giày trận, báng súng, lưỡi lê, quân khuyển,
lựu đạn cay, lựu đạn cháy, xe cây, nhà tù là chuyện cơm
bửa. Nhưng chính quyền càng mạnh tay thì lực lượng
nầy càng trở nên đông đảo vì cái tính 'quân tử Tàu' hay
mã thượng ham vui của lớp trẻ. Tầng lớp nầy lại
kéo theo những hỗ trợ mới là giới tiểu thương, quân nhân,
công chức, giáo chức, Hướng Đạo... tăng cường cho lực
lượng cơ hữu nòng cốt của Phật Giáo là các Thầy các
Cô chùa Hội, các Khuôn Hội Phật tử địa phương và các
đoàn Gia Đình Phật Tử kỳ cựu thuần thành.
Tình
trạng đó kéo dài cho đến 3/6, khi sinh viên Phật tử tung
ra những đợt biểu tình ồ ạt rộng lớn và hứng chịu
những đàn áp khốc liệt. Một số sinh viên bị bắt,
149 người bị thương trong đó có 69 người bị thương trầm
trọng. Khi bị đàn áp truy kích, cả ngàn sinh viên học
sinh phải rút về chùa Từ Đàm. Chính quyền ra lệnh
giới nghiêm và phong tỏa chùa, đồng thời cắt điện cắt
nước và cắt luôn thực phẩm tiếp tế cho chùa. Cuộc
đàn áp và phong tỏa nầy đã gây những chấn động không
lường trước được... Sài Gòn đã được báo động về
tình trạng Từ Đàm bị phong tỏa ngặt nghèo này trong lúc
TT Quảng Đức tiếp xúc với thành phần lãnh đạo Phật giáo
để thông báo nguyện vọng tự thiêu của mình.
BIẾN
ĐỘNG NỐI TIẾP BIẾN ĐỘNG
Phật
Đản 63 không phải là biến cố chống chính quyền duy nhất
từ ngày Ngô đình Diệm lật đổ Bảo Đại để nắm trọn
quyền hành. Bởi trước đó ít ra chính quyền cũng đã
đi qua năm cơn bão tố chính trị. Đó là cuộc biến
động Bình Xuyên-Nguyễn văn Hinh, vụ ám sát hụt Diệm ở
Buôn Mê Thuột của Hà minh Trí, phong trào vận động dân chủ
chính trị hay phong trào Caravelle của nhóm Nguyễn xuân Chữ,
vụ binh biến của Nguyễn chánh Thi và cuộc ném bom Dinh Độc
Lập của Phạm phú Quốc và Nguyễn văn Cử, con trai của Nguyễn
xuân Chữ trong nhóm Caravelle. Trong cả năm lần đó, không
một bản cáo trạng công khai phê phán chế độ được tung
ra. Cho nên có thể nói, TT Trí Quang là người đầu tiên
công khai ứng khẩu bản cáo trạng cô đọng thành sáu tấm
biểu ngữ mộc mạc nhưng vang như sấm sét lan rộng và xoáy
sâu vào tâm khảm của dân chúng. Chủ điểm của sáu
biểu ngữ đó là tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo
và chấm dứt kỳ thị Phật Giáo. [15]
Thật
vậy, đất nước chia đôi, Ngô đình Diệm được Mỹ đưa
về xóa bỏ chế độ Quốc Gia, lật đổ Quốc Trưởng Bảo
Đại, thành lập chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Chính quyền
Ngô đình Diệm là một cái Big Mac một bên là chính quyền
Mỹ, một bên là thế lực Ki-Tô giáo Hoa Kỳ và Vatican, phần
giữa là gia đình họ Ngô và tay chân. Ngoài ba thành phần
đó ra, tất cả còn lại đều được nhìn dưới con mắt
'ai không theo ta là kẻ thù của ta' như Thánh Kinh cảnh giác.
Phật Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, và cả Tin Lành đều được
nhìn dưới con mắt ấy. Tình trạng trở thành tệ hại
cho người Phật tử từ khi có chiến dịch Tố Cộng, phong
trào Dinh Điền khẩn hoang lập ấp và phong trào Ấp Chiến
Lược. Dưới mắt một số người hăng say với nhiệm
mệnh thừa sai và tin rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện
thì các biện pháp chính trị kinh tế xã hội đó là những
cơ hội tốt để đưa những kẻ ngoại đạo về với 'ánh
sáng Phúc Âm'. Sa vào hoàn cảnh ấy, người Phật tử
chỉ còn ba đường hoặc rữa tội để hưởng đặc ân, hoặc
'bỏ' đạo Phật 'theo' Đạo Ông Bà để được tạm thời
yên thân, hoặc chọn cái chết để giữ đạo gốc. Tình
trạng đó ngày càng trở thành tệ hại, nhất là ở Nam Trung
Phần và cao nguyên kể từ năm 1959.
Phật
Giáo, nhất là Phật Giáo Huế, đã không nhắm mắt trước
hiện tượng 'bất công gian ác' đó. Ngày 20/2/1962, Hội
Trưởng HPGVN tại Trung Phần là HT Thích Giác Nhiên và Pháp
Chủ GHTGTP là HT Thích Tịnh Khiết đã đồng gởi cho Tổng
Thống Ngô đình Diệm và Chủ Tịch Quốc Hội Trần văn Lắm
một hồ sơ đúc kết hàng trăm vụ 'bất công gian ác' đối
với Phật tử và yêu cầu chính quyền hãy vì quyền lợi
quốc gia kịp thời can thiệp. Ngoài đường bưu điện
chính thức, DB Đoàn đình Dương là người đã đích thân
trao hồ sơ đó cho Diệm và Lắm. [16] Nhưng ngay cả việc đơn
giản hồi âm cho Phật Giáo biết là đã nhận được hồ
sơ - một biện pháp hành chánh và lịch sự tối thiểu, Diệm
và Lắm còn không thèm quan tâm thì mong gì chuyện xét can thiệp.
Trưa
ngày Phật Đản 1963, trong khi đọc và giải thích nội dung
sáu biểu ngữ 'tự phát' nêu trên, TT Trí Quang thật ra chỉ
nhắc lại những gì Phật Giáo đã nói từ trước. Khác
chăng là lần nầy Phật Giáo không dùng văn thư tay đôi tay
ba nữa mà bằng biểu ngữ, bằng lời nói công khai cho vạn
người nghe, và có thể cho triệu người nghe khi cuộn băng
thu âm lễ Phật Đản được quây phát lại trong chương trình
phát thanh của Phật Giáo tối hôm đó theo đúng chương trình
như đã nhắc trên.
HOA
KỲ VÀ VỤ PHẬT GIÁO
Khi
vụ Phật Đản xảy ra, chính quyền Kennedy đã bàng hoàng tự
hỏi: Họ (Phật tử Việt Nam) là ai vậy? Nếu Kennedy
và các cố vấn thân cận không biết chút gì về Phật Giáo
thì cũng chẳng có gì lạ bởi hai tai mắt chính của Washington
ở Sài Gòn là Đại Sứ Frederick Nolting và Giám Đốc CIA John
Richardson đều là những kẻ đã bênh vực anh em nhà Ngô từ
đầu đến cuối.
Rủi
cho anh em nhà Ngô là khi vụ Phật Đản xảy ra thì Nolting lại
rời Việt Nam đi nghỉ phép thường niên để cho Phó Đại
Sứ William C. Truehart xử lý thường vụ. Cho nên khi lờ
mờ hiểu được 'họ' là ai thì Kennedy đã vội chỉ thị
Truehart phải 'dùng những lời lẽ mạnh mẽ nhất để khuyến
cáo những biện pháp cần thiết'. Ngày 4/6 Truehart gặp
Bộ Trưởng Nguyễn đình Thuần cho biết Tòa Bạch Ốc muốn
Ngô đình Diệm phải ngưng đàn áp Phật Giáo và phải giải
quyết cụ thể những yêu sách của Phật Giáo. Ngày 5/6,
Phó Tổng Thống Nguyễn ngọc Thơ được lệnh tiếp xúc sơ
bộ với Phật Giáo.
Nhưng
trong khi Ngô đình Diệm tỏ ra nhượng bộ áp lực của Mỹ
thì bà Ngô đình Nhu lại không. Ngày 7/6, bà đã tố cáo
các nhà lãnh đạo Phật Giáo là tay sai cộng sản. Truehart
gặp Diệm để than phiền và yêu cầu cách cải chánh thì
Diệm tảng lờ như thể là ông cũng nghĩ như bà em dâu vậy.
Đây cũng là thời gian Phật giáo đang rúng động vì vụ chính
quyền phong tỏa Chùa Từ Đàm.
Ngày
11/6, Washington nhận được phúc trình về tình hình của Truehart
gởi sang. Truehart xác quyết cộng sản không có ảnh hưởng
đối với phong trào Phật Giáo và quả thật một số Phật
tử muốn lật đổ chính phủ. Mặt khác, Truehart nhận
rằng nếu để lâu quá thì những phản ứng tích cực của
chính quyền nếu có sẽ không gây ra được hậu quả mong
muốn. Nhưng có còn hơn không và Truehart tin chính quyền
vẫn chưa muộn để thỏa mản những đòi hỏi của Phật
Giáo. Có lẽ vì áp lực của Truehart mà chính quyền đã bất
thần chấm dứt phong tỏa Từ Đàm.
Hy
vọng của Truehart đã bị ngọn lửa Quảng Đức đốt cháy
sém. Quyết định tự thiêu của TT Quảng Đức được
tiến hành một phần vì tình trạng báo động ở Huế do việc
phong tỏa Chùa Từ Đàm. Ánh đuốc Quảng Đức là một
mồi lửa giữa cánh đồng khô hạn. Nạn nhân đầu tiên
của mồi lửa Quảng Đức là Đại sứ Nolting và chính sách
đương hành của Mỹ ở Việt Nam. W. Colby nhận định
rằng ánh lửa Quảng Đức đã làm cho dân Mỹ thấy dân chúng
Việt Nam không đứng sau lưng chính quyền của họ và do đó
dân Mỹ sẽ không ủng hộ chính sách Mỹ ở Việt Nam nữa.
[17] Phong trào tranh đấu của Phật Giáo đã âm ỉ dâng lên
sau vụ Đài Phát Thanh Huế, sau các cuộc biểu tình tuyệt
thực quyết liệt của sinh viên giờ đã ngùn ngụt lan rộng
từ Đông Hà đến Cà Mâu, từ Sài Gòn lên cao nguyên. Nơi
nào có chùa là nơi đó có tụng kinh cầu nguyện, có cờ,
có biểu ngữ, có truyền đơn, có phát thanh. Phong trào
đấu tranh không chỉ thu hút đồng bào Phật tử, tầng lớp
trẻ, mà còn thu hút cả những đồng bào khác tín ngưỡng,
phong trào Phật Giáo quốc tế, và đặc biệt hơn cả là phần
lớn phóng viên truyền thông ngoại quốc đang hoạt động
ở Sài Gòn.
Sau
vụ tự thiêu của TT Quảng Đức, Bộ Ngoại Giao Mỹ chỉ
thị cho Truehart nói thẳng với Diệm phải công khai thỏa mản
hoàn toàn các nguyện vọng của Phật Giáo bằng không Mỹ
sẽ tuyên bố không nhắm mắt làm ngơ nếu chính quyền Việt
Nam thiếu thiện chí thỏa mản các yêu sách chính đáng của
hàng lãnh đạo Phật Giáo. Washington cũng muốn Truehart
cho Phó Tổng Thống Nguyễn ngọc Thơ biết tuy Mỹ không chủ
trương lật Diệm nhưng nếu Diệm bị lật thì Mỹ sẽ ủng
hộ Thơ như người kế vị hợp hiến. Truehart nghĩ đó
không phải là một đề nghị hợp thời trong hoàn cảnh nầy
nên không nói gì với Thơ. Ngày 12/6 Truehart chỉ cho Diệm
biết Bộ Ngoại Giao đã mạnh mẽ khuyến cáo Diệm phải giải
quyết vấn đề Phật Giáo.
Ngày
14/6 chính quyền và Phật Giáo chính thức họp ở Hội Trường
Diên Hồng và hai ngày sau, ngày 16/6 Thông Cáo Chung về năm
nguyện vọng của Phật Giáo được hai bên ký kết.
Ngày
17/6 Phật Giáo tuyên bố trở lại đời sống bình thường
và thành tâm cầu nguyện cho Thông Cáo Chung được thi hành
nghiêm chỉnh.
Phật
Giáo lo âu cầu nguyện là phải bởi cả gia đình nhà Ngô
đều không muốn Thông Cáo Chung được thi hành. Vợ chồng
Nhu và TGM Thục đã mở chiến dịch phản công rộng lớn qua
các tổ chức Thanh Niên Cộng Hòa, Phụ Nữ Liên Đới, Trung
Tâm Nhân Vị Vĩnh Long, các cơ quan chính quyền như Thông Tin
Dân Vận, Thương Phế Binh, Mật Vụ Công An Cảnh Sát để
vu khống, mạ lỵ, hăm dọa, đàn áp, cách chức, cô lập,
sách nhiễu và ngay cả khủng bố bằng bắt giam, ám sát, bắt
cóc, tra tấn, thủ tiêu. Ngô đình Diệm không xốc nổi
tự thị trắng trợn như những người khác trong gia đình
nhưng chính ông đã khơi mầm loạn khi bảo rằng 'Sau Hiến
Pháp còn có tôi', nghĩa là không phải ông đội Hiến Pháp
trên đầu mà lót Hiến Pháp dưới chỗ ngồi, muốn tôn trọng
Hiến Pháp hay không là tùy ông, không cái gì ép ông được.
Mỹ
cũng thấy rõ điều đó nên ngày 25/6, Richardson đã đích thân
thuyết phục Nhu nên hòa hoản. Nhu trả lời thẳng thừng
các cuộc biểu tình của Phật Giáo là phi pháp và hăm dọa
trầm trọng đối với chế độ. Và một chế độ không
biết thi hành luật pháp thì chế độ đó phải đổ.
Nhu quả thực gián tiếp cho Mỹ biết đừng hòng bắt bí TT
Diệm, bởi Diệm nhượng bộ quá thì Nhu sẽ không để yên.
[18]
BỜ
ĐÊ ĐÃ VỠ
Anh
em nhà Ngô, Hoa Kỳ và Phật Giáo, cả ba phía đều lâm vào
thế bí. Anh em ông Diệm nghĩ Mỹ cũng cần mình chứ
không phải chỉ họ cần Mỹ thôi nên họ không tin Mỹ dám
thay ngựa giữa giòng. Mỹ không tin anh em ông Diệm còn
biết đặt quyền lợi Miền Nam lên trên hết để giải quyết
thỏa đáng vấn đề Phật Giáo, trong khi Phật Giáo cũng không
còn tin anh em nhà Ngô còn chịu nhìn nhận những đòi hỏi
của Phật Giáo là chính đáng. Thế nên, cả ba đều
đi đến những quyết định chẳng đặng đừng hay bất đắc
dĩ. Anh em nhà Ngô quyết khai thác triệt để tình cảnh
Mỹ cần mình chứ không cần Phật Giáo để dứt gọn Phật
Giáo và đặt Mỹ trước một sự đã rồi. Trong khi Mỹ
cũng không còn cách nào khác hơn là phải thay anh em nhà Ngô
trong ý thức đưa Diệm lên được thì cũng hạ Diệm xuống
được. Và Phật Giáo cũng không còn cách nào khác hơn
là để chính Ngô đình Diệm chứng minh những điều Phật
Giáo tố cáo là đúng, nói thế khác cách tố giác 'bất công
gian ác' hay nhất là để cho bất công gian ác xảy ra trước
mắt mọi người.
Sai
lầm chí tử của Ngô đình Diệm không chỉ là nghĩ rằng
ở Miền Nam Mỹ không thể kiếm đâu ra một người như Diệm.
Sai lầm chí tử của Diệm còn là ở chỗ đã quên rằng Kennedy
cũng là tín đồ Ki-tô giáo. Kennedy thừa biết là dân
chúng Mỹ đang âm thầm theo dõi từng hành động của vị
Tổng Thống Ki-tô giáo đầu tiên trong lịch sử Mỹ nầy.
Kennedy đâu khờ dại hy sinh tất cả tương lai chính trị của
mình để bao che những sai lầm của một đồng song đồng
đạo ở Việt Nam. Kennedy có khắc khe nặng tay với Diệm
thì cũng vì chính tương lai chính trị của Kennedy nữa.
Ngày
4/7, Kennedy cùng các cố vấn thân cận duyệt lại tình hình
Việt Nam và đi đến các kết luận như sau: thứ nhất, Quảng
Đức tự thiêu là một hành động tín ngưỡng đích thực
chứ không phải dàn cảnh, thứ hai vợ chồng Nhu phải đi
nhưng chưa chắc Diệm đã chịu, do đó tình trạng sẽ trở
nên trầm trọng và thế nào cũng có binh biến. Trong cùng
ngày, CIA ở Sài Gòn phúc trình cho Washington biết là có những
âm mưu đảo chính thật. Một tuần sau, CIA ở Washington
lượng định rằng đảo chính chuyến nầy thì dễ thành công
hơn chứ không dấm dớ ạch đụi như lần trước. Ý
tưởng thay Diệm bằng biến động quân chính đã định hình.
Ngày
7/7, chính quyề định đưa Nhất Linh ra xử để dằn mặt
đối lập. Nhất Linh không để ho chính quyền có cơ
hội ấy. Ông tự tử với ý nguyện 'cũng như HT Quảng
Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi
thứ tự do'.
Ngày
14/7 Phật Giáo chính thức tái phát động đấu tranh đòi chính
quyền thực thi Thông Cáo Chung. Đại Sứ Nolting lại ra
sức cứu Diệm bằng cách một đàng tuyên bố với báo chí
là không có kỳ thị tôn giáo ở Miền Nam và đàng khác khuyên
Diệm nên khôn khéo hơn.
Ngày
18/7, sau khi tiếp Nolting, Diệm lên đài phát thanh tuyên bố
chính quyền sẽ giải quyết êm đẹp vấn đề Phật Giáo.
Ngày
23/7, Sư Bà Diệu Huệ - thân mẫu của Giáo sư Bữu Hội đang
được chính quyền nhờ tiếp sức, họp báo đòi tự thiêu.
Ngày
1/8, Phật Giáo chính thức phản đối với Kennedy về những
ý kiến thiên lệch của Nolting.
Ngày
3/8, bà Nhu lại xông vào vòng chiến bằng một bài diễn văn
dài trong lễ khai mạc khóa Phụ Nữ Bán Quân Sự tại Tòa
Đô Chính Sài Gòn với nội dung vu khống, mạ lỵ và hăm dọa
Phật Giáo cũng như gián tiếp tố cáo chính quyền Mỹ đe
dọa và bắt bí chính quyền Việt Nam hầu bịt mồm bịt miệng
bà. Bà khuyên mọi người nên phớt lờ các cuộc tranh
đấu của Phật Giáo và chớ quan tâm đến điều mà bà gọi
là vụ 'nướng Sư' nghĩa là cuộc tự thiêu của TT Quảng
Đức. Lời kêu gọi của bà Nhu có hiệu quả tức thì.
Ngày hôm sau, 4/8 ĐĐ Nguyên Hương tự thiêu ở Phan Thiết.
Ngày
5/8, Phật Giáo chính thức báo động về những âm mưu của
chính quyền nhằn triệt hạ Phật Giáo cùng những thành phần
đối lập bằng những cuộc đảo chính giả gọi là Bravo
1 và Bravo 2 và kế hoạch Nước Lũ.
Ngày
7/8, Phật Giáo chính thức phản đối với Tổng Thống Ngô
đình Diệm về những lời tuyên bố của bà Nhu. Ở Đà
Lạt, Phật tử Âu dương Quang đã chặt ngón tay để góp phần
cầu nguyện cho năm nguyện vọng của Phật Giáo chóng thành
đạt. Cùng ngày, sinh viên Phật Tử Huế lại phát động
đợt tuyệt thực mới để hưởng ứng phong trào tái vận
động cho Thông Cáo Chung được chính quyền tôn trọng thi
hành. Ngày 12/8, Mai Tuyết An chặt tay ở Sài Gòn để
phản đối bà Nhu. Ngày 13/8, ĐĐ Thanh Tuệ tự thiêu tại
Huế gây ra những cuộc biểu tình lớn phản đối chính quyền
cướp xác của người đã hy sinh.
Ngày
14/8, Nolting đến từ giã Tổng Thống Ngô đình Diệm trước
khi rời nhiệm sở. Nolting là người đã cảnh cáo cáo
Washington rằng hất Diệm xuống thì sẽ không tránh được
nội chiến ở Miền Nam. Nolting yêu cầu Diệm nên trấn
an dư luận bằng cách xác nhận thiện chí giải quyết vấn
đề của chính quyền.
Ngày
15/8 Nolting rời Sài Gòn, và Diệm xác nhận 'thiện chí hòa
giải tột bực' của chính quyền trong vụ Phật Giáo.
Ít nữa là có một người không chịu tin lời xác nhận đó,
người đó là Ni Cô Diệu Quang đã tự thiêu cùng ngày hôm
đó tại Ninh Hòa.
Ngày
16/8, TT Tiêu Diêu tự thiêu tại Chùa Từ Đàm Huế.
Ngày
18/8, Giáo sư Đại Học và tiếp đến là Giáo sư Trung Học
ở Huế từ chức trong khi ở Chùa Xá Lợi Sài Gòn, ba chục
ngàn người tham dự tuyệt thực và cầu siêu cho những người
đã hy sinh trong cuộc tranh đấu từ ngày Phật Đản đến
nay. Đây là cuộc biểu tình tại chỗ lớn nhất từ
ngày phong trào bùng nổ.
Đêm
20/8, năm ngày sau khi xác nhận thiện chí hòa giải tột bực
của mình, Ngô đình Diệm tuyên bố tình trạng giới nghiêm
và đồng loạt tấn công các chùa toàn quốc, hốt hết các
nhà lãnh đạo Phật Giáo và những thành phần tham gia phong
trào. Cách giải quyết vấn đề Phật Giáo hay nhất là
dứt hết các Phật tử. TT Thiện Minh bị bắt ở chùa
Từ Đàm Huế, TT Tâm Châu, Huyền Quang và tất cả hàng lãnh
đạo Phật Giáo đều bị bắt ở Sài Gòn.
TT
Trí Quang cũng bị bắt ở Chùa Xá Lợi và bị đưa qua giam
trong một khu đồn bỏ hoang ở Rạch Cát, Quận 7 ngoại ô
Chợ Lớn để thanh lọc như bao nhiêu người khác. Sang
đó, TT được một người tình nguyện tráo tên với TT nên
đến lúc thanh lọc thì Thầy được tha về trước. Trên
đường về, TT không còn biết đi về nơi nào an toàn hơn
là vào tỵ nạn trong Tòa Đại Sứ Mỹ. Người đóng
vai 'Lê Lai cứu chúa' nầy hiện đang còn sống. TT Trí
Quang không phải là người duy nhất tỵ nạn trong Tòa Đại
sứ Mỹ. Đêm 20/8 khi Chùa Xá Lợi bị tấn công cũng
có hai vị sư leo rào trốn sang cơ quan USAID bên cạnh và cũng
được nhận cho tỵ nạn. Nhưng chính quyền Diệm chỉ
nằn nặc đòi lại một người là TT Trí Quang. Lodge thú nhận
là TT Kennedy đích thân chỉ thị cho Lodge chối từ những yêu
sách liên tục của chính quyền Diệm về việc này. [19]
Ngày
21/8, Nolting đang họp bàn giao với Tân Đại Sứ Cabot Lodge
ở Honolulu thì được thông báo về kế hoạch Nước Lũ, Nolting
ngao ngán gởi cho Ngô đình Diệm một bức điện riêng ngậm
ngùi than thở 'lần đầu tiên Ngài dối tôi'. Nolting có
lẽ là Đại Sứ duy nhất có nghe đài phát thanh mới biết
mình đã bị cách chức và có người khác thay thế rồi.
BẢN
ÁN TỬ HÌNH CHO CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM
Chiến
dịch Nước Lũ tấn công chùa chiền toàn quốc đúng là một
cơn tsunami không những quất sụm phong trào đấu tranh của
Phật giáo mà quét sạch luôn chút thiện cảm còn lại đối
với chính quyền Ngô đình diệm cũng như những băn khoăn
chần chừa về chuyện có nên tiếp tục duy trì tập đoàn
Ngô đình Diệm hay không.
Nhận
nhiệm sở xong, Lodge vào Dinh Gia Long trình ủy nhiệm thơ và
diện kiến TT Ngô đình Diệm. Lodge kể lại rằng trong
khi Lodge lưu ý Diệm về những điều quan tâm cũng như nguyện
vọng của Mỹ thì Diệm im lặng nhìn lên trần nhà, khi Lodge
dứt lời thì Diệm bắt đầu nói tràng giang đại hải về
những chuyện đâu đâu và về thời niên thiếu ở Huế, Lodge
chịu hết nổi phải đứng dậy kiếu từ. Về đến văn phòng
Lodge đã phúc trình với Washington rằng Diệm có lẽ đã mất
hết khả năng lãnh đạo đất nước, là một Tổng Thống
không còn khả năng ăn nói mạch lạc nữa. Và Lodge hạ
độc chưởng kết thúc báo cáo: Dựa vào tất cả tin tức
và hiểu biết của Lodge về chính quyền Diệm, Lodge phải
kết luận rằng trừ trường hợp bà Nhu và ông chồng cuồng
tín của bà rời khỏi xứ, Diệm có thể coi như là hết thuốc
chữa. [20] Những người ở Washington lâu nay thất vọng về
Diệm chỉ chờ có bấy nhiêu để phát thảo bản án tử hình
dành cho Diệm. Bản án tử hình đó là công điện ngày
24/8 mà Thứ Trưởng Ngoại Giao George Ball, xử lý thường vụ
Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk ký gửi cho Lodge với những
đoạn nguyên văn: Rõ ràng Nhu đã tiếm quyền. Hãy cho
Diệm cơ hội gạt Nhu và bè nhóm ra một bên. Nếu đã
cố gắng hết cách mà Diệm vẫn khăng khăng chối từ thì
chúng ta đành phải đối đầu với khả thể là Diệm cũng
không cứu được. [21]
Những
diễn biến kế tiếp từ công điện đó đưa đến sự sụp
đổ của chính quyền Diệm là lịch sử rồi. Thế nhưng
cho đến bây giờ vẫn còn những cố gắng giải thích tại
sao chính quyền Kennedy loại anh em Diệm? Câu trả lời
cụ thể nhất có lẽ của chính Ball, người đã ký bản án
tử hình cho Diệm. Lời nguyên văn của Ball là: Quả tình
chúng ta là người đầu tiên bày ra ông ấy [Ngô đình Diệm].
[22] Nghĩa là, đã tạo ra Diệm được thì dẹp Diệm lại
cũng phải được thôi, một khi mà Diệm không còn có ích
hay hữu hiệu cho những toan tính của Mỹ ở Việt Nam.
Mỹ muốn ở lại hay muốn ra đi huề vốn và danh chính ngôn
thuận đều cần có một chính quyền bản địa có khả năng
giúp Mỹ giữ cho huề vốn và bảo đảm được danh chính
ngôn thuận cho chuyện ở đi của Mỹ. Phật Đản 63,
vụ tự thiêu của TT Quảng Đức là những bằng chứng Diệm
không con khả năng đó nữa. Bằng chứng cụ thể nhất
là chiến dịch Nước Lũ đêm 20/8.
Về
sự hình thành của công điện 24/8, Ball kể rằng đó là một
chiều Thứ Bảy, Ball đang đánh golf với Alexis Johnson thì Averell
Harriman, Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách chính trị sự
vụ và Roger Hilsman Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách Viễn
Đông sự vụ đến rồi cả bốn kéo nhau về nhà Ball.
Harriman thông báo cho Ball về tình hình Sài Gòn và cho Ball xem
dự thảo công điện mà Harriman và Hilsman định gửi để
trả lời công điện báo cáo của Lodge. Hilsman là người
từng nói: Anh đang ở trong một nước với 95% dân chúng
là Phật tử, cầm đầu bởi một anh người Việt nói tiếng
Pháp, tha hồ đánh phá chùa chiền, giết ni cô, giết nhà sư.
Tôi có thể đoan chắc rằng ngay khi cuộc khủng hoảng của
các Phật tử chớm phát, ông ấy [Kennedy] đã ngã lòng rồi,
khi cuộc khủng hoảng ấy diễn tiến nửa chừng thì ông ấy
quả đã hoàn toàn ngã lòng. [23] Ball chỉ chỉnh lại một
đôi chỗ trong dự thảo công điện nhưng bảo hai đồng sự
là chỉ thông qua nếu Kennedy đồng ý. Ball đích thân
điện thoại cho Kennedy đang nghỉ cuối tuần ở Hyannis Port.
Kennedy dè dặt bảo thay Diệm rồi thì có gì bảo đảm là
người kế sẽ làm vừa lòng Mỹ? Nói vậy nhưng Kennedy
vẫn đồng ý với điều kiện Ngoại Trưởng Rusk và Roswell
Gilpatric Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng không có gì thắc
mắc. Kennedy bảo nguyên văn: Nếu hai người đó đồng
ý thì làm đi. Ball điện thoại cho Rusk và Gilpatric. Rusk
chần chừ nhưng Tổng thống đã bật đèn xanh thì cứ làm,
và Gilpatric thì đồng ý phần lớn vì Tổng Thống và Ngoại
Trưởng đã đồng ý. Ball gọi Giám Đốc CIA John McCone
nhưng không liên lạc được nên nói chuyện với phụ tá của
McCone là Richard Helms thì Helms cũng đồng ý. Tướng Maxwell
Taylor Tổng Tham Mưu Trưởng đang đi ăn tiệm không liên lạc
được nên phụ tá là Tướng Victor Krulak trả lời thay là
không có trở ngại. Thế là Ball ký cho phép gửi công điện
đi.
Hôm
sau nghĩ lại Ball thú nhận là lẽ đáng Ball phải tham khảo
thêm đề nghị của Lodge cứ tiếp xúc thẳng với các tướng
lãnh về chuyện đảo chánh chứ khỏi cần cảnh cáo Tổng
Thống Ngô đình Diệm rằng ông không loại vợ chồng Ngô
đình Nhu thì chúng tôi loại ông, còn giữ Diệm lại hay không
là tùy các tướng lãnh. Điều khiến Ball phân vân là
không biết có nên cảnh giác Diệm trước hay không? Nhưng
rồi Ball nghĩ lại có làm vậy thì cũng chẳng tới đâu vì
anh em Diệm sẽ cho rằng Mỹ chỉ tháu cáy dọa non dọa già
nên cứ làm tới thế là đâu lại hoàn đấy. Cho nên
rút cuộc, Ball bàn với Mike Forestal đang tạm thời xử lý
thường vụ chức Cố vấn An ninh Quốc gia của McGeorge Bundy
rồi thông qua bức điện.
Bức
điện gửi đi được hai ngày thì có người đăt lại vấn
đề. Người đó là McCone đã trở lại làm việc.
McCone phản đối chuyện đơn phương bật đèn xanh cho các
tướng lãnh đảo chánh. Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara
và Maxwell Taylor cũng hùa theo McCone. Rồi đến lược Kennedy
cũng nghĩ là đã quyết định vội vàng. Trong khi đó
ở Sài Gòn, các tướng lãnh đòi hỏi Mỹ phải bảo đảm
là sẽ không đem con bỏ chợ. Lodge đáp ứng đòi hỏi
đó bằng cách ra lệnh cho CIA trực tiếp nhúng tay thảo hoạch
chiến thuật đảo chánh trong khi phe quân sự đại diện là
Tướng Paul Harkins thì cứ đòi Lodge phải nói chuyện với
Diệm trước để thuyết phục Diệm loại Nhu. Dĩ nhiên
là Lodge không chịu. Và cuối cùng Kennedy đã ngã về
phía Lodge. [24] Như vậy, giả thuyết cho rằng anh em Diệm bị
loại vì chống lại phe chủ chiến leo thang cần phải xét
lại. Bằng chứng là McNamara và Taylor, chưa kể McCone,
Harkins, anh em Bundy... những con diều hâu chúa trong chiến tranh
Việt Nam, đều chống lại việc loại Diệm.
KẾT
LUẬN TẠM:
DƯỚI
ÁNH SÁNG CỦA NGỌN ĐUỐC QUẢNG ĐỨC
Phật
Giáo lật đổ Ngô đình Diệm? Phong trào đấu tranh của
Phật Giáo thực sự kết thúc vào ngày 21/8 khi Ngô đình Diệm
thi hành kế hoạch Nước Lũ đột kích chùa chiền triệt hết
các thành phần lãnh đạo và tham gia phong trào. Nói thế khác,
phong trào Phật Giáo 63 chỉ kéo dài 106 ngày - từ ngày 7/5
đến ngày 21/8, và thực sự kết thúc 73 ngày trước khi Tướng
Dương văn Minh dứt điểm chế độ, hủy bỏ Hiến Pháp 1956
và đặt Miền Nam dưới quyền lãnh đạo của Hội Đồng
Quân Nhân Cách Mạng vào ngày 2/11. Cho nên, dù không thể
phủ nhận rằng không có phong trào đấu tranh của Phật Giáo
năm 1963 thì chưa chắc chế độ nhà Ngô đã bị xóa bỏ.
Nhưng quả thực Phật Giáo không trực tiếp lật đổ Ngô
đình Diệm bởi Phật Giáo đã làm xong phần mình vào đêm
20/8 khi cả tiếng cầu kinh lẫn lời phản kháng chế độ
bất công gian ác đều im bặt. Kế hoạch Nước Lũ là
luồng gió thổi sáng ánh đuốc Quảng Đức soi rõ bản sắc
của chế độ Ngô đình Diệm, để cho những người có trách
nhiệm với chế độ đó phải có thái độ. Những người
có trách nhiệm đó là dân chúng và quân đội - trong đó đa
số là Phật tử, đã từng 'truất phế' nhà Nguyễn 'suy tôn'
nhà Ngô, là Hoa Kỳ - kẻ đã chọn và đưa Ngô đinh Diệm
lên ghế Tổng Thống.
Hoa
Kỳ không gây ra vụ Phật Giáo để làm áp lực hay lật Ngô
đình Diệm, bởi Hoa Kỳ không hề bận tâm Phật Giáo là gì,
là ai cả. Băn khoăn của Kennedy trước ánh lửa Quảng
Đức là câu hỏi 'Họ là ai vậy?' Ánh đuốc Quảng Đức
soi cho Hoa Kỳ thấy rõ thực lực quần chúng của Phật Giáo.
Nếu đã nghĩ đến chuyện lợi dụng - hoặc đã lợi dụng
được, Phật Giáo thì ngay từ đầu Kennedy hẳn không cần
phải băn khoăn như vậy. Chưa kể là dù có muốn chăng
nữa thì Hoa Kỳ cũng chẳng lợi dụng được Phật Giáo.
Cứ xem Lodge rồi Bunker, Johnson, Nixon đã đối xử với Phật
Giáo như thế nào thì đủ rõ.
Giả
thuyết cho rằng Hoa Kỳ tạo ra - hay lợi dụng, vụ Phật Đản
63 để làm áp lực hay lật đổ Ngô đình Diệm là một giả
thuyết cũng cần xét lại vì quả thực lúc đó Kennedy cũng
đang tiến thoái lưỡng nam trước tình hình Việt Nam thì lật
đổ Diệm để làm gì?
Muốn
leo thang hay rút lui, hoặc giữ nguyên trạng không đánh mà
cũng không rút, thì Hoa Kỳ đều cần có ổn định ở Miền
Nam. Chưa kể là riêng Kennedy cũng cần thế ổn định
đó để chuẩn bị cho cuộc tái ứng cử sang năm. Quấy động
hay đàn áp Phật Giáo không phải là cách bảo đảm thế ổn
định đó. Cũng vì vậy mà sau ngày Phật Đản, cả hai
phe diều hâu và bồ câu ở Tòa Bạch Ốc đều gặp nhau ở
điểm muốn Ngô đình Diệm sớm thỏa hiệp với Phật Giáo
để tạo ổn định. Anh em Ngô đình Diệm không thấy
điều đó, trái lại còn nghĩ rằng ngoài anh em mình ra Hoa
Kỳ sẽ chẳng kiếm được ai hơn nên họ điên lên khi nghĩ
rằng Hoa Kỳ đã coi trọng Phật Giáo và coi nhẹ mình.
Hoa
Kỳ không phải là kẻ đầu tiên nghĩ đến chuyện đảo chánh
khi vụ Phật Giáo bùng nổ. Đảo chánh là chuyện tự
các tướng tá Việt Nam nghĩ đến trước. Chính CIA ở
Sài Gòn xác nhận điều ấy.
Cái
chết của ba anh em nhà Ngô là điều đau thương đáng tiếc
về phương diện nhân đạo, mặc dù đó chỉ là hậu quả
đương nhiên của trò chơi quyền lực. Không ai tin những
kẻ thực tâm tham gia ngày 1/11 lại ngây thơ mong muốn anh em
nhà Ngô còn sống. Bài học của Nguyễn chánh Thi ba năm
trước dạy cho họ nhớ rõ điều đó. Cho nên lòng 'ân
hận' về những cái chết nầy xét cho cùng chỉ là những
'ân hận' chính trị của Pontius Pilate.
Người
Phật tử không quên ơn những người chủ động chính biến
1/11 dù biết rằng Dương văn Minh, hay Kennedy, Ball, Harriman,
Hilsman, Lodge... có cảm thông những đau thương bất công mà
Phật Giáo gánh chịu cũng không lật đổ Ngô đình Diệm vì
Phật Giáo. Bằng chứng là mục tiêu pháp lý của cuộc
đấu tranh của Phật Giáo là Dụ số 10, thế nhưng khi Diệm
đã đổ, Dương văn Minh không hề nghĩ đến chuyện hủy bỏ
hay ngưng áp dụng văn kiện đó, chẳng khác nào Diệm truất
phế Bảo Đại nhưng vẫn duy trì Dụ số 10 của Bảo Đại
vậy. Mặt khác, chính Nguyễn Khánh - chứ không phải
Dương văn Minh, là người thừa nhận tư cách pháp nhân của
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Tùy cơ duyên hoàn cảnh, nếu có một đối tượng thế tục
nào cần phục vụ tức thời thì đó chính là quyền lợi
và sự sống còn của dân tộc, nhất là trong hoàn cảnh phân
tranh thù hận có thể bị ngoại nhân kích động khai thác.
Dân tộc chính là chúng sinh cận kề thân thiết nhất.
Đó là điều người Phật tử muốn nhấn mạnh khi nói đến
Phật Giáo Lý Trần, ngàn năm Phật Giáo.
Đó
là điều mà một số người không biết, hoặc không muốn
biết, khi đặt vấn đề cuộc đấu tranh của Phật Giáo năm
1963 có lợi có hại gì cho công cuộc chống Cộng hay công
cuộc giải phóng Miền Nam. Phản ứng của người Phật
tử năm 1963 là một phản ứng tự vệ của kẻ đã bị dồn
vào đường cùng, tự vệ không phải trong tinh thần 'tôi chết
hãy trả thù cho tôi' như Ngô đình Diệm nói nhưng là 'tôi
chết hãy cầu nguyện cho kẻ đã giết tôi' như lời HT Hội
Chủ Thích Tịnh Khiết đã nhắn nhủ.
Ánh
đuốc Quảng Đức hay ngọn lửa tự vệ của Phật Giáo đã
làm cháy sém một cơ đồ. Bỏ hay giữ cơ đồ đó, giữ
lại như thế nào, giữ lại để làm gì, đó là câu hỏi
đặt ra cho người dân, cho quân đội và cho chính Hoa Kỳ.
Phật Giáo không nhân danh tự do dân chủ, không nhân danh 'quyền
lợi' chống Cộng để phản đối chính quyền. Đúng
ra, Phật Giáo đã chống lại việc nhân danh tư cách và quyền
lợi chống Cộng để chà đạp tự do, xâm phạm dân chủ
của kẻ khác. Vì ý thức hệ cũng chỉ là một vô minh
huyền hoặc nên người Phật tử không đồng hóa tín ngưỡng
với ý thức hệ, và cũng không đem tín ngưỡng phục vụ
chiến tranh ý thức hệ. Phật Giáo không chống đối
ai vì ý thức hệ và cũng không thỏa hiệp với kẻ nhân danh
nhu cầu và quyền lợi ý thức hệ để làm Khổ đế trầm
trọng thêm.
Trong
một tài liệu được giải mật hồi tháng 9/1993 nhan đề
Intelligence Memorandum - Thich Tri Quang and Buddhist Political Objectives
in South Vietnam, do Directorate of Intelligence của CIA đúc kết
ngày 20/4/1966, cơ quan tình báo tối cao của Mỹ gián tiếp
xác nhận hoàn cảnh Miền Nam đã không đến nổi tồi tệ
te tua nếu có một chính quyền thân Phật Giáo, biết lắng
nghe những nguyện vọng chính trị xã hội của Phật Giáo.
Tài liệu này hiện có trong LBJ Library, nghĩa là từng nằm
trong đống hồ sơ riêng của Tổng Thống Johnson. Johnson có
đọc hồ sơ ấy không? Có đọc thì Johnson có tin vào
tai mắt thượng thừa của mình là CIA không? Đáng nói
là gần hai tháng sau khi hồ sơ ấy xuất hiện trên bàn giấy
của Johnson, chính Johnson đã bật đèn xanh cho Nguyễn cao Kỳ-Nguyễn
ngọc Loan dẹp phong trào vận động dân chủ, vận động Quốc
Hội Lập Hiến phát khởi từ Miền Trung. Năm sau thì
Nguyễn văn Thiệu hất nhẹ Nguyễn cao Kỳ và đồng bạn để
chiếm ghế Tổng Thống và sáu năm sau thì Thiệu nghe lời
Nixon và Kissinger khai tử chế độ VNCH.
Đối
với người Phật tử Việt Nam, 106 ngày ngắn ngũi trong mùa
hạ 1963 là kết tinh của hàng ngàn năm duyên nợ giữa Phật
Giáo và dân tộc nầy. Biến cố đó chính là khởi điểm
của con đường thế trị, mà mục tiêu tối hậu là Giải
Nghiệp bằng Giải Thực và Giải Hoặc, để chung vai góp sức
vào nổ lực kiến tạo Hòa Bình Dân Tộc - Độc Lập Quốc
Gia - Cách Mạng Xã Hội. Đó cũng là cách đền ơn trả
nghĩa công đức của bao nhiêu thế hệ Phật tử suốt ngàn
năm đã góp phần giữ nước và dựng nước. [25]
Từ
khi đất nước thống nhất hòa bình độc lập đến nay, các
hàng Phật tử, các khuynh hướng Phật giáo đã làm gì và
định sẽ làm gì để phát triển khả năng ơn đền nghĩa
trả đó?
Hoàng
Nguyên Nhuận
Trại
Đỗ Quyên, Phật Đản xa nhà 2005.
GHI
CHÚ
1.
H. du Berrier - Background To Betrayal, Western Islands, Boston 1965, tr.
129.
2.
M. Maclear - Vietnam: The Ten Thousand Day War, Thames Methuen, London
1981, tr. 374.
3.
Thời gian nầy, Chùa Từ Đàm là bộ tổng chỉ huy của Phật
Giáo Việt Nam, nơi đặt văn phòng của Tổng Trị Sự - thường
được gọi là VP TTS hay VP 5 cấp trị sự là 1- THPGVN, Hội
Chủ là HT Thích Tịnh Khiết hay Ôn Tường Vân, 2- HPGVN tại
Trung Phần, Hội Trưởng Tổng Trị Sự là TT Thích Trí Quang,
3- Trị Sự Trưởng Tổng Trị Sự của Hội là TT Mật Nguyện
hay Ôn Linh Quang, 4- GHTG Thừa Thiên, Trị Sự Trưởng Ban Trị
Sự là TT Mật Hiển hay Ôn Trúc Lâm, 5- Tỉnh HPG Thừa Thiên,
Hội Trưởng Ban Trị Sự là TT Thích Thiện Siêu hay Ôn Từ
Đàm. Có những chùa và những Phật tử tại gia cũng như xuất
gia không chịu gia nhập cuộc cách mạng tôn giáo của THPGVN
nên họ đã gọi những người chấp nhận cuộc cách mạng
tôn giáo đó là Thầy Cô chùa Hội, Phật tử chùa Hội.
4.
Minh Không Vũ văn Mẫu - Sáu Tháng Pháp Nạn 1963, Giao Điểm,
California 2003, tr. 493.
5.
Xem ghi chú 3.
6.
Lê Cung - Phong Trào Phật Giáo Miền Nam Việt Nam Năm 1963, nxb
Thuận Hóa Huế 2003, tr. 131. Đây là tài liệu đầu tiên hậu
75 chính thức thừa nhận, dù chưa đầy đủ cụ thể, phong
trào Phật Giáo tự phát tự lập ở Miền Nam. 7.
W. Rust - Kennedy In Vietnam, Da Capo Press, NY 1985, tr. 94.
8.
He established close liaison with Bishop Asta, the Apostolic delegate.
Xem William J. Miller - Henry Cabot Lodge, A Biography, J.H.Heineman, NY
1967, tr. 356.
9.
Hoàng ngọc thành-Thân thị Nhân Đức - Những Ngày Cuối Cùng
của TT Ngô đình Diệm, Ca 1994, tr. 243.
10.
Lời của TGM Ngô đình Thục trong buổi nói chuyện với đại
diện quân cán chính tại đại giảng đường Đại Học Văn
Khoa Huế [khách sạn Morin cũ] sau vụ Đài Phát Thanh Huế xảy
ra.
11.
Erich Wulff - Lễ Phật Đản 1963 tại Huế, Minh Nguyện dịch,
Chuyển Luân số 24.
12.
William J. Miller - sđd, tr. 343.
13.
Hồ Sơ PGVN, Chùa Việt Nam, Los Angeles 2003, tr. 6. Hồ sơ này
được Sa Môn Mãn Giác tái bản trong mùa kỷ niệm 40 năm nhập
cuộc của Phật Giáo Việt Nam 1963-2003.
14.
Mười đoàn thể đó là GH Tăng Già VN, trị sự trưởng là
TT Thiện Hòa, GH Tăng già Nam Việt, TST là TT Thiện Hoa, GH Tăng
Già Bắc Việt, TT Thanh Thái, Hội VNPG, hội trưởng Vũ Bảo
Vinh, GH Nguyên Thủy VN, tăng thống ĐĐ Bửu Chơn, TH PG Nguyen
Thủy VN, hội trưởng Nguyễn văn Hiểu, GH Therevada, Tăng Thống
Lục Cả Lâm Em, Đại diện PT Therevada Sơn Thái Nguyên, GH Thiền
Định Đạo Tràng HT Minh Trực, Hội PHNV Hội Trưởng Mai Thọ
Truyền.
15.
Quốc Tuệ - Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật Giáo Việt Nam
Từ Phật Đản Đến Cách Mạng, tái bản Khánh Anh Paris 1987,
tr. 43.
16.
Tuệ Giác - Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử, Hoa Nghiêm SG
1965, tr. 80 và 119 và Quốc Tuệ - sđd. tr.28-29. Và ghi chú [13]
17.
William Colby & Peter Forbath - Honourable Men, Hutchinson, London
1978, tr. 205-206.
18.
W. Rust - sđd, tr. 94-107.
19.
William J. Miller - sđd, tr. 356.
20.
Unless Madame Nhu and her fanatical husband left the country, Diem could
not be saved. William J. Miller - sđd, tr. 344.
21.
Nhu has maneuvered himself into commanding position... Diem must be given
chance to rid himself of Nhu and his coterie... If in spite of all of your
efforts, Diem remains obdurate and refuses, then we must face the possibility
that diem himself cannot be preserved. Xem The Pentagon Papers, Bentam
Books, N.Y 1971, tr. 194.
22.
George W. Ball - The Past Has Another Pattern - Memoirs, Norton,
NY 1983, tr. 371-373.
23.
Roger Hilsman - To Move A Nation, Doubleday, NY 1967 do M. Maclear
trích dẫn sđd, tr. 86.
24.
George W. Ball - sđd. Tr. 373.
25.
Hoàng Nguyên Nhuận - Phù Đổng 63, PGVN, Los Angeles, số Vu Lan,
1996.