Tôi rất hoan hỷ khi giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác, bộ thánh điển ứng dụng nhập thế của Phật giáo, trước các vị thính chúng.
Trước khi giảng vào nội dung, tôi xin thuật khái quát về bộ Kinh này.
Tôi dự định sẽ giảng bộ Kinh này trong mười buổi. Kinh tên là
Bát Đại Nhân Giác, nội dung có tám điều giác ngộ của bậc đại nhân. Mỗi
một điều tôi sẽ giảng trong một bài, nên phần chánh tông sẽ có tám bài
giảng. Còn đề Kinh, dịch giả, phần tự tôi sẽ giảng một bài trong phần
khái thuật. Phần lưu thông ở cuối Kinh văn là phần tổng kết, cũng giảng
một bài. Như vậy, tổng cộng là mười bài giảng. Vì thế giảng thuyết Kinh
này, tôi gọi là Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác(Phật Thuyết Bát
Đại Nhân Giác Kinh Thập Giảng).
NHÂN DUYÊN PHẬT NÓI KINH NÀY
Phàm một việc gì cũng có nhân duyên của nó. Đức Phật vì sao
lại giảng Kinh này? Tất nhiên đây cũng có nhân duyên. Đó là lúc Phật ở
tinh xá Kỳ Viên, một hôm trong Pháp hội, tôn giả A Na Luật thiên nhãn đệ
nhất thưa với Phật rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn, trong Tăng đoàn với tinh thần lục hòa, thì
việc quên mình, xả bỏ tự ngã là điều chúng con có thể làm được; đối với
chúng sanh phải tuyệt đối từ bi, tuyệt đối nhân ái, đây cũng là điều mà
chúng con đã biết… Nhưng bạch đức Thế Tôn! Những Phật tử tại gia học
đạo rất nhiều, đệ tử xuất gia tiếp cận xã hội hoằng Pháp lợi sinh cũng
rất đông. Những vị như vậy làm thế nào để cầu được giác ngộ, tiến nhập
niết bàn? Cúi xin đức Thế Tôn từ bi khai thị!
Đức Phật an lành mĩm cười, hoan hỷ trả lời:
- Này A Na Luật, lời nói của ông rất đúng. Điều ông hỏi là vấn
đề học hạnh Đại nhân (Bồ tát). Tôi sẽ vì ông mà nói tám điều giác ngộ
của bậc Đại nhân, mà đệ tử Phật nên ngày đêm chí tâm tụng niệm….
Đây chính là nhân duyên đức Phật giảng nói Kinh này.
BỐ CỤC KINH VĂN
Mở đầu tất cả Kinh Phật đều có: Ta nghe như vầy, một thuở Phật
ở nơi đâu, cùng với ai v.v…., gọi là sáu việc thành tựu. Vậy tại sao
Kinh này lại không có? Đây là do Kinh này không phải đức Phật nói ra
trong một Pháp hội, mà là trích đoạn những lời Phật dạy trong các Kinh
khác, rồi biên tập lại, nên phần tự của Kinh không có những câu Ta nghe
như vầy v.v…, và phần lưu thông ở sau cũng không có câu: Tin nhận vâng
làm.
Bố cục của Kinh tuy không giống với các kinh khác, song vẫn có
đầu đuôi, điều mục rõ ràng, người học rất dễ dàng nắm được bản ý của
Kinh văn.
NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ
Trong Phật giáo, phần đông các đại đức đều thừa nhận Kinh này
rất thích hợp cho hàng Phật tử tại gia thọ trì. Chúng ta thường nghe
người ta đề xướng khẩu hiệu: Phật giáo nhân sinh, Phật giáo tại gia.
Nhưng rốt cuộc làm thế nào để kiến lập nhân sinh Phật giáo? Như thế nào
mới là tại gia Phật giáo? Điều này nhất định phải y cứ vào thánh ngôn
lượng để quyết đoán. Theo tôi nghĩ, Kinh này là một quyển bảo điển trân
quí nhất, để kiến lập nhân sinh Phật giáo, tu học tại gia Phật giáo.
Phật giáo tuy có xuất gia, tại gia, song tín đồ tại gia lại
chiếm đa số; Phật giáo lại chia làm nhập thế và xuất thế, nhưng tinh
thần vẫn chú trọng nhập thế; Phật giáo lại có nhân sinh trong hiện thật
và thọ sinh ở đời sau, nhưng trọng điểm vẫn là nhân sinh trong hiện
thật.
Kinh nói:
Phật Pháp vốn ở thế gian
Xin đừng tìm kiếm muôn ngàn cõi xa
Bồ đề sẳn tại lòng ta
Tìm ngoài cuộc sống, chỉ là uổng công!
Đại sư Thái Hư cũng nói: "Chỉ mong cầu quả Phật, song thành
tựu hay không là ở nơi nhân cách; nhân cách thành tựu thì Phật thành
tựu, đây chính là thực tế chân thật." Như vậy đủ thấy, Phật giáo nhân
sinh và Phật giáo tại gia có địa vị quan trọng như thế nào!
Do đó, Kinh Bát Đại Nhân Giác, quyển sách quí ứng dụng vào
nhân sinh nhập thế này, Kinh văn tuy ngắn chỉ vài trăm chữ mà giá trị
lại vô cùng trọng yếu! Tám điều giác ngộ như la bàn của nhà đi biển, chỉ
ra con đường phía trước cho nhân sinh! Tám điều giác ngộ như tiếng
chuông vang vọng giữa đêm trường, đánh thức những ai còn mơ màng trong
giấc mộng! Cho nên, đây là Thánh điển giúp chúng sinh nhận rõ đường mê,
quay về nẻo giác; giúp người Phật tử tại gia cải thiện, thăng hoa cuộc
sống ngày một tốt đẹp hơn!
GIẢI THÍCH ĐỀ KINH
Hán văn:
Phật thuyết Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Giảng nghĩa:
Đức Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni vốn là vương tử nước Ca Tỳ La
Vệ ở Ấn Độ. Vì muốn liễu sinh thoát tử, cứu độ chúng sinh, nên vào năm
mười chín tuổi Ngài quyết tâm lìa bỏ ngôi vua, xuất gia học đạo. Năm ba
mươi mốt tuổi Ngài thành tựu Vô thượng Chánh giác dước cội Bồ đề. Sau
bốn mươi chín năm thuyết Pháp độ sinh, Ngài nhập Niết bàn ở nước Câu Hy
La, giữa hai cội cây Sala, khi vừa đúng tám mươi tuổi. Tất cả tựa đề
Kinh Phật đều có hai chữ Phật thuyết, có nghĩa tất cả Kinh điển đều do
đức Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni nói ra. Kinh này đương nhiên cũng không
ngoại lệ.
Khi giảng đề Kinh này, chúng ta trước phải hiểu ý nghĩa hai
chữ Đại nhân. Vì đại nhân ở đây không đồng nghĩa với chữ đại nhân trong
khái niệm đại nhân va tiểu nhân. Song nó cũng không phải chỉ người làm
quan lớn, hay nhà kinh doanh buôn bán lớn, vì Kinh này không phải chỉ
cách cho người ta thăng quan hay phát tài! Thực ra, Đại nhân ở đây là
chỉ người lo việc liễu sinh thoát tử và rộng độ chúng sinh, cũng chính
là ý Bồ tát! ( Dịch giả viết hoa chữ Đại nhân, cũng là để phân biệt với
chữ đại nhân theo nghĩa mà người Trung Quốc thường dùng. )
Bồ tát nói lược của Bồ đề tát đỏa, dịch ý là giác hữu tình,
tức là người lo viê? giác ngộ cho mình và người; hay Đại đạo tâm chúng
sinh, tức chúng sinh phát đạo tâm lớn, trên cầu thành Phật dưới độ chúng
sinh. Chúng tôi vừa nói đến Bồ tát, có người liền nghĩ đến Bồ tát Quan
Âm, Bồ tát Địa Tạng v.v…. Vâng, các vị đó đều là Bồ tát. Nhưng Bồ tát
Đại nhân ở đây chủ yếu là chỉ những người bước vào cửa Phật, phát tâm
học đạo. Các vị nghe xong chắc muốn hỏi: Người sao lại có thể gọi là Bồ
tát? Thực ra, Bồ tát không phải là tranh ảnh, cũng không phải là những
pho tượng làm bằng đồng, xi măng, thạch cao v.v…, được bày ở điện Tam
Bảo cho người cúng dường lễ bái. Bồ tát là tượng trưng cho những đức
tính sống động trong nhân sinh. Ai có nhiệt tình vô hạn, bi nguyện vô
lượng, có thể làm lợi ích cho mình, cho người, mới là Bồ tát sống chân
chính!
Thế gian chỉ cần thêm một vị phát tâm Bồ đề: Trên cầu Phật
đạo, dưới độ chúng sinh, thì sẽ thêm một vị Bồ tát. Bồ tát vốn chia ra
rất nhiều bậc: Thập tín, thập hạnh, thập trụ, thập hồi hướng, thập địa,
diệu giác v.v…, tất cả có năm mươi mốt bậc. Các vị Bồ tát Quán Âm, Địa
Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền đương nhiên đều là Bồ tát từ thập địa trở lên.
Nhưng nếu các vị là những người phát tâm gánh vác sự nghiệp lớn giải
thoát sinh tử, hóa độ chúng sinh, thì cũng có thể gọi là Bồ tát. Song
đây chẳng qua chỉ là Bồ tát mới phát tâm, hay Bồ tát mới khởi lòng tin.
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác
sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngo?
nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân. (Bát Đại Nhân Giác
Kinh).
Nói đến sự giác ngộ của Bồ tát, là muốn đề cập vấn đề tâm yếu
trong Phật giáo. Phật giáo là tôn giáo cốt đem lại sự giác ngộ cho chúng
sinh. Đức Phật vì một nhân duyên lớn mà thị hiện ra đời, đó là khiến
chúng sanh thể nhập tri kiến Phật; chỉ dẫn chúng sinh bước đi trên con
đường giác ngộ. Ngược lại với giác là mê. Chúng sinh lang thang trong
sinh tử, trôi lăn nơi sáu đường, quên mất bản lai diện mục của mình, nên
gọi là mê. Nay biết luân hồi là khổ, sinh tử đáng sợ, nhận ra rằng phải
dựa theo tám Pháp môn mà Kinh này chỉ dạy để tu hành, hầu mong giác
ngộ, giải thoát, gọi là giác.
Tập hợp tám ý nghĩa giúp chúng sanh giác ngộ lại, gọi là Kinh.
Kinh có nghĩa là con đường thẳng. Noi theo con đường thẳng mà Phật chỉ
dạy để đi, sẽ đạt đến mục đích liễu sinh thoát tử, tự tại an lạc. Phàm
đạo lý mà có thể gọi là Kinh, thì trên phải kế hợp với chân lý muôn đời
không thay đổi, dưới phải khế hợp với căn cơ chúng sinh muôn ngàn sai
khác. Kinh này do đức Phật nói, là chỗ tu học của chúng sinh phát Bồ đề
tâm, cho nên tên là Phật Thuyết Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Bát Đại Nhân Giác Kinh).
KHẢO CHỨNG VỀ NGƯỜI DỊCH
Sa môn An Thế Cao, nước An Tức, đời Hậu Hán dịch.
Giảng Nghĩa:
Tất cả Kinh điển Phật nói vốn được ghi chép bằng Phạn văn Ấn
Độ, nên phải cần có dịch giả dịch sang chữ Hán. Người dịch Kinh này là
Sa môn Pháp sư An Thế Cao đời Hậu Hán. Hậu Hán là tên triều đại, chính
là nhà Hậu Hán Quang Vũ Trung Hưng của Trung Quốc. Nước An Tức là nước
Ba Tư hiện nay. Sa môn là chỉ chung cho người học đạo. Người Hoa dịch
nghĩa là cần tức (??), ý nói: Siêng tu giới định tuệ, dứt trừ tham sân
si. Hậu Hán là chỉ thời đại An Thế Cao ra đời. Nước An Tức là chỉ quê
quán, còn Sa môn là chỉ thân phận của Ngài. An Thế Cao chính là dịch giả
của Kinh này.
Pháp sư An Thế Cao còn gọi là An Thanh, vốn là vương tử nước
An Tức. Vốn là người xem phú quí vinh hoa chỉ là vô thường, giả tạm, lại
thêm chán cuộc sống vua chúa suốt ngày phải phiền phức bởi chuyện triều
chính, không được tự tại, nên sau khi lên ngôi không bao lâu, Ngài liền
nhường ngôi lại cho chú, còn mình ra đi xuất gia, chỉ với bình bát, ca
sa. Pháp sư bẩm sinh có thiên tài về ngôn ngữ, thông hiểu hơn ba mươi
thứ tiếng, nhất là tinh thông Hán văn, xem khắp các Kinh, lại còn nghe
hiểu được tiếng chim thú. Đời Ngài sự tích thần dị rất nhiều, thế gian
không sao lường hết chỗ cao thâm. Vào thời Hán Hoàn Đế, Ngài từ nước An
Tức đến Lạc Dương, phiên dịch Kinh điển tất cả hơn một trăm bộ, ngày nay
còn truyền lại chừng hơn ba mươi bộ. Kinh luận do Pháp sư phiên dịch
nghĩa lý rõ ràng, văn từ xác đáng, dùng từ không hoa mỹ mà văn chất lại
chẳng quê mùa chút nào. Trong lịch sử phiên dịch Kinh luận thời kỳ đầu ở
Trung Quốc, Pháp sư An Thế Cao được tán thán là vị đứng đầu. Qua đó có
thể thấy, địa vị của Ngài trong giới dịch thuật cao cả như thế nào.
GIẢNG VỀ PHẦN TỰA
Việt dịch:
Là đệ tử Phật ngày đêm nên thường chí tâm tụng niệm tám điều giác ngộ của bậc đại nhân.
Giảng Nghĩa:
Pháp sư Đạo An đời Đông Tấn đã chia một bộ Kinh làm ba phần:
Phần tự, phần chánh tông và phần lưu thông. Lấy thân thể con người để tỉ
dụ, Phần tự như đầu, phần chánh tông như thân và phần lưu thông như
chân. Pháp sư Đạo An phân phán như thế, mọi người đều khen là: "Phân
phán cao minh trùm thiên hạ, học giả xưa nay thảy tuân hành". Như vậy đủ
thấy, tính chính xác, cao minh trong sự phân định của Ngài như thế nào.
Kinh này tuy không phải đức Phật nói trong một Pháp hội, nhưng
cũng có phần tự, phần chánh tông, phần lưu thông một cách hoàn chỉnh
như những Kinh điển khác. Đoạn Kinh ở trên, có thể được xem là phần tư,
duyên khởi mở đầu cho bản Kinh này.
Là đệ tử Phật sớm tối nên có công khoá tu trì nhất định. Trong
các tự viện, phần lớn lấy chú Lăng Nghiêm, Kinh Di Đà làm công khoá tu
tập sớm tối. Thực ra, theo phần tự của bản Kinh này, muốn thực hành Phật
giáo nhân sinh, muốn cải biến khí chất thân tâm của con người, phải lấy
Kinh Bát Đại Nhân Giác làm thời khóa tụng niệm sớm tối! Điều này thật
vô cùng xác đáng.
Người Phật tử tại gia đương nhiên nên sớm tối thọ trì quyển
Kinh này, song hàng đệ tử xuất gia còn cần phải thọ trì hơn nữa. Đệ tử
Phật không có phân biệt gái trai già trẻ, giàu nghèo sang hèn, xuất gia,
tại gia. Chỉ cần phát tâm tin Phật, quy y Tam Bảo, thực hành theo lời
Phật dạy, đều gọi là đệ tử Phật.
Đệ tử Phật phải đem tâm chí thành chí thiết, không giả dối,
tạp loạn, bốn mùa xuân hạ thu đông chẳng kể là sớm hay tối, đều phải
luôn luôn ghi nhớ, miên mật quán niệm tám điều mà Bồ tát nên giác ngộ
này. Hoặc lớn tiếng tụng đọc, hoặc niệm thầm trong tâm đều là cách tu
trì tốt nhất.
Đệ tử Phật có bảy chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na
ni, Sa di, Sa di ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Kinh này đặc biệt thích hợp
cho hàng Ưu bà tắc, Ưu bà di thọ trì hơn cả.
Chúng tôi nay đem tám điều giác ngộ trong Kinh Bát Đại Nhân
Giác trình bày ở biểu đồ sau. Sau này chúng tôi sẽ dựa vào biểu đồ để
giảng giải, mong rằng mọi người cùng chí tâm thọ trì.
Dịch thơ:
Người con Phật phát tâm học đạo
Luôn ngày đêm y giáo phụng hành
Đại nhân giác ngộ đành rành
Tám điều ghi nhớ, chí thành niệm tu.