Hôm thứ bảy, nghĩa là sau đó hai hôm, tôi đi chùa lễ Phật
cầu nguyện cho mẹ bởi vì hôm đó nhằm ngày rằm tháng chín âm lịch, ngày
giỗ của mẹ. Tình cờ hôm đó tại chùa cũng có đại lễ kỷ niệm bảy mươi năm
ngày Phật giáo du nhập Hợp Chủng Quốc. Lễ này tổ chức liên tiếp trong ba
ngày và có nhiều đại biểu từ các tiểu bang đến dự. Ngôi chùa không to
lớn gì, thành thử giảng đường nơi hành lễ cũng chỉ lớn bằng giảng đường
chùa Ấn Quang. Vậy mà họ gọi là đó là Mỹ Quốc Phật Học Viện
(American Buddhist Academy). Cái tên thì lớn, kỳ thực chùa chỉ có
một số lớp dạy giáo lý và thực hành cho các cư sĩ, còn ngoài ra thì dạy
pha trà, cắm hoa và đàm thoại Nhật ngữ. Chùa thuộc hệ phái Tịnh Độ Chân
Tông và do hai vị trông nom: Hozen Seki vị trú trì. Và giáo sư Phillips
giảng sư. Vị này trước là giáo sư ở đại học đường Delaware.
Để tôi
nói sơ lược về Phật giáo bên này cho Nguyên Hưng nghe. Ở Hiệp Chủng Quốc
có vào khoảng tám mươi ngàn người theo đạo Phật, trong đó phần lớn là
người Nhật và người Trung Hoa hoặc đã trở thành công dân Mỹ, hoặc chưa.
Trung tâm Phật giáo đặt tại 1710 đường Octario, Cựu Kim Sơn. Các “tăng
sĩ” đều là tân tăng của phái Tịnh Độ Chân Tông, khoảng bảy mươi vị, hầu
hết là người Nhật rải rác trong các tiểu bang, một số có mặt trong các
đại học Mỹ để dạy về ngôn ngữ và văn chương Nhật Bản. Có năm mươi bốn
ngôi chùa lớn nhỏ rải rác khắp toàn lãnh thổ. Ngôi chùa ở Nữu Ước so với
các ngôi chùa ở Cựu Kim Sơn thì nhỏ bé hơn nhiều. Trong số những người
về dự lễ, tôi gặp hai tu sĩ Nam Tông khoác áo vàng, đại đức Anuruddha và
đại đức Vinita một người từ tiểu bang Connecticut, còn một người từ
Massachusetts. Lễ dâng hương cử hành lúc ba giờ chiều. Vị đại sứ Tích
Lan, ông Susantha de Fonseka, cũng có mặt để đọc diễn văn chúc mừng.
Tôi đi
bộ một mình đến chùa và đi thật thong thả. Chùa chỉ cách nơi tôi ở có
năm ô (bloc) ở vào số 331 đường Riverside Drive. Khi tôi đến thì gần đến
giờ thuyết pháp. Khán giả chỉ chừng hai trăm người gồm nhiều quốc tịch
trong đó đa số người Nhật. Bài giảng không gây nổi cảm hứng làm tôi thất
vọng. Ở đất này mà giảng như thế thì không làm sao gieo được hạt giống
đạo Phật trong quần chúng. Nguyên Hưng cũng biết, giáo lý Tịnh Độ Chân
Tông cũng như tổ chức của Tịnh Độ Chân Tông không khác giáo lý Thệ Phản
là mấy, cả hai đều chú trọng đến tha lực. Vậy thì món ăn đó không thể
nào được gọi là mới lạ đối với người Anh và người Mỹ. Thêm nữa để diễn
giải giáo lý Cơ đốc của họ, đã có biết bao viện thần học, bao nhiêu nhà
truyền giáo xuất sắc; trong khi đó tổ chức Tịnh Độ Chân Tông ở đây thiếu
cơ sở giáo dục và đào tạo bắt chước một cách thiếu thông minh nên không
thể không chứng tỏ sự kém cỏi non nớt của mình. Thực ra dân Mỹ là một
dân có tinh thần tự lập tự cường; trong gia đình cũng như ở ngoài xã
hội, con người được đào luyện để có tinh thần tự lập ấy và để khỏi phải
nương tựa và sống bám vào những kẻ khác. Như thế chắc chắn một giáo lý
như giáo lý tự lực của Thiền Tông sẽ rất thích hợp với họ. Giáo lý Thiền
Tông hoàn toàn căn cứ vào tự lực để xây đắp, phát triển và giác ngộ bản
thân trong lúc giáo lý Cơ Đốc và Tịnh Độ tự nhận khả năng thiếu kém của
con người và nhấn mạnh đến năng lực cứu độ của một thế lực bên ngoài.
Cho nên Nguyên Hưng sẽ không lấy làm lạ khi thấy sự truyền bá của đạo
Phật Tịnh Độ ở đây chưa gặt hái được những kết quả nào đáng kể. Chúng ta
cũng không ngạc nhiên khi thấy tư tưởng Thiền được hâm mộ một cách nồng
nhiệt ở đây. Giáo sư Suzuki đã gây được những tiếng vang lớn lao về
thiền học ở đất nước này. Sống trong một xã hội quá hoạt động, quá náo
nhiệt, và khi đã mệt mỏi vì những tính toán những suy luận hình thức, cố
nhiên người ta khao khát một cái trầm tĩnh, tươi mát và tự tại như tinh
thần Thiền học. Có sống ở đây Nguyên Hưng mới thực chứng được điều
đó.
Để bù
lại sự thiếu kém về nội dung giá trị tư tưởng, các nhà truyền giáo Tịnh
Độ ở đây phải dùng đến những hình thái sinh hoạt văn hóa Nhật. Người Mỹ
ưa món ăn Nhật, nghe đàn Koto, chứng kiến các cuộc pha trà, cắm hoa, vân
vân. Thế cho nên sau thời thuyết pháp, có một buổi trình diễn đàn Koto.
Mà buổi trình diễn đàn Koto độc chiếc ấy đã kéo lại thăng bằng cho buổi
giảng. Ngồi hai bên tôi là những người Mỹ. Họ tỏ vẻ lơ đãng trong thời
thuyết pháp như họ lại đã tỏ ra rất thích thú khi nghe đàn Koto.
Tôi
cũng thích những bài đã được trình diễn hôm ấy lắm, Nguyên Hưng. Nhạc sĩ
Kimioto Eto. Chàng còn trẻ, vào khoảng ba mươi tuổi, khuôn mặt hiền hậu
và dễ thương. Trong chiếc Kimono màu đen, chàng bước chậm chạp lên diễn
đài, theo tay dìu đỡ của một chàng thanh niên khác. Tôi nghĩ có lẽ vì
mắt chàng không trông được rõ. Sau lời giới thiệu của đại đức Saki,
chàng chậm rãi ngồi xuống, mỉm cười lặng lẽ, và không nói năng chi. Sao
mà tôi yêu cái dáng điệu ấy quá. Chẳng bao giờ chàng nhìn xuống khán
giả. Chàng chỉ để tầm mắt trên khoảng rộng của chiếc đàn phủ khăn trắng.
Và nụ cười của chàng, nụ cười thật lạ kỳ, thật là lặng lẽ, thật là hàm
xúc. Tôi không ngờ ở đất này mà có được một nụ cười như vậy.
Chàng
nói là chàng sẽ đàn để cúng dường ngày kỷ niệm 70 năm Phật giáo du nhập
Mỹ quốc, để dâng lòng thành lên đức Từ Bi. Con số bảy, chàng nói, nó rất
quan trọng đối với chàng. Cha chàng mất đây bảy năm, và mẹ chàng
cũng từ trần bảy tháng trước. Nay là lễ bảy mươi năm kỷ
niệm Phật giáo du nhập. Và đôi mắt nhỏ lệ. Khuôn mặt trầm lặng, tràn đầy
xúc cảm; một niềm cảm xúc lẫn lộn trong tín ngưỡng, thương nhớ và bâng
khuâng. Chàng đàn, những bản tự do tay chàng sáng tác. Bản đầu tiên là
bản tiếng hát hy vọng. Điệu nhạc tuy trầm buồn thao thức nhưng
chứa đầy sức sống nhẫn nại, chứa đầy ý chí cố gắng đi tới. Bản thứ hai
là bản Gió mùa thu ngát hương thương nhớ, và bản thứ ba. Tiếng
nói tin tưởng của chàng đối với đạo Từ Bi. Mỗi bài được cách khoảng
với bài khác bằng một thời gian lặng yên trong nụ cười trầm tĩnh. Xong
bản thứ ba, chàng nói cho mọi người biết là hai mắt chàng mù và chàng
không thấy gì hết. Mọi người xúc động; tôi cũng xúc động cả tâm hồn, bởi
vì trước đây không ai nghĩ rằng chàng lại là một người mù.
Nước
mắt tôi muốn trào ra; tôi đứng dậy ra về trước mọi người, bỏ nữa chừng
cuộc trình diễn. Tôi thấy như vậy là quá đủ. Trên con đường Bờ Sông tôi
đi thong thả từng bước một, lòng thấy bâng khuâng. Nụ cười của Kimioto
vẫn còn nguyên vẹn, huyền diệu, trầm lặng. Nếu không biết khổ đau, không
bao giờ người ta có thể có được một nụ cười như thế. Và tôi hiểu tại sao
nụ cười đã làm cho tôi xúc động ngay từ khi tôi mới trông thấy
chàng.
Đường
Riverside Drive vắng vẻ. Đột nhiên tôi nhớ tới lời những người bạn dặn
dò không nên đi một mình trong đêm khuya trên các con đường vắng đô
thành. Nữu Ước có rất nhiều bọn bất lương như bất cứ thành phố nào trên
thế giới. Nghĩ như thế, tôi định rẽ sang đường 108 để trở vào Broadway.
Vừa rẽ sang đường 108 tôi bỗng thấy mặt trăng, tròn như khuôn mặt hoa
sen đức Phật, hiện ra giữa mảnh trời do hai nhà hàng nhà cửa cao vút bên
đường chừa lại. Thật là mầu nhiệm. Mặt trăng ở về phía trước mặt tôi, và
cũng đi về phía tôi đi.
Mặt
trăng Rằm tháng Chín. Chắc là mẹ tôi cũng đi theo tôi đến chùa khi trăng
mới mọc.
Cái
mặt trăng ấy đã chiếu sáng trên nóc chùa lúc tôi ngồi nghe thuyết pháp,
đã chiếu sáng trên nóc chùa lúc tôi ngồi nghe trình diễn đàn Koto. Và
mặt trăng ấy bây giờ cũng lại đi theo tôi về tận nhà. Sáu năm về trước,
mẹ tôi mất vào ngày trăng tròn tháng chín… Trăng khuya bao giờ hiền hòa
êm dịu và mầu nhiệm như tình mẹ. Trong suốt bốn năm trời tôi có cảm giác
rất rõ rệt là tôi mất mẹ. Nhưng mà có một đêm tôi nằm mơ thấy mẹ, và từ
lúc đó, cảm giác kia không còn nữa. Tôi thấy mẹ tôi chưa bao giờ mất cả,
và những đau khổ xót xa trước kia chỉ là những ảo giác trong một giấc
mộng. Tôi còn nhớ đó là một đêm tháng tư ở cao nguyên. Tôi nằm mơ thấy
mẹ tôi, dung nhan không có gì biến đổi. Tôi nói chuyện với mẹ tôi rất tự
nhiên, không có một mảy may cảm giác rằng tôi trong bốn năm, chịu đựng ý
tưởng mất mẹ. Chắc Nguyên Hưng muốn hỏi tôi rằng trong bốn năm ấy tôi có
lần nào nằm mơ không. Có, tôi nằm mơ thấy mẹ tôi vài lần, nhưng mà những
lần thấy như thế không có tác dụng gì rõ rệt sau khi tôi tỉnh thức
cả.
Lần
này, khi tỉnh thức, tôi cảm thấy tâm hồn bình yên một cách kỳ lạ và tôi
thấy một cách rất hiện thực rằng sự sinh diệt của mẹ tôi là một cái gì
do tôi tạo ra mà không phải là một thực tại khách quan. Sự hiện thực của
mẹ tôi không tùy thuộc vào sinh diệt; không phải nhờ sinh mà mẹ tôi có,
không phải vì diệt mà mẹ tôi không có. Cái có với cái không là sáng tạo
phẩm của nhận thức chủ quan và do có không hẳn là có và không
không hẳn là không. Có là để đối với không, và không là để đối lại
với có. Thực ra, đã có thì không thể nào là không, và từ không thì không
thể nào sinh ra có. Tôi không muốn lý luận với Nguyên Hưng, tôi chỉ muốn
nói với Nguyên Hưng, thế thôi. Bữa đó, tôi thức dậy vào lúc một
giờ rưỡi khuya và thấy phép mầu hiển hiện. Niềm đau xót không còn nữa và
tôi chứng thực rằng ý tưởng mất mẹ trong suốt bốn năm vừa qua chỉ là
những ý tưởng. Thấy được mẹ trong giấc mơ ấy rồi tức là thấy mẹ tôi mãi
mãi. Điều này tôi càng thấy rõ hơn khi tôi đi mở cửa đi ra vườn. Vườn
đầy ánh trăng khuya dịu dàng và nhiệm mầu. Đó là sự có mặt của mẹ, nhớ
thương, đó không là một sự tự an ủi mình. Tôi có thể thấy mẹ tôi bất cứ
ở đâu và lúc nào tôi muốn.
Nguyên
Hưng, hồi tháng tám trong lúc còn ở Medford, tôi có viết để làm quà cho
những người trẻ tuổi quen biết ở nhà một đoản văn tôi là Bông Hồng
Cài Áo. Ngồi ở trong nhà gỗ Pomona, tôi đã viết ra những dòng chữ
giản dị kia trong lúc chim hót vang rừng. Khi tôi gửi nó đi rồi - tôi
gởi cho Nhiên - tôi mới biết rằng những cảm nghĩ trong ấy phát sinh từ
một cái nhìn khá mới lạ, cũng là cái nhìn mà tôi đã diễn tả trong lá thư
viết cho thầy Thanh Từ. Ngày xưa nói về văn học Việt Nam, tôi cứ giảng
đi giảng lại mãi câu thơ:
“mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
đình
tiền tạc dạ nhất chi mai”.
của
Mãn Giác Thiền Sư đời Lý, rất khâm phục ý tưởng của tác giả nhưng mà
chưa bao giờ đón nhận được cái tâm tư của tác giả một cách đích thực.
Thì ra trong lúc nhận thức cởi mở, trong lúc cái vỏ cứng nứt rạn, ta có
thể trông thấy những điều thật là mầu nhiệm. Cũng như ta có thể thấy
được sự hiện hữu của cành mai trong một đêm tăm tối và lạnh lẽo của mùa
Đông.
Chúng
ta sinh vào thời đại trong đó sự xung đột giữa các giá trị cũ và mới
đang sắp đi đến chỗ kết thúc. Tuy vậy nó chưa kết thúc được, và dấu vết
của sự xung đột còn hằn lên rõ ràng trong tâm hồn chúng ta. Những câu
hỏi mới của triết học đã làm cho chúng ta bơ vơ thêm, lạc lõng thêm,
thao thức thêm. Trong trạng thái rối bời của tâm trí, ý niệm về sự vô lý
của hiện hữu xấu xa, con người xấu xa; con người muốn tốt cũng không thể
nào tốt được, hiện hữu muốn đẹp cũng không thể nào đẹp được. Trong tình
trạng đó lắm khi chúng ta còn có ảo tưởng rằng chúng ta có tự do, chúng
ta còn là chúng ta. Nhưng hẳn Nguyên Hưng cũng đã từng biết rằng kinh
nghiệm bản thân rằng chúng ta nhiều khi chỉ viết chính tả, mà kẻ
đọc cho chúng ta viết vốn không phải là ta mà lại là những dấu vết được
ghi trên chúng ta, hoặc nói một cách khác hơn là mệnh lệnh của nghiệp
lực cộng đồng. Chúng ta đã không được là chúng ta thì, nếu chúng ta có
tự do đi nữa, tự do đó cũng không phải là tự do của chúng ta. Có lúc
chúng ta không còn “ham” tự do nữa, có lúc chúng ta sợ hãi tự do: đó là
tại vì chúng ta không thực là chúng ta. Chúng ta bị bao phủ rất là nhiều
lớp rong rêu và vôi gạch. Chúng ta cần đập vỡ tất cả để được giải thoát.
Nhưng chúng ta sợ sự đập vỡ đó, bởi vì chúng ta cứ tưởng những lớp vôi
gạch rong rêu đó mà vỡ thì chúng ta cũng vỡ luôn, mà những lớp vôi gạch
rong rêu đó, than ôi, có phải là chúng ta đâu.
Ngày
tôi khám phá ra cái điều mà tôi nói đó, tôi bổng thấy tôi nhìn tất cả
mọi vật với một cặp mắt khác lạ. Trước hết, tôi nhìn vào tôi, và tôi
thấy thân thể tôi quả là một cái gì mầu nhiệm. Tôi chưa bao giờ nhìn tôi
như thế. Tôi thấy không có lý do gì mà ta lại có thể nhìn thân thể ta,
một trong năm phần của hợp thể ngũ uẩn, với một cặp mắt coi thường.
Chúng ta có khuynh hướng coi thường những gì nằm trong tầm tay của chúng
ta. Chúng ta đánh giá chúng một cách quá hạ và lắm khi vì u mê chúng ta
nguyền rủa sự tồn tại của chúng. Như đôi mắt của tôi đây chẳng hạn. Vì
tôi có đôi mắt, và vì tôi cho đó là một sự thực hiển nhiên - mà hiển
nhiên sao được, làm gì mà hiển nhiên được một cách dễ dàng thế - cho nên
tôi không chú trọng tới chúng, không cần hỏi han chúng, không nhận được
thông điệp của chúng và do đó tôi mất chúng. Có cũng như không. Chỉ khi
nào người ta bị mù đột ngột, người ta mới cảm nhận được sự hiện hữu
trước kia của đôi mắt; nhưng cảm nhận như thế thì muộn quá rồi. Một
người mù được sáng mới biết thế nào là sự hiện diện quý giá của một đôi
mắt; người đó có thể sống sung sướng ngay trên trái đất, sung sướng hơn
cả trên thiên đường. Thế giới đầy màu sắc này, cùng với đôi mắt kia là
những gì thật mầu nhiệm, là những gì có thể hiến dâng cho chúng ta những
sung sướng ngây ngất. Từ lúc đó chẳng khi nào nhìn mây trắng trời xanh
mà tôi lại không nhìn với nụ cười. Thế giới đột nhiên giầu có hẳn lên và
tươi sáng hẳn lên. Người mù mới sáng có thể tìm thấy thiên đường, nhưng
hắn sẽ làm quen với thiên đường trong một thời gian ngắn, rồi vẫn coi
thường thiên đường, cho thiên đường là cái gì hiển nhiên. Và vì vậy, hắn
sẽ mất thiên đường trong vài ba tuần lễ, nhiều lắm trong vòng ba tháng.
Trong khi đó một con mắt tâm linh của Nguyên Hưng sẽ không bao giờ làm
mất thế giới pháp thân.
Hồi
nhỏ chúng ta được dạy rằng những đau khổ lớn của con người là sinh, lão,
bệnh, tử, là ước mong mà không được thành tựu, là hợp nhau mà không được
chung nhau, là khắc nhau mà vẫn vẫn phải gần nhau. Nhưng mà Nguyên Hưng
ơi, những đau khổ đích thực của con người không nằm trong sinh, lão,
bệnh, tử, không nằm trong trường hợp ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất
đắc. Nó nằm ở trong cái cách chúng ta nhìn thực tại. Quả là như vậy đó,
Nguyên Hưng. Sinh lão bệnh tử, sự chia cách, sự kết hợp vẫn có những mầu
nhiệm của chúng, vẫn là những đặc tính quý giá của hiện hữu. Điều quan
trọng nhất là làm như thế nào ngồi yên lành trên những đợt sóng hiện
tượng đó với một nụ cười của bản thể không sinh không diệt.
Tôi
nhớ trong kinh Bảo Tích có một đoạn như sau đây. Phật nói: Có một người
nhặt cục đất ném vào con chó. Con chó đau quá, tức giận chạy theo cục
đất để cắn trả thù. Con chó không biết rằng kẻ thù không phải là cục đất
mà là người ném cục dất. Cũng như vậy, những kẻ khờ dại nghĩ rằng mầu
sắc, âm thanh, hương vị v.v… là nguyên do khổ đau và kết luận rằng muốn
hết khổ đau thì phải tiêu diệt hoặc lánh xa sắc, thanh, hương, vị, xúc…
Kỳ thực đau khổ không nằm trong sắc, thanh, hương,vị xúc. Đau khổ nằm
nơi cách nhìn và sử dụng của chúng ta đối sắc, thanh hương vị xúc.
Vấn đề là như thế. Chúng ta khổ đau không phải vì thực tại chất chứa
khổ đau, mâu thuẫn và vô lý mà vì chúng ta đã nhìn thực tại qua những
lớp màn nhận thức đen tối mang nặng tư kiến tư dục của chúng ta để thấy
thực tại chất chứa khổ đau, mâu thuẫn và vô lý. Có lần đi xa quê nhà
hằng năm phải nói tiếng ngoại quốc cả ngày tôi bổng thấy nhớ những giọng
nói quen thuộc quá chừng. Lắm khi tôi ao ước được nghe những giọng nói
quen thuộc ấy đến nỗi tôi nghĩ rằng vài ba phút thôi cũng đủ làm cho tôi
sung sướng suốt ngày. Mà kỳ lạ thực, Nguyên Hưng, tự nhiên - sao lại tự
nhiên - một buổi sáng chuông điện thoại reo và tôi được nghe tiếng của
Phượng từ bên nhà gọi sang. Câu chuyện tuy ngắn ngủi và chỉ gồm có một
số câu hỏi về công việc nhưng tôi cũng thấy quý giá và do đó cũng sung
sướng đến mấy ngày. Từ đó mỗi khi nói chuyện với một người thân là tôi
để hết tâm ý vào câu chuyện và ngthe thấy cả tiết điệu của giọng nói.
Tôi phân biệt được giọng nói và cả những lo âu những cảm động những thao
thức vân vân… chứa đựng trong giọng nói. Đó thật cũng là một điều mầu
nhiệm. Dễ gì mà nghe được như thế, hiểu được như thế và cảm nhận được
như thế. Tuy vậy trong chúng ta ai cũng có điều kiện để nghe, để hiểu để
cảm nhận. Tôi không bao giờ còn thái độ khinh suất và lơ là với bất cứ
một hiện tượng nào xẩy ra đến trước giác quan của tôi. Một cái lá rơi
vào phòng hay một tiếng kêu của em bé chơi đùa dưới bãi cỏ non cũng là
một sứ giả của hữu thể. Tôi nhìn ngắm, lắng nghe tiếp nhận thông điệp
của hữu thể đó do chúng mang đến. Sự xa cách người thân yêu, sự thất
vọng sự chạm trán với những gì ta không ưa thích cũng trở nên mầu nhiệm
và tràn đầy tính cách xây dựng. Nhờ những thứ đó mà tôi mới được là tôi.
Nguyên Hưng mới được là Nguyên Hưng và nụ cười kia mới có thể là một nụ
cười. Dưới ánh sáng của cái nhìn ấy, thấy những yếu đuối những dại dột
của con người cũng có những khía cạnh mầu nhiệm của chúng. Có những bông
hoa khi nở rồi thì không bao giờ còn héo tàn nữa. Nhìn dưới ánh sáng ấy
thì sinh diệt nào có khác chi niết bàn. Vì vậy có một đêm trong giờ tư
duy tôi bỗng muốn la lên rằng: sự nghiệp của các đức Phật đã được hoàn
tất tự những bao giờ, và sở dĩ nó đã hoàn tất cũng vì nó chưa bao giờ
thực sự khởi đầu cả.
Nguyên
Hưng, nhìn lại lịch sử nhân loại và nhìn lại quá khứ của chúng ta,
Nguyên Hưng sẽ phải công nhận rằng quả tình Nguyên Hưng không thể phân
biệt được cái gì là thực sự may và cái gì thực sự rủi, cái gì thực sự
tốt và cái gì thực sự xấu. Chắc Nguyên Hưng còn nhớ câu chuyện người
trại chủ mất ngựa. Mất ngựa có hẳn đó là rủi ro không, điều đó chỉ có
một cái nhìn bao quát thời gian và không gian mới trả lời được. Bất cứ
sự thành công nào cũng kéo theo sự bất lợi của nó và bất cứ sự thất bại
nào cũng đóng góp được vào cái ánh sáng trí tuệ hoặc cái thành công của
tương lai. Ta có thể nói rằng cái kia vừa may lại vừa rủi, vừa tốt lại
vừa xấu, và như thế có khác chi nói rằng không thực sự có may, rủi, tốt,
xấu mà chỉ có nhận thức ngắn và hẹp của con người tạo nên tốt xấu. Tất
cả đều là những phân biệt biến kế của nhận thức. Nguyên Hưng, người ta
nói rằng không thể nào thành lập được một nền luân lý nếu không thiết
lập được tiêu chuẩn thiện ác. Nhưng mà mây bay hoa nở, gió thoảng, nước
trôi có cần đến luân lý đâu, có cần đến tiêu chuẩn thiện ác đâu. Thế mà
nhiều kẻ lại khen ngợi họ là những bậc thánh, những nhà đại luân lý,
nhiều kẻ lại nhìn vào họ, xét nghiệm hành động ngôn ngữ và tư tưởng họ
để cố thiết lập ra một nền đạo đức luân lý có cơ sở tiêu chuẩn thiện ác
đàng hoàng, và gán cái nền luân lý tìm ra ấy cho họ. Họ chỉ mỉm cười.
Nếu nói rằng chính họ, họ không biết thế nào là thiện là ác, thì chắc là
không ai không nghĩ rằng họ nói đùa. Chỉ có người điên mới nói thực
một câu như vậy. Cho nên người điên nào cũng khó tìm ra một tri kỷ
để trao tâm ấn của mình. Một nhà thi hào là gì? Đó là một người không
biết gì hết về kỹ thuật vần điệu. Chỉ khi nào anh không phải là thi hào,
anh mới biết thế nào là vần điệu mà thôi.
Thế
thì, Nguyên Hưng, thứ cam lộ mỗi ngày mà họ uống có thể được bọn phàm
nhân xem là độc dược. Mà nói cho ra lẽ, thì độc dược bao giờ cũng là độc
dược đối với ai. Đối với người đã nhìn thấy sự vật, thì nhận thức đồng
thời là hành động; đâu có thể nói rằng ta phải thiết lập triết lý hành
động trên cơ bản triết lý nhận thức, khi chúng ta còn là tù nhân của ý
niệm ngôn từ thì chúng ta mới vướng vào sự phân biệt nhận thức và hành
động mới có cái hăng hái trẻ con để bàn luận về triết học hành động. Đối
với kẻ đã nhìn thấy thì không có sự nhận thức chân lý cũng như
không có phương châm hành động. Không có sự chứng đắc và không có đối
tượng của chứng đắc. Tâm Kinh đã chẳng nói thế là gì. Và bởi vì đã là sự
sống chân thực, đã là gió thoảng, là mây bay, là nước trôi, là hoa nở,
kẻ kia cần gì phương châm hành động. Khi người ta bay thì người ta không
cần biết đến những luật lệ những dấu hiệu đi đường của xe cộ, dù là xe
lớn hay xe nhỏ. Ngôn ngữ kẻ kia sẽ là ngôn ngữ của mây, của gió,
của hoa, của nước. Anh đừng đến đặt cho họ những câu hỏi vớ vẫn về triết
học. Họ sẽ trả lời anh bằng một câu thơ, hoặc giả họ sẽ hỏi anh xem anh
ăn cơm chưa, đã rửa bát chưa. Nếu anh bị bó chặt trong câu hỏi họ sẽ chỉ
ra núi rừng:
“Bất
tín, chỉ khán bát cửu nguyệt.
Phân
phân hoàng diệp mãn sơn xuyên!”
Phải
rồi. Không tin, hãy ngắm mùa thu đến; tơi bời lá rụng ngập sơn xuyên.
Còn nếu anh cứng đầu thì họ có thể lấy gậy đánh anh cho anh chừa đi
cái thói quen đem kính khái niệm đi soi chân lý. Nguyên Hưng ơi, ở
Phương Bối chúng ta mà có được một thi sĩ như thế thì núi rừng đã đẹp
lại càng thêm đẹp, phải không.
Trong
kinh Phật, từ ngữ trang nghiêm được dùng theo nghĩa làm cho
đẹp và Bồ-tát trang nghiêm Phật độ có nghĩa là sự hiện hữu
của các vị Bồ-tát làm cho đất Phật đẹp đẽ hẳn lên. Tôi nhớ có lần vua
Huệ Tông nhà Lý nghe danh Hiện Quang thiền sư, cho người lên núi mời
ngài về cung. Người từ chối, trả lời rằng nội các vị Thiền sư tài đức
hiện đang phục vụ ở thủ đô cũng đã là trang nghiêm đến điện các
rồi. Sự có mặt của người đạt đạo quả có thể làm đẹp cuộc đời bằng
chính đạo đức vô hành của họ. Mà đạo đức vô hành thì làm gì có tiêu
chuẩn, có phương châm hả Nguyên Hưng.
Bây
giờ là mấy giờ, Nguyên Hưng biết không? Còn mười lăm phút nữa là nửa
đêm. Lễ Giáng Sinh sắp đến rồi. Nghĩ cũng thật là một điều mầu nhiệm.
Tôi thức trong cái giờ linh thiêng này, ngồi đây viết cho Nguyên Hưng.
Những ý tưởng của tôi trào lên và tôi cảm thấy dễ chịu khi trút chúng
bớt xuống đầu ngòi bút. Tôi vừa nói cho em nghe về nguồn linh cảm đã
khiến cho tôi biết nhìn, biết nghe thế giới hiện tượng một cách cẩn
thận. Có những giây phút chỉ xảy đến một lần hoặc vài lần trong đời, xảy
đến như sự xuất hiện của một vị sứ giả của chân như, một thông điệp của
thực tại, và nếu ta vô tâm, ta sẽ để cho chúng đi qua và không bao giờ
trở lại. Bí quyết của Thiền tông chắc hẳn là ở chỗ khám phá được đường
đi nẻo về của những giây phút như thế và sửa soạn, cống hiến cơ hội cho
chúng trở lại. Và cuối cùng, làm cho ánh sáng rạng rỡ của nó tỏa chiếu
rạng rỡ trong một chuyến trở về, không từ đâu tới mà cũng sẽ không đi về
đâu. Để tôi đọc cho Nguyên Hưng nghe bài thơ sau đây của Quách Thoại
nóivề sự hiện diện của bông hoa thược dược:
“đứng
yên ngoài hàng dậu
em
mỉm nụ nhiệm mầu
lặng
nhìn em kinh ngạc:
vừa
thoáng nghe em hát
lời
ca em thiên thâu
ta
sụp lạy, cúi đầu…”
Nguyên
Hưng có nghe gì không? Tôi thấy rất rõ là giây phút đã xuất hiện
bức màn đã hé, dù trong giây lát, và thi sĩ đã thấy. Bông hoa thược dược
đứng ngoài hàng dậu kia, có lẽ vì “hiển nhiên” quá, nên không ai thực sự
trông thấy. Khi tâm linh ta nghe được tiếng hát bất diệt
của nó và nhìn thấy nụ cười nhiệm mầu của nó thì nó không còn là
một bông hoa thược dược tầm thường nữa. Nó là sứ giả, nó là thông điệp,
nó là pháp thân. Tôi nhớ có lần Trụ Vũ ca ngợi:
“cánh
hoa là tứ đại
mà
tỏa hương tinh thần
mắt
em là tứ đại
mà
rạng ngời yêu thương”
Tôi
tưởng Trụ Vũ không ca ngợi mà thốt ra những lời biểu lộ một sự ngạc
nhiên. Giây phút cũng đã tới, ánh sáng lòe lên rồi lại tắt. Nhưng trong
một đời người mà có được một lần thấy, nào có phải là ít ỏi gì
đâu. Đã thấy được một lần thì có thể thấy mãi. Vấn đề là ở chỗ ta có tha
thiết không, có thành khẩn không, có cẩn trọng không, thế thôi. Trong
thế hệ những người trể tuổi đang bị giam giữ vào ngục tù của chán nản,
của sự vô lý và sự tự khinh, ta thấy không biết bao nhiều người nhận
thức thực tại như một cái gì nhầy nhụa và thân thể tâm hồn mình như một
vũng bùn tanh hôi. Thảm thương biết bao. Sự giải thoát, như thế, chỉ có
thể đi tìm nơi hủy diệt. Tứ diệu đế nên áp dụng trong mục đích tìm ra và
tiêu diệt nguyên nhân của nhận thức đen tối ấy thì là một điều quý hóa.
Còn nếu, vì muối giải thích biện hộ cho sự thực thứ nhất bằng cách phải
bôi lem bức tranh thực tại, gán cho thực tại tính cách khổ tự nó
không có gì đó là bắt đầu một cuộc vu khống to lớn. Thực tại không khổ
không lạc, chỉ có qua nhận thức ta nó mới là khổ hay lạc mà thôi. Nói
như thế, Nguyên Hưng ơi không phải là nói rằng những trận động đất,
những con vi trùng, những trận chiến tranh, những hiện tượng sinh lão
bệnh tử… là không có thực. Chúng có thực chứ, cũng như muôn ngàn hiện
tượng khác. Nhưng tự thân của chúng không phải là sự đau khổ. Và con
người có thể giảm thiểu sự hiện hữu của chúng đến một giới hạn nào đó.
Còn tiêu diệt chúng hoàn toàn, đó là điều không thể thực hiện. Cũng như
muốn có trắng mà không có đen, có dài mà không có ngắn, có sinh mà không
có tử, có một mà không có nhiều. Tính cách biến kế của nhận thức tạo tác
ra thế giới khổ đau, những như người thợ vẽ vẽ ra hình ma quỹ và khiếp
sợ chính những bức hình của mình. Những bức hình ấy, Nguyên Hưng ơi, nào
phải là ảo ảnh: nó là những bức hình có thực.
Nguyên
Hưng, đêm mùng hai tháng mười tiếp sau đó là một đêm tôi cần ghi nhớ.
Nguyên Hưng cứ tưởng tượng một trời đầy sao sáng, không trăng; nhưng
ngôi sao nào cũng sáng cũng đẹp cũng lấp lánh, cũng to như đôi mắt của
trẻ con, trên một nền trời không gợn mây. Cố nhiên khung trời đó chỉ là
khung trời nội tâm. Vì hôm ấy ở thành phố tôi ở mưa gió về đầy trời. Các
cửa phòng đều đóng kín. Suốt một đêm tôi không ngủ, vì có muốn đi ngủ
thì “cũng không thể nào ngủ được”. Đầu hôm tôi thức để đọc Bonhoeffer,
và giai đoạn chót của đời chàng đã giúp tôi làm bừng tỉnh dậy cái bầu
trời đầy sao sáng sẵn có trong tâm linh mỗi người. Tôi bỗng thấy sung
sướng lạ kỳ và có cảm nghĩ rõ rệt rằng tôi có thể chịu đựng nổi. Viết
đến đây tôi còn thấy tâm hồn rạt rào những cảm xúc mới lạ, và có lẽ
Nguyên Hưng cũng đang chia xẻ những cảm xúc ấy với tôi. Bonhoeffer chỉ
là một giọt nước cuối cùng làm tách nước tràn đầy, một nhân duyên cuối
cùng, một làn gió nhẹ thổi tới cho trái cây chín muồi rụng xuống. Được
sống trọn một đêm như thế thì ta không nên than trách chi hết nữa về
cuộc đời. Những đêm như thế đẹp lắm Nguyên Hưng; lòng ta ngập tràn
thương yêu. Can đảm và nghị lực dâng tràn, ta thấy óc và tim
ta là những đóa hoa; những cảm xúc, những rung động, những đau khổ
của chúng ta đều hiện hữu một cách rất mầu nhiệm, tuy ta biết rằng hình
hài ta vẫn là hình hài của chính ta. Nguyên Hưng chớ cho rằng đó là một
trạng thái tôn giáo, đạo đức hay thánh thiện của tâm hồn, khơi động do
một nguồn cảm thông hay một ân huệ thiêng liêng nào. Trạng thái tâm linh
ấy hoàn toàn nhân bản. Tôi biết, ngay trong giờ phút đó, không có thần
thánh, không có giác ngộ ngoài tim tôi, phổi tôi, những hạch tiết tuyến,
những tế bào của cơ thể tôi. Sự sống đã mầu nhiệm mà khổ đau cũng mầu
nhiệm. Cuộc đời sẽ xấu xí sẽ đen tối và sẽ không thể có, nếu không có
khổ đau. Trong cuộc đời không có thường có ngã nhưng cũng không có vô
thường vô ngã. Không có sự chết nếu quả thực ta thấy được sự sống.
Chỉ nên nói sự sống, và đừng bao giờ dại đột nói Sự sống miên
viễn; mệnh đề sự sống miên viễn cũng như ý niệm trường sinh bất tử
tự nó là một sự mâu thuẫn, một sự dốt nát, một sự tham lam. Tham lam chỉ
là dốt nát; và tham lam dốt nát đánh mất chính sự sống.
Suốt
một tháng, tôi tiếp tục tư duy và quán tưởng hình dung các vị Bồ-tát
trong Kinh Pháp Hoa và Bát Nhã. Chân dung các vị ấy đẹp lắm, hèn gì các
vị ấy không “trang nghiêm” được cho đất Phật. Mà cần gì là đất Phật. Cứ
nói đến trái đất của chúng ta đây, sự có mặt của các vị Bồ-tát như thế
cũng đủ làm cho đất chúng ta trở thành đất Phật? Cây nêu mà dân Việt
dựng lên để ăn tết cũng phản chiếu ước muốn của dân ta rằng đất này là
đất Phật, có phải không Nguyên Hưng.
Có khi
tôi thấy các vị Bồ-tát trong hình dáng nghèo nàn và lem luốc nhưng khỏe
mạnh của họ. Như Trì Địa như Thường Bất Khinh. Một người thì chuyên môn
đi nối lại những cây cầu gãy và đắp lại những con đường hư làm gián đoạn
giao thông và liên lạc. (Thế giới chúng ta hôm nay có biết bao niều cây
cầu đã gãy đổ và bao nhiêu nẻo giao thông bị cắt đứt, hả Nguyên Hưng? Và
thế giới chúng ta hôm nay đã có được bao nhiêu Trì Địa, đem tâm lực và
thân lực mình để nối lại những nhịp cầu thông cảm và hiểu biết giữa con
người với con người, giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa nền văn
hóa này với nền văn hóa khác?) Người thứ hai thì đi đâu cũng nói vào tai
mọi người rằng: ông có đủ khả năng tiến tới, vậy hãy tin ở sức mình,
đừng nên có mặc cảm bất lực, đừng nên thụ động. “Tôi không dám khinh
ngài, ngài sẽ thành Phật”. Bức thông điệp của bình đẳng, của tinh thần
tự tín tự lực ấy nếu không do những con người kiên nhẫn như Thường Bất
Khinh mang đi thì biết do ai? Nguyên Hưng cứ nghĩ đến những người dân
quê ở xứ ta và những người dân quê ở các nước chậm tiến khác. Ai nói cho
họ biết rằng họ tin nơi sức lực của chính họ để tạo một tương lai cho
chính họ, một tương lai mà họ có quyền nắm lấy như bất cứ ai? Thế giới
của chúng ta đang cần có thêm nhiều vị Bồ-tát như thế, luôn luôn trên
các nẻo đường về, gieo rắc niềm tin, sự tự lực tự cường cho nhân loại.
Còn Bồ-tát Quan Thế Âm nữa, mà sau này được gọi là Quán Tự Tại. Chân
dung của người là chân dung của sự cảm thông và của sự tìm tới với khổ
đau không ngần ngại không e sợ bất cứ một trở ngại nào. Nghe tiếng
kêu đau thương của cuộc đời và tìm tới bằng mọi cách. Tìm tới trong
bất cứ một hình dáng nào thích hợp. Nguyên Hưng, một vị tăng sĩ, một nhà
chính trị, một nhà tư bản, một nhà cư sĩ, một người đàn bà, một em bé,
một thiên thần, một con ác quỷ… hình dáng nào thích hợp thì dùng hình
dáng ấy. “Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phu nữ thân
đắc độ giả, tức hiện trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ thân
nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ đồng nam đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện
đồng nam đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ thiên, long, dọa xoa,
càn thát bà, atula, khẩn na la, ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng thân
đắc độ giả tức giai hiện chi nhi vị thuyết pháp”. Nguyên Hưng có
nghe không? Thế giới chúng ta ngày nay phải được cứu nguy bằng mọi mặt
bằng mọi hình thức mọi hình thức mọi phương tiện theo tinh thần đại bi
tự tại của Quan Thế Âm, phải được xây dựng bằng thái độ dấn thân của
tinh thần Thường Bất Khinh, Trì Địa. Lại còn hình dung của Địa Tạng nữa;
hình dung của một con người muốn có mặt nơi chốn nhiều đau khổ nhất của
cuộc đời. Chừng nào địa ngục còn chưa trống không thì chừng ấy tôi còn
phải ở lại địa ngục. Dấn thân mà với tinh thần như thế thì mới thực là
dấn thân, có phải không Nguyên Hưng. Tôi tưởng ở đâu có những con người
như thế là ở đấy đất phải nở hoa, dù cho ở địa ngục. Dù cho ở bất cứ địa
ngục nào.
Nguyên
Hưng, tiếp tục đi tìm hình dung các vị Bồ-tát, lắm lúc tôi thấy họ trong
những chiếc áo thật đẹp, ngọc minh châu sáng ngời trên đầu, trên tay và
trên cổ. Nguyên Hưng hãy nghĩ đến Vô Tận Ý xem. Các vị tăng sĩ thì không
bao giờ được miêu tả bằng những hình dáng như vậy. Chắc chắn là hình
dáng đó tượng trưng cho sự trang nghiêm tịnh độ. Sự có mặt của họ làm
dẹp cho cuộc đời. Áo của các vị Bồ-tát đẹp như những chiếc áo trẻ em
ngày Tết. Tôi nghĩ đến một ngày hội đầu xuân. Không ai nhìn thấy khổ đau
của con người rõ bằng các vị. Nhưng cũng không ai giữ được nụ cười tươi
không bao giờ héo như các vị. Tôi nghe họ nói: chúng tôi không có mặt để
khóc than; chúng tôi có mặt để làm đẹp cho cuộc đời. Cám ơn, cám ơn các
vị. Cám ơn các bạn. chúng tôi sẽ mặc những chiếc áo đẹp nhất mà chúng
tôi có thể cùng với các bạn tô điểm cho cuộc đời. Các vị sẽ sung sướng
lần đầu được những người sùng bái các vị gọi các vị là bạn. Các bạn sẽ
không còn bị xa cách và bị hiểu lầm do những người quá sùng kính các bạn
nữa. Chúng tôi thấy sự có mặt của các bạn rồi. Chúng tôi đến đây,
và chúng tôi không có một mảy may tự hào, một mảy may kiêu ngạo, phạm
thượng. Chúng tôi chỉ đến với tình thương, với sự hiểu biết. Chúng tôi
đã thoát khỏi chiếc vỏ cứng đã từng giam hãm chúng tôi. Này con chim
hoàng oanh, cổ họng ngươi tuy bé nhỏ nhưng ngươi hãy hát lên sáng nay,
để ca ngợi tính cách mầu nhiệm của thực hữu. Chuỗi ngọc mà Vô Tận Ý vừa
trao tặng cho Quan Thế Âm thì long lanh, sáng ngời, trong suốt; tràng
nhạc của người cũng sẽ long lanh, sáng ngời trong suốt như thế. Để cho
nắng mai tuôn chảy trên các sườn đồi như những dòng thủy tinh và để cho
tất cả các bông hoa lớn nhỏ trên cánh đồng cỏ xanh đều cùng nở một lượt
đón chào sự tỉnh thức mầu nhiệm.
Nguyên
Hưng, tôi đã nói đến cái đêm mầu nhiệm trong đó óc tim tôi nở như những
đóa hoa, và tôi tìm thấy các vị Bồ-tát không như những thần linh xa cách
con người mà là những người bạn quý mà ta có thể gặp ngay trong cuộc
sống này. Tình cờ mà những điều tôi thấy phù hợp với những điều trong
bài “nguyện sinh” mà chúng ta thường đọc hàng ngày: Hoa khai kiến Phật
ngộ vô sinh, bất thối Bồ-tát vi bạn lữ. Tim ta và óc ta một khi đã nở
thành những đóa hoa thì những đóa hoa này sẽ không bao giờ héo cũng như
những đóa sen nở ở Tịnh Độ. Sen nở thì thấy được ánh sáng và tìm được
bạn đường.
Nguyên
Hưng, hôm qua viết cho Nguyên Hưng, đến đúng nửa đêm Giáng sinh thì tôi
ngừng lại. Tôi mặc áo thật ấm, mở cửa ra ngoài và đi đến Campus Center.
Tuyết vẫn lặng lẽ rơi. Đến Campus Center tôi gặp anh Ralph Nelson đang
ngồi bó gối xem TV một mình trong gian phòng rộng thênh thang. Tôi đến
ngồi cạnh Ralph và theo dõi chương trình đặc biệt đêm Giáng sinh. Tôi
nghĩ có lẽ Ralph buồn lắm, và cô đơn lắm trông một đêm như đêm nay.
Ralph quê ở tận miền Nam, xa quá không về nhà được trong dịp lễ Giáng
sinh này. Ralph đã lái xe hơi từ hôm qua, về miền tây Pennsylvania, để
thăm một người bạn. Và trên đường về Princeton hôm nay, Ralph bị kẹt
tuyết và suýt phải ngủ giữa đường. Ngủ giữa đường thì nguy hiểm lắm, dù
là ngủ trong xe, dù là quay kín các cửa xe lên. Bởi vì trời rét lắm
không thể chịu nổi. May mắn Ralph vượt khỏi chướng ngại và trở về Campus
lúc mười một giờ. Tôi hỏi: “Anh cảm thấy buồn không, trong đêm Giáng
sinh này, khi mọi người đều en famille? “Tôi sống lẽ loi cũng quen rồi,
Ralph đáp, thành ra không buồn lắm”. Tuy vậy khi ngó anh ta, tôi biết
anh ta đang buồn. May mắn lúc đó, máy truyền hình bắt đầu trình bày một
phim trào lộng nên tôi thấy trên miệng Ralph một nụ cười. Một giờ rưỡi
khuya chúng tôi đi Campus center. Thì ra tuyết vẫn tiếp tục rơi. Tuyết
lên cao tới gần đầu gối. Tôi phải lội về Brown Hall từ giả Ralph, rồi
vào phòng lau chân thay bít tất, hơ chân vào lò sưởi.
Năm
ngoái tôi đi chơi suốt một ngày Giáng sinh bằng xe hơi ở vùng quê và đã
chứng kiến được không khí thân mật của các gia đinh vào ngày lễ ấy. Thật
không khác gì ngày tết bên ta. Trẻ con và người lớn ai cũng có quà, và
có rất nhiều quà. Tôi bị một em nhỏ hỏi: “Ông theo đạo Phật hả? Vậy ở xứ
ông, người theo đạo Phật như ông có ăn lễ Giáng sinh không?” Tôi trả
lời: “Có chứ, bên xứ tôi người Phật tử ăn lễ giáng sinh vào ngày rằm
tháng tư và họ gọi ngày Giáng sinh là ngày Phật đản.” Tôi nghĩ đến những
chú bé con như thế ở trại Cherroskees và ngủ một giấc ngon lành cho đến
sáng.