Những giới điều này giúp chúng ta tránh xa những hành động quấy
ác và những lời nói quấy ác. Cấp độ thứ hai là giới phẩm của Bồ Tát nhằm
giúp chúng ta chế ngự tâm thái vị kỷ, quá ưu ái bản thân. Giới phẩm Mật
Tông là cấp độ thứ ba có tác dụng đoạn trừ ảo tướng và vọng niệm đối
với các pháp, xem chúng là thông thường và có thể tự hiện hữu.
Mỗi
giới điều đúng nghĩa phải là một niềm an vui chớ không phải là một gánh
nặng. Giới điều không phải được thiết lập với mục đích để ngăn cản
những phút giây vui sống và khiến cho chúng ta cảm thấy bị tước đoạt tự
do. Mục đích của việc thọ giới là làm cho chúng ta tạo nên một sức mạnh
nội tâm, giúp cho chúng ta đủ sức không làm những điều mà chúng ta không
muốn làm. Một khi biết được rằng việc sát sinh, trộm cắp, lòng vị kỷ...
chỉ gây hại cho bản thân chúng ta, cho người khác, trong hiện tại và
tương lai thì chúng ta sẽ khởi ý muốn tránh xa những việc đó. Thọ lãnh
những giới điều giúp cho chúng ta có thêm sức mạnh và nghị lực. Vì vậy
có câu nói rằng giới luật chính là những món trang sức tạo nên uy nghi
của người có trí.
Những giới điều
đưa cá nhân đến bến bờ giải thoát
Để
giúp con người chế ngự được những tâm thái nhiễu loạn và từ bỏ những
hành vi quấy ác, Đức Phật đã ban hành 5 giới. Một vị Tỷ-kheo hay một vị
Tỷ-kheo-ni có thể cử hành nghi thức truyền giới ngắn và đúng pháp cho cư
sĩ tại gia. Nghi thức này giúp cho người cư sĩ chính thức quy y Tam
Bảo: Đức Phật, Tôn Pháp và Hiền Thánh Tăng. Không nhất thiết khi quy y
người Phật tử phải thọ đủ 5 giới. Tùy theo từng cá nhân một Phật tử tại
gia có thể lãnh thọ một, hay vài giới, hay cả 5 giới dành cho cư sĩ tại
gia: ưu-bà-tắc (nam cư sĩ) hay ưu-bà-di (nữ cư sĩ).
Năm giới lãnh thọ trọn đời là tránh xa:
1. sát hại sinh mạng,
2. lấy của không cho,
3. tà dâm,
4. nói dối,
5. dùng các chất say, gây nghiện.
Khi
làm lễ quy y, một số vị đạo sư chỉ kèm thêm việc truyền ngay giới thứ
nhất cấm sát hại sinh mạng và để cho chúng ta quyết định có thọ giới nào
hay tất cả 4 giới còn lại hay không. Còn những vị đạo sư khác thì
truyền ngay tất cả 5 giới trong lễ quy y cho Phật tử.
Bốn giới đầu đã được miêu tả trong phần, "Tứ thánh đế". Giới
thứ năm là từ bỏ rượu và các chất gây nghiện. Những chất này độc hại vì
người bị chúng tác động sẽ không còn khả năng phân biệt được nẻo chánh
đường tà. Rượu và chất gây nghiện khiến người ta nói những lời dữ dằn và
có khi đánh đập vợ con.
Một
số người cảm thấy ngần ngại khi thọ giới này vì e rằng sống trong xã
hội có những trường hợp mà hầu như ai cũng phải uống chút rượu. Tôi
không chắc là có bao nhiêu người thật sự muốn uống trong những bữa tiệc
hay trong một buổi sinh hoạt kinh doanh. Nhiều người uống có lẽ chỉ vì
nghĩ rằng người ta muốn thế chớ không phải xuất phát từ nhu cầu của
chính họ. Hầu như không một ai muốn uống cả! Thật lòng mà nói, từ chối
điều này không phải là việc khó. Không phải tất cả mọi người trong bữa
tiệc bỗng khựng lại để trố mắt nhìn chúng ta chỉ vì chúng ta không uống
đâu! Khi từ chối rượu, chúng ta đã nêu được một gương tốt cho những
người quá lệ thuộc vào rượu. Dù gì đi nữa, chúng ta không cần phải cảm
thấy xấu hổ khi hành xử theo những nguyên tắc riêng của chúng ta.
Có
những cách giải thích khác nhau đối với thuốc lá. Trong Phật giáo Đại
Thừa thì 5 giới này bao hàm cả việc cấm hút thuốc, nhưng trong Phật giáo
Nguyên Thủy thì lại không cấm.
Trà
và cà phê thì có thể được dùng. Tuy có chứa chất kích thích (caffeine)
nhưng chúng không làm cho chúng ta bị mê muội. Chúng ta cũng có thể dùng
ớt và các hương liệu khác.
Những
cư sĩ cũng có thể thọ trì 8 giới điều trong thời gian 24 giờ. Lần đầu
tiên thì chúng ta phải thọ giới từ một vị đạo sư đầy đủ giới pháp; tức
là người ấy đã được truyền trao giới pháp chính thức từ một vị đạo sư
đời trước. Chúng ta có thể truy nguyên nguồn gốc của dòng truyền thừa
liên tục này và thấy rằng chính đức Phật là vị đã chế định và truyền dạy
các giới điều này.
Đã
được thọ lãnh 8 giới này lần đầu tiên từ một vị đạo sư có phẩm hạnh thì
về sau chúng ta có thể tự lãnh thọ bằng cách quán tưởng ra rằng chúng
ta thọ nhận giới từ chư Phật, Chư Bồ Tát và A-la-hán. Nghi thức thọ thì
ngắn gọn và phải được cử hành trước khi bình minh. Giới phẩm đã thọ cũng
chấm dứt vào lúc bình minh ngày hôm sau.
Nhiều
người thích thọ Bát quan trai giới vào ngày Rằm và 30 của mỗi tháng mặc
dầu giới Bát quan trai có thể thọ lãnh bất cứ ngày nào. Năm giới đầu
của 8 giới này thì tương tự như 5 giới của cư sĩ nhưng có điểm đặc biệt
là giới cấm tà dâm được đổi thành cấm hành dâm vì những giới điều này
chỉ cấm trong thời gian một ngày mà thôi.
Giới
thứ sáu là tránh dùng nước hoa, đồ trang sức và trang điểm, đồng thời
cũng tránh việc ca hát, nhảy múa và âm nhạc. Giới điều này giúp cho
chúng ta không bị xao lãng việc tu tập. Không được làm đẹp cho thân thể
sẽ thúc đẩy chúng ta tu dưỡng cái đẹp trong tâm hồn, cái đẹp của lòng
thương, của từ bi và trí tuệ. Nếu chúng ta ca hát, ngâm nga thì khi ngồi
thiền những âm điệu cũng cứ du dương trong tâm của chúng ta.
Giới
thứ bảy là không được ngồi hay nằm trên một cái giường hay cái sập cao
và đắt tiền vì điều này có thể khiến cho chúng ta khởi tâm kiêu mạn, xem
bản thân là cao trọng hơn người khác.
Giới
thứ tám là không ăn đoàn thực sau giờ ngọ và chỉ ăn chay mà thôi. Khi
truyền giới Bát quan trai, một số vị đạo sư cho phép giới tử ăn một bữa
ngọ mà thôi, một số vị khác lại cho phép giới tử dùng bữa điểm tâm và
bữa ngọ. Một số vị đạo sư chỉ cho phép uống nước sau giờ ngọ mà thôi,
một số vị khác lại cho phép uống trà với tí sữa hay nước ép trái cây.
Mục
đích của giới điều này là giảm thiểu tâm vướng mắc vào thức ăn đồng
thời làm cho chúng ta tu tập thiền định hiệu quả hơn vào buổi tối vì nếu
chúng ta ăn tối phủ phê thì chúng ta sẽ cảm thấy thân thể nặng nề và
buồn ngủ.
Thọ
trì giới điều thật là lợi lạc. Cứ hình dung ra thế giới quanh ta sẽ như
thế nào nếu mọi người đều giữ giới thứ nhất, không bao giờ sát sinh!
Thế giới này sẽ trở thành một thế giới hoàn toàn khác chỉ vì một giới
điều như vậy. Khi chúng ta sống với giới điều thì những người chung
quanh chúng ta được ảnh hưởng mạnh mẽ và tức thời: họ sống một cách an
toàn và ổn định vì chúng ta đã quyết không làm hại họ nữa.
Hơn
thế nữa, những giới điều khiến cho chúng ta ý thức hơn nữa những hành
động, lời nói và những tâm thái của chúng ta. Giới điều khiến cho chúng
ta hiểu rõ hơn về bản thân vì chúng ta sẽ trở nên ý thức về những hành
vi đã trở thành tập quán của mình.
Cũng
vậy, khi đã nhất định từ bỏ một số hành động nào thì chúng ta không cần
phải cảm thấy hoang mang khi rơi vào tình thế bị cám dỗ làm một điều gì
đó mà khi làm xong chúng ta sẽ hối hận.
Mỗi
một phút giây chúng ta không tích cực làm điều gì vi phạm giới điều thì
chúng ta đã huân tập những thiện nghiệp ngay cả lúc chúng ta đang ngủ.
Chúng ta đã hạ quyết tâm mạnh mẽ là không làm điều đó và chúng ta đã
tích cực giữ vững quyết tâm như vậy. Huân tập thiện nghiệp có nghĩa là
chúng ta xây dựng nên nền tảng để chúng ta có thể đạt được những quả
chứng và tạo nên nguồn năng lực khiến chúng ta mệnh chung an lành và tái
sinh vào cảnh giới phúc lạc.
Nếu
chúng ta đủ duyên lành và muốn trở nên tỉnh giác hơn đối với hành động
và lời nói của mình thì chúng ta có thể xuất gia và thọ giới Sa-di (nếu
là người nam) hay Sa-di-ni (nếu là người nữ). Giới phẩm này gồm có 10
điều, truyền thống Tây Tạng còn thêm vào những giới phụ, nâng tổng số
lên đến 36.
Sau
khi thọ giới Sa-di đó (một thời gian) vị xuất gia ấy có thể thọ giới
đầy đủ để trở thành một Tỷ-kheo (nam giới) hay Tỷ-kheo-ni (nữ giới).
Những dòng truyền thừa khác nhau thì thường có số lượng giới điều khác
nhau. Trong cùng một dòng truyền thừa thì số lượng giới điều của tăng và
ni cũng khác nhau.
Theo
truyền thống sau khi thọ giới Sa-di-ni và trước khi thọ giới
Tỷ-kheo-ni, người nữ phải thọ một giới phẩm trung gian gọi là
Thức-xoa-ma-na, giới phẩm này gồm 12 giới điều ngoài những giới điều của
một vị sa-di-ni. Sau khi thọ giới Thức-xoa-ma-na trong thời gian 2 năm
thì vị ni ấy có thể thọ giới đầy đủ. Dòng truyền thừa của tất cả những
giới phẩm ở trên đã được trao truyền giữa thầy và trò, không hề bị gián
đoạn kể từ thời của Đức Phật cho đến ngày hôm nay.
Tuy
nhiên, trong các nước theo Phật giáo Nguyên Thủy ở Đông Nam Á, dòng
truyền thừa của ni bộ đã bị mai một trong nhiều thế kỷ qua. Ngày nay, ở
Tích Lan những người nữ thọ 10 giới được gọi là Dasasilmatas. Ở Thái
Lan, những người nữ thọ 8 giới được gọi bằng danh hiệu Maejis. Nhưng
trong cả hai trường hợp này những giới điều đều được xem là giới cư sĩ
mà thôi và những người phụ nữ này không được chính thức công nhận là
những vị ni cô có đầy đủ giới phẩm. Tuy nhiên những vị có trách nhiệm
đang xem xét việc đưa mạch truyền thừa Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na và
Tỷ-kheo-ni từ hệ thống Phật giáo Trung Quốc du nhập vào hệ thống Phật
giáo Nguyên Thủy ở trong nước.
Ở
Tây Tạng, Phật giáo đã bắt đầu truyền giới Sa-di-ni cho phụ nữ, nhưng
giới đàn truyền giới cho Tỷ-kheo-ni vẫn chưa có. Trong khi giới đàn
truyền giới cho Sa-di-ni chỉ cần có 4 vị Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni là có
thể thực hiện nhưng để lập giới đàn truyền giới cho Tỷ-kheo-ni thì phải
cần đến 10 vị Tỷ-kheo-ni hay Tỷ-kheo mới thực hiện được. Vào thời bấy
giờ những phụ nữ khó có thể vượt qua được rặng núi Hy-mã-lạp-sơn đầy
gian khổ và hiểm nạn để đến những cao nguyên quanh năm tuyết phủ phía
Bắc rặng núi này nên đại giới đàn truyền giới cho Tỷ-kheo-ni đã không
đến được Tây Tạng.
Phật
giáo Trung Quốc tiếp tục duy trì cả hai dòng truyền thừa Tỷ-kheo và
Tỷ-kheo-ni. Những năm gần đây, một số phụ nữ xuất gia theo truyền thống
Tây Tạng và truyền thống Nguyên Thủy đã tìm đến Trung Quốc để thọ giới
Tỷ-kheo-ni với những vị đạo sư Trung Quốc. Hiện nay, người ta đang nghĩ
đến việc tái lập giới đàn Tỷ-kheo-ni bằng cách đưa dòng truyền thừa này
từ Trung Quốc sang nhập vào hệ thống Phật giáo Nguyên Thủy và Phật giáo
Tây Tạng.
Thời
Minh Trị ở Nhật Bản giữa thế kỷ thứ 19, giới điều của Tỷ-kheo và
Tỷ-kheo-ni bị biến đổi mạnh vì khuynh hướng của chính quyền lúc ấy là
muốn những người xuất gia lập gia đình. Vì thế mà cho đến bây giờ ở Nhật
Bản có đủ dạng tu sĩ Phật giáo: có cả tăng lẫn ni, có những vị độc thân
lẫn những vị có vợ con gia đình. Những giới điều mà họ lãnh thọ có số
lượng sai khác tùy theo những dòng truyền thừa khác nhau.
Chỉ
trừ trường hợp 8 giới là được lãnh thọ trong trọn một ngày, tất cả
những giới điều khác đều được lãnh thọ trong suốt cuộc đời. Có thể xảy
ra trường hợp vì không thấy trước được những hoàn cảnh mà một Tỷ-kheo
hay một Tỷ-kheo-ni không còn khả năng kham lãnh giới điều đã lãnh thọ
hay có lẽ không còn muốn giữ giới nữa thì vị ấy có thể thưa việc ấy với
một vị đạo sư hay chỉ cần nói với một người có đủ trí để xin hoàn trả
lại những giới điều mà mình đã lãnh thọ.
Ở
Thái Lan có tục lệ là hầu hết những người nam đều trở thành những nhà
sư và lãnh thọ giới điều trong thời gian 3 tháng, hay ít nhất là một lần
trong đời. Họ thường làm như vậy khi họ là những thanh niên sắp sửa
bước vào cuộc đời. Việc này tạo cho họ một nền tảng đạo đức nghiêm cẩn
và cũng là một điềm lành lớn cho gia đình của họ. Vào ngày cuối của 3
tháng sống đời tăng sĩ xuất gia, những vị này hoàn trả lại giới điều và
trở về cuộc sống trần tục.
Tất
cả những giới điều kể trên - những giới điều của nam nữ cư sĩ và những
giới điều của các thứ bậc tăng ni khác nhau - đều thuộc về Biệt giải
thoát luật nghi, hay những giới điều hướng đến sự giải thoát tự thân.
Động cơ căn bản để lãnh thọ những giới điều này là chí nguyện vượt thoát
khỏi vòng sinh tử luân hồi. Đây là những giới điều có tính phổ thông,
chung cho tất cả những truyền thống Phật giáo nhằm điều chỉnh lại những
hành động về thân và về lời nói của chúng ta. Không hề có sự sai khác
trong việc truyền thọ giới pháp Biệt giải thoát luật nghi dù đó là
Nguyên Thủy, Đại Thừa hay Kim Cang Thừa.
Trong
truyền thống Đại Thừa có tập tục phát đại nguyện xả thân bố thí của Bồ
Tát giới trước rồi mới lãnh thọ Bát quan trai giới sau. Thọ Bát quan
trai giới theo cách đó được gọi là "Bát Đại Thừa giới." Những vị tăng ni
không lãnh thọ 8 giới điều thông thường trong một ngày vì 8 giới điều
đó đã được bao hàm trong giới cụ túc mà họ đang trì giữ thì tăng ni vẫn
có thể lãnh thọ Bồ Tát giới này.
Giới điều của Bồ Tát
Trên
nền tảng quy y hay một giới phẩm Biệt giải thoát luật nghi mà chúng ta
đã thọ lãnh, chúng ta có thể tiến đến việc thọ Bồ Tát giới. Thọ Bồ Tát
giới không chỉ với quyết tâm thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi mà còn có
quyết tâm theo chí hướng đạt được quả vị Bồ đề để làm lợi lạc cho tất cả
chúng sinh. Bồ Tát giới có tác dụng đặc biệt là chế ngự tâm thái vị kỷ.
Bồ Tát giới không chỉ điều chỉnh những hành động về thân hay về lời nói
mà còn tác động tới tư tưởng và tâm thái. Như vậy Bồ Tát giới khó hành
trì hơn so với các giới phẩm thuộc Biệt giải thoát luật nghi.
Bồ
Tát giới chỉ riêng có trong Phật giáo Đại Thừa mà thôi. Cư sĩ, Tỷ-kheo
hay Tỷ-kheo-ni đều có thể thọ Bồ Tát giới. Mặc dầu bản chất của những
giới phẩm Bồ Tát là giống nhau nhưng số giới điều trong dị bản của Tây
Tạng và Trung Quốc lại khác nhau. Khi thọ lãnh những giới điều này chúng
ta phải có quyết tâm hành trì cho đến khi thành chánh quả mới thôi.
Nhưng chắc chắn chúng ta cần phải thọ giới lại mỗi khi tái sinh qua một
kiếp sống mới!
Trung
Quốc có tục lệ đốt liều trên đầu những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni và đốt liều
trên tay của những người cư sĩ vào buổi tối trước khi họ thọ lãnh Bồ Tát
giới. Việc đốt liều này để lại những vết sẹo tròn như đầu đũa xếp ngay
hàng thẳng trên đầu hay trên tay. Trên đầu có khi là 3 vết thẳng 1 hàng
từ trên xuống, có khi là 6 vết xếp thành 2 hàng từ trên xuống, có khi là
9 vết xếp thành 3 hàng từ trên xuống. Đặc biệt chỉ trong truyền thống
Phật giáo Trung Quốc mới có tập tục này, những truyền thống Phật giáo
khác không có. Việc đốt liều này được thực hiện bằng cách đặt những
miếng nhang nhỏ đang cháy trên đầu hay trên cánh tay, rồi để cho chúng
cháy sâu vào da. Một số vị muốn đốt nhiều hơn trong khi những vị khác
chỉ muốn đốt ít thôi. Nhưng chúng ta nên biết rằng không phải đốt liều
nhiều là tu lâu, tu cao; đốt liều ít là người mới tu, hay là tu cấp
thấp.
Mặc
dầu nghi lễ này có vẻ khủng khiếp đối với một số người nhưng thật sự
không ghê gớm như họ nghĩ. Có lẽ vì cả chùa lúc ấy tụng kinh, niệm Phật
vang rền và người đang bị đốt cũng không để ý gì đến sự đau đớn của bản
thân.
Nghi
lễ này có 3 ý nghĩa: Một, vì Bồ Tát giới hướng đến việc chứng được đạo
quả Vô Thượng Bồ đề để làm lợi lạc cho tha nhân nên chúng ta phải luyện
tập tâm dũng cảm, chịu đựng sự đau đớn trong quá trình làm ích lợi chúng
sinh. Rõ ràng đây không phải là một chủ trương hành xác. Không phải
chúng ta tìm kiếm cảm giác đau đớn mà đúng hơn là chúng ta thực tập đối
mặt với những nghịch cảnh. Trong quá trình giúp ích cho người khác sau
khi thọ giới Bồ Tát, tức là giới xả thân bố thí, chúng ta phải có khả
năng chịu đựng được đau đớn và khổ sở. Chịu đựng cơn đau do nhang cháy
trên da đầu biểu hiện sự dũng cảm và quyết tâm của chúng ta trong việc
giúp đỡ cho tất cả người khác bất kể chúng ta phải trả giá như thế nào.
Hai,
điều này biểu trưng cho việc chúng ta cúng dường xác thân này lên Đức
Phật. Chắc chắn là Đức Phật không xem đó là việc cần phải làm và cũng
không yêu cầu chúng ta thực hiện nghi lễ có vẻ đau đớn như vậy để chứng
tỏ lòng thành. Ở Trung Hoa nghi lễ này rất phổ biến và biểu thị cho việc
chúng ta sẵn sàng xả thân bố thí theo lời dạy của Phật. Thông thường
chúng ta rất đắm trước và bảo bọc thân thể của chúng ta. Việc đốt liều
biểu trưng ý nghĩa rằng tâm đắm trước và luyến ái đó của chúng ta đã bị
đoạn trừ qua việc chúng ta dâng cả thân tâm lên cúng dường Đức Phật.
Ba,
ý nghĩa này mang tính thực tiễn. Ngày xưa ở Trung Hoa, chư tăng và các
vị ni ít bị ràng buộc theo luật pháp ở thế gian mà bị ràng buộc rất chặt
chẽ theo giới luật của nhà Phật và nội quy của Tăng viện. Tuy nhiên,
chính quyền cũng như Tăng viện đều không muốn những phạm nhân giả dạng
tăng ni để trốn tránh hình phạt của pháp luật. Do vậy, truyền thống đốt
liều trên đầu của chư tăng ni đã được thiết lập ở Trung Hoa để cho người
ta phân biệt được dễ dàng người xuất gia chân chính và người gian tà
giả dạng xuất gia.
Giới điều của Mật Tông
Bộ
giới luật thứ ba gồm những giới điều của Mật Tông. Giống như những giới
điều của Bồ Tát, những giới điều của Mật Tông cũng giúp cho chúng ta
kiểm soát những hành động về thân, về lời nói và về ý tưởng. Giới pháp
này chủ yếu nhắm đến việc đoạn trừ những ảo tướng và ảo tưởng. Những cái
khiến cho chúng ta thấy các pháp là thông thường, thực hữu và qua đó
ngăn cản, không cho chúng ta chứng đạt đạo quả Bồ đề. Hành trì nghiêm
nhặt những giới luật của Mật Tông là điều khó thực hiện. Tuy nhiên, lợi
lạc do việc hành trì đem lại cũng vô cùng to lớn.
Các
giới điều của Mật Tông được truyền thọ thông qua một số lễ nghi nhập
môn chỉ có trong truyền thống Mật Tông mà thôi. Để được truyền thọ giới
pháp của Mật Tông, trước đó chúng ta phải thọ lãnh một số hay tất cả
những giới điều thuộc Biệt giải thoát luật nghi và những giới điều của
Bồ Tát. Chúng ta thệ nguyện giữ gìn những giới điều của Mật Tông cho đến
khi chúng ta đạt được quả vị giác ngộ hoàn toàn.
Thọ giới
Lãnh
thọ bất cứ bộ giới luật nào là việc làm hoàn toàn mang tính tự nguyện.
Để thọ giới chúng ta phải nhận thức được những lợi lạc của một đời sống
có đạo đức. Có vô số những điều lợi lạc nhưng có thể nói tóm lại rằng
sống đời đạo đức đưa chúng ta đến giải thoát, giác ngộ và khiến chúng ta
có thể làm lợi ích cho người khác.
Một
số người ngần ngại trong việc thọ giới vì cảm thấy rằng khó có thể giữ
gìn giới luật một cách hoàn hảo sau khi thọ giới. Chúng ta không nên kỳ
vọng rằng chúng ta sẽ trở nên hoàn hảo ngay từ phút đầu. Nếu chúng ta có
thể giữ gìn những giới luật hoàn hảo ngay từ phút đầu sau khi thọ giới
thì chúng ta không cần thọ giới nữa vì chúng ta đã là một vị A-la-hán
hay một vị Phật rồi. Chúng ta thọ lãnh những giới điều chính là vì chúng
ta chưa có thể giữ giới một cách hoàn hảo được. Nhưng qua quá trình cố
gắng thì những hành động, lời nói và tâm thái của chúng ta sẽ dần dần
được uốn nắn theo chiều hướng thanh tịnh.
Ngược
lại, chúng ta không nên thọ giới nếu chúng ta hoàn toàn không có khả
năng giữ giới. Là một việc làm sai lầm, nếu chúng ta cố cượng thọ giới
mà không có chút khả năng gìn giữ! Chúng ta cần có một thái độ cân phân
chín chắn. Ví dụ như một đứa bé muốn ăn một miếng dưa hấu nhưng lại
không dám vì thấy trái dưa ấy to quá. Không dám nghĩ đến ăn dưa nữa thì
đứa bé quả thật đã mất đi một cái gì có ích lợi. Ngược lại nếu đứa bé
muốn nhét cả trái dưa to vào miệng ngay tức khắc thì đứa bé sẽ bị nguy
hiểm. Nhưng bằng cách đưa vào miệng từng miếng vừa chừng thì đứa bé dần
dần được no đủ và khỏe mạnh. Tương tự như vậy, chúng ta nên thọ lãnh dần
dần những giới điều tùy theo năng lực tu tập của chúng ta.
Để
gìn giữ những giới mà chúng ta đã lãnh thọ, chúng ta cần phải chánh tâm
và tỉnh thức. Trường hợp lỡ sai phạm, chúng ta có thể áp dụng 4 sức
mạnh đối trị - hối lỗi, quy y và chí hướng xả thân bố thí, lấy công
chuộc tội và quyết định không tái phạm - để tẩy sạch những dấu ấn xấu
trong dòng chảy tâm thức của chúng ta. Bốn sức mạnh đối trị này đã được
miêu tả trong chương trước đây khi thảo luận về vấn đề nghiệp.
Những
giới điều được xem là những món trang sức cho một hành giả chân chính.
Ngay cả khi chúng ta không muốn thọ giới thì việc từ bỏ 10 bất thiện
nghiệp cũng để lại những kết quả tốt đẹp tức thời trong đời sống của
chúng ta. Những người xung quanh chúng ta sẽ nhận ra sự khác biệt trong
phong cách mà chúng ta hành xử và gia tăng niềm tin và sự kính trọng đối
với chúng ta. Tâm hồn của chúng ta sẽ yên tĩnh hơn và dễ tập trung hơn
khi chúng ta thiền định. Hành xử đạo đức thật sự là nền tảng cho tất cả
những hạnh phúc dù là tạm thời hay miên viễn. Đức Phật đã nói:
Đàn hương cùng với hương trầm,
Hương sen thơm dịu, suốt năm hương lài.
Hương thơm đức hạnh xa bay;
Thơm hơn tất cả, đất trời ngát hương.