Ngài Duy Ma Cật là một hình ảnh đại diện cho lối
sống và sự đóng góp của những cư sĩ này vào tiến trình đó, được diễn tả
trong kinh Vimalakirti-nirdasha (Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh), thường được gọi là kinh Duy Ma Cật.
Duy Ma Cật (Vimalakirti), một thương gia giàu có ở thành Vaisali (Tỳ
Xá Ly), có biện tài, giỏi tranh luận và trí nhớ phi thường. Ông là một
người đầy quyến rũ và bí ẩn. Không giống như những đại đệ tử của Ðức
Thích Ca Mâu Ni, hầu như tách rời hẳn với đời sống thế tục, Duy Ma Cật
sống đời sống của một cư sĩ trọn vẹn và không ràng buộc. Đời sống đó là
một hiện thân của tinh thần Ðại thừa, khước từ tinh thần tu viện hạn hẹp
và nhấn mạnh vào việc đi vào xã hội của Phật giáo.
Ngài Văn Thù Sư Lợi và Duy Ma Cật
Ðối với giới Phật tử ở Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam,
đặc biệt là những cư sĩ tại gia, Duy Ma Cật đã trở thành một nhân vật
được quảng đại quần chúng biết đến. Ðiều này được minh chứng khi chúng
ta thấy rằng kinh Duy Ma Cật càng ngày càng được đọc tụng rộng rãi hơn trong giới Phật tử Ðại thừa bên cạnh kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Có sáu bản dịch kinh Duy Ma Cật
tiếng Trung Hoa, trong đó có ba bản hiện còn. Trong những bản này, bản
do Ngài Vimalakirti (Cưu Ma La Thập, 344-413) dịch được coi là có bút
pháp tinh tế và được đọc nhiều nhất. Bồ tát triết gia Long Thọ
(Nagarjuna) trong Ðại Trí Ðộ Luận (Mahaprajna-paramitopadesha) đã trích dẫn từ kinh Duy Ma Cật nhiều hơn những kinh điển khác ngoài kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Phái Thiên Thai cũng đặt kinh này vào một vị trí quan trọng, có bản sớ
giải về kinh này. Ở Nhật Bản, đó là một trong ba bản kinh mà thái tử
Shotòku (Thánh Ðức) viết sớ giải, hai bản kinh kia là kinh Pháp Hoa và kinh Thắng Man (Shrimala).
Kinh Duy Ma Cật chia sẻ với kinh Pháp Hoa nét độc đáo
trong những kinh điển Ðại thừa gây ấn tượng và tác động mạnh nhất, và đã
tạo ảnh hưởng lớn lên các thi sĩ và văn sĩ Trung Hoa và Nhật Bản. Thi
sĩ lừng danh Trung Hoa thời Ðường là Vương Duy chẳng hạn bày tỏ sự kính
ngưỡng của ông đối với kinh này với việc lấy tên là Duy Ma. Tác phẩm Hòjòki
(Phương Trượng Ký) của Kamo no Chòmei (Áp Trường Minh, 1153 hoặc
1155-1216) trong văn học cổ đại Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng sâu xa tư
tưởng kinh Duy Ma Cật, và "túp lều mười bộ" trong đó được diễn tả phỏng theo căn phòng mười bộ của ngài Duy Ma Cật.
Mặc dù sự đẹp đẽ trong văn chương, cũng như việc không thuộc vào một
trường phái riêng biệt nào có thể là một phần nguyên do làm cho kinh này
phổ biến rộng rãi và lâu dài, nhưng theo tôi, có lẽ nguyên do quan
trọng nhất là ấn tượng mà Duy Ma Cật đã tạo ra nơi người đọc như là một
con người, và đưa ra một cách thích đáng việc áp dụng thực tiễn tinh
thần Ðại thừa.
Tư tưởng Phật giáo trong giai đoạn trước khi có phong trào Ðại thừa
tập trung vào hình ảnh của tu sĩ, những vị sống nghiêm nhặt trong giới
luật, và thực hành giáo pháp của Ðức Thích Ca Mâu Ni để chứng Thánh quả.
Duy Ma Cật trái ngược hoàn toàn với những vị đó; ông là một thương gia
giàu có, một công dân nổi bậc của thành Vaisali (Tỳ Xá Ly), được đồng
bào thương mến và ông cũng rất gần gũi với họ. Ông có vợ và gia đình,
dấn thân trong những hoạt động thương mãi, và thỉnh thoảng ông cũng có
mặt trong các khu vui chơi và cờ bạc trong thành phố, để truyền bá giáo
pháp Ðại thừa. Ông là một người thực hành loại giáo pháp mà Giáo đoàn
trước kia, với sự nhấn mạnh vào tinh thần tu viện, không thể chấp nhận.
Chúng ta không có gì rõ ràng ngoài bản kinh để có thể xác định sự
hiện hữu của Duy Ma Cật. Ngài Huyền Tráng có ghi lại rằng khi viếng
thành phố Tỳ Xá Ly trong cuộc du hành sang Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ bảy,
ngài được chỉ cho ngôi nhà xưa của Duy Ma Cật, cũng như nhiều nơi được
nói là Duy Ma Cật đã từng giảng dạy tại đó. Tuy nhiên, điều này cũng
không đủ để chứng minh, bởi vì rất nhiều nhân vật chỉ có trong văn
chương hay huyền thoại cũng được gán cho nơi sinh, chỗ ở, y phục... Với
tất cả những gì chúng ta biết, theo một vài nhà Phật học, Duy Ma Cật có
thể không khác hơn là một hiện thân tưởng tượng của lý tưởng cư sĩ do
tín đồ Ðại thừa tạo ra về sau.
Tuy nhiên, cũng không có lý do vững vàng để có thể bác bỏ sự hiện hữu
thật sự của ngài Duy Ma Cật. Như chúng ta biết, trước kia, các học giả
Tây phương cũng đã từng bác bỏ sự hiện hữu trong lịch sử của Đức Thích
Ca Mâu Ni và vua Ashoka (A Dục), người được coi như một lãnh tụ huyền
thoại, cho đến khi các nhà khảo cổ khai quật được những chỉ dụ của ông.
Và dù nếu Duy Ma Cật chỉ là một nhân vật thuần túy tưởng tượng, cũng
không ai có thể chối bỏ giá trị của bộ kinh Ðại thừa vĩ đại mà những
hành vi của ông được diễn tả trong đó. Không phải tính lịch sử của Duy
Ma Cật là quan trọng, nhưng chính cách mà bản kinh dùng ông để làm sáng
tỏ lý tưởng Bồ tát, đưa ra những biện pháp thực tiễn để truyền bá Phật
giáo trong toàn bộ xã hội, và trình bày một cái thấy sâu xa và cao
thượng của đời sống, siêu vượt tính chất nhị nguyên của có và không. Duy
Ma Cật chỉ là một cổ xe cho việc truyền bá tinh thần Ðại thừa.
Dù Duy Ma Cật là một nhân vật có thật hay chỉ trong văn chương, thành
phố Vaisali (Tỳ Xá Ly), hậu trường của những sinh hoạt của ông, không
phải là một sản phẩm của tưởng tượng. Ðó là một trung tâm thương mãi ở
miền Bắc Ấn Ðộ và là một nguồn lực quan trọng của phong trào Ðại thừa.
Chính Đức Thích Ca Mâu Ni đã tỏ ra rất chú ý đến thành phố này và đã
cùng đệ tử viếng nơi đây nhiều lần. Không lâu trước khi nhập diệt, trên
đường về thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), Ngài đã dừng lại một thời gian
tại đây, và khi rời thành phố, Ngài nói: "Thành Tỳ Xá Ly đẹp xiết
bao!". Do đó, chúng ta không quá ngạc nhiên nếu thật sự có những tín đồ
tại gia quan trọng như Duy Ma Cật sống và sinh hoạt trong thành phố này.
Chúng ta không nên nghĩ rằng những đệ tử nổi bật của Đức Phật chỉ là
những vị Thanh văn, mặc dầu những câu chuyện về các vị này được ghi lại
đầy đủ trong kinh điển tiền kỳ. Trong những năm đầu, chắc chắn Đức Thích
Ca Mâu Ni đã để một thời gian dài giảng dạy cho những người trẻ gia
nhập đời sống tu viện và quy tụ quanh ngài. Nhưng khi tiếng tăm Ngài
được truyền rộng, càng ngày càng có nhiều người tìm đến nghe giáo pháp,
và số nam nữ trở thành tín đồ tại gia của Ngài ngày càng gia tăng là
điều tự nhiên. Kinh điển có ghi lại vua Bimbisara (Tần Bà Sa La), cai
trị nước Magadha (Ma Kiệt Ðà), cũng như vua Pasenadi (Ba Tư Nặc), cai
trị nước Koshala (Kiều Tát La), cả hai đều tín ngưỡng Phật pháp, và
chúng ta cũng được nghe nói đến những sự quy ngưỡng trong giới thương
gia giàu có như Sudatta (Tu Ðạt), người đã cúng tịnh xá Kỳ Viên cho Tăng
đoàn.
Khi Đức Thích Ca Mâu Ni hướng đến những tín đồ tại gia, chúng ta có
thể chắc chắn rằng Ngài đã hướng dẫn họ theo những phương pháp tu tập
khác hơn những gì Ngài dạy cho giới tu sĩ, và vì vậy có thể giả thiết
rằng nội dung những giáo lý đó ở mức độ nào đó khác hơn những gì Ngài đã
dạy cho giới tu sĩ. Nếu những giáo lý này thật sự về sau kết tinh lại
dưới hình thức những kinh điển Ðại thừa, chúng ta có thể ước đoán rằng
những giáo lý đó nhấn mạnh lên bổn phận của người tín đồ tại gia trong
việc lợi ích cho người khác cũng như trong việc phát triển giáo pháp
trong toàn bộ xã hội.
Tôi có cảm nghĩ rằng Đức Thích Ca trông cậy vào giáo đoàn Tăng lữ
trong việc bảo đảm phần giáo lý triết học và tôn giáo mà Ngài đã truyền
dạy trong năm mươi năm sau khi giác ngộ, được lưu truyền một cách chính
xác cho thế hệ sau, và đối với cư sĩ, Ngài quan tâm vào tinh thần tích
cực và kiến thức về thế gian của họ, rằng họ có thể truyền bá giáo pháp
vào trong lòng xã hội. Nếu giả thiết của tôi là đúng, chúng ta có thể
nói rằng Đức Thích Ca Mâu Ni nhận thấy cả hai giới tu sĩ và cư sĩ đều
quan trọng như nhau trong giáo pháp và rằng mỗi giới có phận sự riêng và
không thể thiếu giới nào.
Xây dựng Phật Quốc độ
Sau đây, chúng ta xét qua bản dịch kinh Duy Ma Cật của ngài Cưu Ma La Thập, và nhân vật Duy Ma Cật.
Phần thứ nhất của kinh gồm có bốn phẩm, nói về những sự việc xảy ra ở
vườn Ambapàli (Yêm La) ở ngoại ô thành Vaisali (Tỳ Xá Ly). Ambapàli là
một kỹ nữ ở thành Vaisali (Tỳ Xá Ly) và là một Phật tử sùng tín. Ở Ấn Ðộ
thời bấy giờ, kỹ nữ và gái mãi dâm được chính phủ giám sát và bảo vệ.
Ambapàli được coi như một trong những tài sản của Tỳ Xá Ly, không những
có sắc đẹp, lại rất thông minh và có học. Cô ta rất giàu có và làm chủ
những khu vườn đẹp ở vùng ngoại ô mà cô đã dâng cúng cho Đức Phật. Trong
thời gian được diễn tả trong kinh Duy Ma Cật, Đức Thích Ca Mâu
Ni đã cùng với tám ngàn Tỳ kheo và ba ngàn hai trăm vị Bồ tát nghỉ dưới
bóng những cây xoài trong khu vườn này.
Vào lúc đó, một người thanh niên tên là Bảo Tích cùng đi với năm trăm
thanh niên quý tộc của thành Tỳ Xá Ly, mỗi người cầm một cây lọng bảy
báu, đến viếng Phật. Đức Phật làm cho năm trăm cây lọng báu hiệp thành
một cây lọng. Với cây lọng lớn này, Ngài che mát các cõi trong ba ngàn
đại thiên thế giới. Ðoạn này có thể hiểu là từ bỏ bản ngã riêng của năm
trăm người để sống trong đại ngã duy nhất của Phật. Ý nghĩa tiềm ẩn của
đoạn kinh là khái niệm "nhứt niệm tam thiên", tức ba ngàn đại thiên thế
giới bao hàm trong một niệm, được trình bày ở những kinh điển khác.
Bảo Tích, đầy lòng kính mộ, tụng một bài kệ tán thán Ðức Thế Tôn. Trong đó có đoạn rất nổi danh:
"Phật dạy giáo pháp chỉ một âm,
Mà mỗi chúng sanh tùy bậc hiểu".
Có nghĩa là mỗi người nghe giáo pháp của Phật sẽ hiểu khác nhau tùy
theo căn tánh và khả năng. Dù giáo pháp có được trình bày hùng hồn thế
nào, nếu người nghe chỉ mang quan điểm hẹp hòi của Thanh văn hay Bích
chi thì cũng không thể hiểu giáo pháp Ðại thừa của Đức Phật. Mặt khác,
nếu người này có tâm hồn rộng rãi có thể phóng tầm nhìn ra ngoài ba ngàn
đại thiên thế giới, người ấy sẽ chứng nghiệm được ý nghĩa chân thật của
Phật không gì khó khăn. Ðoạn kinh này là đoạn nhắc nhở cho chúng ta,
những người tầm cầu giáo pháp, rằng một thái độ rộng rãi và cởi mở quan
trọng như thế nào.
Sau đó, Bảo Tích hỏi Đức Thích Ca Mâu Ni những việc Bồ tát cần làm để chứng được cõi Phật thanh tịnh. Ðức Phật trả lời: "Này
Bảo Tích! Quốc độ của tất cả chúng sanh là Phật quốc độ của các Bồ tát.
Vì sao? Bởi vì các quốc độ của Phật được giữ gìn do những chúng sanh
được các vị Bồ tát chuyển hóa, và được giữ gìn do những chúng sanh được
các Bồ tát giáo hóa. Quốc độ Phật được mở rộng do nhiều chúng sanh chứng
ngộ trí huệ Phật, được mở rộng do những người giác ngộ tánh Bồ tát nơi
chính mình. Như vậy, quốc độ Phật của Bồ tát là để làm lợi ích chúng
sanh".
Bồ tát tu tập để thành tựu pháp giới hay Phật quốc, Phật quốc này
hoàn toàn thanh tịnh, nhưng như đoạn kinh nói rõ, "những quốc độ Phật"
này không phải "Cõi Tịnh độ" ở phương Tây. Những cõi Phật này có sẵn
trong tâm của vị Bồ tát khi vị Bồ tát phát nguyện làm lợi ích cho tất cả
chúng sanh và tinh tấn tu tập để chứng ngộ Phật quốc độ đó. Nói cách
khác, quốc độ Phật được quan niệm không phải như là kết quả để đạt đến
mà là động lực, hay tiến trình, để đạt đến nó. Ðó là một điển hình về
tính chất năng động tiêu biểu của toàn kinh Duy Ma Cật. Ðoạn kinh
trên cũng có thể được coi như là một công thức đo lường phạm vi truyền
bá giáo pháp mà một người đạt tới. Khi một hành giả giảng dạy, mức độ mà
người này hiểu về sứ mệnh của mình trong tư cách một Bồ tát chuyển hóa
người khác vào giáo lý Ðại thừa, đưa họ vào cảnh giới trí tuệ của Phật,
và giải thoát cho tất cả chúng sanh sẽ quyết định mức độ thanh tịnh và
sự đạt đến bao xa trong quốc độ Phật mà người này xây dựng.
Tất cả những đoạn được trình bày ở trên đều thuộc về phẩm thứ nhứt
của kinh, phẩm “Phật Quốc”. Trong phẩm thứ hai, phẩm “Phương Tiện",
chúng ta sẽ khảo sát đến nhân vật đáng lưu ý là ngài Duy Ma Cật. Vimala
trong tiếng Sanskrit (Phạn ngữ) có nghĩa là "không ô nhiễm", và kirti có
nghĩa là "danh tiếng" hay "thanh danh". Ngài Huyền Tráng dịch là "Tịnh
Danh". Ngài Cưu Ma La Thập thì dùng chữ Trung Hoa để diễn âm Phạn ngữ.
Vì bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập rất nổi tiếng và phổ biến, ở Trung
Hoa tên Duy Ma Cật hay Duy Ma thường được dùng để gọi ngài Vimalakirti
(Tịnh Danh).
Kinh cho chúng ta biết rằng ở Tỳ Xá Ly có một người giàu có tên là
Duy Ma Cật hay "Tịnh Danh", một Phật tử tại gia có nhiều phương tiện
thiện xảo để chuyển hóa quần chúng theo về với giáo pháp.
Theo kinh, ông là một người năng động. Công việc làm ăn buôn bán của
ông phát đạt, và ông cũng đã phân phát của cải của ông cho đông đảo quần
chúng. Ông đi mọi nơi trong thành để hướng dẫn mọi người, viếng các
trường học và dạy dô các trẻ em bằng phương pháp khéo léo, và có rất
nhiều bạn bè cả già lẫn trẻ. Ông thông hiểu những tác phẩm phổ biến
đương thời, và được nhiều người trong giới Bà la môn mến mộ.
Kinh nói: "Khi ở với các đại thần, ông dạy giáo pháp chân thật làm lợi ích cho những đại thần tôn quý nhất".
Có thể trong thực tế ông đã có thời gian làm đại thần. Ở Tỳ Xá Ly lúc
đó đã có một hình thức chính phủ cộng hòa, và có thể ông đã được bầu giữ
một chức vụ quan trọng. Dù thế nào, ông cũng là một công dân xuất sắc
của quốc gia.
Ðịa vị của Duy Ma Cật ở Tỳ Xá Ly gợi cho chúng ta nhớ đến Socrates ở
Athens. Nhưng Socrates thì không giàu có. Và nếu Duy Ma Cật có ảnh hưởng
lớn lao hơn Socrates, ông cũng có diễm phúc hơn Socrates về sự tín
nhiệm của quần chúng. Ðiều này được chứng minh hùng hồn trong dịp ông bị
bịnh, khi đó các vua, đại thần, người già cả, cư sĩ, Bà la môn, vương
tử, và các quan lại, tính tổng cộng có đến nhiều ngàn người, đến để hỏi
thăm sức khỏe. Ông được sự mến mộ và cảm tình của tuyệt đại đa số quần
chúng.
Lúc bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni đang ở tại vườn Yêm La (Ambapali).
Ngài quyết định phái người đến thăm hỏi Duy Ma Cật. Phẩm thứ ba và thứ
bốn, "Thanh văn" và "Bồ tát", diễn tả việc Đức Phật chỉ định từng vị một
trong mười Ðại đệ tử của Ngài, đến Đức Di Lặc và những vị Bồ tát khác,
nhận lãnh trách nhiệm. Nhưng mỗi vị, nhớ lại việc trước kia bị Duy Ma
Cật phản bác, đều nói rằng mình không thích hợp với công việc được giao
phó.
Như ngài Xá Lợi Phất (Shariputra), được coi như một vị "trí huệ đệ
nhứt", kể lại lúc xưa có một lần khi ngài ngồi kiết già thiền định dưới
một gốc cây, Duy Ma Cật xuất hiện và giảng cho ngài phương pháp đúng đắn
về tọa thiền. Duy Ma Cật nói: "Này ngài Xá Lợi Phất, không phải ngồi
là ngồi thiền. Ngồi thiền có nghĩa là không hiện ra trong ba cõi. Cũng
có nghĩa là hiển bày chính mình trong tánh tự nhiên trong đó thân và tâm
đều không còn. Có nghĩa là tu hành Phật đạo trong lúc làm những công
việc hàng ngày trong thế gian. Ðó gọi là ngồi thiền".
Ngài Xá Lợi Phất không có câu trả lời. Vì lý do đó, ngài giải thích
với Phật rằng ngài không thể nhận lãnh trách nhiệm thăm hỏi sức khỏe Duy
Ma Cật.
Những đoạn kinh đó nhắm đến tấn công quan điểm Tiểu thừa, và nêu lên
sự tu tập theo quan điểm Ðại thừa. Trong những thí dụ vừa được trích
dẫn, sự tu tập của Tiểu thừa bị phê phán về chủ nghĩa hình thức mà họ
rơi vào, và việc không lưu ý đến nội dung và tác dụng thực tiễn của sự
tu tập. Tinh thần tiêu biểu của Ðại thừa được thấy rất rõ ràng ở đây.
Tuy nhiên, với nhiệt tâm tấn công lý tưởng Thanh văn hay Bích chi của
Tiểu thừa, đôi khi kinh đã đi ra ngoài những giới hạn của lý lẽ. Một ví
dụ trong kinh là ngài Xá Lợi Phất từ đầu đến cuối luôn luôn bị coi như
một người làm trò. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta biết ngài đã đóng
một vai trò quan trọng trong giáo đoàn, là một trong những người lãnh
đạo Giáo đoàn.
Một số học giả coi kinh Duy Ma Cật và kinh Pháp Hoa là cùng một "gia đình" trong kinh điển Ðại thừa. Tuy nhiên kinh Duy Ma Cật
dường như vẫn còn bị dính mắc trong sự phân biệt giữa lý tưởng Thanh
văn/ Bích chi của Tiểu thừa và lý tưởng Bồ tát của Ðại thừa. Sự không
thể vượt qua sự phân biệt đó tạo ra một vết rạn trong kinh.
Bồ tát làm lợi chúng sanh như thế nào?
Phần thứ hai trong bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập, từ phẩm thứ năm
đến phẩm thứ chín, đưa chúng ta vào căn phòng mười bộ của ngài Duy Ma
Cật. Bồ tát Văn Thù (Manjushri) thay mặt Phật đến thăm bịnh ngài Duy Ma
Cật. Có tám ngàn vị Bồ tát, năm trăm vị Thanh văn, và một trăm ngàn
chúng trời cùng đi với ngài. Mọi người đều nghĩ rằng những lời đối đáp
giữa Đức Văn Thù và ngài Duy Ma Cật sẽ rất lợi lạc, và họ vây quanh chờ
đợi.
Căn phòng mà ngài Duy Ma Cật đang nằm không có một thứ gì ngoài chiếc
giường và chỉ rộng một trượng tức khoảng mười bộ, nhưng đủ chỗ cho mọi
người đến thăm. Ðiều này thật khó cho người duy lý bình thường có thể
hiểu và chấp nhận.
Ngay cả ngài Xá Lợi Phất cũng vậy. Ở phẩm thứ sáu, ngài đã bối rối trước sự việc mà Duy Ma Cật nói với ngài: "Thưa
ngài Xá Lợi Phất! Chư Phật và Bồ tát có pháp giải thoát tên là Bất tư
nghì. Khi Bồ tát trụ nơi pháp giải thoát đó, đem núi Tu Di (Sumeru) để
vào trong một hột cải vẫn không dư không thiếu. Lại nữa, hình dạng núi
Tu Di cũng không biến đổi, trời Tứ thiên vương và chư thiên cõi trời Ba
mươi ba (Ðao Lợi) cũng không biết là mình vào trong đó. Chỉ những bậc
Ứng hợp độ thế mới có thể biết rằng núi Tu Di đã được đem vào trong hạt
cải. Ðó gọi là pháp môn Bất tư nghì giải thoát".
Ðoạn kinh trên là một sự trình bày về giáo lý tánh Không (Sunyata)
của Ðại thừa. Những lời đối đáp giữa hai ngài Văn Thù và Duy Ma Cật cũng
đặt nền tảng trên khái niệm tánh Không này, tính chất rỗng không hay
vượt ngoài mọi khả năng diễn tả của thực tại. Trong phẩm thứ chín, "Nhập
Bất Nhị Pháp Môn", khái niệm này được trình bày dưới nhiều góc cạnh, và
được diễn tả là "không có cũng không không, không sinh cũng không diệt, không hữu vi cũng không vô vi". Ðó là tính Bất nhị không thể hiểu được bằng ngôn ngữ thông thường, cảnh giới nhất nguyên tuyệt đối.
Đó là cảnh giới mà Bồ tát dùng nhiều cách tu tập để đạt tới. Ở đây chúng ta tìm xem những sự tu tập này gồm những gì.
Trở lại với ngài Duy Ma Cật như được diễn tả trong phẩm thứ năm,
"Thăm bệnh". Khi ngài Văn Thù đến bên để hỏi thăm bệnh, ngài Duy Ma Cật
đã trả lời với những lời lẽ tuyệt vời như sau:
"Do từ si mê sinh ra ái, từ đó mà bịnh tôi phát sinh. Vì tất cả
chúng sanh bệnh, nên tôi bệnh. Nếu bệnh của chúng sanh không còn, thì
bệnh tôi không còn. Vì sao? Vì Bồ tát đi vào trong sanh tử vì lợi ích
chúng sanh. Vì có sanh tử nên có bệnh. Nếu chúng sanh không còn bệnh thì
Bồ tát không còn bệnh. Ví như ông trưởng giả chỉ có một người con. Nếu
người con bệnh thì cha mẹ bịnh theo, nếu con lành bệnh thì cha mẹ lành
bệnh. Bồ tát cũng như thế, thương tất cả chúng sanh như con. Nếu chúng
sanh bệnh thì Bồ tát bệnh, nếu chúng sanh lành thì Bồ tát lành. Ngài hỏi
tôi: ‘Nguyên do từ đâu mà tôi bị bệnh?’ Bệnh của Bồ tát là do tâm đại
bi".
Ở đây, chúng ta thấy rõ rằng bệnh của ngài Duy Ma Cật không phải do
sự mất điều hòa của năm ấm gây ra. Nguyên do của bệnh thuộc phạm vi tinh
thần. Thông thường một người khỏe mạnh ít khi nào hiểu được những nỗi
khổ của người bệnh. Nhưng ở đây, chúng ta được chứng kiến hạnh nguyện
của vị Bồ tát: Không chỉ hiểu mà còn san sẻ những nỗi khổ của người khác, lấy nỗi khổ của người khác làm nỗi khổ của mình.
Ngài Duy Ma Cật tiếp tục giải thích những hạnh của Bồ tát như sau: "Mặc
dù Bồ tát quán sát các quốc độ của chư Phật là hằng cữu và ở ngoài sinh
tử, ngài vẫn làm cho những quốc độ này phô bày mọi vẻ thanh tịnh cho
chúng sanh được thấy - đó là hạnh của Bồ tát. Bồ tát cầu Phật quả,
thuyết pháp, nhập Niết bàn, ngài vẫn không bỏ đạo Bồ tát - đó là hạnh
của Bồ tát".
Nghe những lời này của Duy Ma Cật, tám ngàn thiên tử đi theo ngài Văn Thù chứng Vô thượng Chánh giác.
Mục đích của đoạn kinh này là muốn làm sáng tỏ rằng vị Bồ tát khi thực hành những pháp môn tu tập cho bản thân cũng nỗ lực tạo "quốc độ Phật"
hay thế giới lý tưởng trong xã hội thực tiễn mình đang sống. Không
giống với người tín đồ Tiểu thừa theo đuổi lý tưởng A la hán, chỉ cố
gắng để giải thoát bản thân khỏi khổ đau và vô minh, vị Bồ tát hiểu biết
sâu xa về pháp, và từ chỗ này, cố gắng không ngừng trong việc tạo quốc độ Phật để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Ðó là trách nhiệm cao cả của giáo lý Ðại thừa phó thác cho Bồ tát.
Ðể kết luận cuộc đàm thoại hùng hồn và thâm sâu giữa ngài Duy Ma Cật
và Bồ tát Văn Thù về bản chất của Bồ tát, một thiên nữ trong gia đình
ngài Duy Ma Cật đột nhiên xuất hiện rải hoa trời lên đại chúng. Những
hoa này rơi xuống chạm vào các vị Bồ tát thì rớt xuống đất, còn những
hoa rơi chạm các vị Thanh văn thì bám dính vào họ. Ngài Xá Lợi Phất và
các vị đệ tử Thanh văn của Đức Phật cố gỡ những hoa này nhưng không gỡ
ra được.
Thiên nữ cười, hỏi ngài Xá Lợi Phất: "Vì sao ngài lại gắng sức gỡ bỏ những hoa đó?".
Ngài Xá Lợi Phất trả lời: "Thiên nữ, tôi gỡ bỏ những hoa này vì chúng không thích hợp cho người tu sĩ!".
Thiên nữ nói rằng những hoa này tự chúng không bận tâm về việc thích
hợp hay không thích hợp. Chỉ vì ngài Xá Lợi Phất và những vị Thanh văn
vẫn còn nuôi dưỡng tâm phân biệt rằng có những hoa bám vào các ngài. Ðối
với người tu còn sợ hãi luân hồi, các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều
trở thành nguồn cội của vô minh.
Tuy nhiên, ngài Xá Lợi Phất lại chế nhạo vị thiên nữ. Ngài hỏi: "Thiên nữ, vì sao cô không chuyển đổi tướng nữ nhân?".
Thiên nữ trả lời bằng cách hiển lộ thần thông chuyển ngài Xá Lợi Phất
thành tướng nữ, và chuyển thân tướng mình thành thân tướng ngài Xá Lợi
Phất.
Một lần nữa, cùng một vấn đề được nêu ra: Ngài Xá Lợi Phất, đại biểu
cho quan điểm Tiểu thừa, không thể thoát khỏi lối suy nghĩ theo những
phạm trù cứng nhắc. Dưới cái nhìn của Phật pháp, tất cả chúng sanh đều
bình đẳng, nam hay nữ đều như nhau. Như lời thiên nữ nói theo lời dạy
của Đức Thích Ca Mâu Ni: "Trong tính bình đẳng của tất cả chúng sanh, không có tướng nam hay tướng nữ". Đoạn kinh này rất gần với tư tưởng của phẩm mười hai trong kinh Pháp Hoa, trong đó, long nữ chuyển thành tướng nam và chứng quả Phật.
Một điểm cuối cùng cần ghi nhận trong những đoạn kinh này là sự nhiệt
thành cầu giác ngộ của những người đến gặp ngài Duy Ma Cật. Nơi nào có
những cư sĩ với lòng tin và sự hiểu biết sâu xa như ngài Duy Ma Cật,
những vị đó sẽ tạo nguồn cảm hứng cho tất cả những người gần gũi với họ.
Giáo lý bất tư nghì
Trong phẩm thứ tám, "Phật đạo", ngài Duy Ma Cật và Bồ tát Văn Thù
tranh luận về bản chất sự giác ngộ của Phật. Trong phẩm thứ chín, "Nhập
Bất Nhị Pháp Môn", ba mươi hai vị Bồ tát chứng được nhiều cảnh giới
trong Bất nhị pháp môn.
Đây được coi như điểm cao tột của kinh, chứa một câu bất hủ "Sự im lặng của Duy Ma Cật, giống như tiếng nổ của sấm sét".
Từng vị một, các Bồ tát trình bày quan điểm của mình về tánh chất của
pháp môn Bất-nhị. Nhưng đến lượt Duy Ma Cật, ngài chỉ ngồi yên lặng. Ở
đây ngài tỏ bày cảnh giới Bất-nhị bằng sự im lặng, rằng cảnh giới đó
luôn luôn ở trên và ở ngoài mọi ngôn ngữ, một nơi mà mọi tác động của
tâm đều chấm dứt.
Bồ tát Văn Thù, đầy ngưỡng mộ với cách tỏ bày của ngài Duy Ma Cật, tán thán: "Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đó mới thật là nhập Bất nhị pháp môn". Và lúc đó năm ngàn vị Bồ tát liền chứng Vô sanh pháp nhẫn.
Phần cuối của kinh, từ phẩm thứ mười đến phẩm thứ mười bốn, đề cập
đến Đức Phật tên Hương Tích ở cõi Chúng Hương. Đức Phật đó thuyết pháp
bằng cách dùng những mùi hương vi diệu.
Những tranh luận giữa ngài Duy Ma Cật và Bồ tát Văn Thù tiếp tục cho
đến gần giờ trưa. Ngài Xá Lợi Phất bâng khuâng về việc ngọ trai vì theo
giới luật của các Tăng sĩ thời bấy giờ, tu sĩ không được ăn sau giờ ngọ.
Ngài Duy Ma Cật nhận thấy điều đó, hỏi: "Ngài có nghĩ rằng ngài có
thể nghe pháp trong khi bận tâm về thực phẩm?". Rồi ngài nói tiếp "Nếu
ngài cần một thứ gì để ăn, xin hãy chờ một lát. Tôi sẽ dâng cho ngài thứ
thực phẩm mà ngài chưa từng bao giờ nếm đến". Ngài Duy Ma Cật gởi
một sứ giả đến cõi Chúng Hương để thỉnh một bữa ăn. Người sứ giả được
gởi đến thấy mình ở trong một thế giới không sử dụng ngôn ngữ và văn tự.
Phật pháp ở đó hoàn toàn được dạy bằng các loại mùi hương. Trong cõi đó
không có Thanh văn hay Bích Chi, chỉ có toàn Bồ tát đã đạt đến sự thanh
tịnh cao tột, và các ngài chỉ sống bằng mùi hương.
Cõi Chúng Hương, mặc dù với những tính chất thần thoại của nó, được
diễn tả một cách vô cùng sống động, và chúng ta thấy những năng lực
tưởng tượng lớn lao của các tác giả Ðại thừa. Các vị đó thấy rằng Chánh
pháp là một thứ có thể khai mở và giải thích những bí ẩn của nguồn sống,
nó nên được trình bày bằng những cảnh giới hay cái thấy vượt ngoài sự
tưởng tượng thông thường của con người. Như vậy, diễn tả giáo pháp không
qua ngôn ngữ mà bằng các loại hương là một cách làm khuấy động tâm thức
để đưa vào một thức giác siêu việt.
Kinh tiếp tục nói rõ rằng, nhìn từ cõi Chúng Hương, thế giới của
chúng ta là một nơi đầy tội lỗi và đồi trụy, đầy dẫy những chúng sanh
với tâm linh nhì nhằng và có khuynh hướng về những mục tiêu thấp kém,
làm cho chư Phật và Bồ tát khó khăn trong việc hóa độ. Ở đây, chư Phật
phải dùng ngôn ngữ để dạy dỗ thay vì dùng các mùi hương, và chư Bồ tát
phải đi vào những cảnh giới thấp kém để chiến đấu một cách mãnh liệt và
không ngừng trong việc khắc phục sự xấu ác.
Ngài Duy Ma Cật, khi nghe các vị Bồ tát ở cõi Chúng Hương nói, trả
lời rằng các vị Bồ tát ở thế giới chúng ta có "mười thiện pháp". Mười
thiện pháp này bao gồm những hạnh mà các ngài tu tập. Những hạnh chính
là sáu Ba la mật, gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
và trí huệ.
Tám pháp mà vị Bồ tát tuân giữ trong đời sống tu tập ngày nay cũng
bắt nguồn từ khuôn mẫu của ngài. Tám pháp này rất thiết thực về mặt đạo
đức cho con người ngày nay, cả nam cũng như nữ, tôi xin trích ra đầy đủ:
1- Lợi ích chúng sanh mà không mong đền đáp.
2- Chịu mọi điều khổ thế cho chúng sanh.
3- Bao nhiêu công đức thành tựu đều hồi hướng cho chúng sanh.
4- Có lòng bình đẳng đối với chúng sanh, khiêm nhường đối với chúng
sanh, không khởi tâm chướng ngại đối với chúng sanh. Ðối với Bồ tát, xem
như Phật.
5- Những kinh chưa nghe, nghe không nghi; không tranh luận với các vị Thanh văn.
6- Không ganh tỵ khi người khác được cúng dường, không kiêu căng với thu hoạch của mình, luôn kiểm soát tự tâm.
7- Thường xét lỗi mình, không nói điều xấu của kẻ khác.
8- Luôn giữ tâm không lay chuyển và tinh tấn trong mọi hạnh lành.
Nếu có người hết lòng trong việc làm lợi ích và cứu giúp người khác,
người đó thực hành tám pháp này. Người ta có thể thấy ngay rằng, ngược
lại với những giới luật tiểu tiết và khắt khe của Tiểu thừa, những điều
này từ bản chất là những mục đích đạo đức rộng lớn trong việc hướng dẫn
tư cách và hành động của một người.
Sau đó, kinh một lần nữa trở lại với khu vườn Âm La (Pabapàli), nơi
đây lý lịch thật của Duy Ma Cật được cho biết thêm, và chấm dứt với sự
phó chúc bản kinh cho ngài Di Lặc (Maitreya) và A Nan (Ananda).
Tên khác của kinh Duy Ma Cật là Bất Tư Nghì Giải Thoát,
và chắc chắn nhân vật Duy Ma Cật, như được diễn tả trong kinh, vẫn mang
đầy sự bí ẩn và kỳ diệu. Ông đại biểu cho lý tưởng cư sĩ tại gia như
được định hình từ hai ngàn năm trước
Daisaku Ikeda - Nguyên Hảo dịch (Theo GNO)