Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
Lê Mạnh Thát
NGHIÊN CỨU VỀ THIỀN UYỂN TẬP ANH
NXB Thành Phố Hồ chí Minh 1999 - NXB Phương Đông 2006
V. NHỮNG NGUỒN SỬ LIỆU
VÀ PHƯƠNG PHÁP VIẾT SỬ
Như đã thấy, cho đến những
năm 1310 tình trạng sử liệu Phật giáo Việt nam tương đối đã bị thất lạc
một phần lớn, dẫn tới những phát biểu lịch sử rời rạc và thiếu sót
trong Lược dẫn thiền phái đó. Từ đó nảy sinh một ý thức và một nỗ lực mới nhằm giải quyết tình trạng ấy mà kết quả là sự ra đời của Thiền uyển tập anh. Ðể
viết nó, người viết đã sưu tầm lại được một số lớn tài liệu, mà chủ yếu
là gồm hai loại sau đây. Thứ nhất là những tác phẩm sử học Phật giáo
Việt nam ra đời trước nó như Chiếu đối lục của Thông Biện và Biện Tài, Nam tôn tự pháp đó của Thường Chiếu và Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Ðây là loại tư liệu cơ sở mà Thiền uyển tập anh đã dùng. Tiếp đến là loại tư liệu phụ bao gồm những tác phẩm sử học Việt nam như Sử ký và Quốc sử,
những tác phẩm của những tác gia Việt nam kể cả những tác phẩm của các
thiền sư, mà nó viết tới, những tài liệu trong bia, và cuối cùng là
những tác phẩm Thiền tông Trung quốc, mà nổi bật nhất là Truyền đăng lục của Ðạo Nguyên.
1. NHỮNG NGUỒN SỬ LIỆU CƠ SỞ
Về loại thứ nhất thì Chiếu đối lục không được Thiền uyển tập anh
trực tiếp dẫn ra như một sử liệu kiểm soát những sử liệu khác. Ðiều
này, có nghĩa, hoặc Chiếu đối lục đã không được tác giả nó dùng đến,
hoặc ngược lại, tác giả nó đã sử dụng. Chiếu đối lục như một sử liệu
chính để viết về những vị Thiền sư ghi trong nó. Hai trường hợp này,
chúng tôi nghĩ trường hợp sau tỏ ra gần sự thật hơn, bởi vì trong một
chú thích ở truyện Ðịnh Huệ tờ 53b1, Thiền uyển tập anh viết: "
Xét Nam tôn tự pháp đồ nói Huệ là pháp tự của Vạn Hạnh, điều này sợ sai,
nay cứ bản truyện". Ta biết Ðịnh Huệ là thầy của Huệ Sinh, mà Huệ Sinh
thì được Thông Biện nhắc tới trong buổi thuyết trình vào ngày 15 tháng 2
năm Hội Phong thứ 5 (1096). Do thế, Huệ Sinh cũng như Ðịnh Huệ chắc
chắn phải được Biện ghi lại trong Chiếu đối lục. Cái gọi là bản truyện
trong chú thích vừa dẫn mà tác giả Thiền uyển tập anh dựa và để
nghi ngờ lối xếp đặt của Nam tôn tự pháp đồ về thứ tự thừa kế của Huệ
hẳn phải xuất phát từ Chiếu đối lục đó, chứ không thể một nơi nào khác.
Bởi vì xuất phát từ đấy, nó mới có một sức thuyết phục tác giả Thiền uyển tập anh về sự đúng đắn của nó hơn Nam tôn tự pháp đồ.
Dẫu sao chăng nữa, Chiếu
đối lục là một tác phẩm chung của Thông Biện và Biện Tài. Chúng tôi nói
là tác phẩm chung vì lẽ tác phẩm của Thông Biện nguyên có tên là Chiếu
đối bản, như truyện Thần Nghi, tờ 40a9 đã ghi, còn Chiếu đối lục thực sự
là tên của một tác phẩm của Biện Tài do vua ra lệnh "biên tu", nhưng
Biện Tài là học trò nối pháp của Thông Biện. Do thế, Chiếu đối lục thực
chất là do lấy Chiếu đối bản mà nhào nặn nên, và không khác gì nó cho
lắm, để sau này, trong lịch sử truyền thừa, Thường Chiếu đã dùng Chiếu
đối bản của Thông Biện để truyền lại cho đệ tử của mình là Thần Nghi.
Bản truyền này dù vẫn gọi là Chiếu đối bản chúng tôi chắc rằng nó cũng
bao gồm cả những "biên tu" do vua ra lệnh cho Biện Tài.
Ngày
nay, cả Chiếu đối lục lẫn Chiếu đối bản đã mất, nên ta không thể bàn cãi
gì thêm về những nội dung của chúng được. Song nếu cách trên của chúng
tôi về chữ "bản truyện" trong chú thích vừa dẫn trước được chấp nhận,
thì Chiếu đối bản lẫn Chiếu đối lục chủ yếu là ghi lại một cách đơn sơ
những nét chính về cuộc đời của các vị thiền sư Việt nam từ Tỳ Ni Ða Lưu
Chi trở xuống cho tới Viên Chiếu (999 – 1090) và Huệ Sinh (? – 1064),
sau khi đã mở đầu bằng một giới thiệu đại cương về lai lịch và nguồn gốc
của Phật giáo Việt nam từa tựa như những gì mà Thông biện đã thuyết
trình trong buổi hội năm 1096 nói trên.
Về Nam tôn tự pháp đồ, tác giả Thiền uyển tập anh
dẫn ra cả thảy bốn lần, trong đó ba lần gọi tắt là Nam tôn đồ ở những
truyện Không Lộ tờ 25b11, truyện Ma Ha, tờ 51a5 và truyện Ðịnh Giác tờ
72a1, còn một lần gọi đủ tên trong truyện Ðịnh Huệ, tờ 53b1 dẫn trước.
Cứ vào những dẫn chứng đấy, ta có thể rút ra hai kết luận khá rõ rệt về
vị trí cũng như nội dung nó trong liên hệ với Chiếu đối lục. Thứ nhất,
nó không phải là một chép lại hoàn toàn và y nguyên văn những gì Chiếu
đối lục đã ghi. Ðiều này thể hiện dứt khoát nhất trong những dẫn chứng ở
truyện Ma Ha và truyện Ðịnh Huệ. Ma Ha theo nó là thuộc pháp tự của Nam
Dương, nhưng Thiền uyển tập anh đã xếp ông vào hàng đệ tử của Pháp Thuận.
Việc
xếp đấy tất phải đến từ Chiếu đối lục bởi vì ngoài Chiếu đối lục, nó
không có một tài liệu nào khác có thể giúp xếp đặt được, mà ta có thể
biết. Về Ðịnh Huệ thì ta đã bàn cãi ở trên. Thứ hai, vì nó không là một
sao chép hoàn toàn Chiếu đối lục, Nam tôn tự pháp đồ do thế đã có tham
vọng trở thành một cuốn sử thứ hai song hành với Chiếu đối lục. Thực
vậy, cũng cứ vào những dẫn chứng trên, thì nó đã không ghi lại tiểu sử
và hệ phái không những của những người sống từ thời Thông Biện (? –
1134) đến thời tác giả nó là Thường Chiếu (? – 1203) một điều Chiếu đối
lục không thể làm được, mà còn của những người đã được Thông Biện và
Biện Tài chép ở Chiếu đối lục.
Như thế, qua hai kết luận
đó thì Nam tôn tự pháp đồ rõ rệt có tham vọng trở thành một cuốn sử đầy
đủ và có thể thay thế cho Chiếu đối lục. Nội dung nó do vậy không phải
chỉ đơn thuần bao gồm những bản đồ chỉ ra thứ tự các thế hệ truyền pháp
của các dòng thiền Việt nam, m à còn bao gồm chắc chắn cả những tiểu
truyện về họ ghi rõ nơi ở, quê quán, niên đại, và hành tích nếu có, của
họ. Có lẽ nhờ viết nó trên một qui mô loại đó, nên đến hậu bán thế kỷ 15
Lương Thế Vinh (1441 - ?) đã viết tựa cho việc in lại, như Văn tịch chí
của Lịch triều hiến chương loại chí đã ghi. Truyền bản của nó, qua bản
in có bài tựa của Lương Thế Vinh chắc chắn còn lưu hành vào tiền bán thế
kỷ thứ 19 lúc Phan Huy Chú viết Lịch triều hiến chương loại chí bởi vì
chính trong tác phẩm ấy Chú nói đến việc "Nam tôn tự pháp đồ, 1 quyển,
thầy Viên Chiếu soạn, trạng nguyên Lương Thế Vinh viết tựa", một điều mà
Nghệ văn chí của Lê Quí Ðôn không chép ra. Có thể Ðôn chưa có dịp thấy
Nam tôn tự pháp đồ như một truyền bản. Ông chỉ ghi lại nó theo những gì
mà Thiền uyển tập anh đã báo cáo mà thôi.
Cuối cùng là Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Cả Chiếu đối lục lẫn Nam tôn tự pháp đồ hình như cung ứng cho Thiền uyển tập anh những xương sườn tiểu sử của các vị Thiền sư. Còn việc viết nên những tiểu sử như chúng xuất hiện ngày nay trong Thiền uyển tập anh,
tác giả chúng đã phải dùng đến Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Nguyên do
cho một suy nghĩ như vậy bắt nguồn từ hai trường hợp khá đặc biệt sau đó
là truyện Tịnh Không và truyện Nguyện Học. Ðặc điểm nổi bật nhất của
hai truyện ấy là chúng có hoặc cơ duyên thoại ngữ, hoặc kệ thị tịch
giống với cơ duyên thoại ngữ hoặc kệ thị tịch trong Truyền đăng lục của
Ðạo Nguyên. Cho nên cuối truyện Tịnh Không, Thiền uyển tập anh đã
viết câu chú ở tờ 29a5-6 thế này: "Cơ duyên thoại ngữ của truyện này
cùng với truyện của Hòa thượng Giáp Sơn trong truyền đăng rất hiệp, nay
xét Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật thì đều đã chép đủ, nên không dám cải
chính". Còn ở truyện Nguyện Học, nó viết ở tờ 36a9: "Truyện này cùng với
truyện của Huệ Tư trong Truyền đăng đại khái giống nhau. Nay cứ vào
những gì do Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật chép".
Bằng hai chú thích đó, ta
có thể rút ra hai kết luận khá rõ rệt, đấy là 1) Chính Liệt tổ yếu ngữ
đã cung cấp những "yếu ngữ", tức những lời nói chính yếu của các Tổ sư
cho Thiền uyển tập anh, và 2) Tác giả Thiền uyển tập anh
có một đánh giá cao về quyền uy của những gì do Liệt tổ yếu ngữ ghi lại.
Về kết luận thứ nhất, mặc dù truyện của các Thiền sư khác không ghi là
yếu ngữ của họ lấy ra từ Liệt tổ yếu ngữ, chúng tôi nghĩ chúng ta phải
giả thiết là một sự thực như thế đã xảy ra. Lý do cho một giả thiết đó
nằm ở chỗ không lẽ Liệt tổ yếu ngữ chỉ độc nhất chép yếu ngữ của Tịnh
Không và Nguyện Học mà thôi sao?. Ðương nhiên, nó không chỉ gồm yếu ngữ
của những vị khác có tên trong Thiền uyển tập anh, nên ngay khi
cả yếu ngữ của Tịnh Không và Nguyện Học không gì hơn là yếu ngữ của
Thiện Hội và Huệ Tư trong Truyền đăng lục của Ðạo Nguyên nó vẫn được
chấp nhận là đã chép trung thực yếu ngữ của những vị đó. Do thế, tác giả
Thiền uyển tập anh đã có thể "dựa vào" những gì Liệt tổ yếu ngữ
chép, mà "không dám cải chính" chúng. Ông đã đánh giá rất cao quyền uy
của tác phẩm đấy.
Ðiều đáng ngạc nhiên là, ngoài Thiền uyển tập anh
ra không thấy một tác giả nào khác nhắc tới Liệt tổ yếu ngữ. Ngay cả
tác giả nó là Huệ Nhật, ta ngày nay chưa phát hiện được một tài liệu nào
có ghi tên đó. Dẫu thế, chúng tôi nghĩ Huệ Nhật là người cùng thời với
Ứng Thuận, vì lẽ những người kế thừa cuối cùng của hai dòng thiền Pháp
vân và Kiến sơ như Tức Lự, Hiện Quang và Y Sơn thì đều có ghi "yếu ngữ"
của họ cả, trừ một mình Ứng Thuận, là người kế thừa cuối cùng nhất của
dòng thiền Kiến sơ đã không có ghi lại một yếu ngữ nào. Nói khác đi, Huệ
Nhật đã không gồm Ứng Thuận vào số những vị tổ mà mình chọn lọc yếu
ngữ. Dĩ nhiên, không phải chỉ một mình Ứng Thuận là không có yếu ngữ
trong Thiền uyển tập anh. Ðiểm đáng kể là ông là người nối dõi
sau cùng dòng thiền Kiến sơ và là một trong vị khai sáng ra dòng thiền
Trúc lâm, mà lại không có yếu ngữ. Ðó là lý do cho ta đề nghị Huệ Nhật
sống cùng thời với Ứng Thuận và viết Liệt tổ yếu ngữ khoảng những năm
1250 trở đi.
Về nội dung, thì trong số 68 vị Thiền sư thuộc hai dòng thiền Pháp vân và Kiến sơ có tên trong Thiền uyển tập anh
thì có 13 vị là không có một yếu ngữ nào hết. Lối văn mô tả cuộc đời 13
vị đó mang nặng tính chất biền ngẫu của loại văn bia. Còn lại 55 vị kia
thì đều có yếu ngữ dưới một hình thức này hay nọ, trong đó riêng về
Viên Chiếu, thì có lẽ là không, chứ tất cả những vị khác Thiền uyển tập anh
rút yếu ngữ của họ ra từ Liệt tổ yếu ngữ. Thật ra, dẫu ta muốn có một
nguồn tài liệu khác cho nó rút ra, ta hiện cũng không thể đề nghị đích
danh nguồn tài liệu đấy được. Từ đó, nội dung của Liệt tổ yếu ngữ ghi
chép lại những lời nói chính yếu của khoảng 54 vị Thiền sư hiện có tên
trong Thiền uyển tập anh. Vấn đề ta chưa thể giải quyết là Huệ Nhật đã lá6y tài liệu ở đâu để viết nên Liệt tổ yếu ngữ.
2. NHỮNG NGUỒN SỬ LIỆU PHỤ
Trên đây, chúng tôi đã
giới thiệu sơ ba tư liệu chủ yếu, đấy là Chiếu đối lục của Thông Biện và
Biện Tài, Nam tôn tự pháp đồ của Thường Chiếu và Liệt tổ yếu ngữ của
Huệ Nhật, mà tác giả Thiền uyển tập anh đã dùng để viết tác phẩm
mình. Trong số ba tư liệu đây thì Chiếu đối lục và Nam tôn tự pháp đồ
cung cấp cho ông những dữ kiện tiểu sử nơi ở, quê quán, niên đại và hành
tích còn Liệt tổ yếu ngữ giúp ông có được những đối thoại giữa các thầy
trò Thiền sư cũng như những bài thơ và những bài kệ thị tịch và thị
chúng. Ngoài những tư liệu cơ sở ấy, ông còn tham cứu và sử dụng bốn
loại tư liệu phụ sau mà Thiền uyển tập anh ghi rõ lại tên hay để lại một số dấu vết và ta có thể suy luận ra.
Hầu hết là những tư liệu lịch sử chính trị Việt nam, về loại này Thiền uyển tập anh
đã dẫn rõ hai tên, đó là Quốc sử và Sử ký. Quốc sử được dẫn ba lần ở
những truyện Tịnh Giới tờ 34b7, truyện Vạn hạnh tờ 53a8 và truyện Ðạo
Hạnh tờ 56b2. Cứ vào hai lần dẫn sau, ta có thể chắc chắn là, Quốc sử,
đấy không chỉ là tác phẩm nào khác hơn là Ðại Việt sử ký của Lê Văn Hưu,
tức bộ sử cổ Trần Thái Tôn sai Hưu trùng tu lại bộ sử của Trần Chu Phổ
và đến năm 1272 mới hoàn thành dưới triều Trần Thánh Tôn, "chép việc từ
Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, phàm 30 quyển". Thực vậy, lấy lần dẫn ở
truyện Ðạo Hạnh làm thí dụ. Thiền uyển tập anh viết: " Xét Quốc
sử thì năm Hội Tường Ðại Khánh thứ 8 (1117) các con của Sùng Hiền Hầu,
Thành Khánh Hầu, Thành Chiêu Hầu, Thành Quảng Hầu và Thành Hưng Hầu được
đón vào cung để nuôi dạy. Con của Sùng Hiền Hầu năm ấy mới hai tuổi.
Vua rất yêu thương, bèn lập làm thái tử… Toàn thư B3, tờ 18a8-b3 cũng
chép tương tự. Ðủ rõ Quốc sử không gì khác hơn là Ðại Việt sử ký của Lê
văn Hưu.
Còn về Sử ký vấn đề hơi
rắc rối hơn. Nó chỉ được dẫn một lần ở chuyện Khánh Hỷ tờ 62a11, ghi
rằng: "Sử ký nói năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3 (1135) Sư mất". Cần mở
ngoặc để nói thêm là hai bản in đời Lê và Nguyễn đều viết chữ Sử thành
chữ Lại, nên trước đây có người đọc là Lại ký rồi tự hỏi có phải là Sử
ký hay không. Chi tiết này, ngày nay ta có thể tự giải quyết một cách ổn
thoả với khẳng định rằng chữ Lại là một cách viết sai của chữ Sử, bởi
vì truyện Ðạo Hạnh tờ 56b3 cũng có trường hợp tương tự, ở đấy, Quốc sử
bị viết thành Quốc lại. Thế thì, Sử ký của truyện này muốn chỉ cho cuốn
sử nào? Trước đây, Hoàng Xuân Hãn cho lời chua vừa dẫn là của người đứng
in bản in năm 1715 của Thiền uyển tập anh nên ông đồng nhất Sử
ký với Toàn thư. Nhưng hiển nhiên đó là một quan niệm sai lầm, vì tất cả
những lời chua trong bản in đấy phải là của chính tác giả Thiền uyển tập anh.
Do thế, Sử ký đấy tất không thể chỉ Toàn thư. Nếu vậy phải chăng nó chỉ
Ðại Việt sử ký của Lê Văn Hưu? Theo chúng tôi, không phải vì lẽ Ðại
Việt sử ký đã được gọi bằng Quốc sử, như vừa thấy trên. Ấy thì, Sử ký
chỉ cuốn sử nào?
Chúng tôi nghĩ, nó chỉ
cuốn Sử ký của Ðỗ Thiện, mà Việt điện u linh tập dẫn đích danh tới những
bốn lần ở những truyện Trương Hống và Trương Hát tờ 24, truyện Lý Phục
Nan tờ 25, truyện Cao Lỗ tờ 29 và truyện Thần Ðằng châu tờ 38. Ngoài
những lần dẫn đích danh này, những truyện Hai Bà Trưng tờ 11, truyện Tô
Lịch tờ 18, truyện Phạm Cự Lượng tờ 19 và truyện Mục Thận tờ 22 trong
đấy cũng đều nói là xuất phát từ Sử ký, Việt điện u linh tập, như chính
bài tựa nó xác định, là một tác phẩm vào năm Khai Hựu thứ I (1329) do Lý
Tế Xuyên thực hiện. Mặc dù niên đại ấy bị một số người nghi ngờ, sự
nghi ngờ đó không dựa trên một bằng chứng xác đáng nào, ngoài trừ cứ vào
việc kỵ huý, mà chủ yếu là cái họ Lý của Lý Tế Xuyên.
Tuy
nhiên, vì truyền bản đời Trần của Việt điện u linh tập ngày nay không
còn nữa, ta khó có thể dựa vào kỵ huý đó để bác bỏ niên đại 1329 vừa
nêu. Thực sự, thì tất cả những sách vở đời Trần cải họ Lý thành họ
Nguyễn đều bị các tác giả đời Lê chữa thành họ Lý hết. Việc Nguyễn Tế
Xuyên đời Trần bị đổi lại thành Lý Tế Xuyên đời Lê tất cũng không có gì
đáng ngạc nhiên. Một khi Việt điện u linh tập đã viết vào năm 1329 và đã
dẫn Sử ký như một tác phẩm của Ðỗ Thiện thì Sử ký do Thiền uyển tập anh dẫn năm sau đó chắc chắn không thể chỉ là một cuốn sách nào hơn là cuốn sách của Ðỗ Thiện.
Nhân vật Ðỗ Thiện này cùng
Sử ký của ông cũng gây ra khá nhiều bàn cãi. Nguyên do là Toàn thư B3
tờ 27a có ghi tên một nội nhân Ðỗ Thiện được Thần tôn giao cho nhiệm vụ
cùng xá nhân Bồ Sùng đi báo việc lên ngôi của mình cho Sùng Hiền Hầu,
cha của Thần Tôn, vào năm 1127. Như vậy, nếu Ðỗ Thiện của Sử ký là nội
nhân Ðỗ Thiện đây, thì ông phải sống vào khoảng thượng bán thế kỷ thứ 12
và viết Sử ký vào khoảng thời gian đó. Song, vì Việt điện u linh tập đã
dẫn Sử ký với những thêm thắt của mình cho nên có người dựa vào những
thêm thắt đấy để quả quyết có một Ðỗ Thiện sống vào hạ bán thế kỷ thứ 13
cho đến thượng bán thế kỷ 14, còn Sử ký của Ðỗ Thiện đây chắc chắn phải
viết vào khoảng đầu thế kỷ 14, tức khoảng giữa những năm 1287 – 1329.
Những quả quyết như thế, đương nhiên là sai lầm, do không phân biệt được
đâu là những trích dẫn từ Sử ký và đâu là những thêm thắt của Việt điện
u linh tập. Một khi đã phân biệt được, thì Ðỗ Thiện của Sử ký chính là
nội nhân Ðỗ Thiện phục vụ dưới triều Lý Nhân Tôn và Lý Thần Tôn. Và Sử
ký dẫn trong truyện Khánh Hỷ của Thiền uyển tập anh chính là Sử ký của Ðỗ Thiện.
Cuốn Sử ký ấy ngày nay đã mất, nhưng cứ tám truyện dẫn trong Việt điện u linh tập và truyện Khánh Hỷ trong Thiền uyển tập anh, ta
có thể nghĩ rằng nó có lẽ là một bộ sử mô phỏng theo lối Sử ký của Tư
Mã Thiên. Nói khác đi, nội dung nó rất có thể đã bao gồm những bộ phận
chính của một cuốn sử viết theo lối đó, tức phần Bản kỷ ghi tóm tắt
những sự việc của một đời vua, phần Chi chép lại các chế độ của một
triều đại, và phần liệt truyện ghi chép hành tích và sự nghiệp của những
công thần và nghịch tiếm thần. Truyện Khánh Hỷ và truyện của tám người
nói trên chắc được trích từ phần Liệt truyện của cuốn Sử ký đó. Tám
truyện đấy, đều đề cập tới những việc xảy ra trước thời Lý Thần Tôn. Trừ
truyện Hai Bà Trưng có ghi việc dưới triều Lý Anh Tôn. Lời dẫn trong
truyê�n Khánh Hỷ nói: "Sử ký viết năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3 (1135)
Hỷ mất…". Như thế, Ðỗ Thiện chắc chắn phải viết Sử ký sau năm 1135, nếu
không là dưới triều Lý Anh Tôn.
Ðiều này giải thích không ít cho ta, tại sao những truyện do Sử ký ghi lại và dẫn trong Việt điện u linh tập
quả đã phủ trong một không khí u linh đáng sợ. Ðỗ Thiện đã phục vụ một
triều đại cực kỳ ưa thích việc lạ lùng, đó là triều đại Thần Tôn nhà Lý.
Cho nên, dù Thần Tôn chỉ trị vì có 10 năm, sử ghi tới những 29 "việc
lạ" như truyện "đào bốn tấc sanh hoa" hay phướn chùa không gió mà nhảy
múa", "hươu trắng xuất hiện" v.v….Với một triều đại chú trọng đến những
"việc lạ" loại đó, Ðỗ Thiện tất không thể nào không chịu ảnh hưởng. Do
thế, khi viết Sử ky� khoảng dưới triều Lý Anh Tôn, Thiện đã viết nó theo xu hướng chính đó của triều đại. Và có lẽ vì viết theo xu hướng đấy, Sử ky�
đã tự đánh mất giá trị mình đi rất nhiều trước những cặp mắt phê bình
lịch sử khách quan, dẫn cuối cùng đến một sự quên lãng hầu như hoàn
toàn, nếu không nhờ những cây bút có ít nhiều thiện cảm với sự u linh
của nó nhắc tới như Việt điện u linh tập hay Thiền uyển tập anh.
Tiếp đến là những tài liệu trong tác phẩm của các tác giả sống trước năm 1337. Về loại này, Thiền uyển tập anh chỉ
nêu đích danh một tác phẩm, đấy là Tự Ngu tập, ở truyện Hiện Quang tờ
42b5. Tự Ngu tập đây, ngày nay ta không thấy một sử sách nào ghi lại
hết. Chỉ biết chắc chắn là, nó phải viết giữa giai đoạn khi Hiện Quang
mất vào năm 1221 và lúc Thiền uyển tập anh ra đời. Về tác giả,
thì cứ nhan đề Tự Ngu tập, chúng tôi đoán là nó do Ngu ông viết. Lược
dẫn thiền phái đồ tờ 7b có kê một đệ tử của Tiêu Diêu tên Ngu ông sống
đồng thời với Tuệ Trung cùng chín đệ tử khác như Vị Hài, Ðạo Tiềm, Thủ
Nhân, Thạch Ðầu, Thần Tán v.v…Tuệ Trung, cứ vào Hành trạng do Trần Nhân
Tôn viết trong Thượng sĩ ngữ lục tờ 42b1, ra đời năm 1230 và mất năm
1291. Niên đại của Ngu Ông chắc cũng rơi vào khoảng đó, tức khoảng giữa
những năm 1221 – 1337. Về nội dung cứ vào câu dẫn ở truyện Hiện Quang
vừa nói, theo đấy khi Quang "mất, không biết ở đâu", ta có thể tưởng
tượng nó là một tập hợp thi văn ghi chú đủ loại, đặc biệt là những gì
liên hệ với núi Yên Tử, trung tâm xuất phát của phái thiền Trúc lâm.
Ngoài Tự ngu tập ra, Thiền uyển tập anh đã
sử dụng một số tác phẩm khác của các tác gia trước nó, nhưng không nêu
rõ tên đề. Trường hợp tiêu biểu nhất là những cơ duyên thoại ngữ, tức
câu hỏi và câu trả lời giữa hai thầy trò Thiền sư, chép trong truyện
Viên Chiếu. Ðây là một tập đại thành những thoại ngữ đó lớn nhất và xưa
nhất trong lịch sử Thiền tôn Việt nam hiện còn. So với đối cơ của Thượng
sĩ ngữ lục, nơi chép những thoại ngữ giữa Tuệ Trung và những học trò
của mình, thì về số lượng cũng như chất lượng, những thoại ngữ của
truyện Viên Chiếu đã vượt hẳn. Truyện Viên Chiếu chứa đựng đến những 118
câu hỏi và trả lời, trong khi phần đối cơ chỉ gồm vẻn vẹn có 92. Bây
giờ, khảo về nguyên lai chúng, ban đầu chúng tôi tưởng chúng được rút ra
từ Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật. Nhưng sau đọc kỹ lại phần Phương ngoại
trong An nam chí lược 15 tờ 147, ở đây, Lê Tắc đã ghi một vài dòng sơ
lược về Mai Viên Chiếu chúng tôi mới hiểu ra và tin chắc rằng những 118
thoại ngữ đấy đều phải trực tiếp rút ra từ tác phẩm Tham đồ hiển quyết của chính Viên Chiếu.
Tắc
viết: "Thiền sư Mai Viên Chiếu thường viết Tham đồ hiển quyết, đại lược
nói rằng: Một hôm trong lúc đang ngồi trước nhà, bỗng có vị tăng đến
hỏi: "Phật cùng với Thánh nghĩa ấy là thế nào?" Trả lời: "Cúc trùng
dương dưới dậu, oanh thục khí đầu cành". Sách đó phần lớn gồm những loại
như thế". Rõ rằng, hai thoại ngữ tắc dẫn như tiêu biêu cho nội dung và
loại văn chương của Tham đồ hiển quyết là hai thoại ngữ bắt đầu cho 116
thoại ngữ tiếp theo trong truyện Viên Chiếu. Như vậy, kết luận tất yếu
phải là, 118 thoại ngữ trong truyện Viên Chiếu chính là Tham đồ hiển quyết, chứ không gì nữa. Nói chúng là Tham đồ hiển quyết, vì qua sự so sánh trên, ta thấy ngay cả phần đối cơ của Thượng sĩ ngữ lục
cũng chỉ gồm có 92 câu hỏi và đáp, do thế, 118 thoại ngữ tự chúng có
thể tạo thành ra một tác phẩm, và tác phẩm đó là Tham đồ hiển quyết. Quả
vậy, cái tên Tham đồ hiển quyết có nghĩa "làm rõ những bí quyết
(giác ngộ) cho những đồ đệ học tham thiền" và từ đó, biểu dương khá rõ
rệt bản chất của những thoại ngữ, mà nó chứa đựng. Những thoại ngữ đấy
không nhằm một mục đích nào khác hơn là "làm rõ cái bí quyết tiến tới
giác ngộ cho những ai tham thiền".
Với kết luận ấy, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, ta đã tìm thấy lại một tác phẩm thời Lývới tất cả thịt xương nó. Tham đồ hiển quyết có thể nói là tác phẩm đó. Nó duy nhất được bảo tồn có lẽ một cách hoàn toàn giữa 18 tác phẩm khác liệt ra trong Thiền uyển tập anh như Dượcsư thập nhị nguyện văn, Tán viên giác kinh, Thậpnhị bồ tát hạnh chứng đạo trường và Viên Chiếu tập của Viên Chiếu, Chiếu đối bản của Thông Biện, Chiếu đối lục của Biện Tài, Nam tôn tự pháp đồ và Thích đạo khoa giáo của Thường Chiếu, Bồ tát hiệu sám hối văn của Pháp Thuận, Pháp sự trai nghi, Chư đạo tràng khánh tán văn và Bia văn của Huệ Sinh, Ngộ đạo thi tập của Khánh Hỷ và Chư phật tích duyên sự, Hồng chung văn bia ký, Tăng già tạp lục và Viên Thông thi tập của Viên Thông. Ngoài Tham đồ hiển quyết ra, ta chưa biết Thiền uyển tập anh có
trích dẫn tác phẩm khác của những người vừa dẫn không, vì không có vết
tích nào để có thể truy cứu. Thứ ba là những tài liệu văn bia, Thiền uyển tập anh hai lần dẫn rõ tên loại tư liệu đấy.
Ở cuối truyện Tịnh Giới tờ 34b7, người viết chua thêm:"Truyện này đại khái cùng với Quốc sử và Bia văn
không giống, nay khảo chính lại". Còn ở cuối truyện Tịnh Thiền tờ
68a-b3, ông không những nói văn bia của Tịnh Thiền là do môn đồ Pháp Ký
soạn, mà còn chép nguyên lại một đoạn tiêu biểu cho những gì viết trong
đó. Như thế, Thiềnuyển tập anh sử dụng văn bia vào hai mục đích
chính, đấy là: 1) để kiểm tra giá trị sử liệu những loại tư liệu khác,
và 2) là để bổ sung cho những gì đã viết về một nhân vật. Ngoài hai mục
đích đó, hình như nó cũng dùng văn bia để viết lại tiểu truyện của một
người trong trường hợp người ấy không có được đề cập tới qua những loại
tư liệu khác. Chẳng hạn, truyện Bản Tịch tờ 60b2-11 với những câu "Từ
đó, Sư không vướng mắc hữu vô, gồm rõ đốn tiệm, đến đâu cũng gieo khắp
mưa pháp, xa gợi gió huyền, quan lại đốc theo, anh hào ngưỡng mộ", rõ
rệt thể hiện một thứ văn bia, mà tác giả Thiềnuyển tập anh đã
nhào nặn lại. Việc xử dụng văn bia cho mục đích cuối cùng này chắc xảy
ra nhiều, nhưng ta hiện chưa thể phát hiện nó hết được.
Cuối cùng là loại tài liệu Trung Quốc, mà chủ yếu là Truyền đăng lục do Ðạo Nguyên viết vào khoảng năm 1004-1007 của niên hiệu Cảnh Ðức đời Tống Chân Tôn, nên cũng gọi Cảnh đửc truyền đăng lục. Thiền uyển tập anh chắc đã tham khảo Truyền đăng lục
một cách rất kỹ càng, thể hiện qua các lời chua trong các truyện Vô
Ngôn Thông, Tịnh Không vàNguyện Học, nhất là hai truyện sau. Bởi vì hai
truyện sau chứa đựng những cơ duyên thoại ngữ và kệ thị chúng có trùng
hợp với những gì do hai Thiền sư Trung Quốc phát biểu và chép lại trong Truyền đăng lục.
Ðây là một nỗ lực đối chiếu cố ýnhằm không những xác định vị trí tư
tưởng của các vị thiền sư Việt Nam mà còn giúp ta kiểm soát được cả
truyền bản của Thiền uyển tập anh lẫn truyền bản Truyền đăng lục bằng cách dựa vào những trường hợp vừa nói. Ngoài Truyền đăng lục ra, Thiềnuyển tập anh còn nói tới Tuyết đậu ngữ lục của Trùng Hiển (980-1052), nhưng không dẫn ra trong một lời chua nào. Về những tác phẩm Thiền tôn Trung quốc nổi danh khác như Bích nham lục của Viên Ngộ Khắc Cần, Vô môn quan của Vô Môn Huệ Khai, Nhân thiên nhãn mục của Hối Nham Tri Chiếu v.v… mà các thiền sư đời Trần ngiên cứu và giảng thuyết khá rộng rãi, Thiền uyển tập anh chắc có tham khảo, nhưng đã không thấy nhắc tới hay dẫn ra.
Ngoài những loại tư liệu chính và phụ vừa kể, tác giả Thiền uyển tập anh
còn sử dụng cả đến những tư liệu truyền khẩu, phản ảnh không ít những
quan niệm và đánh giá của quần chúng nhân dân đối với những nhân vật
lịch sử mà nó viết về. Ðiển hình nhất là lời chua ở truyện Tịnh Giới tờ
34a3-6, nói về việc "tục truyền" Tịnh Giới nhờ cầu được mưa, mà thoát
khỏi nạn đóng thuế. Ghi lại một sự kiện truyền khẩu như thế, Thiền uyển tập anh
đã cho ta một cảnh tượng bòn rút của cải từ nhân dân lao động bằng chế
độ thuế khóa khắc nghiệt của chính quyền Lý Cao Tôn. Cũng cần thêm là, Thiền uyển tập anh
nói Giới "xuất thân trong một gia đình hàn vi " nghĩa là trong một gia
đình nghèo hèn không có một tấc đất. Sử dụng đến tư liệu khẩu truyền để
viết về Tịnh Giới, nó do thế đã phản ánh khá trung thực những quan niệm
và đánh giá của nhân dân lao động đối với những nhân vật lịch sử, mà các
sử sách khác thường bỏ qua.
3. PHƯƠNG PHÁP VIẾT SỬ
Trên đây, chúng tôi đã phân tích những nguồn tư liệu chính và phụ mà tác giả Thiền tuyển tập anh
sưu tập và sử dụng. Trong lối viết sử thì thông thường sau khi đã lựa
chọn đề tài công tác sưu tầm tài liệu lịch sử liên hệ, nếu hoàn thành,
là đã xác định không ít phương pháp viết sử của một sử gia. Ở trường hợp
Thiền tuyển tập anh đây, vì ngày n ay bài tựa của chính tác giả
cuốn sách đã bị thất lạc không biết tự đời nào, cho nên ta rất khó mà
biết một cách đích xác quan niệm và phương cách viết sử của ông. Dẫu
thế, qua những nguồn sử liệu vừa phân tích trên, ta có thể nói ông muốn
đạt đến một lối viết sử khách quan khoa học, nhằm trình bày lại quá khứ
vừa như một thực tế sinh động có những màu sắc của riêng nó, vừa như một
khí cụ giáo dục rút tỉa những kinh nghiệm có ích không những cho công
tác tu hành, mà còn cho những công tác chính trị xã hội khác. Một quan
niệm viết sử như thế, đương nhiên không có gì là lạ, nhất là khi Kim
Sơn, một nhà sư thân cận và được tin cậy của Trần Minh Tôn, quả đã viết
ra Thiền uyển tập anh. Lối viết sử của ông chủ yếu là như thế này.
Ông dùng ba tài liệu sử học chính yếu trước thời ông, đấy là Chiếu đối lục, Nam tôn tự pháp đồ và Liệt tổ yếu ngữ,
để nhào nặn nên những người kế thừa hai dòng thiền chính của Việt nam,
từ lúc chúng bắt đầu cho đến đời Lý và bước sang đời Trần khoảng năm
mười năm. Trong khi nhào nặn, ông có lẽ đã sử dụng những tài liệu của Chiếu đối lục và Nam tôn tự pháp đo� làm những xương sườn tiểu sử, rồi chắc chắn sử dụng Liệt tổ yếu ngữ để bôi phết thịt da cho những bộ xương sườn đó. Xong ông dùng những tài liệu phụ gồm từ Quốc sử cho đến văn phẩm các tác gia hay tục truyền và Bia văn
cùng tài liệu Trung quốc để kiểm tra sự thực cùng mức độ sự thực của
những truyện mà ông vừa nhào nặn nên, đồng thời bồi dưỡng cho chúng thêm
những mẫu tin và dữ kiện mới góp phần làm cho chúng phong phú hơn lên.
Ðấy là lối sử dụng mà ông đã để lộ ra một cách công nhiên trong Thiền uyển tập anh.
Với một lối sử dụng như thế, ta phải thành thật nhìn nhận tác giả nó đã
đạt được vào thời đại ông, môt mức độ viết sử khoa học khách quan nhất
định.
Nhưng tiếp đến, vấn đề bố cục cuốn sách và viết nên truyện của các Thiền sư thì tác giả Thiền uyển tập anh
đã phạm phải một số khuyết điểm làm cản trở việc triển khai những ưu
điểm có sẵn trong phương thức sử dụng sử liệu. Thứ nhất, về bố cục, ông
đã để cho quan điểm trường phái ông chi phối cách xếp đặt và tổ chức tư
liệu, dẫn đến một hiện tượng khá lạ kỳ trong một cuốn sách về lịch sử
Thiền tôn Việt nam là, thứ tự niên biểu của các dòng thiền bị đảo ngược.
Dòng thiền Pháp vân, dù xuất hiện trước đến hơn 200 năm, đã bị xếp lui
sau dòng thiền Kiến sơ, dòng thiền của người viết Thiền tuyển tập anh.
Rồi tới việc viết nên tiểu sử các Thiền sư, mặc dù người viết đã biết
sưu tầm và sử dụng những sử liệu, ông đã để cho ảnh hưởng phương pháp sử
Thiền tôn của Truyền đăng lục, một phần nào lấn át khả năng phán
đoán của mình, từ đó chưa vận dụng hết những ưu điểm tư liệu sẵn có cho
việc tạo dựng nên những tiểu sử đầy đủ hơn.
Cuối cùng, ông chưa
vượt khỏi những cản ngăn của quan điểm sử học Phật giáo của Thông Biện
và Thường Chiếu, cho nên vẫn tiếp tục bỏ rơi, không ghi lại một cách đầy
đủ hai dòng thiền khác của nền Phật giáo thời Lý, đấy là dòng thiền
Nguyễn Ðại Ðiên và dòng thiền Nguyễn Bát Nhã. Ðương nhiên, việc ông ghi
kèm theo Thiền uyển tập anh bảng danh sách các Thiền sư của dòng
thiền Nguyễn Bát Nhã, đã tỏ ra ông có một đánh giá mới đối với dòng
thiền này, mà trước đây đã không được ngay cả kể tới tên. Ðấy là một
tiến bộ đáng kể. Dẫu thế, ông đã bỏ lỡ cơ hội để viết một cách đầy đủ về
các dòng thiền đấy, như ông đã làm đối với dòng thiền Pháp vân và Kiến
sơ. Nguyên do của tình trạng ấy tất nhiên không phải vì tác giả Thiền uyển tập anh thiếu tài liệu về chúng. Tên phản quốc Lê Tắc còn có thể ghi lại môt vài nét về Thảo Ðường trong An nam chí lược, đang khi sống vất vưởng nơi quê người. Sau này, Tây hồ chí còn cho ta biết Thảo Ðường họ Lý, và chính bản thân Thiền uyển tập anh
đã đề cập tới Ðại Ðiên trong truyện Ðạo Hạnh. Do thế, ta phải kết luận
là, chính những quan điểm sử học Phật giáo thời Thông Biện và Thường
Chiếu đang còn chủ trì xu thế sử quan những người viết sử Phật giáo
Thiền tôn Việt Nam đời Trầ�n.
Ðấy là những giới hạn và khuyết điểm cụ thể của phương pháp viết sử của tác giả Thiền uyển tập anh.
Dĩ nhiên, con người làm nên lịch sử, nhưng lịch sử cũng phát triển theo
những qui luật tất yếu của nó. Cho nên, những giới hạn và khuyết điểm
ấy cũng đã xuất hiện trong một thời kỳ lịch sử nhất định.
Vấn đề đánh giá phương pháp viết sử của tác giả Thiền uyển tập anh cũng phải giải quyết theo chiều hướng đó.
V. VẤN ÐỀ HIỆU BẢN PHIÊN DỊCH VÀ CHÚ THÍCH
Trong khi bàn về vấn đề
truyền bản, chúng tôi đã vạch ra là giữa ba truyền bản hiện còn lưu
hành, đấy là bản đời Lê I, bản đời Lê II và truyền bản đời Nguyễn, thì
bản đời Lê I có nhiều ưu điểm vượt hẳn lên so với bản đời Lê II và bản
đời Nguyễn, đáng được chấp nhận làm bản đáy cho bản dịch của chúng tôi.
Tuy nhiên, bản đời Lê I này vẫn còn chứa đựng những sai lầm và thiếu
sót. Do thế, để thực hiện một bản dịch nghiêm chỉnh và đầy đủ, chúng tôi
đã hiệu đối bản đáy đó với bản đời Lê II và bản đời Nguyễn cũng như
trích từ truyền bản đời Trần trong Lĩnh nam trích quái, bản đời Hồ trong An nam chí nguyên
và tham khảo thêm những sách sử khác, khi cần thiết, mà hầu hết, đều có
ghi lại và giải thích trong phần chú thích, trừ một số rất ít chúng tôi
đã hiệu lại theo cách của chúng tôi.
Trong hiệu bản này, dấu *
đi với chữ nào là muốn chỉ chữ đó sau đấy vẫn tiếp tục được hiệu như
thế. Còn những chữ viết tắt thì có ý nghĩa như sau:
Al = An nam chí lược
An = An nam chí nguyên
Ð = Ðại việt sử lược
H = Ðại phương quảng phật hoa nghiêm kinh
Ty = Truyền đăng lục
L = Lĩnh nam trích quái truyện
T = Ðại việt sử ký toàn thư
Tr = Trần thư
V = Việt sử tiêu án.
Về phương pháp phiên dịch,
chúng tôi cố gắng dịch sát theo hiệu bản chúng tôi về cả văn xuôi lẫn
văn vần. Về văn vần thì chúng tôi giữ đúng thể thơ và số chữ của nguyên
bản trong khi dịch. Trong phần dịch nếu có chú thích dấu hoa thị (*) ở
cuối trang thì đó là nguyên chú của Thiền uyển tập anh .
Về chú thích, chúng tôi nhắm vào những mục đích sau,
- Một là , để đính chính, khảo chính bản văn, nhằm giải thích những sai lầm trong nguyên bản.
- Hai là, để giúp cho những người nghiên cứu ở những bộ môn khác nhau sử dụng Thiền uyển tập anh
có những tư liệu liên quan tới những điểm họ muốn khảo cứu trong tác
phẩm đây. Ðiểm này, chúng tôi muốn nhắm tới trước hết những người nghiên
cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam và lịch sử Phật giáo Việt Nam, để họ có
những tư liệu nhằm phát hiện những nét dị biệt giữa Phật giáo cùng tư
tưởng Trung Quốc. Ngoài ra nhằm bổ sung một số kiến thức mới về lịch sử
dân tộc ta, chúng tôi cố gắng thu thập một số tài liệu khác có liên quan
tới các vị Thiền sư trong Thiền uyển tập anh. Thí dụ những văn kiện ngoại giao màvua Lê Ðại Hành gởi cho vua Tống mà theo tác giả Thiền uyển tập anh
thì có thể chính bản thân Thiền sư Pháp Thuận đã thảo ra. Cũng như
chúng tôi chú thích rõ và xác định tại sao bài từ đầu tiên của văn học
cũng như ngoại giao của nước ta là gồm bao nhiêu chữ cấu trúc từ pháp
như thế nào, nhờ nghiên cứu điệu từ Nguyễn lang quy của đời Tống bên Trung Quốc.