BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
NGỌN LỬA VÀ TRÁI TIM
Lê Mạnh Thát Chủ biên
Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. HCM 2005
NGỌN LỬA
VÀ TRÁI TIM BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
SÁNG NGỜI
BẤT DIỆT
Tuệ
Khương
Thành
phố Vũng Tàu, ngày 15 tháng 5 năm 2005
Kính
gởi: Ban Phật giáo Việt Nam
Viện
nghiên cứu Phật học Việt Nam
716,
Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận
Thành
phố Hồ Chí Minh
Trước
hết, tôi xin chân thành cảm ơn Quý vị và Ban Tổ chức Hội
thảo chủ đề “ Bồ Tát Quảng Đức Vị Pháp Thiêu Thân”
đã gửi Thư mời dự và yêu cầu viết bài Tham gia Hội thảo.
Dựa
theo nội dung yêu cầu của Bản Đề cương cuộc Hội thảo,
tôi xin mạnh dạn ghi lại những điều cảm niệm, thu nhận
được trong quá trình nghiên cứu Phât học và được đọc
những tài liệu viết về “ Bồ Tát Quảng Đức”. Kính
gởi tới Ban tổ chức Hội thảo, Ban Phật giáo Việt Nam để
Quý vị xem xét sử dụng phục vụ cuộc Hội thảo và
công tác nghiên cứu của Quý vị. Cũng như một nén Tâm nhang,
lời Tâm nguyện, Kính dâng lên hương linh Bồ Tát Quảng Đức
nơi cõi Phật.
Vì
thời gian, khả năng trình độ và nguồn tài liệu chính thức
về Bồ Tát Quảng Đức mà tôi có được còn rất hạn chế,
nên Bài viết rất khó đáp ứng được yêu cầu của Ban Tổ
chức và Quý Viện đề ra.
Rất
mong nhận được sự chỉ giáo góp ý kiến của Quý vị.
Xin
chân thành đa tạ.
Địa
chỉ liên lạc:
Phạm
Duy Khương
(
CB Hưu trí – Cử nhân chính trị nhân văn)
221/17A,
Trương Công Định, Tp. Vũng Tàu
Điện
thoại : 064.530333 & 0918652914
Kính
chào
NGỌN
LỬA VÀ TRÁI TIM BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
SÁNG
NGỜI BẤT DIỆT
Kính
bạch Chư Tôn Đức Đại Lão Hòa Thượng trong Hội Đồng
chứng minh, Hội Đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật
giáo Việt Nam và Hội Đồng Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Phật
học Việt Nam.
Kính
thưa Quý vị đại biểu, Chư Tôn Đức Tăng ni cùng Quý vị
học giả, nhà nghiên cứu và đông đảo Phật tử, đạo hữu
trong cuộc Hội thảo hôm nay.
Trước
hết, tôi xin chân thành cảm ơn và hoan nghênh Ban lãnh đạo
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ( NCPHVN), ban Phật giáo
Việt Nam ( PGVN) ngay từ đầu năm 2005 đã sớm
có chương trình làm việc, đề cương hướng dẫn cụ thể
và chỉ đạo triển khai tích cực để hôm nay có thể long
trọng tổ chức cuộc Hội thảo với chủ đề “ Bồ Tát
Quảng Đức vị pháp Thiêu Thân” đúng vào dịp kỷ niệm
42 năm ngày cố Đại Lão Hòa Thượng Quảng Đức Thiêu thân:
Biểu tượng của tinh thần Phật giáo Việt Nam. Thể hiện
tấm lòng “ Ghi ơn Tiền Bối” và “ Ôn cố Tri Tân” của
các thế hệ Tăng ni, Phật tử Việt Nam.
- Cuộc
Hội thảo được tổ chức vào dịp này còn là một sự trùng
hợp đầy ý nghĩa giữa Đạo – Đời. Trong khí thế phấn
chấn hào hùng chung của cả nước, đang liên tiếp tổ chức
các hoạt động Lễ hội kỷ niệm 30 năm Miền Nam hoàn toàn
được giải phóng, giang sơn thu về một mối, Tổ quốc Việt
Nam được hoàn toàn thống nhất. Trong đó có sự đóng góp
xứng đáng của Phật Giáo Đồ Việt Nam. Điều này đã được
khẳng định qua lời phát biểu rất nhiệt thành, hào sảng
của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong buổi tiếp Quý
vị đại biểu Hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam
tại Phủ Chủ Tịch – tháng 11/1981:
“….Trong
quá khứ, Phật giáo Việt Nam đã gắn chặt với dân tộc
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước… Trong sự nghiệp
cách mạng cao cả của dân tộc ngày nay, Phật giáo VN đã
góp phần xứng đáng. Đối với Việt Nam, nói đến Tôn
giáo là người ta nghĩ ngay đến Đạo Phật, đến những việc
làm Quý báu, đẹp đẽ của đông đảo Tăng ni, Phật tử.
Đạo Phật ở Việt Nam đã mang mầu sắc dân tộc Việt Nam
rõ rệt. Có thể nói rằng Phật giáo Việt Nam đã góp phần
làm sáng ngời lý tưởng của dân tộc và trưởng thành cùng
dân tộc...”
- Với
độ lùi về thời gian, sau 30 năm Đại thắng mùa Xuân năm
1975 của Tổ quốc, sau hơn bốn mươi năm “ Sự kiện Bồ
Tát Quảng Đức Tự Thiêu” và phong trào đấu tranh của Phật
giáo Đồ Việt Nam, của học sinh, sinh viên và các tầng lớp
nhân dân Sài Gòn, Huế và các đô thị miền Nam chống lại
sự kỳ thị, đàn áp Phật giáo và các Giáo phái khác của
tập đoàn tay sai gian ác, độc tài, gia đình trị Ngô Đình
Diệm. Đến nay, chúng ta đã có khá đầy đủ các nguồn tài
liệu của tất cả các bên tham dự cuộc đấu tranh, các nguồn
tư liệu trong và ngoài nước cùng công luận rộng rãi trên
toàn Thế giới từ thời điểm đó đến nay, đã có thể
giúp chúng ta, những người quan tâm đến sự chấn hưng Phật
giáo Việt Nam và cả các nhà chính trị, xã hội, có cơ sở
để thẩm định, hoàn chỉnh lại nhận thức về giá trị
lịch sử của sự kiện này.
Chúng
ta nhớ lại từ đầu những năm sáu mươi của Thế kỷ trước,
dưới ngọn cờ của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền
Nam Việt Nam, hàng đêm đã xuất hiện những ngọn đuốc của
phong trào Đồng khởi của Nhân Dân Miền Nam Việt Nam. Nhưng
cuộc chiến diễn ra chủ yếu ở các vùng rừng núi, nông
thôn, ven đô, và đang tìm cách phát triển vào các đô thị
Miền Nam để đối phó với các thủ đoạn kìm kẹp, đàn
áp ngày càng dã man xảo quyệt của bộ máy cai trị Mỹ –
Ngụy. Phong trào đấu tranh của Phật giáo Đồ ở miền Nam
Việt Nam năm 1963 được khởi đầu từ việc Chính quyền
Ngô Đình Diệm cấm treo cờ Phật giáo trong mùa Phật Đản,
tiếp đó là vụ tàn sát Tăng ni, Phật tử, học sinh tại
Đài Phát thanh Huế đêm 15/4 Âm lịch ( 8/5). Trước tình hình
ấy, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết Hội chủ Tổng Hội Phật
giáo Việt Nam tại Huế phát động cuộc đấu tranh trong Tăng
ni, Phật tử đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện 5
điều:
1.
Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn công
điện triệt hạ giáo Kỳ Phật giáo.
2.
Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc
biệt bình đẳng như các hội truyền giáo Thiên chúa giáo
đã được ghi trong đạo dụ số 10.
3.
Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ và khủng
bố Tín Đồ Phật giáo.
4.
Yêu cầu cho Tăng ni, Phật tử được Tự do truyền Đạo và
hành Đạo.
5.
Yêu cầu Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những
người chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải bị
xử lý thích đáng.
Phong
trào nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi của đông
đảo nhân dân và học sinh, sinh viên và cả một số sỹ quan
binh lính Ngụy. Tuyên ngôn 5 điểm và tình hình vụ tàn sát
tại Huế được truyền tin khắp cả nước. Ngay sau đó tại
Sài Gòn Uỷ ban liên phái bảo vệ Phật giáo Việt Nam gồm
tất cả 11 tập đoàn giáo phái Phật giáo được thành lập
dưới sự lãnh đạo tối cao của Hoà Thượng Thích Tịnh
Khiết, yêu cầu gặp trực tiếp Tổng thống Diệm để giải
quyết mọi vấn đề giữa Phật giáo và Chính phủ. Song không
đạt yêu cầu, Ủy ban liên phái buộc phải hành động theo
phương pháp Bất bạo động bằng các hình thức biểu tình,
tuyệt thực, thuyết pháp, tố giác tội ác trước các nhà
báo, cơ quan ngoại giao, tổ chức rước linh, cầu siêu cho
các nạn nhân Phật tử. Cuộc đấu tranh căng thẳng kéo dài
nhưng Chính quyền Ngô Đình Diệm ngoan cố đàn áp. Trước
tình hình ấy, Hòa thượng Thích Quảng Đức đã gửi bức
tâm thư lên Uỷ ban liên phái xin Tự nguyện Tự Thiêu cúng
dường Phật pháp, Uỷ ban liên phái chưa chấp nhận vì thấy
chưa cần thiết. Tình hình càng quyết liệt hơn, Hòa Thượng
Quảng Đức lại tình nguyện Tự Thiêu cúng dường, quyết
tử vì Đạo và cuộc đấu tranh đã đi đến đỉnh cao
là sự kiện “ Bồ Tát Quảng Đức Tự Thiêu” đã có sức
kêu gọi quy tụ mọi tầng lớp nhân dân đô thị Miền Nam
Việt Nam, tạo nên một biến cố có ý nghĩa to lớn làm rung
động lòng người, làm thức tỉnh lương tri của cả những
người trong bộ máy Mỹ – Ngụy, các Tôn giáo khác và cả
nhân loại tiến bộ, làm dấy lên một làn sóng đấu tranh
phản kháng trong cả nước và hầu hết các nước trên Thế
giới. Điều này đã chứng minh cho lời tâm nguyện của Hoà
Thượng Quảng Đức thể hiện qua bài Kệ Thiêu Thân cúng
dường Phật pháp
Kính
dâng thập phương Chư Phật
Đệ
tử hôm nay nguyện đốt mình
Làm
đèn soi sáng nẻo vô minh
Khói
thơm cảnh tỉnh bao người ác
Tro
trắng phẳng san hô bất bình
Thân
cháy nát tan ra tro trắng
Thần
thức nương về giúp sinh linh
Hỡi
ai mộng ảo đang còn mộng
Hãy
gấp tỉnh đi kẻo giật mình.
8-4
nhuần Quý mão ( 1963)
Tỳ
khưu THÍCH QUẢNG ĐỨC
Sau
hơn 40 năm diễn ra sự kiện, với khả năng, trình độ, thời
gian, điều kiện, tài liệu nghiên cứu rất hạn chế, điểm
qua diễn biến tình hình thời điểm đó chúng ta càng thấy
tầm vóc ý nghĩa và sự tác động mãnh liệt của ngọn lửa
thiêng liêng do Bồ Tát Quảng Đức khởi nguồn, nối tiếp
là hàng chục Quý vị Tăng ni, Phật tử toàn miền Nam Tự
nguyện Thiêu thân, quyết tử vì Đạo pháp và dân tộc, đã
từng bước chuyển hóa các loại động cơ, làm thay đổi
bộ mặt cuộc xung đột giữa các thế lực tay sai ở Miền
Nam Việt Nam và cả lối suy nghĩ xử lý của phương Tây, chủ
yếu là Đế quốc Mỹ.
Vụ
chính quyền Ngô Đình Diệm cấm treo cờ Phật giáo chỉ là
nguyên nhân gần, như là “Giọt nước sau cùng làm tràn ly
nước đã đầy có ngọn” khởi đầu tạo nên cuộc biến
động đầu năm 1963. Song sự kiện Phật giáo lại quá trầm
trọng dẫn tới hậu quả ghê gớm và kéo dài mãi đến những
năm sau. Xét về khía cạnh chính trị thì cả đế quốc Mỹ
và chính quyền Ngô Đình Diệm đã phạm phải một sai lầm
to lớn. Nếu cắt nghĩa theo Luật Nhân Quả hoặc sự An Bài
của định mệnh thì sự kiện Phật giáo năm 1963 quả là
định mệnh đối với Ngô Đình Diệm và chế độ độc tài
Họ Ngô, “ Nhân nào quả ấy” “ Kẻ gieo gió thì phải
gặp Bão”. Tạo thế bất lợi cho bọn xâm lược Mỹ, buộc
Mỹ phải “ Thay ngựa giữa đường”. Dẫn tới cuộc binh
biến lật đổ chế độ gia đình trị và giết hại anh em
Diệm – Nhu ( 1.11.1963). Sau đó cái gọi là Hội Đồng Tướng
lĩnh lại liên tục tạo nên sự biến động sáo trộn, chính
trường Ngụy quyền tay sai những năm tiếp theo. Thay đổi
tới 4 -5 đời Chính phủ, Quốc trưởng, Tổng thống, cuối
cùng dẫn tới sụp đổ hoàn toàn trong Đại thắng mùa xuân
năm 1975.
- Cuộc
Hội thảo trang trọng này cũng là dịp tạo cơ hội cho chúng
ta, từ các vị chức sắc tu hành đến các nhà nghiên cứu
học giả, từ các cơ quan quản lý Tôn giáo của Nhà nước
đến toàn thể đạo hữu Phật tử chúng ta ôn lại một cách
có hệ thống về những bài học sâu sắc từ trang sử bi
hùng nhất của Phật giáo Đồ Việt Nam những năm sáu mươi
của thế kỷ trước, trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt
nhất của Đồng bào đô thị miền Nam, dưới ách kìm kẹp,
đàn áp dã man của kẻ thù.
- Bằng
lý tưởng từ bi bác ái, đấu tranh cho sự bình đẳng Tôn
giáo, Độc lập Tự Do cho dân tộc, dân chủ hạnh phúc cho
Đồng bào, bằng phương pháp đấu tranh “ Bất bạo động”.
Không xuất phát từ sự cạnh tranh giữa người Phật giáo
với người Công giáo, từ chối mọi sự lợi dụng của các
thế lực, phe nhóm khác không phù hợp với Tôn chỉ, mục
đích của Phật giáo, chỉ nhằm chống lại chế độ độc
tài, kỳ thị Tôn giáo của tập đoàn tay sai gia đình trị
Ngô Đình Diệm. Do đó đã huy động, tập hợp được sức
mạnh lòng tin của các hệ phái, giáo phái Phật giáo của
các địa phương trong cả nước. Sự ủng hộ của các Tôn
giáo khác và nhân dân cả nước và nhân loại tiến bộ, cùng
sát cánh bên nhau tranh đấu cho cái Chân - Thiện - Mỹ được
hình thành trong lòng mỗi người và trong toàn xã hội, nhân
loại.
Chúng
ta còn nhớ, vào thời điểm ấy, đã có không ít lời xuyên
tạc, lăng mạ về ý nghĩa ngọn lửa Quảng Đức từ phía
chính quyền, gia đình Họ Ngô và phương Tây. Nhưng cũng chính
thời điểm ấy, một nhà tu hành thuộc Tôn giáo khác, mục
sư Mỹ Donal Harrington đã có nhận định khá sâu sắc về
sự hy sinh cao cả của Hoà Thượng Thích Quảng Đức :
“
Con người ít khi coi nhẹ cái chết. Tham sống, có lẽ là một
bản năng thiên phú sâu xa nhất. Thường chỉ có những người
hoàn toàn tuyệt vọng mới Tự tử và … Hành động Tự tử
chỉ là kết quả của sự sợ hãi.
Người
ta có thể Tự hỏi sự khủng khiếp và niềm phẫn uất nào
đã có thể khiến cho một con người của tình thương, của
Hoà bình , quyết chí Tự Thiêu.
Chúng
ta không thể trả lời câu hỏi đó theo danh từ sợ hãi.
Chúng
ta chỉ có thể hiểu được sự kiện đó, nếu biết rằng
còn có một cái chết khác thường được gọi là “ TỬ
ĐẠO”. ”
Trong
lời nguyện tâm quyết của Hoà Thượng Quảng Đức đã có
lời gửi Tổng Thống Diệm:
…
“ Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.
Trước khi nhắm mắt về nơi cảnh Phật, tôi trân trọng gửi
lời cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nên lấy lòng bác ái
từ bi đối với quốc dân, lấy chính sách bình đẳng Tôn
giáo để vững yên nước nhà muôn thủa”…
Nhưng
phản ứng của Diệm là tiếp tục đàn áp khủng bố và đã
đưa đến tấm thảm kịch bị lật đổ và thảm sát vào
tháng 11/1963.
Từ
sự kiện này, Mục sư Harrington đã kết luận trong ký sự
viết về giai đoạn cuối cùng của chế độ Ngô Đình Diệm
như sau: “ Theo một nghĩa nào đó, ta có thể gọi đó là
một tấm thảm kịch. Nhưng theo một nghĩa khác thì đó là
một sự chiến thắng”
Tôi
nghĩ chắc mục sư Harrington cũng hiểu biết phần nào về
đạo lý của người Việt Nam ta. Đó là: “ Ác giả, ác báo”,
“ Đạo nghĩa thắng hung tàn”
Ngọn
lửa và trái tim bất diệt của Bồ Tát Quảng Đức và phong
trào đấu tranh của Phật giáo Đồ miền Nam Việt Nam giai
đoạn này còn là một bài học hiện thực sinh động về
sự hòa hợp giữa các lợi ích. Đoàn kết thành một khối
thống nhất theo tinh thần Quảng Đức vì lợi ích chung, gắn
liền Đạo Pháp với Dân Tộc. Dựa vào triết lý Phật giáo
và đạo lý của dân tộc làm nền tảng tâm linh cho cuộc
sống nhân sinh, chấn hưng Phật giáo, góp phần đưa Giáo hội
Đồng hành cùng Đất nước, dân tộc. Thật vô cùng xúc động
khi chúng ta đọc lại bài kệ của Bồ Tát Quảng Đức
Dâng
chư hiền Thánh Tăng
Phật
giáo sử vàng máu thay son
Than
ôi! Quỷ kế họ vẫn còn
Quyết
diệt suy tàn nền chánh pháp
Làm
cho Tăng tín phải chết mòn
Vì
sự bất công tôi Thiêu xác
Khói
hồn nguyện độ kẻ hàm oan
Kính
chúc Tăng – Ni tâm dũng tiến
Chánh
pháp ngày mai phải trường tồn.
8-4
nhuần Quý mão ( 1963)
Tỳ
khưu THÍCH QUẢNG ĐỨC
Xin
chân thành cảm ơn và hoan nghênh Viện NCPHVN, qua cuộc Hội
thảo trang trọng này đã tạo cơ hội cho hàng hậu học và
thế hệ Tăng ni, Phật tử sinh ra sau thời kỳ này có dịp
được gặp gỡ, tham vấn với các vị Đại Lão Hòa Thượng
, các giáo sư, học giả lão thành là những nhân chứng lịch
sử cùng thời với Cố Đại Lão Hoà Thượng Bồ Tát Quảng
Đức. Chúng tôi rất mong được nghe những hồi ức, kỷ niệm
sâu sắc, cùng những đánh giá, nhận thức trung thực nhất
về những sự kiện và tháng năm lịch sử oanh liệt này của
Phật giáo, của dân tộc, để có thể rút ra những bài học
chuẩn xác, sâu sắc nhất về các giá trị lịch sử xã hội
nhân văn đối với ngọn lửa quang vinh và trái tim ngọc đá
đời đời bất diệt của Bồ Tát Quảng Đức.
Kính
thưa Chư Tôn Đức cùng toàn thể Quý liệt vị!
Trong
lịch sử của dân tộc và nhân loại, thế giới đã từng
có không ít những sự kiện, nhân vật lịch sử, trải qua
thử thách khắc nghiệt của thời gian, sự thăng trầm của
các Triều đại và Thế thái nhân tình, đã từng trải qua
các cuộc Hội thảo tranh luận gay gắt. Có nhân vật, sự
kiện được kiểm chứng, đánh giá lại nhiều lần. Đôi
khi trái ngược với sự ghi nhận, phong tặng ban đầu.
Điều
đáng Tự hào trân trọng cho Phật giáo Đồ và dân tộc Việt
Nam ta là: Đối với “ Bồ Tát Quảng Đức” bằng những
tư liệu công khai về tiểu sử, Đơn xin Thiêu thân, các bài
Kệ Thiêu thân cúng dường chánh pháp, Lời nguyện tâm quyết
và nét lưu bút bằng chữ Nôm của Bồ Tát Quảng Đức trước
lúc Tự Thiêu, với ngọn lửa rực vàng chính nghĩa và trái
tim ngọc thạch bất diệt là một tài sản tâm linh, tinh thần
vô giá ngày càng ngời sáng và trường tồn với Phật giáo
Đồ, vẫn còn sáng chói mãi trong lòng các thế hệ Tăng ni,
Phật tử, nhân dân trong và ngoài nước đến muôn đời sau.
Chính
vì vậy mà 36 năm sau với chủ đề : Năm 2000 và những năm
tiếp theo ( 2000 and beyond) tờ báo “ The Nation” của Thái
Lan ra ngày 23.12.1999 đã chọn bức ảnh chụp “ Bồ Tát Quảng
Đức Tự Thiêu” làm bức ảnh của Thế kỷ ( có bản phôtô
bản tin của Báo Giác Ngộ kèm theo đây).
Theo
đoạn cuối tư liệu về Tiểu sử Bồ Tát Quảng Đức trong
“ 50 năm chấn hưng Phật giáo Việt Nam ( 1920 -1970)”. Hay
là “ Ghi ơn Tiền Bối” ( Chùa Ấn Quang – Sa môn Thích Thiện
Hoa, Rằm tháng chạp Kỷ Dậu 1970).
Sự
thị tịch của Bồ Tát Quảng Đức có hai điều huyền diệu:
•
Khi Ngài Tự Thiêu, lửa cháy phủ người mà Ngài vẫn ngồi
như tượng Đồng đen, tay bắt ấn tam muội, chân ngồi kiết
giá không hề lay chuyển.
•
Khi trà tỳ, sau khi hỏa Thiêu suốt ngày, xương thịt đều
tan hết nhưng trái tim Bồ Tát vẫn còn y nguyên, mặc dù đã
Thiêu bằng lửa điện trên sáu tiếng Đồng hồ. Sự huyền
diệu này làm cho Tăng ni, Phật tử, các giới Đồng bào trong
và ngoài nước vô cùng kính phục, Tự hào.
- Quả
tim bất diệt của Ngài hiện đang được Giáo Hội Phật Giáo
và Nhà nước Việt Nam giữ gìn bảo quản cẩn trọng theo
nguyên tác chế độ đối với Bảo vật quốc gia, quốc tế.
- Linh
cốt của Bồ Tát được Tôn thờ tại các chùa như sau:
1 Việt
Nam Quốc Tự.
2
Chùa Ấn Quang.
3
Tháp Đa Bảo Chùa Phước Hậu, Trà Ôn, Vĩnh Long.
4
Chùa Từ Nghiêm.
5
Chùa Quán Thế Âm ( Phú Nhuận – TPHCM) nơi di tích cuối cùng
của Bồ Tát Quảng Đức.
Ngoài
ra theo các thông tin chưa đầy đủ chúng tôi được biết
ngoài các di tích về Bồ Tát Quảng Đức và các vị Thánh
tử Đạo tại Sài Gòn- Gia Định, nhiều nơi trong nước
như Hà Nội, Huế, các tỉnh miền Trung, Nam Bộ. Tăng ni, Phật
tử Đồng bào cả nước đã thể hiện lòng chiêm
ngưỡng của mình bằng các công trình xây tháp thờ vọng,
lập Tu viện, vẽ chân dung bài vị của Ngài thờ phụng rất
trân trọng.
Riêng
Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu nhân dịp nghiên cứu sưu tầm tài liệu,
hiện vật, tham gia Hội thảo tôi được biết từ lâu tại
Vườn Tháp Tổ Đình Thiên Thai ( Huyện Long Điền) đã xây
dựng một cây Tháp lớn Thờ vọng Bồ Tát Quảng Đức.
- Tại
số 352, đường Trần Phú, Phường 5, Tp. Vũng Tàu cũng có
một Tu Viện Quảng Đức khá khang trang trên sườn núi Lớn
nhìn ra biển Cần Giờ hướng về Tp. Hồ Chí Minh.
Trái
tim, Linh cốt, Bảo Tháp, Chân dung của Bồ Tát Quảng Đức
trường tồn cùng chúng ta như một lời kêu gọi, lời nhẳn
nhủ của Ngài đối với toàn thể Tín Đồ Phật giáo chúng
ta.
Cùng
toàn thể tín Đồ Phật giáo
Cùng
hàng Phật tử ở tại gia
Hãy
quên bản ngã bỏ cái ta
Gấp
sửa thân tâm vì đại cuộc
Ngàn
năm sử Việt vẫn Phật gia
Thân
tôi dù cháy linh thiêng máu
Thần
thức tôi luôn giúp đạo nhà
Đã
mang danh thể con dòng Thích
Bi
– Trí – Hùng sao chẳng đem ra.
8-4
nhuần Quý Mão ( 1963)
Tỳ
khưu THÍCH QUẢNG ĐỨC
Điểm
lại các tác phẩm, tư liệu bình luận, đánh giá về phong
trào đấu tranh của nhân dân, Phật giáo miền Nam Việt Nam
và sự kiện “ Bồ Tát Quảng Đức” Tự Thiêu những
năm sáu mươi Thế kỷ trước của cả trong và ngoài nước,
chúng ta thấy khá phong phú, đa dạng.
+ Ngoài
các luồng thông tin, dư luận báo chí Thế giới viết về
sự kiện này đã đăng tải được tổng hợp lại. Đã có
nhiều tập Hồi ký, Ký sự khá đầy đặn, Tiểu thuyết nhiều
tập của nhiều tác giả đáng chú ý. Thí dụ như tập ký
sự của Mục sư harrington đã trích dẫn ở phần trên.
+ Ngay
từ đầu những chương đầu của tập Hồi ký “ Nhìn lại
quá khứ: Tấm thảm kịch và những bài học về Việt Nam”
viết năm 1995 của cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara
đã viết khá chi tiết và ông ta đã phải thú nhận rằng
: “ Những sự kiện này làm tôi và nhiều người Mỹ ở
Washington sửng sốt kinh hoàng và làm cho sự thống trị của
Diệm gặp khó khăn hơn bao giờ hết”…
- Ở
trong nước, sự kiện này được thể hiện trên rất nhiều
loại ấn phẩm của hai miền từ 1963 đến nay, nhiều tư liệu
được hệ thống lại khá chi tiết cụ thể, khó thống kê
hết và không thể có thời gian đọc hết được. Người
viết có dịp được đọc, điểm qua một số tư liệu đáng
chú ý sau đây:
+ 50
năm ( 1920 – 1970) Chấn hưng Phật giáo Việt Nam hay là Ghi
ơn Tiền bối.
+
Đạo Phật và Dòng sử Việt ( Đức Nhuận – 1996).
+
Một số tập Tiểu thuyết, Ký sự của các nhà xuất bản
trong nước ấn hành trong 30 năm qua như:
•
Ông cố vấn ( Hữu Mai).
•
Ai giết anh em Ngô Đình Diệm ( Quốc Đại).
•
Đệ nhất Phu nhân ..v.v.
- Cùng
nhiều ấn phẩm khác của Ban văn hóa Thành Hội Phật Giáo
TP. HCM, của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất
bản Tôn giáo, Tuần báo và Nguyệt san Giác ngộ, Nội san của
Tổ đình quán Thế Âm..v.v. vào các dịp Đại lễ, Đại lễ
Đàn, kỷ niệm hàng năm. Tuy còn ít các tác phẩm đầy đặn
nhưng đều đã có những bài viết, chuyên đề về Bồ Tát
Quảng Đức và sự kiện Phật Giáo những năm sáu mươi của
Thế kỷ trước.
- Nhưng
nhìn chung là còn tản mạn cục bộ tuỳ theo vị thế, quan
điểm, nhận thức của từng tác giả và muc đích của từng
nhà xuất bản, tính chất của từng loại ấn phẩm mà đã
có sự hư cấu, thiên kiến nhất định, đòi hỏi người
đọc phải có sự xem xét lựa chọn cần thiết.
Đặc
biệt trong tác phẩm “ Việt Nam Phật giáo Sư luận”
của tác giả Nguyễn Lang – Nhà xuất bản Văn Học – 2000.
Trong tập III, tác giả đã dành trên 100 trang với 4 chương
( từ 36 – 40) đề cập đến sự kiện trọng đại này một
cách có hệ thống với những tư liệu đáng tin cậy vì Tác
giả là một người trong những nhân chứng lịch sử của
Phật giáo Đồ Việt Nam đang còn hiện diện với chúng ta,
với tư cách vừa là Học giả, là nhà Tu hành, một vị Hoà
thượng, Thiền sư khả kính, có uy tín rộng rãi trên Thế
giới và trong nước.
Trong
“ Lời nhà xuất bản” ( Trang 745-746) đã viết : “ Đây
là một công trình biên soạn công phu, với một khối lượng
tư liệu phong phú, có nhiều tư liệu thuộc loại hiếm, cung
cấp cho ta một bức tranh toàn cảnh về tình hình Phật giáo
Việt Nam từ đầu Thế kỷ cho đến cuối năm 1963. Sau những
chuyện đàn áp khốc liệt Phật giáo miền Nam của chính quyền
Ngô Đình Diệm.
Tuy
vậy về quan điểm mà nói, giữa Tác giả với chúng tôi còn
có những điểm chưa nhất trí trong việc phân tích, đánh
giá một số sự kiện lịch sử, một số nhân vật trong hàng
ngũ Phật giáo miền Nam cũng như miền Bắc, và cả vai trò
thực tế của giới Phật tử miền Nam đối với sự sụp
đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm vào ngày 1.11.1963.
Mặc
dầu vậy để giúp bạn đọc có một tài liệu nghiên cứu
cần thiết về lịch sử, nhất là lịch sử văn hóa, lịch
sử tư tưởng nước ta thời kỳ hiện đại, Nhà Xuất Bản
cho in tập III, công trình này dưới dạng sách Tham Khảo nội
bộ và chỉ gửi đến những địa chỉ cần sách. Đây đó,
ở những chỗ xét thấy tư liệu mà tác giả dẫn dụng chưa
đảm bảo độ chính xác. Hoặc việc kiểm tra xuất xứ không
dễ, tôi lược bớt một đôi câu chữ, cho việc đọc sách
được tập trung hơn. Ở những chỗ này chúng tôi đều có
để ba dấu chấm lửng trong dấu ngoặc vuông […]
Nguyên
bản Việt Nam Phật giáo sử luận Tập III do Ban văn học cổ
cận đại Viện văn học cung cấp”…
- Kính
bạch Chư Tôn đức và toàn thể Quý liệt vị!
Điểm
qua một vài ấn phẩm có đề cập ít nhiều đến sự kiện
Tự Thiêu của Bồ Tát Quảng Đức và xin phép được trích
dẫn khá dài dòng “ Lời nhà xuất bản văn học” là để
được kính bạch với Chư Tôn Đức và phản ảnh với các
nhà học giả cùng Quý liệt vị một điều: Đây là tình
trạng chung khá phổ biến hiện nay trong việc xuất bản và
phê bình giới thiệu tác phẩm. Nó thể hiện một sự tắc
trách chiếu lệ về mối liên hệ giữa các nhà : xuất bản
– phê bình – Tác giả và cả với bạn đọc, trong việc
xuất bản các tư liệu, các tác phẩm lịch sử về Tôn giáo,
Phật giáo, Phật học. Đành rằng Tự do tư tưởng, học thuật,
công khai phê bình, tranh luận một cách bình đẳng, dân chủ
là một việc làm bình thường. Nhưng đi liền đó là phải
có sự trao đổi qua lại giữa các nhà có liên quan, cùng với
sự thẩm định cần thiết thông qua các cuộc Hội thảo và
một Hội đồng thẩm định chuẩn mực để từng bước có
sự đánh giá tương đối thống nhất, góp phần định hướng
cho bạn đọc và hàng hậu học sau này. Thiết nghĩ trong điều
kiện đất nước Hoà bình Thống nhất đã ba chục năm nay,
công cuộc đổi mới , hội nhập giao lưu trong nước – Thế
giới nhanh chóng thuận lợi như hiện nay, tình trạng trên
không thể kéo dài. Vì vậy, nhân cuộc Hội thảo với đề
tài : “ Bồ Tát Quảng Đức vị pháp Thiêu Thân” nhằm khẳng
định, tôn vinh, suy tôn Công đức của Ngài: Biểu tượng
của tinh thần Phật giáo Việt Nam.
Tôi
xin mạnh dạn kiến nghị với Hội đồng lãnh đạo Viện,
với Ban Tổ chức Hội thảo một vài đề xuất sau đây:
I/
Sau cuộc Hội Thảo trang trọng này, trên cơ sở những tư
liệu, Hồi ức sâu sắc của các bậc cao Tăng, Thạc đức
là những nhân chứng cùng thời với Bồ Tát Quảng Đức và
các Tham luận tại Hội thảo, với tư cách là cơ quan của
Trung ương giáo hội Phật Giáo Việt Nam, viện Nghiên cứu
Phật học cần chủ trì với sự tham gia của các nhà sử
học về Tôn giáo, văn hoá, chính trị - xã hội để sớm
hoàn chỉnh một tập kỷ yếu chuẩn mực phong phú về phong
trào chấn hưng và đấu tranh của Phật giáo Việt Nam nói
chung, Phật giáo miền Nam Việt Nam nói riêng trong công cuộc
Chống Mỹ cứu nước ( 1954 – 1975) về tiểu sử công đức
của tấm gương “Thiêu Thân cúng dường Đạo Pháp –
Dân tộc” của Cố Đại Lão Hòa thượng Bồ Tát Quảng Đức
– Biểu tượng của Tinh thần Phật giáo Việt Nam. Coi đó
là một cuốn cẩm nang để nghiên cứu, học tập trong quá
trình tu hành của Quý vị Tăng ni, Phật tử và là một tập
trong bộ giáo trình chính thức cho các Tăng ni sinh Học viện
các trường từ Đại học đến Trung, Sơ cấp Phật học.
Đồng thời là tài liệu chính thức tuyên truyền quảng bá
với du khách nước ngoài và các tổ chức Phật giáo trên
Thế giới.
II/
Kính đề nghị Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nghiên
cứu, lựa chọn cho phép một Học viện, Viện nghiên cứu
hoặc một trường Đại học Cao cấp Phật học trong số các
Học viện, trường Đại học, Cao cấp Phật học hiện có
được vinh hạnh mang Danh hiệu là Học viện hoặc trường
Đại học, Cao cấp Phật học Việt Nam có Pháp danh hoặc Pháp
hiệu của Bồ Tát Quảng Đức để khuyến khích các Thế
hê Tăng ni sinh noi theo tấm gương ngời sáng của Ngài.
III/
Việc giữ gìn bảo quản cẩn trọng đối với Quả tim bất
diệt của “ Bồ Tát Quảng Đức” từ trước đến nay là
rất cần thiết. Nhưng theo thiển nghĩ của tôi đây là một
Quý bảo đặc biệt, cần được bảo quản cẩn trọng. Nhưng
không nên bảo quản trong Kho bạc Nhà nước mà nên được
đặt trang trọng trong một Bảo tháp hoặc dạng Tàng kinh các
dựng bằng vật liệu kiên cố với chế độ bảo vệ nghiêm
ngặt ( Thí dụ: tháp Pha lê, Thấu kính Hải đăng…). Đặt
trang trọng trong Bảo tàng Phật giáo Việt Nam hoặc Trụ sở
chính thức của Trung ương Giáo Hội Phật giáo Việt Nam. Có
như vậy mới đáp ứng được nguyện vọng thiết tha của
đông đảo Tăng ni, Phật tử và đồng bào cả nước, kiều
bào ta ở nước ngoài và khách Quốc tế là được đến chiêm
bái, đảnh lễ trong các dịp Đại lễ kỷ niệm và các dịp
đồng bào về thăm quê hương, Tổ quốc và khách Quốc tế
đến thăm nước ta.
Đây
là một vấn đề rất nhạy cảm, quan trọng, xin được Kính
bạch để Hội đồng Lãnh đạo Viện nghiên cứu. Kính trình
với Hội đồng Chứng minh – Hội đồng Trị sự Trung ương
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và cơ quan nhà nước xem
xét.
IV/
Về việc xây Tượng Đài – Tháp tưởng niệm Bồ Tát Quảng
Đức:
Qua
tạp chí tuần báo Giác Ngộ tháng 04/2005, đông đảo Tăng
ni, Phật tử, đồng bào ta rất hoan hỉ và hoan nghênh sự
quan tâm của Quý vị Lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh về
chủ trương kế hoạch chỉ đạo xây dựng Tượng đài và
Tháp Tưởng niệm tại khu vực Bồ Tát Quảng Đức Thiêu Thân.
Được biết Uỷ Ban Nhân dân Thành Phố giao cho Sở Văn hoá
Thông tin là chủ đầu tư.
Thiết
nghĩ, đây tuy là một công trình Di tích lịch sử, văn hóa
của Thành phố. Nhưng còn là một công trình Di tích lịch
sử Phật Giáo đặc biệt vì vậy xin mạnh dạn đề nghị
Quý vị Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam và Thành Hội
Phật Giáo Thành phố cần chủ động, tham vấn đóng góp ý
kiến, cộng tác với Quý vị Lãnh đạo và Sở Văn hóa Thành
phố trong quá trình tư vấn, thiết kế kiến trúc, tổ chức
thi công để công trình di tích sớm được hoàn thành mỹ
mãn, đảm bảo chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật phù hợp
sắc thái văn hóa, kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Đáp ứng
được nguyện vọng và lòng ngưỡng mộ thiết tha của đông
đảo đồng bào Phật tử và Tăng ni trong cả nước.
- Kính
bạch Chư Tôn Đức và toàn thể Quý Liệt vị!
Năm
nay, kỷ niệm 42 năm ngày vị pháp Thiêu Thân của Bồ Tát
Thích Quảng Đức ( 1963 –2005), lại trùng hợp vào dịp kỷ
niệm 30 năm miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước
Thống nhất. Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tổ chức
trang trọng cuộc Hội thảo với chủ đề : “ Bồ Tát Quảng
Đức vị pháp Thiêu Thân” là một sự trùng hợp có ý nghĩa
rất to lớn, thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa Đạo và
Đời, giữa Đạo pháp và Dân tộc.
- Cuộc
đời và sự nghiệp của Bồ Tát Thích Quảng Đức với phong
trào đấu tranh bất bạo động là bài học lịch sử về
thực trạng Phật giáo ở giai đoạn trước. Đồng thời có
tác dụng định hướng cho hiện tình Phật giáo Việt Ban ở
hiện tại và tương lai theo tinh thần “ như nước và sữa”
góp phần làm cho chân lý và đạo đức được định hình
trong xã hội và trong mọi người.
Kinh
Niết bàn dạy rằng: “ Trong thời mật pháp sẽ có lúc hưng
pháp”. Vậy thì đây đang là thời kỳ Hưng pháp tại Việt
Nam.
Kính
thưa Quý liệt vị. Trong lịch sử nhân loại và các Tôn giáo
đã từng có những huyền thoại cổ tích về những nhân vật
phi thường. Vì một lý tưởng cao cả cùng với lòng từ bi
cứu thế và yêu đời nồng nàn thiết tha nhất đã tạo ra
những người Tử Đạo quả cảm nhất: Chúa Giêsu, Thánh Jeanne
d’Are của Pháp và nhà Bác Học Galilê với lời nói bất
hủ: “ Dù sao thì trái đất của Ta vẫn cứ quay”. Trước
lúc bị bước lên giàn thiêu – Là những người như thế.
Từ
hình ảnh “ Ngọn lửa và Trái tim bất diệt” của Bồ Tát
Quảng Đức, tôi lại nhớ đến “ Ngọn lửa và trái tim
Đankô” trong truyện cổ tích Nga “Bà lão IDECGHIN” in trong
Tuyển tập Truyện ngắn Macxim Gorki (Nhà Xuất bản văn học
– Hà Nội) mà tôi đã đọc từ hơn 40 năm trước đây. Đại
ý vắn tắt như sau: “ Thuở xưa... có một bộ lạc vốn
quen sống an bình trên thảo nguyên bao la và cũng có một lời
di chúc thiêng liêng. Bỗng đâu có một bộ tộc người
từ xa tới, dồn đuổi bộ lạc đó vào một thế bị bao
vây triền miên bởi màn đêm đen tối và ... sức mạnh quỷ
quyệt của kẻ thù. Trước tình thế đó, có một chàng thanh
niên tên là ĐanKô đã tự nguyện xông lên hàng đầu dẫn
đoàn người đi bỗng nhiên anh đưa hai tay lên xé toang lồng
ngực, dứt trái tim ra và giơ cao lên đầu “ Trái tim sáng
rực như mặt trời”. Xóa tan màn đêm và làm tan rã
kẻ thù, dẫn đoàn người trở về với thảo nguyên quê hương.
“
Chàng ĐanKô can trường và kiêu hãnh đưa mắt nhìn thảo nguyên
bao la trước mặt, sung sướng nhìn vùng đất tự do và bật
lên tiếng cười tự hào. Rồi anh gục xuống và chết. Đoàn
người vui sướng tràn đầy hy vọng, tiếp tục bước đi
không nhận thấy ĐanKô đã chết và không thấy trái tim can
đảm của anh vẫn cháy bừng bừng cạnh xác anh...”.
Nhưng
có điều đáng chú ý là trước khi kể câu chuyện trên, bà
lão INDECGHIN cứ da diết hỏi:
“
Tôi sẽ kể cho anh câu chuyện ấy... cũng là truyện cổ tích
cũ... toàn chuyện cũ kỹ cả thôi! Anh không thấy thời xưa
có biết bao nhiêu câu chuyện hay?... Còn thời nay chẳng có
gì hết : Không có công việc, không có con người, cũng chẳng
có những chuyện cổ tích như thời xưa nữa... tại sao? Nào,
nói đi.... Anh không trả lời được đâu...
Nếu
các người nhìn kỹ vào thời xưa thì sẽ giải đáp được
hết, nhưng các người không nhìn và vì thế các người không
biết sống... Tôi không nhìn thấy cuộc đời chăng? Ồ, tôi
thấy hết mặc dù mắt tôi kém! Tôi thấy thiên hạ không
sống, mà chỉ đắn đo, suy tính và phí cả đời vào việc
đắn đo, suy tính đó...
Số
phận của mỗi người là ở chính bản thân người đó! Cho
tới nay, tôi vẫn gặp đủ mọi loại người nhưng không thấy
những người dũng cảm! Họ đâu cả rồi? ... Người đẹp
cũng ngày một ít đi”.
Thú
thực với Quý vị, thời gian đó đọc xong truyện ngắn ấy
chúng tôi rất thích, suốt đêm rì rầm không ngủ vì những
lời da diết băn khoăn của Bà lão trong chuyện cổ tích của
nước Nga.
Điểm
qua các tấm gương Tử vì đạo của lịch sử, Huyền thoại
xa xưa trên Thế giới là để được trở về với lịch sử
hiện đại, càng thêm niềm tự hào và Tôn Kính Thiết Tha
về “ Ngọn lửa và trái tim bất diệt” của Bồ Tát Quảng
Đức cuối thế kỷ 20.
- Thật
diễm phúc cho Việt Nam chúng ta; Thời nay, trên Đất nước
Việt Nam của chúng ta có một sự kiện thật, một nhân vật
có thật , được cả nhân loại biết đến bằng trực diện
và qua các phương tiện thông tin đại chúng và còn rất nhiều
hình ảnh, hiện vật trường tồn. Đó là Hòa Thượng Thích
Quảng Đức, một Tu sĩ Phật Giáo khổ hạnh, đã kiên trì
tự nguyện gia nhập vào các Thánh tử Đạo và hy sinh đời
mình cho Đạo Pháp dân tộc, cho tình thương và cho sự hoàn
thiện của con người, của nhân loại.
- Tôi
được một vị Tỳ khưu từ nước ngoài về nói lại gần
đây nhiều nước trên Thế giới chú ý nhiều đến Tư thế
ngồi vững vàng trong lửa và Quả tim kỳ lạ của Bồ Tát
Quảng Đức, đã có ảnh hưởng to lớn đối với sự thức
tỉnh Tâm linh của nhân loại nên đã đề xuất với Cơ quan
Liên hiệp Quốc xem xét, có quyết nghị xác định, công nhận
Ngài Thích Quảng Đức là một vị “ BỒ TÁT THỊ HIỆN THẾ
GIAN”.
Đây
là tin tốt lành. Về ý kiến trên chính xác đến đâu, xin
mạnh dạn nêu và kính đề nghị Quý vị có thẩm quyền của
Trung ương Giáo hội phật giáo việt Nam và Nhà nước ta tìm
hiểu, thẩm định; tác động để sớm thành hiện thực.
Với
đạo lý: “ Uống nước nhớ nguồn”, “ Kế tục tiền
nhân”, sau cuộc Hội thảo trang trọng này, chúng ta nguyện
khắc sâu lời di huấn của Bồ Tát Quảng Đức trong đơn
Xin thiêu Thân đầu tiên viết ngày 27.05.1963 – PL 2057:
+ “
Nhìn lại quá trình lịch sử Truyền thống dân tộc, Phật
Giáo Việt Nam ghi đậm những nét son huy hoàng trong mọi lĩnh
vực : Học thuật, văn hóa, chính trị, quân sự, thiết kế,
đã hòa một trong nếp sống của quần chúng”...
+ “
Tinh thần Phật Giáo đã đã gắn liền với tinh thần Quốc
gia Dân tộc. Phật giáo thịnh thì quốc gia thịnh. Phật giáo
suy thì quốc gia suy. Điều này lịch sử đã minh nhận”...
+ “
Và xin Quý Thượng tọa chấp thuận, chuyển tới toàn thể
Tín đồ lời ước nguyện cuối cùng của chúng tôi: Phật
tử chúng ta hãy cùng nhau tự nguyện tự giác, bền chí với
sứ mệnh duy trì Chánh Pháp và bảo vệ lá cờ Phật giáo”...
KÍNH
Tỳ
khưu THÍCH QUẢNG ĐỨC
(
Nguyễn Văn Khiết ký tên và đóng dấu)
- Trong
“ Lời Nguyện Tâm Quyết “ của Hòa Thượng làm tại chùa
Ấn Quang ngày 4 tháng 6 năm 1963, trong 5 điều tâm quyết thì
có tới 3 điều nhắn nhủ gởi tới Tăng ni, Phật tử và
nguyện cầu cho Đất nước:
•
“ Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho phật giáo Việt Nam được
Trường Tồn Bất Diệt”.
•
“ Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân An lạc.
Trước khi nhắm mắt về nơi cảnh Phật, tôi trân trọng gửi
lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, nên lấy lòng bác ái
từ bi đối với quốc dân. Hãy thi hành chính sách bình đẳng
Tôn giáo để vững yên nước nhà muôn thuở”.
•
“ Tôi thiết tha kêu gọi Chư Đại Đức tăng ni, Phật tử
nên Đoàn kết nhất trí hy sinh để bảo tồn Phật giáo”.
- Đáp
lại những lời nguyện tâm quyết thiết tha của Ngài, Tăng
ni Phật tử – Toàn thể Phật giáo Đồ Việt Nam ta ở cả
trong và ngoài nước hãy cùng lắng đọng tâm tư, quán chiếu
lại mình, tu hành tinh tấn, hoằng dương Phật pháp, để xứng
đáng là đệ tử của Đức Phật sống trong thời kỳ hậu
Bồ Tát Quảng Đức.
Cuối
cùng để kết thúc bản tham luận trong buổi Hội thảo trang
trọng này Tôi xin phép Quý Liệt vị được đọc lại Bài
Xuất Kệ Vân cuối cùng trước lúc Ngài hóa thân cúng dường
Phật pháp để thay nén T6am nhang, thay Lời tâm nguyện của
hàng Cư sỹ Phật tử hàng hậu chúng tôi gởi tới Hương
Linh “ Bồ Tát Quảng Đức” nơi cõi Phật:
Xuất kệ Vân
Nền
Phật dò lên Kiếp tẩy sang
Phủi
tay rửa sạch nợ trần gian
Tránh
đường danh lợi tìm nơi tịnh
Niệm
chữ từ bi lánh cửa quan
Chuỗi
hột tay lần khuya với sớm
Kệ
Kinh tụng niệm vái rồi van
Một
lòng Thành kính lòng mình nguyện
Tịnh
độ từ Tây rất ở an
8
– 4 Nhuần Quý Mão
Tỳ
khưu THÍCH QUẢNG ĐỨC
•
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
•
Nam Mô Đại Hùng - Bi - Lực Quảng Đức Bồ Tát.
- Kính
chúc Chư Tôn Đức Đại Lão Hòa Thượng
Quí Thượng Tọa Đại Đức Tăng ni.
Cùng toàn thể Quý liệt vị
Thân
Tâm thường an lạc
Tri
tuệ luôn minh mẫn
Tu
hành thêm tinh tấn
Phật
sự đều viên thành
•
Xin chân thành đa tạ Ban tổ chức Hội thảo, các Thiền viện,
các Cơ sở Thờ tự, các cơ quan Xuất bản, Thư viện, và
Quý tác giả các ấn phẩm tài liệu...Tôi đã hân hạnh được
tìm đọc, chọn lọc trong quá trình chuẩn bị tham luận tại
cuộc Hội thảo trang trọng này.
•
Kính mong nhận được sự chỉ giáo của toàn thể Quý vị!
Người
viết Tham luận
Tuệ
– Khương
Địa
chỉ liên lạc:
Phạm
Duy Khương ( Cán bộ Hưu trí- Cử nhân Chính trị Nhân văn)
221/17A,
Trương Công Định, TP. Vũng Tàu
Điện
thoại; 064 –530333 hoặc 0918652914.