Thiền
sư là người ra đi không để lại dấu vết, chính điều đó nói lên tinh thần
thiền tông ( bất lập văn tự ), khiêm hạ, ẩn danh, vô ngã. Tuy nhiên có
điều bất lợi so với cách luôn ghi chép từng biến cố nhỏ lớn, từng sự
kiện nhỏ to, trong đời mình cũng như trong xã hội mình đang sống như
người phương tây,
nên phật giáo Việt Nam chúng ta tư liệu thật nghèo
thiếu, một phần nữa là do ngoại nhân đưa về Kim Lăng đốt để huỷ diệt văn
hoá, chính điều đó khiến tiểu sử các vị thiền sư lại càng sơ sài, ngắn
gọn.
Một vài trường hợp quá ngắn như tiểu sử thiền sư Pháp Thuận. Thiền uyển tập anh còn ghi lại tiểu sử Ngài tóm tắt như sau :
Pháp
Thuận thiền sư ( 915-990 ) họ Đỗ, không rõ tên thật và quê quán, thuộc
thế hệ thứ mười dòng thiền nam phương. Xuất gia từ nhỏ, thờ thiền sư Phù
Trì chùa Long Thọ làm thầy. Đắc pháp, nói ra lời nào cũng hợp với sấm
ngữ. Sư học rộng có tài, hiểu rõ việc nước, đang lúc nhà Tiền Lê mới
dựng nghiệp, giúp vua trù kế hoạch, định sách lược. đến khi thiên hạ
thái bình, sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Đại Hành kính trọng, chỉ
gọi là Đỗ Pháp Sư, không gọi tên, đem mọi việc văn thư giao phó. Cùng
với Sư Khuông Việt, Pháp Thuận là cố vấn của triều đình , có lần cùng
với Sư Khuông Việt, được cử tiếp đón sứ thần nhà Tống là Lý Giác. Tài
ứng đối làm Lý Giác ngạc nhiên kính phục. Vua Lê Đại Hành thường đem vận
mệnh nước nhà hỏi Sư .
Hồi
tưởng lại đất nước chúng ta trong triều đại Đinh, Lê , Lý Trần, chúng
ta đã thấy được các triều đại đó hết sức nhân bản, khoan dung và tôn
trọng hiền tài. Vua thì quyền uy tột đỉnh, nắm sinh mạng quốc gia và
sinh mạng thần dân trăm họ trong tay, trọn quyền sinh sát, vậy mà vì sự
tồn tại của vận nước , vẫn khiêm hạ mời các vị Sư tài đức về triều đình
tham vấn chính sự quốc gia, có khi đến cả Am Viện của các thiền sư tham
vấn những trăn trở ưu tư về nhiều vấn đề thời cuộc mà chính Vua còn phân
vân do dự, chưa quyết đoán được. Vua Lê Đại Hành đã thấy được hiền tài
là nguyên khí của quốc gia, có được những con người uyên bác tài giỏi
giúp cho những kế sách , ý kiến hay sẽ đưa quốc gia đến chỗ thịnh trị,
thái hoà. Vua Lê Đại Hành mới lên chấp chính, thù trong giặc ngoài. Hậu
duệ nhà Đinh còn đó, những con người trung thành với Nhà Đinh vẫn còn ấm
ức về một vương triều đã sang tay kẻ khác. Bên ngoài thì tướng của nhà
Tống là Hầu Nhân Bảo đang tiến quân vào nước ta , đó là mùa xuân tháng
03 năm Tân Tỵ ( 981).
Lúc
bấy giờ vận mệnh tổ quốc nghiêng ngữa, lòng dân chao đảo, nếu không có
những thiền sư tu chứng , nhiều tuệ giác làm cố vấn cho triều đình, đưa
ra kế sách hay, động viên tinh thần của vua, của triều đình và của dân
chúng, đất nước dễ rơi vào tay ngoại bang, dân tình sẽ lầm than thống
khổ biết chừng nào. Chúng ta đã thấy được tinh thần nhập thế của các
thiền sư và hành động phụng sự vô vi của các ngài, qua hành động dấn
thân đóng góp cho dân tộc .
Bài
thơ Nga nga lưỡng nga nga, không phải là của ngài. Hai câu đầu là của
Lý Giác, hai câu sau ngài hoạ theo, do Ngài học rộng hiểu nhiều lấy từ
điển cố văn học của Trung Quốc. Bài thơ nga nga lưỡng nga nga là của Lạc
Tân Vương, là một tuyệt phẩm mà các bực thức giả khen là “ thi trung
hữu hoạ” trong thơ có hoạ, thơ vẽ nên một hoạ phẩm. Học nhiều hiểu rộng,
am hiểu độn số, biết việc gì sẽ xảy ra trong tương lai, nhưng Ngài để
lại cho chúng ta hôm nay còn vỏn vẹn một bài thơ duy nhất, và cũng là
câu trả lời về vận nước của vua Lê Đại Hành hỏi Sư, đó là bài :
Quốc Tộ --- Việc nước
Quốc tộ như đằng lạc --- Vận nước như mây quấn
Nam thiên lý thái bình --- Trời nam mở thái bình
Vô vi cư điện các --- Vô vi trên điện các
Xứ xứ tức đao binh --- Xứ xứ hết đao binh .
Vua
Lê Đại Hành hỏi về vận nước, làm thế nào để cho vận mệnh quốc gia được
dài lâu ? Thiền sư trả lời : Vận nước như mây quấn . Ta phải giữ gìn đất
nước nầy như thế quấn của dây mây, một sợi mây tuy có dẻo dai nhưng vẫn
dễ đứt, dễ gãy nếu ta biết cách bẻ, còn nhiều dây mây quấn lại thành bó
khó có sức mạnh nào bẻ gãy. Trăm họ hướng về Vua với một lòng tôn kính,
vua lấy ý nguyện của dân làm ý nguyện của mình, thương dân như thương
con ruột của mình, nỗi khổ của dân cũng là nỗi khổ của mình. Tìm cách
hoá giải những xung đột nội bộ, giải thích cho những người nội thù rằng :
Quốc gia làm trọng, tổ quốc trên hết, quyền lợi của một cá nhân cũng
như của một dòng tộc là nhỏ so với sinh mệnh mất còn của một quốc gia.
Liên kết nhân tâm lại với nhau như những dây mây riêng lẻ thành một bó
mây, thì không có một thế lực nào có thể xô ngã đè bẹp chúng ta. Và như
vậy thì đất nước sẽ thái bình, nền độc lập dân tộc sẽ vững bền mãi mãi.
“ Vô vi trên điện các - xứ xứ hết đao binh “.
Thiền
sư nói : Muốn cho đất nước được yên bình, khắp nơi khắp chốn không có
chiến tranh, những người lãnh đạo, cụ thể là Vua phải biết cách áp dụng
phương pháp, hay là nguyên lý tu dưỡng vô vi nơi triều đình của mình.
Đạo Lão ở Trung Quốc cũng có khái niệm vô vi, Lão Tử chỉ dạy cho môn đệ
của mình nên sống theo tự nhiên, thuận theo tự nhiên, không làm gì để
can thiệp vào tự nhiên. Lão Tử chủ trương người cầm quyền trong nước nếu
thực hiện được đạo lý vô vi thì đất nước sẽ thịnh trị. Còn khái niệm vô
vi trong Phật giáo thì có khác hơn. Vô vi dịch từ chữ asamskrta của
tiếng phạn, có nghĩa là không tạo tác, chỉ cho pháp lành thường trụ
không do nhân duyên tạo tác, không có sinh diệt biến hoại, khác với pháp
hữu vi là pháp do nhân duyên tạo tác, có sinh diệt biến hoại, nên pháp
vô vi chính là một tên khác của Niết Bàn. Trong Lục Độ Tập Kinh, truyện
81 của Phật giáo định nghĩa từ vô vi như sau : “ Cẩn thận không kiêu
ngạo, là hạnh của học sĩ, bỏ lòng dơ ân ái, không lấm bụi bặm của sáu
tình, không để các ái nhỏ như tóc tơ che dấu trong lòng mình thì các
niệm lắng diệt, đó là vô vi”.
Vua
là thiên tử - con trời - theo quan niệm phong kiến. Vua tượng trưng cho
quyền lực, sức mạnh của một thể chế, đế chế. Vua là tối tôn đứng trên
thầy và cả người cha sinh ra mình Quân-Sư-Phụ, vậy mà kinh Phật nhắc nhở
cẩn thận không kiêu ngạo. Vua thì không biết bao nhiêu cung phi mỹ nữ,
ăn uống thì sơn hào hải vị, nem công chả phượng, thuốc bổ quý hiếm trong
nhân gian, vậy mà kinh Phật nhắc bỏ lòng dơ ân ái, không để đắm nhiễm
ái dục dù nhỏ như sợi tóc. Một chúng dân thực hiện hạnh vô vi thấy đã
khó rồi, huống nữa là đấng quân vương, nhưng mà đấng quân vương nào thực
hiện được đạo lý vô vi như lời kinh Phật, như lời thiền sư Pháp Thuận
nhắc nhở vua Lê Đại Hành, thì vận nước sao không vững bền được ? Sao mà
trăm họ không âu ca thái bình được ? Lời thơ “ vô vi cư điện các” hơn
một ngàn năm qua vẫn còn giá trị, và ngàn năm sau nữa chắc chắn vẫn còn
giá trị. Vui mừng thay kho tàng văn học Việt Nam vẫn còn lưu gĩư được
những bài thơ chứa đựng được tư tưởng chính trị của Phật giáo Việt Nam
như bài Quốc Tộ.
Thích Giác Tâm
( Viết để chia sẻ cho quý huynh đệ tham dự khoá an cư tại chùa Bửu Nghiêm,
văn phòng Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Gia Lai – PL. 2552.DL. 2008 )