Mấy hôm này trời khá lạnh. Ngày mốt tôi đã phải rời bỏ nơi
đây rồi. Tôi sẽ ghé Princeton thăm và ở lại đây vài hôm trước khi về Nữu
Ước. Những ngày sống nơi đây thật là an tĩnh và mạnh khỏe. Tôi đã chơi
rừng, đã chèo thuyền, đã bơi lội với bọn trẻ. Tôi làm tất cả những công
việc bọn trẻ làm: đi quan sát các hiện tượng thiên nhiên, tập làm thủ
công, chơi bóng bàn, bóng chuyền, chạy đua, đóng kịch, hát, chơi trò
chơi lớn… Bọn trẻ thích nhất nói chuyện với tôi và ưa đi theo về
Pomona trong những giờ tự do. Tôi đã nói chuyện nhiều lần cho
từng nhóm ba bốn chục người. Tối hôm qua người ta làm lễ bế mạc trại
theo hình thức của người thổ dân bản xứ. Họ mời tôi tới dự: và bởi vì là
khách “quý” tôi được trao tặng lông chim xanh danh dự. Có những
màn khiêu vũ kiểu thổ dân rất ngoạn mục. Buổi lễ được tổ chức trong một
khu rừng âm u vào lúc mười giờ đêm. Để tôi kể cho Nguyên Hưng nghe.
Từ những
khu trại khác nhau. Lúc chín giờ rưỡi đêm, các trại sinh từ bé tới lớn
sắp hàng đi lặng lẽ về địa điểm làm lễ. Có những con đường mòn khác nhau
dẫn tới khu rừng đã được chọn làm địa điểm ấy, và từng đoàn người trong
bóng đêm đi im lặng như những bóng ma. Không ai được đốt đuốc cả. Người
đi đầu mỗi đoàn đã phải học thuộc đường rồi và như thế cả đoàn cứ việc
đi theo anh ta không sợ vấp, vướng hay đâm nhào vào bụi. Có trên năm
trăm trại sinh trong toàn trại, và im lặng được tuyệt đối tôn trọng. Tôi
thấy họ dạy dỗ trẻ con tài quá. Mỗi đoàn, khi tới địa điểm, im lặng tìm
đến chỗ ngồi của mình. Nơi làm lễ là một khoảng đất trống. Dưới ánh sao,
người ta chỉ trông thấy lờ mờ một đống củi. Tất cả đều lặng lẽ chờ.
Đúng
mười giờ. Từ một góc rừng vọt ra một âm thanh lạ kỳ, một âm thanh có
tính nguyên thỉ và man rợ. Tiếp theo là tiếng trống báo hiệu người tù
trưởng đến. Một lúc sau xuất hiện ba bóng đen trước đống củi lớn. Một
bóng đưa tay làm phép trên đống củi và đọc một đoạn cầu nguyện cho lửa
thiêng trở về. Giọng hắn nghe mọi rợ và ghê rợn. Người ta chờ đợi. Vài
phút sau có tiếng rẹt rẹt trong đống củi, và một tia lửa xanh xẹt lên.
Đống củi bừng cháy.
Lửa càng
lúc càng sáng và soi rõ hình dáng ba người thổ dân, cố nhiên là do trại
sinh trá hình. Tất cả đều đóng khố. Thân hình đen thui đen thủi, vì đã
được bôi thuốc. Mặt mày cũng thế. Lại có thêm nét rạch. Đầu đội lông
chim. Tên đứng giữa ra lệnh khai mạc buổi lễ. Những màn múa bắt đầu.
Trại sinh đã tập luyện rất kỹ lưỡng. Người nào người ấy đều phục sức như
thổ dân, và những màn múa cố gắng diễn tả nếp sống tôn giáo tín ngưỡng
của các bộ lạc. Tất cả trại sinh dự kiến đều im lặng. Không ai xuýt xoa
một tiếng nào, và màn vũ đặc sắc cách mấy cũng không được vỗ tay. Tôi ưa
nhất là cảnh đánh nhau bằng đuốc. Để cướp một người đàn bà, hai thanh
niên đã phải đấu đuốc với nhau. Họ cầm những cây đuốc sáng rực và tấn
công nhau một cách mãnh liệt. Tất cả mọi người đều hồi hộp cho đến khi
cuộc đầu kết thúc và một trong hai người được phép chiếm hữu người đàn
bà.
Tiếp đến
là lễ tặng lông chim xanh danh dự cho những người có công trong “vương
quốc” Ockanickon, nghĩa là cho những trại sinh xuất sắc của trại hè. Khi
tù trưởng gọi đến tên một người nào được tặng lông chim danh dự, thì từ
bốn phía rừng Đông rồi Tây rồi Nam rồi Bắc, vọng lên tiếng tên họ của
người ấy kèm theo tiếng mõ ngắn. Tiếng vọng có vẻ huyền bí như tiếng của
các thần linh đang đứng ở bốn phía để chứng kiến buổi lễ.
Tôi
không thể nhớ đến những người bạn Thượng của chúng ta ở B’su
Danglu, những người bạn Thượng thường hay đi qua Phương Bối để hái
rau rịa. Rau rịa là một thứ rau rừng ăn rất ngon; người thượng
nào cũng ưa thích. Thứ cây này có rất nhiều ở Phương Bối, nhất là trong
khu rừng ở phía Tây Nam. Ta chỉ có thể hái được những đọt lá non mầu
hồng tím. Lá rịa mọc song đôi trên đọt cho nên Lý đặt tên thứ rau
này là song diệp thái. Người Thượng có thể bán cho người kinh bất
cứ thứ gì họ kiếm được ở rừng: tre, mây, phong lan, thịt nai, măng, v.v…
nhưng không bao giờ bán lại rau rịa. Họ nói không ăn rau rịa thì
hai chân sẽ nhức mỏi; đi rừng nhắc chân không nổi. Tôi chắc thứ rau ấy
có được tính trừ được tê thấp, hay gì đó. Bác Đại Hà nói những người mất
ngủ nếu ăn rau rịa thì sẽ ngủ được. Chúng ta ai cũng thấy điều đó là
đúng, và lâu lâu lại đi vào rừng đi hái thứ rau quý giá đó về để cho dì
Tâm Huệ nấu canh. Những người bạn Thượng không nấu canh rau rịa theo
kiểu dì Tâm Huệ. Họ đem rau rịa giã nát ra, rồi trộn với ít muối. Xong
họ đổ thêm nước và đun sôi lên. Thế là họ có món ăn mà họ ưa thích nhất.
Có một bữa Phượng từ Saigon lên ở lại, không nhận mặt được rau rịa cho
nên hái nhầm những đọt lá không phải là rau rịa. Ăn món canh rau rịa
chiều hôm ấy ai cũng thấy say say. Và chúng ta lại có dịp chế riễu cái
cô botaniste hiền hậu đó.
Thỉnh
thoảng gặp những người Thượng đi ngang Phương Bối, chúng ta hay ra mời
mọc họ vào chơi uống nước. Những người thượng như thế ít nhiều cũng nói
được tiếng Kinh. Còn tiếng Thượng thì chúng ta chỉ biết một vài câu xã
giao mà thôi. Bác Đại Hà nói tiếng Thượng thật giỏi, nhưng không có dịp
dạy chúng ta. Tôi đã kiếm được một tập tự điển Thượng Kinh Kinh
Thượng in bằng ronéo, nhưng cũng chưa có dịp thuận lợi để học. Tập
tự điển ấy, tôi nhớ còn để ở hộc tủ bên trái trong thư viện, Nguyên
Hưng.
Trong
chúng ta, ai cũng có nhiều cảm tình với người Thượng. Họ chất phát và
thực thà, cho nên nhiều khi bị lợi dụng. Nhưng, càng bị lợi dụng họ lại
càng khôn hơn lên, và bây giờ đây đã có những người Thượng mà tôi tưởng
không ai còn có thể lợi dụng được nữa.
Người
thượng có sức chịu đựng rất dẻo dai. Thân thể họ có nhiều năng lực kháng
độc hơn chúng ta, và những điều chúng ta làm gọi là để mà “giữ vệ sinh”
ấy, người Thượng không hề làm, hoặc không cần làm. Họ ít khi ốm đau vặt,
và nếu bị ốm thì là bị ốm nặng mà thôi. Mà một khi đã ốm nặng là khó
lòng qua khỏi. Có lần tôi gặp một gia đình người Thượng cõng một người
ốm đi ngang Phương Bối. Người này đã già, và chân tay gầy tong teo như
những cây sậy. Hỏi ra thì người này ốm già, chứ không phải là ốm bệnh.
Ông ta sắp chết, không phải vì tật bệnh gì, mà chỉ vì già. Biết rằng ông
ta sắp chết cho nên gia đình ông ta cõng về nơi mà ông ta sẽ nằm chết để
chết.
Có một
lần khác tôi trông thấy một người đàn bà Thượng tắm cho con trong một
dòng suối. Tôi rùng mình. Đứa bé chỉ vào khoảng hai tuổi, tôi phải mặc
áo ấm, thế mà đứa bé chịu đựng được, không hề kêu khóc. Tôi biết là đứa
bé nào ở thành phố mà cho về tắm dưới suối kia theo kiểu người đàn bà
Thượng thì cũng ít nhất là bị sưng phổi. Da thịt của hai mẹ con hình như
bằng đồng thì phải. Dì Tâm Huệ còn nói rằng người Thượng còn tắm nước
mát lạnh cho cả những đứa bé sơ sinh nữa. Người ta nhúng những đứa bé
xuống nước vài lần. Những đứa nào chịu được thì sẽ sống mạnh khỏe. Những
đứa nào không chịu được thì sẽ chết. Không biết điều này có thực không.
Nếu thực thì ta có thể có thêm một lý do để hiểu tại sao dân số Thượng
hầu như không tăng không giảm.
Nguyên
Hưng có nhớ một buổi chiều cùng với bác Đại Hà trồng bạch mai trước sân,
chúng ta đón một đoàn người Thượng đi ngang Phương Bối hay không? họ
mang cung tên, trong đó có những mũi tên tẩm thuốc độc. Chúng ta đã
ngừng tay và nói chuyện với họ, qua tài nói tiếng Thượng của bác Đại Hà.
Lần đầu tiên tôi được mân mê trong tay những mũi tên có tẩm thuốc độc.
Bác Đại Hà cắt nghĩa về cái chất vàng vàng ở đầu mũi tên đó. Để chứng
kiến tài nghệ của những người Thượng, Lý yêu cầu họ bắn một mũi tên lên
cành cây cong ở khu rừng trước mặt. Bác Đại Hà thông ngôn xong, họ nhận
lời ngay một người trong đoàn lấy ra một mũi tên - không có thuốc độc -
và lắp vào cung. Tiếng giật của giây cung và tiếng mũi tên xé gió đi tới
làm cho tôi có cảm nghỉ rằng mũi tên thế nào cũng đi lạc. Nhưng không,
sau một âm thanh khô cứng và bén nhọn, tất cả chúng ta đều reo mừng khi
thấy mũi tên đã cắm trên cành cây cong, thân tên vẫn còn rung rung.
Đối với
chúng ta, đoàn người Thượng hôm ấy là một đoàn người Thượng có phong
thái hơn cả, và có tính cách Thượng hơn cả. Một đoàn người như thế thì
đi bất cứ khu rừng nào cũng không còn phải sợ hãi gì nữa. Chắc lúc ấy
Triều Quang đang tưởng tượng trong óc những lúc đoàn người này gặp cọp
giữa rừng và hình dung ra những trận ác chiến ghê gớm giữa người và cọp.
Quang hỏi: “Khi gặp cọp trong rừng các ông làm gì?” và đợi nghe những bí
thuật, những chiến lược đặc biệt của người Thượng để đối phó với cọp.
Bác Đại Hà vừa thông ngôn xong thì câu trả lời bằng tiếng Thượng của
người vừa bắn mũi tên trổ tài cũng tới ngay, và rất ngắn. Bác Đại Hà
dịch lại: “Khi gặp cọp thì chúng tôi… chạy.” Tất cả chúng ta đều rũ ra
cười, phá lên cười, ôm bụng mà cười vì không có ai chờ đợi một câu trả
lời như thế, có lẽ trừ bác Đại Hà, người thông hiểu về đời sống của
người Thượng hơn hết. Những người khách Thượng ngơ ngác không biết chúng
tôi cười vì duyên cớ nào. Họ đã trả lời một cách giản dị và thành thực.
Điều đó không có gì đáng cho là khó hiểu hay buồn cười cả. Họ không ngờ
chúng tôi cười chỉ vì đã tưởng tượng nhiều quá trong óc chúng tôi về
những trận ác chiến với cọp.
Bác Đại
Hà cắt nghĩa: “Cọp ở miền này không có ý hại người, không hay giết người
ăn thịt. Vì hươu nai và các thú rừng rất nhiều, rừng không nghèo như ở
miền rừng Quảng Bình, Quảng Trị. Cọp chỉ xông vào vồ người hoặc kịch
chiến với người khi nào cọp bị dồn vào một thế bí. Vì vậy gặp cọp trong
rừng thì chỉ cần tránh ra khỏi con đường cọp đi, thế là yên. Chạy
có nghĩa là tránh đừng gặp mặt cọp trên đường cọp đi”.
Tuệ cười
đến chảy nước mắt, phải lấy khăn lau. May là chúng tôi gặp những người
Thượng chất phát cho nên chúng tôi mới có thể cười thẳng thắng như vậy
mà không sao, chứ gặp những người dưới phố mà cười như thế thì chắc là
phải có gây gổ với nhau rồi. Muốn tránh sự gây gổ thì phải bóp bụng lại,
đừng cười. Mà làm sao có thể nín cười trong một trường hợp như thế, hả
Nguyên Hưng.
Có một
hôm, anh Phương con dì Tâm Huệ một mình với chiếc xe đạp cũ leo theo con
đường mòn để vào Phương Bối. Qua rừng Tham Thiền chưa được mười thước,
anh thấy một ông Ba Mươi rất to lớn nằm ngay giữa đường, xoay lưng về
phía anh đang mơ mộng nhìn về giải núi xa xa trước mặt. Thật là bất
thần. Không biết là nếu ở vào trường hợp của Phương, Nguyên Hưng hay tôi
có chết khiếp đi không chứ theo lời Phương kể lại hôm đó thì Phương thấy
lạnh hết xương sống. Ông Ba Mươi vẫn nằm đó, như không hay không biết,
chi cách Phương có ba bước. Quay xe đạp chạy trốn là một điều nguy hiểm
vì Phương biết nếu ông Ba Mươi nghe tiếng động quay lại, ông ta sẽ vồ
ngay Phương. Thật là tiến thối lưỡng nan. Phương liền thi hành kế sách
làm cho ông Ba Mươi giật mình để ông ta phóng vào rừng. Cậu ta liệng
chiếc xe đạp ngay sau lưng con cọp một cái rầm vừa la “ối trời
ôi, ối trời ôi” vang cả rừng, tôi giật mình tìm ra tới chỗ Phương. Lúc
ấy thì ông Ba Mươi đã đi rồi, và Phương ngất xỉu giữa đường với chiếc xe
đạp. Thì ra nghe tiếng rầm của chiếc xe đạp và tiếng hò hét của Phương
ông Ba Mươi không “giật mình phóng vào rừng” như Phương dự tưởng. Ông ta
từ từ đứng dậy, không thèm ngoái lại, và uể oải đi từng bước vào rừng.
Tôi ra, gặp một anh Phương xám xanh như gà cắt tiết. Tôi vội gọi dì Tâm
Huệ và chúng tôi dìu Phương vào. Suốt ba ngày, Phương chưa lấy lại đủ ba
hồn, bảy vía.
Nguyên
Hưng ơi cũng là may ở B’su Danglu cọp không ăn thịt người nên mấy
lần gặp cọp chúng ta cũng chẳng bị hề hấn chi. Ngày xưa có người đành
lòng lên ở chỗ nhiều thú dữ để dù rằng có bị thú dữ ăn thịt đi nữa thì
cũng không đau khổ bằng sống dưới một sự cai trị hà khắc nhiều khốn đốn.
Phương Bối tuy rằng không phải là một nơi đầy thú dữ, một nơi sơn lam
chướng khí độc địa - trái lại; là một nơi rất đẹp, rất yên tĩnh, rất kỳ
thú - nhưng còn chúng ta, cái gì đã khiến chúng ta bỏ thành thị bỏ xóm
làng mà lên đây? chúng ta nhất là Lý và tôi, không được chế độ chấp
nhận. Mà không được chế độ chấp nhận là bởi vì chúng tôi thao thức muốn
nói những điều mà chúng tôi cho là sự thực. Nguyên Hưng ơi, tôi thấy
rằng cái Chân hoặc cái Thiện bao giờ cũng phải đi với cái
Cường nữa thì mới có thể có chỗ đứng trên trái đất này. Ngày xưa
học thơ ngụ ngôn của La Fontaine, tôi rất bất bình khi nghe nói rằng lý
luận của kẻ mạnh là lý luận hay hơn cả. La raison du phus fort est
toujours la meilleure! Tôi giận ứ cả cổ. Tôi ghét con chó sói lắm.
Tôi vẫn tin rằng câu ấy là một câu nói mĩa mai, chớ không phải là một
chân lý. Nhưng mà đã mấy mươi năm qua rồi, cuộc đời đã bao nhiêu lần cho
tôi biết rằng đó là một chân lý, dù là một chân lý đáng ghét. Chân lý mà
không có sức mạnh thì không có chỗ đứng. Sức mạnh không hẳn là bạo lực.
Nhưng mà anh phải mạnh. Chúng ta chỉ có những cây bút nhỏ, làm sao chúng
tôi chống chọi lại với một chế độ, hả Nguyên Hưng.
Và tất
cả chúng ta, nào Mẫn, nào Hiện, nào Hương, nào Tuệ, nào Hưng, và bao
nhiêu người khác nữa cũng không tìm được chỗ đứng của chúng ta trong tổ
chức Phật giáo. Chúng ta đã mang tiếng là những người gieo rắc tư tưởng
phản giáo lý truyền thống, những người quá khích, những người chỉ biết
phá hoại. Chế độ không dung được ta mà truyền thống cũng không dung được
ta. Cổ họng chúng ta bé bỏng. Nói chuyện thống nhất Phật giáo, nói
chuyện hiện đại hóa lễ nhạc, giáo dục, hoằng pháp, nói chuyện về một nền
Phật giáo nhân bản và dân tộc, những điều ấy chúng ta đã đeo đuổi từ gần
tám năm nay. Những hạt giống đã gieo, một cách vô cùng khó khăn. Trong
khi chờ đợi, chúng ta gặp toàn những giông tố, những ghen ghét, những
thành trì cố chấp hủ bại, tuy nhiên chúng ta không nản chí, không thất
vọng. Một số hạt giống đã lưa thưa mọc lên. Cùng với sự bất mãn chế độ,
ý thức về một nền Phật giáo dân tộc dần dần tượng hình. Nguyên Hưng
không ngờ được rằng ảnh hưởng của những tư tưởng kia đã sâu đậm như thế
nào ở miền Trung. Một buổi chiều đi với Như Huệ và Như Vạn trong một xóm
nghèo ở Quảng Nam, tôi nghe tiếng võng kẽo kẹt hòa theo tiếng ru em,
những câu ca dao của Tâm Kiên! Tôi muốn chảy nước mắt.
Có lẽ là
chúng ta không nên ngạc nhiên quá, và không nên đòi hỏi quá. Sự vùng dậy
để thoát xác của một nền văn hóa không phải là một cái gì có thể thực
hiện một cách dễ dàng và êm đềm. Sự dễ dàng và êm đềm đó chi có thể đi
đôi với tinh thần nô dịch. Mà đã là nô dịch thì văn hóa không còn là văn
hóa nữa, mà chỉ còn là một dụng cụ. Những mâu thuẫn và khổ đau gây nên
do sự va chạm giữa cái cũ và cái mới vốn là những gì không tránh được.
Chỉ có một con đường phải đi - con đường của sự tranh đấu bền bỉ và gian
khổ.
Nguyên
Hưng ơi, vì nghĩ như thế nên chúng ta đã làm việc tích cực trong thời
gian ở Phương Bối. Tuy rằng chúng ta có những buổi thám hiểm núi rừng,
những ngày cắm trại, những buổi bình văn, và tuy rằng tất cả những sinh
hoạt ấy đều rất thú vị, chúng ta cũng đã để rất nhiều thì giờ vào việc
học tập, tra cứu, viết lách. Lý thường thức rất khuya trên đống bản
thảo. Còn tôi tuy sức khỏe không cho thức khuya, tôi cũng làm thật nhiều
việc. Ngoài sự sưu tầm, viết lách tôi đã khởi thảo bộ Phật Học Từ Điển.
Công việc này dỡ dang; trước khi đi, tôi đã giao lại cho một số các bạn
trẻ ở Phật học viện Nha Trang tiếp tục. Tôi rất sung sướng nghĩ đến
những buổi học nơi nhà Thượng hay ở thư viện. Nguyên Hưng và Thanh Tuệ
đã làm việc rất siêng năng. Ngoài những môn học thường nhật, thỉnh
thoảng tôi ưa giảng cho Hưng và Tuệ về những đề tại đặc biệt. Tôi chắc
Nguyên Hưng còn nhớ hôm tôi đem giảng những đoạn trong Cựu Ước. Những
cuộc hội thảo xảy ra luôn luôn, một cách tự nhiên và Lý có vẻ hùng biện
hơn ai hết. Nói thế chứ nhiều khi tôi cũng hay “bắt nạt” Lý lắm, phải
không Nguyên Hưng? Thầy Thanh Từ thì ít nói, hay cười hiền lành. Tuy vậy
thỉnh thoảng chúng tôi cũng bắt thầy điều khiển những buổi hội thảo. Tôi
nhớ chó một lần thầy hướng dẫn hội thảo về thiền. Lần này có một nhóm
sinh viên Phật tử ở Saigon lên thăm và tham dự.
Triều
Quang ít nói trong các buổi hội thảo, nhưng hễ nói thì nói những điều có
thể gây nên những “vấn đề lớn”. Quang rất say mê làm việc ngoài rừng.
Cậu ta dọn một khoảng thật đẹp ở khu rừng trước mặt, sửa sang cho thật
xinh, và gọi đó là nội cỏ thiên đường. Quang rất thích nuôi một
con bò, ý định ấy được vài người trong chúng ta tán thành. Tuệ cười nói:
“vậy thì sẽ có sữa nóng uống buổi sáng”. Còn tôi thì ngại ông Ba Mươi.
Nuôi một con bò con tức là mời các ông Ba Mươi tới viếng thăm ban
đêm.
Một hôm
Quang trông thấy những người Thượng đi ngang, mang theo một con nai nhỏ.
Con nai bị trói lại trông rất đáng thương. Quang nhất định mua con nai
ấy để nuôi trong nội cỏ thiên đường. Lần này không ai ngăn cản
Quang cả. Nhưng con vật, tuy được cởi trói và đối đãi thật tử tế, vẫn
không chịu ăn bất cứ một thứ gì. Ba bốn hôm liền như vậy. Đến hôm thứ
tư, Quang thử cho uống sữa. Con vật thích lắm. Nó uống sữa xong, đi chơi
quanh quẩn trong nội cỏ. Nhưng đến sáng mai, không ai tìm thấy nó
nữa. Nó đã trở lại núi rừng.
Viết cho
Nguyên Hưng đến đây tôi lại nhớ đến Datino, con nai nhỏ bé của
bọn Cherrokeesi, Datino lớn như thổi. Đứa trẻ nào cũng ao ước
được mang Datino về nhà. Tôi đã đề nghị trả Datino về
rừng. Một số các em tỏ vẻ luyến tiếc, nhưng phần lớn đều tán thành.
Nguyên
Hưng ơi, mùa hè năm ấy, bao nhiêu việc buồn đã xảy đến cho chúng ta. Chị
Diệu Âm ốm nặng phải chở lên điều trị tại bệnh viện của bác sĩ Sohier.
Lý bị bắt. Tôi phải trốn về Saigon. Phương Bối bị đe dọa. Tuệ Hưng và
tất cả những người ở Phương Bối bị bắt buộc phải rời bỏ Phương Bối để
vào trong ấp Chiến Lược. Công an nghi rằng chúng ta đang làm gì ở miền
núi rừng nên cứ đến Phương Bối để hỏi thăm, dò la. Những người công an
này lộ liễu lắm bởi vì trông tướng mạo họ và nghe một vài câu hỏi của
họ, ta đã có thể biết ngay rằng họ là công an rồi. Đột nhiên chúng ta
mất hết những an tĩnh của chúng ta. Phương Bối bị đe dọa trầm trọng.
Chúng ta chứng kiến cảnh thiên đường bị mất dần dần.
Tôi tin
rằng không ai trong chúng ta mà không nhớ rõ từng chi tiết của giai đoạn
khó khăn ấy. Ba ngày hôm sau Như Hiền báo tin bệnh chị Diệu Âm đã được
thuyên giảm trong khi điều trị ở bệnh viện Sohier, chúng ta nhận được
tin cấp báo ở Dalat cho biết rằng bệnh tình chị trở lại trầm trọng hơn
bao giờ hết. Hoảng kinh, Nguyên Hưng và tôi vượt rừng tìm về xa lộ, đón
xe ngược Dalat. Từ mười giờ sáng đến bốn giờ chiều chúng ta không đón
được một chiếc xe nào cả. Xe đò chiếc nào cũng đầy ăm ắp. Chúng ta đưa
tay lên đón theo kiểu auto-stop bất cứ một chiếc xe nào. Chúng ta
quên đói, quên mệt, mà chỉ lo lắng. Bốn giờ hơn, may mắn chúng ta đón
được xe của một người quen. Xe của Nghĩa. Mừng quá, chúng ta hối thúc
Nghĩa chạy thật nhanh. Con đường như dài vô tận. Đến Dalat, Nghĩa đưa
chúng ta đến thẳng bệnh viện Sohier. Chị Âm đã tĩnh rồi, và cơn nguy
hiểm đã qua rồi. Chị cười yếu ớt. Mắt chị sáng lên khi trông thấy chúng
ta.
Chắc
Nguyên Hưng cũng nhớ rằng, sau thời gian điều trị ở Dalat, chị đã được
chúng ta mang về Saigon, điều trị ở Grall, và sau đó về Huế. Bởi
vì Dalat rét quá, không thích hợp với bệnh của chị. Chị đã lấy lại được
sức khỏe trong thời gian ba tháng. Khi tôi ra đi, chị có vẻ tin tưởng và
hy vọng. Tôi ngồi bên giường chị, ở Thiên minh, và nói chuyện vói
chị về những dự tính cho công việc sau này. Chị hơi mệt, nhưng nụ cười
của chị rất tươi. Tôi nói tôi chỉ vắng mặt chín tháng thôi, rồi tôi lại
trở về. Mà khi tôi về thì tình hình sẽ sáng sủa hơn, chúng ta sẽ làm
được nhiều việc hơn. Chị chăm chú nghe tôi nói và sẵn sàng tin nơi những
điều tôi nói. Tôi có cảm tưởng rằng trong khi nói chuyện với chị, tôi
tưới được thêm những chất liệu của niềm tin trên tâm hồn chị. Tội nghiệp
cho chị. Chị mất sau đó không lâu, nghĩa là khoảng ba tháng sau. Lúc ấy
tôi ở Princeton. Điện tín do Hoàng Phong ở Huế gửi sang. Tôi bàng hoàng
và lặng người đi. Bởi vì tôi đã tin rằng chị có thể qua khỏi.
Tôi ghi
chầm chậm trên tập bản thảo của tôi mấy chữ đơn sơ: thương tiếc chị.
Rồi tôi quỳ xuống cầu nguyện cho chị. Giờ chị ra đi chắc chị
nghĩ đến chúng ta đến Mai Lâm và đến Phương Bối thân yêu. Rất an ủi cho
tôi là lúc chị ra đi, vẫn còn có Nguyên Hưng ở Huế. Có cả Thanh Hiện.
Như Hiền và Như Liên nữa. Mai mốt tôi về thì đã không còn chị. Bây giờ
tôi ước ao ngồi bên tháp chị ở Từ Quang, để nghĩ đến chị, để tâm hồn tôi
có thể nói chuyện với chị. Cố nhiên là chị không chết, người như thế làm
sao chết được. Chị đã sống một cuộc đời đẹp, hoạt động và giàu tin
tưởng. Trong chúng ta, ai cũng mang hình bóng của chị. Ta thương xót
chị, nhưng ta vẫn có thể nở một nụ cười thương yêu khi nghĩ tới chị. Để
tôi kể chuyện hôm vào thăm chị ở nhà thương Grall Saigon. Chiều hôm ấy
là chiều cuối năm. Tết năm nay có lẽ buồn nhất ở Phương Bối. Nguyên Hưng
đã phải phiêu dạt về Huế rồi, và những người khác cũng đã phải đi mỗi
người một ngả, chỉ duy còn thầy Thanh Từ, chú Thanh Tuệ và dì Tâm Huệ là
còn gan ở lại. Tôi thì cũng không sợ gì, nhưng mọi người ai cũng bắt tôi
phải rời Phương Bối cả. Ai cũng lo cho tôi. Tôi phải vào Saigon, và ở
lại Trúc Lâm. Độ ấy tôi bắt đầu hướng dẫn cho một số sinh viên các phân
khoa thành lập hội Sinh viên Phật tử Việt Nam. Công việc gặp khá nhiều
trở lực, từ ngoài đi vào cũng như từ trong đi ra điều này chắc Nguyên
Hưng không thấy. Hồi ấy có Khanh, Dương, Chiểu, Phượng, Chi, Nhiên và
Cương là những người có thiện chí nhất. Họ biết rất rõ điều ấy. Chiều ba
mươi tết đáng lẽ đến dự buổi họp mặt của họ, thì tôi đi thăm chị Diệu
Âm. Tôi nói chuyện và đọc báo xuân cho chị nghe, rồi ở lại với chị cho
đến khi giao thừa trở về. Hồi đó người ta cấm đốt pháo, và chắc bây giờ
cũng vậy. Tôi thắp những cây nến hồng bên cạnh những chậu hoa tôi mang
đến tặng chị. Một giờ khuya, tôi chúc tết chị, và yêu cầu chị đi ngủ
trước khi tôi từ giã chị. Một mình tôi đi bộ từ nhà thương Đồn Đất về
tới chùa. Giờ này không còn xe cộ gì nữa cả. Sương xuống, tôi phải trùm
vạt áo lên đầu. Tôi dang ngang qua tổng thống phủ, sáng rặc với
những hàng bóng điện viền quanh mái nhà, và mĩm cười trước sự kiêu hãnh
của ngôi nhà. Tôi biết là ngôi chùa gần nhất là chùa Xá Lợi, Và giờ này
thì khách thập phương cũng đã đến lễ bái đông đảo như ở Lăng Ông Bà
Chiểu rồi.
Năm
tháng sau thì Lý cũng được chở vào điều trị ở bệnh viện Cơ Đốc Phú Nhận.
Chứng bệnh nhức đầu ghê gớm của Lý ngày xưa đã trở lại. Lý là một người
có nghị lực, thế mà khi đau quá, Lý phải hét như một người điên và nước
mắt của Lý chảy ràn rụa. Nếu Lý không bị bắt thì chắc chứng bệnh cũ
không đến nỗi trở lại như thế đâu. Một hôm có người khách quen, thầy Đức
Nhuận, từ Saigon lên thăm Phương Bối, Lý và Nguyên Hưng sau khi đưa
khách vượt rừng ra xa lộ đã vui chân đi bảy cây số đường bộ về tới Bảo
Lộc. Hai người đang đi mua ít vật dụng trong chợ, thì người công an tới
đưa giấy tờ cho Lý xem và mời Lý về ty. Thế là Nguyên Hưng cũng phải đi
theo Lý về ty công an. Nguyên Hưng nhất định không ra về nếu Lý không
về. Họ bảo Lý khai, Lý đòi giấy bút. Thế là Lý ngồi viết cho đến chiều.
Viết cho đến chiều hết giấy, Lý xin thêm giấy nữa. Họ đưa Lý và Hưng về
chùa Bảo Lộc. Rồi sáng mai, họ trở lại mời Lý vào ty. Có lẽ để viết
thêm.
Lúc ấy
đang loay hoay với mấy cái danh từ Phật học, tôi thấy Nguyên Hưng về.
Sau khi kể lại mọi chuyện, Nguyên Hưng đưa cho tôi mảnh giấy của Lýviết:
nếu tôi không về nữa thì thầy sẽ viết cho hết cuốn sách giùm tôi.
Tôi cảm động quá. Mọi người ở Phương Bối ai cũng bảo tôi nên đi Saigon
để tránh. Tôi có làm gì mà phải đi tránh. Có lẽ chúng tôi bị họ để ý
chăng. Hoặc giả họ ghét và muốn trả thù vì chúng tôi đã viết lách chống
báng họ chăng. Cái thời đại này, hễ ghét ai thì cứ gán cho họ tội làm
“Việt cộng” dù họ là người quốc gia. Ở đây thấp cổ bé miệng làm sao nói
được cho ai nghe. Nghĩ như thế tôi liền thu xếp về Saigon xem ra có thể
giúp gì được cho Lý. Tôi dặn Tuệ nếu tối nay chúng không thả Lý thì đánh
điện cho tôi biết. Còn nếu chúng thả Lý thì cũng đánh điện cho tôi
biết.
Đợi mãi
cho đến trưa hôm sau nữa điện tín mới về. Nội dung bức điện như sau:
“Xin cho biết bệnh tình chị Diệu Âm có thuyên giảm không”. Tôi mừng rỡ
vì có nghĩa là chúng đã buông Lý. Mà tôi đã dặn nếu Lý được ra thì phải
cho Lý về Saigon ngay.
Lý về
Saigon được ít lâu thì chứng nhức đầu tái phát. Hồi ấy, Nguyên Hưng đã ở
Huế rồi. Tôi phải đưa Lý vào bệnh viện và phú thác cho Phượng chăm lo
cho Lý. Cũng may mà Lý bình phục sau đó gần một tháng trời. Hôm tôi ra
đi, Lý rất băn khoăn. Chính Lý cũng như mọi người đã khuyên tôi nên đi.
Ở nhà cũng không làm được gì, Lý và cả Nguyên Hưng cũng nói như vậy. Lý
có mua cho tôi một cuốn sách. Mãi đến khi sang bên này tôi mới mở ra
xem. Trang cuối có hai giòng chữ của Lý:
“Nếu
ngày về thấy khung trời đổ nát
thì
tìm em nơi tận đáy lòng anh”.
Khi tôi
phát giác ra hai câu ấy, tôi giật mình và lo sợ. Tình thế càng lúc càng
căng thẳng. Chế độ đã tàn bạo nên bao nhiêu bất mãn và oán thù. Phương
Bối đã coi như vượt khỏi tầm tay của chúng ta rồi. Lý đã tiên đoán một
cuộc đổ vỡ ghê gớm. Tôi rùng mình, nghĩ đến ngày về, và tôi cầu nguyện
cho những người thân yêu, cầu nguyện cho tất cả chúng ta.
Tuệ đã
lại đi dạy học lại và chỉ về Phương Bối vài lần trong một tuần. Ấp chiến
lược được thiết lập bên xa lộ. Ban đầu thầy Thanh Từ, Tuệ và dì Tâm Huệ
còn nán ở lại, nhưng sau đó ít lâu, mỗi người cũng phải tản mát một nẻo.
Thầy Thanh Từ cũng đã về Phú Lâm lâu rồi. Thanh Tuệ và dì Tâm Huệ cũng
phải tạm trú ở Đại Hà thỉnh thoảng mới vào thăm Phương Bối. Tội nghiệp
cho Thiền Duyệt Thất. Tội nghiệp cho nhà Thượng. Tội nghiệp cho từng lá
cây ngọn cỏ.
Tôi nhớ
trước ngày đi, tôi có lên Phương Bối thăm một cách đột ngột. Tôi ngủ lại
một đêm. Buổi sáng hôm ấy trời đầy sương lạnh lẽo. Tôi giã từ thầy Thanh
Từ, giã từ Phương Bối, giã từ những cuốn sách của tôi, tôi để lại cho
thầy Thanh Từ một bài ngũ ngôn, như một bài chúc tụng như sau:
“Gối
nhẹ mây đầu núi
Nghe
gió thoảng hương trà
Thiền
duyệt tâm bất động
Rừng
cây dâng hương hoa
Một
sáng ta thức dậy
Sương
lam phủ mái nhà
Hồn
nhiên cười tiễn biệt
Chim
chóc vang lời ca
Đời
đi về muôn lối
Quan
san rộng hãi hà
Chút
lửa hồng bếp cũ
Ấm
áp bóng chiều sa
Đời
vô thường vô ngã
Người
khẩu Phật tâm xà
Niềm
tin còn gửi gắm
Ta
vui lòng đi xa
Thế
sự như đại mộng
Quên
tuế nguyệt ta đà
Tan
biến dòng sinh tử
Duy
còn Ngươi với Ta.
Thầy
Thanh Từ xem xong rất cảm động. Tôi nói: “Tôi đi rồi lại về”. Và ở bên
này có rất nhìêu khi tôi nhớ thầy, một hôm đọc Ngữ lục tôi thấy có
câu:
Trương
kiến kha kha tiếu
Viên
lâm lạc diệp đa.
Và bất
giác nhớ hình ảnh Phương Bối quá. Tôi dịch hai câu ấy ra như sau:
“Gặp
nhau cười ha hả
Lá
rụng ngập vườn rừng”
Có
phải là khi nào đi từ cầu Mai đến đồi Thượng mà gặp nhau, chúng ta cũng
thấy như thế phải không Nguyên Hưng?
Nhưng
hết rồi, hết rồi, Phương Bối đã lọt ra khỏi tầm tay của chúng ta rồi.
Tội nghiệp cho từng gốc cây, từng bụi cỏ, từng lối mòn. Một người hiền
hòa như thầy Thanh Từ mà cũng không được ngồi yên để tọa thiền trong
lòng Phương Bối nữa! Chúng ta còn lại gì cho ngày mai? Mỗi người một
ngả. Phương Bối đã tủi thân đến mức độ nào? Chiếc nhà Thượng có đứng
vững được trước gió mưa cho đến khi chúng ta trở về hay không?
Nhưng mà
Nguyên Hưng, không biết sao tôi cứ tin rằng chúng ta không bao giờ mất
Phương Bối. Phương Bối vẫn còn đó, vẫn chịu đựng biệt ly cũng như tất cả
chúng ta hiện đang mỗi người một nẻo, cũng chịu biệt ly. Phương Bối đã
trở nên thực tại trong lòng người. Phương Bối đã chiếm chỗ linh thiêng
trong lòng chúng ta. Ở bất cứ phương trời nào, nghe đến Phương Bối là ta
cảm động. Bữa trước viết cho Mẫn tôi nói: “dù cho phong ba bão táp có
đánh bạt chúng ta mỗi người một ngã thì niềm tin vẫn đưa chúng ta về trả
lại cho nhau”.
Nguyên
Hưng, Medford đã rét rồi. Bọn trẻ con đã về hết. Rừng Medford trở nên im
lặng thêm. Tôi đã để nhiều thì giờ nghĩ đến Phương Bối. Và càng nghĩ tới
Phương Bối tôi lại thấy tâm hồn tôi êm dịu hơn lên, giàu có hơn lên. Tôi
tin giờ này ở khắp nơi những con chim của Phương Bối đều đang nghĩ về
Phương Bối, rừng Medford đã cho tôi sống những giờ thanh tịnh. Mai mốt
về đô thị, có lẽ trên hình bóng Phương Bối, tôi cũng sẽ thấp thoáng bóng
của Medford…