Hiện tôi đang ngồi ở Brown Hall
viết cho Nguyên Hưng, Đại học Princeton hiện giờ vắng vẻ lắm: ngoại trừ
năm bảy người, tất cả đều đã về nhà ăn tết và lễ Giáng sinh. Ngoài trời
tuyết đang rơi và Brown Hall ngôi nhà cũ kỹ và thân yêu này của tôi đang
chìm trong yên lặng tuyệt đối của một buổi chiều cuối năm.
Tôi về
đây ngày hôm kia, tức là hôm hai mươi mốt tháng chạp. Suốt một mùa Thu
và gần hết mùa Đông tôi không viết tiếp được cho Nguyên Hưng. Thực ra
tôi không bận rộn gì lắm để đến nỗi không có thì giờ viết cho em. Nhưng
tôi không thể viết cho Nguyên Hưng chỉ một vài câu thăm hỏi. Ngồi viết
cho Nguyên Hưng, tôi cần phải có một ít không gian và một ít thời gian,
như người sắp sửa đi chơi dã cầu vậy mà. Tôi không muốn những công việc
vụn vặt tới làm gián đoạn câu chuyện của chúng ta. Tôi có trước mặt đến
ba tuần lễ và cả Princeton rộng lớn sáng sủa. Có lẽ là đó là món quà
Giáng sinh quý nhất mà cái xứ này có thể tặng cho tôi. Nói cho đúng thì
trong những ngày vừa qua, tôi cũng có bận bịu thật. Ý nghĩ được rời bỏ
tất cả những bận rộn của mình trong ba tuần lễ về Princeton làm tôi sung
sướng quá. Buổi sáng ngày hai mươi mốt sửa soạn hành trang xong, tôi đến
thăm một vài người bạn, trong đó có giáo sư Friess, giáo sư Cerbu rồi
ghé về anh Bính và chị Bạch Lan để ẵm cháu Tâm Tuyền một lát. Lâu nay
bận rộn tôi đã không có những thì giờ để làm việc ấy. Rồi tôi đến văn
phòng của tôi trong phân khoa để xem có thư từ gì không. Ghé trụ sở thì
thấy cô Mirriam, thư ký, đang sửa soạn bữa tiệc trà cuối năm cho ban
giảng huấn, Mirriam nói “Ông khoa trưởng dặn mời thầy chiều nay đến”.
Tôi nói: “Chiều nay tôi đi Princeton rồi”. Cô nói: “Tiếc quá; thế thì
bây giờ mời thầy ăn trước một miếng bánh vậy”. Rồi cô cắt bánh cho tôi:
bánh và rượu đỏ để dành cho bữa tiệc trà buổi chiều. Tôi vừa đi lại
trong phòng vừa ăn bánh vừa xuýt xoa vì lạnh. Thực ra trong phòng khá
ấm, nhưng vì ở ngoài mới vào cho nên tôi còn run. Mirriam nói: “Thôi
thầy uống tí rượu cho ấm nhé”. Tôi nói “Tôi chẳng sợ gì rượu, nhưng uống
vào vài giọt thì đỏ mặt và cô sẽ không nhìn ra được tôi đâu”. Tôi gọi
điện thoại nhờ một người bạn đem xe tới đưa tôi ra bến xe bus.
Bến xe
đông thật là đông. Thiên hạ như kiến. Lấy vé xong tôi phải đứng nối đuôi
gần nửa giờ đồng hồ mới lên được xe. Bên trong xe, nhờ có máy phóng
nhiệt nên ấm lắm. Thôi giã từ thành phố rộn rịp.
Đây là
lần thứ hai tôi ngồi trên một chiếc xe bus về Priceton. Xe phải đi gần
hai giờ trên xa lộ New Jersey. Sông, hồ, suối, tất cả đều đông đặc. Khói
sương che lấp những vùng xa. Khi về tới New Bruhgswich thì tuyết bắt đầu
rơi. Mọi người trên xe ai cũng yên lặng. Ai cũng nghĩ đến bếp lửa gia
đình đêm Giáng sinh. Ai cũng nghĩ đến đoàn tụ. Người nào cũng mang theo
những gói quà xinh thắt giải đỏ, những gói quà Giáng sinh cho con, cháu,
anh, em, cha, mẹ, bà con. Ngoài xe, tuyết rơi thật nhẹ nhàng, thật êm
đềm, không có một tiếng động. Chỉ có tiếng động cơ của xe đều đều, nho
nhỏ, trên xa lộ êm đềm. Tôi cũng bị ảnh hưởng cái nao nao của những ngày
cuối năm ở đây. Nghĩ đến những thúng gạo nếp trắng tinh và đầy ngọn quê
nhà. Những câu đối giấy hồng điều mới dán trước cửa. Những trái dưa hấu
tròn và đẹp. Những cành đào, những cành mai góc chợ, buổi chiều. Những
anh xích lô vui vẻ vì luôn luôn có khách. Và những người lính ở biên
giới, ở núi rừng, đêm khuya nghe tiếng súng nhớ nhà.
Xe đỗ ở
Priceton. Tôi bước xuống, hai tay xách hai cái xắc đi trong mùa mưa
tuyết để về Brown Hall, nơi mà tôi đã ở trọn suốt một năm ngoái. Campus
buồn thật đẹp. Tuyết rơi phơi phới. Tuyết rơi trên đầu, trên cổ, trên áo
tôi. Mặc đủ thứ áo, đội mũ, quàng khăn, mang găng, thế mà tôi vẫn thấy
rét. Campus vắng teo. Tôi đến Brown Hall chẳng thấy ai, ngoại trừ Jack.
Tôi đi tìm Saphir, người bạn Ấn Độ dễ thương của tôi, để lấy chìa khóa
phòng 115. Và tôi sung sướng cởi áo, soạn những đồ vật tôi mang theo
trong hai cái xắc và bày biện trong phòng. Tôi mở hết máy phóng nhiệt,
làm giường, và ra đứng trước cửa sổ ngắm tuyết rơi trên Campus. Được về
Princeton tôi sung sướng quá và cảm thấy tâm hồn thật êm dịu.
Chiều
hôm qua tôi đi chợ với Saphir trong chiếc Wolkswagen nhỏ xíu và cũ kỹ
của anh. Phòng ăn của trường đại học đóng cửa; cả chiếc quán bán hàng
cũng vậy. Vì vậy những người ở lại trường phải ra ăn ngoài phố. Tuy vậy
cái quán bán hàng gần sát Campus center vẫn sẵn sàng để cho những người
ở lại nấu ăn. Tôi và Saphir mua gạo, bắp cải, sữa và nhiều thức ăn khác.
Buổi chiều chúng tôi nấu cơm và ngồi ăn trong quán.
Trời rét
ghê lắm. Nguyên Hưng. Hồi sáng không có tuyết rơi nhưng tôi cũng không
dám đi ra dạo chơi ngoài Campus. Bài phát thanh WPRT dặn: Sáng nay lạnh
18 độ dưới không độ, nếu không có việc gì cần kíp lắm thì không nên đi
ra ngoài. Cho nên từ sáng đến giờ tôi cứ ở mãi trong phòng. Buổi trưa
Saphir đem đến cho tôi một ít thức ăn khô và một bình sữa. Chiều nay có
tuyết, chắc rằng bớt lạnh. Thế nào tôi và Saphir cũng tới Campus center
để nấu vài món nóng ăn cho ấm bụng. Campus center cũng gần đây thôi,
Nguyên Hưng. Xa Brown Hall chừng ba bốn mươi thước.
Mùa Đông
sẽ còn kéo dài mãi đến cuối tháng ba. Tuyết rơi thì đẹp thật nhưng ba
bốn ngày sau lại trông rất xấu xí. Bởi vì tuyết đã đóng cứng lại và trộn
lẫn với đất và bùn rồi. Nhưng một miền xơ xác đầy rác rến và vũng bùn
như các xóm nghèo ở xứ ta mà sau một đêm tuyết rơi cũng sẽ trở thành
diễm lệ không cùng cho xem Nguyên Hưng ạ. Nhưng mà thôi, quê hương ta
tuy không có tuyết nhưng cũng có những cảnh đẹp mà các xứ như xứ nầy
không có được: những thôn quê có từng hàng dừa in bóng trên các dòng
sông, những thành phố sáng chói hoa phượng vĩ… Mùa Đông ở đây có khi quá
dài quá thành thử ai cũng trông ngóng cho nó đi qua để cho mùa xuân trở
về. Sau những đêm tuyết rơi nhiều quá, buổi sáng xe cộ không thể lưu
thông được. Xe xúc tuyết phải được huy động gấp để dọn đường. Trời rét
quá khiến tuyết không tan và phải đóng thành băng: những tai nạn gãy tay
gãy chân vì trượt ngã trên những nẻo đường trơn vì băng không phải là
hiếm. Đi trên những con đường như thế còn khó chịu và gặp nguy hiểm gấp
mấy lần đi ở các con đường vũng nước hoặc lầy lội nữa, Nguyên Hưng.
Những bữa nhiều tuyết, tôi phải mang thêm một đôi ủng cao su ra ngoài
đôi giầy thường nhật nữa. Bởi vì nếu chân mà bị ướt sũng thì thế nào khi
về nhà cũng bị cảm mạo. Ở bên này mà ốm thì thật là khổ, không có lấy
một người thân săn sóc. Vậy cho nên tôi phải giữ gìn cẩn thận lắm,
Nguyên Hưng.
Ngoài
mầu tuyết tươi sáng, mùa Đông chỉ còn mang có một màu xám buồn tẻ. Những
thảm có xanh không còn nữa. Cây cối trơ những cành gầy không lá ra mà
chịu đựng. Sức sống của đất trời như bị bóp chẹt lại. Nguyên Hưng, cái
hồi cuối thu, khi lá đã rụng hết rồi mà trời quả chưa có gì là lạnh ấy,
một hôm ngồi nhìn ra những hàng cây trụi lá bỗng nhiên tôi thấy cảm
thương dâng ngập tâm hồn. Tôi thấy như là cây cối cũng ngang hàng với
những sinh vật có linh hồn, có hiểu biết, có lo lắng, có chuẩn bị. Lá
rụng dần, rụng dần cho đến khi cành hoàn toàn trơ trụi. Mới ngày nào đây
tàn lá xanh của chúng làm tươi cả một vùng và che lấp những dãy nhà phía
sau chúng: bây giờ chúng đứng trơ trụi và khổ hạnh sẵn sàng chờ đợi và
chịu đựng một mùa Đông băng giá dài đặc sẽ đến. Những chiếc cành xương
xẩu của chúng in rõ trên nền trời xám, nền trời mà trong suốt mùa Hạ đã
hoàn toàn bị che lấp sau tàn lá xanh. Một mùa Đông băng giá sẽ tới và
không thể dung tha những gì non nớt, bé bỏng và phù hoa. Phải vượt qua
những giai đoạn còn non nớt bé bỏng phù hoa đi để mà chịu đựng. Phải già
dặn, phải cô độc, phải sẵn sàng nghiến răng mà chịu đựng. Nhìn những
hàng cây trụi lá đứng đợi chờ một cách anh dũng và bền bỉ mùa Đông sẽ
tới, tôi cảm nhận được tất cả ý nghĩa của bài học về sự chuẩn bị chịu
đựng. Nhớ lại hai câu thơ của Lý, tôi lại rùng mình. Đất nước chúng ta
thế nào rồi cũng phải trải qua một cơn bảo táp tàn khốc. Chế độ đã gây
nên quá nhiều bất công và áp bức, đã sử dụng tiền bạc và bạo lực để thực
hiện những tham vọng của mình. Bất mãn và căm thù càng lúc càng tăng và
hiện những phần tử vì phẩn uất gia nhập hàng ngủ Mặt trận giải phóng
Miền Nam để chống đối đã không phải là ít. Chất liệu bất công, tàn ác và
thối nát đã nuôi dưỡng và làm cho lực lượng chống đối càng lúc càng
mạnh. Nay thì chính phủ đã ban bố tình trạng khẩn trương rồi. Chín năm
trời, Nguyên Hưng ơi, đã chín năm trời rồi mà rốt cuộc chúng ta lai đi
vào tình trạng này. Một cơ hội tốt đã mất. Sóng gió sẽ đến bất cứ vào
lúc nào. chúng ta không thể vô tâm vô tư được. Phải bắt chước những hàng
cây kia, rụng hết tất cả mọi lá phù hoa đi để sửa soạn chịu đựng bảo
táp, mưa gió, tuyết sương. Chúng ta không thể nào còn bé bỏng và non nớt
gì nữa. Chúng ta phải già dặn, phải khổ hạnh, phải vững chãi để mà vượt
qua cơn thử thách sắp đến.
Nguyên
Hưng, trong những tuần lễ theo sau ngày mà tôi học được bài học của
những hàng cây trụi lá áy, ban đêm tôi thường có những ác mộng kỳ lạ. Để
tôi kể cho Nguyên Hưng nghe vài giấc mộng mà bây giờ nghĩ đến tôi còn
rùng mình. Hai giấc mộng mà tôi còn nhớ rõ. Giấc mộng sau với giấc mộng
trước gần như là cách xa có một phút, trong cùng một giấc ngủ.
Tối đó
tôi bị cảm, và vì đã uống thuốc rồi mà không bớt nên tôi nhờ Steve cạo
gió cho tôi bằng Vicks, thứ dầu cù là địa phương. Thật ra Steve chỉ biết
xoa thôi, nhưng tôi dạy cho chú ta dùng một cái thìa để cạo gió theo
kiểu Miền Nam, cho đến khi nào lưng tôi đỏ lên mới thôi. Vì có như thế
tôi mới thấy ấm áp thật sự và cảm giác ớn lạnh sau lưng mới tan biến đi.
Steve cho đó là một điều kỳ quặc, bởi vì bên này không ai chữa bệnh mà
phải làm cho da thịt bầm tím như thế bao giờ. Tuy vậy Steve vẫn chìu
theo ý tôi. Ấm lưng rồi, tôi mới uống thêm một viên Corricidin nữa, với
nước nóng, và đắp chăn lại, chai dầu cù là và bình nước vẫn để đầu
giường. Đêm đó, trong giấc mộng thứ nhất, tôi thấy một người em thân
thuộc của tôi, đứng ở gần cửa ra vào của một căn phòng rất rộng rãi. Xa
tôi đến chừng mười mấy thước. Người em đó là ai, quả thật tôi không biết
rõ. Tôi chỉ biết một cách rất mơ hồ rằng đó là người tôi yêu mến nhất,
còn thơ dại, còn yếu đuối và cần phải bảo vệ. Bây giờ nếu ngồi kỹ lại để
xét từng người quen thuộc thì tôi cũng không thể đồng người trong giấc
mộng ấy với ai cả. Với Hưng chăng? Châu chăng? Phượng chăng? Tuệ chăng?
Toàn chăng? Có lẽ đều không phải. Hoặc có lẽ là hình bóng tổng hợp của
tất cả, và nhiều nữa. Trong lúc ấy, một người khổng lồ từ ngoài cửa đi
vào, một người dữ dằn cao lớn, như một hung thần, như một con quái vật;
với hai bàn tay khổng lồ, kẻ đó sắp túm lấy em tôi, túm lấy để tiêu
diệt. Khoảng cách giữa tôi và kẻ đó rộng quá, tôi không thể chạy tới để
can thiệp kịp lúc được. Mà tại sao chân tôi như dính cứng vào đất như
thế này? Trong giây phút nguy nan đó, bản năng tự vệ - tự vệ đây có
nghĩa là bảo vệ cho em tôi, khiến tôi liệng ngay vào kẻ hung dữ kia một
vật gì mà tôi có sẵn trong tay, một vật nằng nặng ấy vào kẻ kia với tất
cả sức lực bình sinh của tôi. Nhưng hắn tài quá: hắn đưa tay bắt được
vật ấy rồi tôi mới biết được rằng đó là một chiếc cưa tay, hình vòng
cung, ta thường dùng để cưa những tấm ván nhỏ. Nguy quá, như thế là tôi
giúp cho một khí giới để tàn hạn em tôi! Trước sự đau đớn vô biên của
tôi, kẻ kia cười sằng sặc và cưa em tôi ra làm hai mảnh như cưa một cây
chuối non dại.
Tôi đang
đau thảm thiết thì bổng thức dậy. Đầu óc tôi nặng trĩu. Nhưng tôi lại
thiếp đi ngay và mơ thấy giấc mơ thứ hai, ngay sau đó. Tôi thấy tôi đang
đứng ở trong một căn phòng khá rộng có bày biện bàn ghế hẳn hòi chứ
không phải là một căn phòng trống trải như trong giấc mơ trước nữa. Tôi
thấy một con rùa nhỏ bé bằng đồng, con rùa theo hình dáng những cặp rùa
mang trên lưng những chân đèn cắm nến thấy trên các bàn thờ ở quê nhà.
Con rùa ấy thì tượng trưng cho gì thì tôi không biết rõ, nhưng tôi nghĩ
là rất thân thiết và thiêng liêng đối với tôi. Không hiểu do đâu mà tôi
biết được rằng nó đang lâm nguy, đang bị ốm nặng và sẽ phải chết. Mà cái
chết của nó có liên hệ mật thiết đến cả hiện hữu tôi. Lo cho con rùa tôi
mới đi lấy dầu cù là xoa vào lưng nó và đánh gió cho nó (Nguyên Hưng
đừng cười). Tôi làm công việc ấy với tất cả thận trọng, sốt sắng trang
nghiêm và tin tưởng. Nhưng bỗng nhiên con rùa kêu khóc. Kêu khóc bằng
cách nào thì tôi không biết. Tôi chỉ biết là bệnh tình nó trở nên trầm
trọng do một sự vụng về nào đó của tôi. Tôi xem xét lại thì thấy có một
đường nứt trên lưng con rùa. Tôi hoảng hốt nghĩ rằng có lẽ dầu cù là
thấm vào đường nứt ấy đã gây tác động nguy hại cho lục phủ ngũ tạng của
rùa. Và con rùa sắp chết. Tôi hoảng hốt thêm, định lấy một cây tăm khươi
bớt chất dầu cù là ở trong kẻ nứt ra, nhưng chậm mất rồi. Có một âm
thanh kỳ bí nào nói thẳng tới tâm hồn tôi, cho tôi biết con rùa đang dẫy
chết. Lúc đó trong trạng thái tuyệt vọng và hối hận vô song, tự nhiên
tôi quỳ xuống trong tư thế cầu nguyện. Cầu nguyện ai tôi không biết. Tôi
chỉ biết là chỉ trong dáng điệu ấy tôi mới thấy thích hợp với tâm trạng
tuyệt vọng đang ngự trị trong tôi. Nhưng con rùa đã quằn quại dẫy chết.
Nó uốn éo như một chiếc bong bóng cao su bị dằn ép và không biết vỡ khi
nào. Rồi bổng nhiên nó vỡ tung vàc các tia nước từ nó bắn ra tứ tung,
một tia nước bắn thẳng về phía tôi. Tôi nhẩy lùi một bước tránh tia nước
đó. Tia nước rơi xuống trước mặt tôi và biến thành một vật gì nhỏ bằng
một cái khuy, xoay tít như chong chóng. Đến khi vật ấy hết quay, tôi
nhìn rõ thì ra là một bông hoa bốn cánh như hoa lan. Rồi bổng nhiên tôi
thấy đứng ở ngoài đường: một số người bị ôm liệng vào phía sau một chiếc
xe cam nhông to lớn. Những người này bị liệng lên xe một cách tàn nhẫn
quá khiến cho có rất nhiều người trong đó bị gẫy đôi, gẫy đôi một cách
dễ dàng như những con người làm bằng chất sành chất sứ.
Thế rồi
những chiếc xe cam nhông rồ máy chạy vút đi như bay để lại cho tôi một
khoảng không gian rộng lớn đầy những bụi mù đỏ chạch. Lúc đó tôi thức
dậy. Tim tôi đập thình thịch. Đau khổ trong giấc mơ còn làm cho tôi tê
dại cả người. Tôi đưa tay lên vỗ nhẹ trên trán và cố gắng mỉm cười. Nụ
cười đến trên môi tôi thực như tôi đã ước muốn. Nhưng gian phòng im lặng
của tôi vẫn còn phảng phất không khí rùng rợn của giấc mơ. Mồ hôi ướt
đẫm cả trán cả gối, cả áo. Tôi làm một ít cử động. Cố sức ngồi dậy, lấy
khăn lau sạch mồ hôi và đi thay áo. Tôi không ngủ nữa. Tôi thắp một cây
nến, bởi vì ánh sáng điện sẽ sáng quá và sẽ làm tôi mệt, và ngồi làm
massage cho máu trong người chảy đều. Tôi ôn lại những chi tiết của hai
giấc mơ (hay là một giấc mơ?) và cố tìm cách giải thích. Nhưng tôi không
giải thích được.
Mấy hôm
sau đó tôi đem những giấc mơ kể lại cho một số người quen. Gordon đã
hùng biện giải thích bằng nhiều cách, nhưng chẳng có cách giải thích nào
phù hợp với thực trạng tâm linh của tôi cả. Có thể đó là phát biểu của
những lo ngại tập thể, hoặc cũng có thể chỉ là những hình ảnh chắp nối
đầu Ngô mình Sở trong một tình trạng thân thể còn bị đau ốm đang chịu
tác động của thuốc men, chẳng có nghĩa lý gì cả.
Dù sao,
Nguyên Hưng ơi, tôi vẫn thấy mang máng rằng những giấc mộng kia có liên
hệ xa gần với những câu thơ của Lý. Nếu phong ba bão táp đến, thì tôi
ước muốn được có mặt để cùng được chịu đựng với tất cả mọi người. Đừng
để đến khi tôi về, thì chỉ còn “một khung trời đổ nát” trong đó tôi chỉ
tìm được hình bóng của những người thân yêu ở “trong tận đáy lòng” của
tôi.
Nguyên
Hưng ơi, hồi tôi rời Madford và những khu rừng hiền lành, những chiếc hồ
rộng lớn của nó thì tôi chỉ kịp ghé Princeton có hai ngày trước khi tôi
về Nữu Ước lại… Cái thành phố có những chiếc nhà chọc trời ấy không
thích hợp với tôi chút nào. Ở đấy thì chỉ có một cái lợi là được gần gũi
những sinh hoạt văn hóa. Luôn luôn có diễn thuyết hay, có triển lãm giá
trị. Luôn luôn có những buổi đại hòa tấu. Nữu Ước có bao nhiêu thư viện,
bảo tàng viện và bác cổ viện lớn. Kỷ niệm ngày đầu tiên tới Nữu Ước vừa
buồn cười vừa bực bội. Ngày ấy Gordon đưa tôi từ Princeton tới Nữu Ước
bằng chiếc xe rộng rãi của anh. Sau khi nhà cửa lo xong, chúng tôi đem
đồ đạc lên rồi, tôi mới cùng Gordon đi phố để mua ít vật dụng cần thiết.
Tôi nhớ là khi chúng tôi đang đi trên hè phố Amsterdam, thì có một người
vào khoảng bốn mươi, ăn mặc chững chạc chạy lại gần chúng tôi. Người ấy
nói giọng bô bô có vẻ như quen thân với nhau trong xóm làng lâu rồi. Ông
ta reo lên: “A! mặc cái áo gì mà ngộ quá vậy? Có phải cái áo thầy tu đạo
Phật không”. Nguyên Hưng cũng biết là khi đi ra ngoài phố tôi thường mặc
áo nâu chứ ít khi mặc áo xám. Gordon trả lời thay tôi: “Phải đấy thưa
ông”. Chúng tôi dừng lại bên hè đường nói chuyện. Vẫn bô bô, ông ta hỏi
tôi từ xứ nào đến. Khi nghe tôi nói từ Việt Nam, ông ta có vẻ ngơ ngẩn
không biết Việt Nam là xứ nào, nằm ở góc nào trong bản đồ thế giới. Thế
rồi ông ta hỏi. “Thế thì đạo Phật có tin đức chúa Jésus không?” Câu hỏi
hướng về tôi. Tôi trả lời “có chứ” Ông ta ngạc nhiên hỏi tại vì sao. Tôi
có cảm giác khó chịu, bởi vì đứng ngoài đường thập mục sở thị không tiện
đàm luận những vấn đề như thế. Gordon đỡ lời: “Thực đấy mà, thầy ấy nói
thực đấy mà”. Ông ta phân bua với tôi: “Ở đây thiên hạ bày ra điều này,
điều nọ, và cho đó là lời của chúa Ki tô. Họ bán Trời bán Phật mà ăn
đấy, các ông ạ.” Rồi ông ta còn thao thao bất tuyệt các vấn đề ông ta
vừa nêu ra. Để cắt đứt. Tôi mới hỏi: “Thế ông theo đạo nào thưa ông?”
Ông ta nghiêm trang rút ví da ra và nói: “Tôi theo đạo này”. Rồi ông ta
loay hoay mở ví, có lẽ đưa tôi xem một chứng minh thư hay một thẻ tín đồ
của một giáo phái nào đó. Kỳ thực, ông ta chỉ rút ra một xấp giấy bạc đô
la và lập lại: “Tôi theo đạo này”. Thì ra ông ta theo đạo tiền. Gordon
cười ha hả. Tôi cười đến chảy nước mắt. Tôi chào người bạn ngộ nghĩnh
vừa gặp và kéo theo Gordon đi theo. Tôi nói “Tuy vậy nhưng cũng khá khen
ông ta là người chân thật, dám nói những điều mình nghĩ.”
Không
biết Gordon nghĩ gì khi tôi cho anh biết rằng người kia là người dân Nữu
Ước đầu tiên mà tôi gặp và nói chuyện. Chúng tôi ghé vào một tiệm hấp
nhuộm y phục, bởi vì tôi muốn thuê nhuộm lai mấy cái áo tràng nâu của
tôi bây giờ đã bạc mầu rồi. Tiền nhuộm đắt quá khiến tôi ngần ngại. Một
lúc sau ông chủ tiệm nói với tôi: “Mà ông nhuộm làm gì đã chứ. Tôi biết
là trong vòng vài ba tuần lễ ông sẽ liệng những cái áo rắc rối ấy để mặc
đồ tây cho mà xem. Những người ngoại quốc đến đây lúc đầu thì mặc quốc
phục họ, nhưng sau đều mặc đồ Tây cả”. Tôi cũng không buồn cho ông ta
biết là áo tôi đang mặc không là quốc phục nào cả, và tôi không phải là
một người chân ước chân ráo tới cái xứ này. Chúng tôi nói lời cám ơn và
bỏ đi.
Buổi
chiều hôm ấy tôi rủ Gordon về tiệm ăn người Việt Nam ở đường Amsterdam,
tiệm ăn duy nhất bán thức ăn Việt Nam ở đây. Chúng tôi đi bộ ngược lên
đường 21 mới tìm ra được tiệm. Khi chúng tôi vào thì tiệm vắng người. Có
hai người sinh viên Việt Nam hầu bàn, một nam một nữ, đang ngồi nói
chuyện. Thấy chúng tôi vào liền chạy ra mời. Chúng tôi tìm một góc để
ngồi. Có lẽ cả hai đều phải xa nhà từ hồi còn bé nên không nhận được ra
tôi, người đồng hương trong chiếc áo nâu. Người con gái nói tiếng Anh
thật hay, hỏi tôi có phải người Miến Điện không. Tôi cười gật đầu.
Gordon cũng cười. Chúng tôi gọi vài thức ăn chay, rồi nói chuyện hai
người về lai lịch cái tiệm ăn này. Mãi đến khi giã từ tôi mới cho hai
người biết là tôi là người Việt. Cả hai đều mừng rỡ vì họ cũng thuộc về
một gia đình Phật tử. Say này tôi biết chính chị Lan điều khiển quán ăn.
Chị nói chị cũng bận dạy học ở trường nên không có nhiều thì giờ chăm
sóc quán. Cái quán ăn, chị nói, vậy mà có giá trị tương đương với cơ sở
văn hóa của tòa đại sứ. Người đến ăn phần lớn là những người trí thức.
Những món ăn, những bức họa, những đĩa nhạc và nhất là những câu chuyện
cùng những người hầu bàn đã giúp cho khách hiểu biết và yêu mến Việt
Nam. Mà cái quán ăn ấy cũng oai thật đấy, Nguyên Hưng. Người hầu bàn nào
cũng nói được tiếng Anh và tiếng Pháp rất thông thạo, và có thể nói từ
những câu chuyện thời sự, chính trị, văn minh, rất đứng đắn. Cậu sinh
viên tôi gặp hôm ấy nói tiếng Đức rất giỏi.
Đó là
những gì tôi không quên về ngày đầu tiên tôi đến với thành phố nhộn nhịp
kia. Mùa thu năm nay khi trở về, tôi quen thuộc với khung cảnh hơn, dù
vẫn thấy rằng những ngày ở rừng Mendford quá ngắn. Từ đầu mùa thu tôi
được nhận làm việc tại trường đại học Columbia. Tôi dạy mỗi tuần năm
giờ, ngoài ra còn có một số giờ phải ngồi văn phòng để tiếp sinh viên và
giúp đỡ cho họ về việc sưu tầm tài liệu. Lương tôi được ba trăm năm chục
đồng; như thế là tương đối khá “giàu”. Trong những người sinh viên của
tôi có một cặp bạn rất thân, đó là David và Steve. Steve thích tôi lắm
và đề nghị thuê chung một cái nhà với tôi. Tôi bằng lòng ngay. David
thường đến chơi và ở lại ăn cơm với chúng tôi. Chúng tôi có những buổi
tối thân mật, có lẽ êm thắm hơn cả những buổi tối gia đình.
Cái chú
Steve ấy, để tôi nói cho Nguyên Hưng nghe, đã ăn chay trường với tôi
trong suốt mùa thu qua cả nữa mùa đông này nữa. Tôi hỏi ăn chay có yếu
đi không. “Trái lại còn thấy khỏe mạnh thêm”. Từ ngày có Steve, chúng
tôi tự nấu ăn lấy mỗi ngày và ngày nào cũng được hai lần ăn cơm, bằng
đũa. Steve cầm đũa khá vững vì đã được ở lại Nhật Bản mấy tháng mùa hè
năm ngoái.
Chỉ sau
mấy ngày gặp Steve tôi mến chú ta liền, cũng thân thiết như với Hưng và
Tuệ vậy. Steve cao bằng tôi, tóc hơi vàng và rất mềm, cằm anh ta hơi
nhọn. Mắt mầu nâu. Rất giàu tình cảm và tính cách nghệ sĩ. Steve rất ham
triết học đông phương; từ mùa thu chú ta đã ghi tên học những lớp đông
phương học, kể cả một lớp Hoa ngữ. Cứ nhìn thấy cậu ta ngồi tập viết chữ
nho cũng đã thấy thương. Không có sự vui buồn nào trong đời mà Steve lại
không về kể lại với tôi. Tôi hay có những nhận xét về suy tư của Steve
và anh chàng thường hay ngồi chăm chú để mà nghe; đôi khi nhíu lông mày
đê làm nhăn một ít cái trán thông minh của nó. Thỉnh thoảng chúng tôi
cũng có hơi giận nhau, nguyên do là vì Steve vẫn còn quen cái thói tiếp
nhận theo đầu óc Tây phương, và tôi cứ nghĩ rằng tôi không diễn tả bằng
bằng cách nào hơn là bằng cách đông phương của tôi. Tôi chắc Steve nhiễm
cái đường lối của giáo sư Cerbu “go East but stay West” rồi. Stay
West thì làm chi có thể thực sự go East hả Nguyên Hưng.
Cái nhà
chúng tôi thuê với giá 150 đồng bạc mỗi tháng có 1 phòng ngủ, một phòng
làm việc, một phòng tắm, một cái bếp và một cái hành lang. Đó là địa chỉ
của tôi bây giờ: 306 west 109 th Street. Chúng tôi ở từng thứ năm, có
hai cửa sổ lớn nhìn ra đường. Phải nhìn nghiêng mới thấy được một mảnh
trời, về phía Morning Side. Những bàn ghế, giường nệm, chén bát và soong
chảo đều do Steve chở về, nên khi thuê nhà tôi chẳng thể lo lắng gì cả.
Steve là con của một ông khoa trưởng một trường kỹ thuật nổi tiếng, dòng
giỏi thông minh nhưng không thích khoa học, kỹ thuật. Mẹ của Steve có
đến thăm một lần cách đây chừng nữa tháng và mang cho chúng tôi vô số
thức ăn ngon.
Người
tôi phân chia công việc như thế này: tôi thì lãnh phần nấu ăn và rửa
bát. Còn Steve thì đi chợ và dọn dẹp lau chùa nhà cửa. Steve phải đi học
nhiều nên tôi phải ra tay làm nội trợ. Mỗi ngày tôi chỉ cần có mặt ở
trường vài giờ đồng hồ, những giờ dạy và những giờ ngồi ở văn phòng - Từ
khi thuê được nhà, tôi hay ở nhà làm việc, thiếu tài liệu gì thì nhờ
Steve mượn ở thư viện giúp. Tôi có cái thẻ có thể mượn một lần hàng mấy
chục cuốn sách và mượn như thế trong nửa tháng. Ngồi ở nhà ấm áp một
mình, tôi làm được nhiều việc hơn. Nấu ăn cho Steve cũng là một sự thích
thú. Có thể là món gì do tôi nấu ra Steve cũng khen ngon cả - tôi nghĩ
Steve có thể ăn chay suốt đời mà không biết chán và tôi có thể nấu cho
Steve ăn hoài mà không sợ tốn công.
Cố nhiên
là cậu ta không biết đi chợ - tôi phải dẫn Steve đến một tiệm bán thực
phẩm đông phương ở gần đấy và chỉ cho cậu “đi chợ” trong những lần đầu.
Chúng tôi mua nấm hương, tàu yểu, đậu phụ, củ cải, khổ qua, dưa cải v.v…
Rau đậu tươi thì Steve có thể tự đi mua ở bất cứ một nhà bán thực phẩm
nào khác dọc đại lộ Broadway. Chúng tôi tìm được chỗ mua gạo thật ngon
và mua từng chục ký chứ không mua từng hộp nhỏ như những gia đình khác.
Thường thường những hôm đi học về sớm. Steve ghé chợ mua hai giỏ thức ăn
về chất đầy chiếc tủ lạnh lớn đặt trong nhà bếp. Cái nhà bếp chúng tôi
thật sạch sẽ và trang nhã. Steve lau chùi nhà bếp và nhà tắm gần như mỗi
ngày. Bếp nấu gaz cho nên rất tiện lợi. Sáng nào tôi cũng dậy sớm và sửa
soạn điểm tâm cho hai người. Thường thường, Steve thức khuya và chỉ dạy
đủ sớm để ăn điểm tâm rồi đi học ngay. Có bữa tôi cũng đến trường cùng
với Steve một lần nhưng chỉ độ mười một giờ là tôi trở về. Tôi làm việc
một lát rồi đi thổi cơm và làm thức ăn. Mười hai giờ mười lăm thì Steve
về, lần nào cũng đói mèm, và chúng tôi ngồi vào bàn ăn. Thức ăn bao giờ
tôi cũng làm chung cho cả buổi chiều trong tủ lạnh; đến tối tôi chỉ cần
thổi cơm và hâm lại thức ăn cho nóng thôi.
Buổi
chiều tôi thường không đi ra ngoài. Tôi viết lách, đọc, soạn bài, trả
lời những thư từ. Có việc cần tôi mới đi vào trường hoặc vào thư viện.
Thỉnh thoảng David cùng về với Steve, và chúng tôi ăn cơm với nhau trong
phòng khách một cách im lặng, trang nghiêm. Sau những bữa như thế, tôi
để cho Steve nói chuyện với David và đi rửa chén bát. Tôi rất thích công
việc này vì tôi thấy trong khi rửa chén bát tâm hồn tôi luôn luôn an
tĩnh, vui vui. Có khi tôi bất chợt đang nghịch với những chiếc bóng xà
phòng và hát nhỏ những bài hát học được hồi còn bé thơ. Nước vừa ấm thật
dễ chịu. Tôi lau chùi cái bếp gaz thật sạch sẽ, soạn lại đồ đạc, đi tắm
ngâm mình trong nước nóng, thay áo và ra ngồi góp chuyện với hai người
trẻ tuổi. Những buổi như thế thật êm đềm. Steve biết tính tôi, đi tắt
điện, thắp lên vài ngọn đèn nến cho mát mắt và để cho chúng tôi nghe một
ít những bản nhạc êm dịu ưa thích. Những lúc đó chúng tôi thường không
nói chuyện nữa, chỉ ngồi yên mà theo dõi những giòng suy tư của
mình.
David
thường ở với Steve rất khuya; thường thường khi nào tôi bảo về mới về.
Có lúc hai người bạn đi với nhau suốt ngày và tôi ở nhà một mình, nấu
cơm một mình, ngồi vào bàn ăn một mình.
Nguyên
Hưng, tôi biết Steve mến tôi thật sự. Steve nghe tôi nói về tình trạng
đất nước chúng ta với tất cả sự chăm chú và xót xa. Tự nhiên Steve muốn
dùng tiếng Việt Nam, và nếu có thể được, cùng nuôi ước mộng tìm lai
Phương Bối. Tôi đã nói cho Steve nghe về tình của chúng ta đối với
Phương Bối. Tôi đã nói đến Phương Bối như một chút lửa hồng không bao
giờ tắt trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Tôi đã nói Phương Bối như một
chất liệu tâm linh cần thiết cho mọi ước ao, mọi xây dựng. Có thể là tôi
đã quan trọng hóa Phương Bối quá, nhưng mà tại sao mắt Steve lại sáng
lên như thế mỗi lần nó nghe tôi nói đến Phương Bối? Steve quyết sẽ học
tiếng Việt và tôi cũng bắt đầu dạy cho Steve những câu đàm thoại đầu
tiên. Steve rất ham học ngoại ngữ. Nói tiếng Pháp còn chập chững mà đòi
làm thơ. Rồi trong những lúc đi chợ mua thức ăn, cứ nấn ná ở lại để tập
nói tiếng Tàu với cái cô bán hàng người Trung Hoa. Steve đã bập bẹ nói
tiếng quan thoại rồi đấy. Steve bảo nhất định phải học nói cho được
tiếng Việt bởi vì anh chàng rất thích dự tính của tôi về làm một cái
làng dễ thương ở miền quê, trong đó một số anh em sống thật têm
ái với nhau và thật hữu ích cho mọi người.
Steve
dành làm tất cả những công việc khó nhọc. Biết tôi rất có thể bị cảm khi
ra ngoài lạnh nên Steve dành đi những công việc mà Steve có thể làm thay
tôi được. Tội nghiệp, những hôm tôi bị cảm, Steve phải “cạo gió”, và vì
hai tay của Steve khá mạnh, chẳng mấy chốc mà tôi đã thấy ấm áp. Nếu tôi
không bớt thì Steve lại gọi điện thoại cho bác sĩ Cusbman.
Steve
không được sung sướng mấy khi nghĩ đến gia đình. Hè năm ngoài trong khi
ở Nhật Bản, anh chàng có làm quen được với một thiếu nữ Nhật và hai
người đã trao đổi thư từ thân mật từ đầu mùa thu đến nay. Người bạn gái
Phù tang tên là Hạnh Trí Tử, hẹn sẽ sang thăm trong mùa Xuân tới và
Steve cứ nhắc hoài đến dịp ấy. Néu không bị gia đình gọi thì Steve đã có
thể theo tôi về Priceton trong dịp lễ giáng sinh này rồi. Nó đã về quê
bằng máy bay hai hôm trước khi tôi rời Nữu Ước. Căn nhà chúng tôi hiện
giờ ở đường 109 có lẽ đang lạnh lẽo, không đèn, không đuốc, không hơi
ấm. Còn tôi, tôi đang ngồi đây, giữa lòng Princeton quen thuộc. Trời đã
chạng vạng rồi. Ngoài kia, tuyết vẫn rơi. Tôi sẽ đi tìm Saphir - chúng
tôi sẽ đi làm một thức ăn gì để ăn cho thật nóng, và sau đó, về
campus center ngồi nói chuyện và nghe bản phóng sự bảy giờ rưỡi
tối nưoi chiếc máy truyền hình đặt ở góc phòng.