Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
Lê Mạnh Thát
NGHIÊN CỨU VỀ THIỀN UYỂN TẬP ANH
NXB Thành Phố Hồ chí Minh 1999 - NXB Phương Đông 2006
II. VẤN ÐỀ TRUYỀN BẢN
Mặc dù trước đây có sự nghiên cứu và giới thiệu của Trần Văn Giáp và Gaspardone, vấn đề truyền bản của Thiền tuyển tập anh
vẫn chưa được khảo sát đầy đủ và nghiêm chỉnh đúng mức. Cứ vào những
nghiên cứu của họ, ta không biết tí gì về tình trạng truyền bản của nó
trước bản in năm 1715 cũng như sau đó. Chúng ta sẽ không hiểu nổi những
cái mà Gaspardone {E.Gaspardone, Bibliographie annamite", BEFEO
XXXIV(1934) 1-173} gọi là "bất bình thường " (anomalie) của bản in năm
1715. Và thực sự, như Trần Văn Giáp {Le Bouddhisme en Annam dès origines
au XIIIè siècle, BEFEO XXXII (1932) 191- 268} đã nêu lên, Phan Huy Chú
trong Văn tịch chí của ông đã nói Thiền tuyển tập anh có đến sáu quyền chứ không phải một hay hai quyển, mà ta hiện thấy trong các truyền bản đang còn. Truyền bản Thiền uyển tập anh
6 quyển đó cũng không thấy ai bàn tới. Chúng tôi do thế đề nghị thử
khảo sát lại vấn đề truyền bản của bản văn đây, để xem thử nó có lai
lịch gì và có thể cung hiến cho ta những soi sáng nào không về những
truyền bản hiện còn, đặc biệt là nhằm kiểm soát tính đích thực văn bản
của những truyền bản hiện còn đấy.
Những gì ta có và biết về
nó hiện nay, đều bắt đầu từ thế kỷ 18 trở đi với bản in năm 1715 và với
ghi chú của Lê Quí Ðôn trong Nghệ văn chí. Lời tựa của bản in năm đó có
nói tới việc "chỉnh cú để tiện in lại" và "sửa lại những thiếu mất, thêm
vào những chữ rơi sót", cộng thêm với cái ghi chú lờ mờ của Ðôn, đã làm
một số người nghi ngờ giá trị truyền bản của bản in năm 1715. Họ nghi
rằng, văn cú nó chắc đã thay đổi nhiều, không hoàn toàn có thể tin được.
Thậm chí họ còn dựa vào một câu viết của An Thiền trong bài tựa cho bản
in năm 1858 rằng "còn ở nước ta, xưa có Thiền uyển làm lục, Tập anh làm
tên, ghi lại các bậc cao tăng thạc đức của ba triều", và giải thích "ba
triều" là gồm cả triều Trần nữa, để giả thiết rằng, tự nguyên ủy Thiền
uyển tập anh có cả một phần về những Thiền sư đời Trần nhưng bị An Thiền
tách rời ra thành một sách khác, nên những truyền bản hiện còn không
thấy có phần đời Trần. Dĩ nhiên đấy là một giả thiết vô căn cứ, đầy
thiên ý lệch lạc, nhằm xóa bỏ giá trị truyền bản của bản in năm 1715, mà
họ coi là có nhiều "bất bình thường" để được đáng tin. Thật ra, giá trị
truyền bản của bản in đấy tỏ ra rất lớn, khi so với bản in năm1858, mà
người đứng in lại là An Thiền. Chúng ta do thế không cần phải bàn cãi
dài dòng cái giả thiết đó ở đây. Thế thì, trước bản in năm 1715, Thiền
uyển tập anh còn có một bản in hay truyền bản nào khác không?
1. TRUYỀN BẢN ÐỜI TRẦN
Như ta biết, Thiền uyển
tập anh ra đời vào khoảng 1337. Ðiều đáng chú ý là một tác phẩm khác
thường được quan niệm xuất hiện vào đời Trần, đó là Lĩnh nam trích quái
mà theo lời tựa cho Việt giám vịnh sử thi tập của Ðặng Minh Khiêm
(1470-?) {Ðặng Minh Khiêm, Việt giám vịnh sử thi tập (VHv.1506), có lời
tựa viết năm Quang Thiệu thứ 5 (1520) nói rằng: "Trong khoảng năm Hồng
Thuận (1516), tôi vào làm việc tại sử quán, thường trộm có ý muốn thuật
việc xưa, chỉ hiềm sách vở chứa ở bí thư các, lắm lần trải qua binh hỏa,
nên đã bị khuyết mất nhiều. Tôi chỉ thấy những tập còn nguyên của Ðại
Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên, Ðại Việt sử ký do Phan Phù Tiên,
Việt điện u linh tập do Lý Tế Xuyên, Lĩnh nam trích quái lục do Trần Thế
Pháp mà thôi’}, thì Trần Thế Pháp là tác giả. Ngày nay, căn cứ vào hai
truyền bản, một của Kiều Phú (1446-?) và một của Vũ Quỳnh (1452-1516),
ta thấy bản của Trần Thế Pháp có khả năng có 22 truyện.
Trong số
22 truyện này, có 4 truyện hoàn toàn thống nhất với 4 truyện trong
Thiền uyển tập anh bản đời Lê hiện có. Ðó là truyện Không Lộ và Giác Hải
của thiền phái Kiến sơ Vô Ngôn Thông, và truyện Từ Ðạo Hạnh và Minh
Không của thiền phái Pháp vân Tỳ Ni Ða Lưu Chi, được ghi trong 9 thủ bản
hiện bảo tồn của Lĩnh nam trích quái, dù văn cú có đôi chỗ xuất nhập,
khi so chúng với nhau giữa các thủ bản hoặc với Thiền uyển tập anh. Sự
kiện này đặt cho chúng ta 2 câu hỏi. Thứ nhất, phải chăng Lĩnh nam trích
quái lấy bốn truyện đó từ Thiền uyển tập anh hay ngược lại? Thứ hai, có
khả năng nào cả Thiền uyển tập anh lẫn Lĩnh nam trích quái cùng lấy từ
một nguồn chung?
Trả lời hai câu hỏi này,
ta may mắn có một số dữ kiện sau. Thứ nhất, đối với truyện Không Lộ của
Thiền uyển tập anh, ở cuối truyện tờ 25b11 có một câu chua bằng hàng chữ
nhỏ, nói rằng: "Vị sư này không có năm và tuổi thọ có thể khảo được.
Nay y vào Nam tông đồ truyền pháp thế thứ nên mô tả ra ở đây" (thử Sư vô
niên thọ khả khảo. Kim y Nam tông đồ truyền pháp thế thứ cố tự vu thử).
Vậy thì rõ ràng khi viết về Không Lộ, tác giả Thiền uyển tập anh đã dựa
vào Nam tông tự pháp đồ của Thường Chiếu. Một khi đã thế, thì Giác Hải
chắc chắn cũng phải lấy từ Nam tông tự pháp đồ bởi vì thân phận hai
người này thường gắn liền với nhau. Còn về truyện Từ Ðạo Hạnh vàMinh
Không thì tác giả Thiền uyển tập anh không cho ta biết đã lấy nguồn tin
về họ từ đâu. Dẫu thế, nếu văn cú của hai truyện này thống nhất với
nhau, dù có đôi chỗ xuất nhập, thì dứt khoát có khả năng Lĩnh nam trích
quái đã lấy từ Thiền uyển tập anh.
Lý do nằm ở chỗ Thiền uyển
tập anh là một tập hợp tiểu sử các Thiền sư theo một thế thứ nhất định.
Cho nên rất ít có khả năng tác giả Thiền uyển tập anh đã trích dẫn
nguyên vẹn những tiểu truyện này từ Lĩnh nam trích quái. Hơn nữa, Lĩnh
nam trích quái với cái tên đầu đề "trích quái" thì khả năng trích dẫn và
thu lượm các tiểu truyện từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau là một sự
thực. Ngoài ra, đọc bốn truyện này, văn phong của chúng tỏ ra thống nhất
với văn phong của các truyện khác trong Thiền uyển tập anh. Trong khi
đó, nếu so với các truyện khác của chính bản thân Lĩnh nam trích quái
thì không ăn khớp lắm. Nói tóm, dù có thông qua Nam tông tự pháp đồ hay
không, Lĩnh nam trích quái cũng đã chép bốn truyện trên từ Thiền uyển
tập anh.
Không những thế, truyền
bản Thiền uyển tập anh hiện còn, tuy in lại vào năm Vĩnh Thịnh thứ 11
(1715), đã giữ lại nhiều chữ huý đời Trần. Cụ thể là Lý đổi thành Nguyễn
(truyện Pháp Thuận và truyện Chân Không), Diệu đổi thành Mậu (truyện
Chân Không) hay Viết (truyện Tịnh Thiền, Viên Học), càn đổi thành yết
hay ma (truyện Pháp Dung) v.v…Ngoài ra, như sẽ thấy, một loạt các sự
kiện được ghi lại trong Thiền uyển tập anh mà những bộ sử từ đời Lê sơ
về sau như Ðại Việt sử ký toàn thư không ghi, thì lại được chép trong
các quyển sử trước thời điểm đó, như Ðại Việt sử lược. Cho nên, ta không
thể nghi ngờ việc Thiền uyển tập anh ra đời sau Lĩnh nam trích quái
được, dù truyền bản sớm nhất ngày nay của nó là một truyền bản đời Lê I
tức bản in 1715. Kết luện như thế cho phép ta xác định bốn truyện trên
từ nguyên thủy đã phải xuất hiện từ đời Trần, nghĩa là lúc Thiền uyển
tập anh ra đời, chứ không phải một sao chép về sau từ Lĩnh nam trích
quái.
Thêm vào đó, có một chi
tiết đáng chú ý là trong truyền bản đời Lê I, tức bản in năm 1715 và
truyền bản đời Lê II, tức bản in sau năm 1715, cả hai bản trong truyện
Từ Ðạo Hạnh, Thiền uyển tập anh tờ 53b10, có để trống 7 ô sau những chữ"
ngự thí trúng" và trước những chữ "dĩ tà thuật". 7 ô này, căn cứ vào
truyện Từ Ðạo Hạnh của các truyền bản Lĩnh nam trích quái hiện biết thì
ta có 8 hoặc 6 chữ, đó là "bạch liên khoa, vị cơ, kỳ phụ vinh", hoặc
"bạch liên khoa, vị cơ, phụ". Ðiều này chứng tỏ bản đáy dùng cho việc in
lại bản đời Lê I và Lê II đã bị rách mất 7 chữ, và người hiệu chính hai
bản in này do không biết hay không có cơ hội huy động các truyền bản
của Lĩnh nam trích quái để hiệu chỉnh 7 ô chữ đó. Ngày nay, căn cứ vào 8
hay 6 chữ ấy, ta có thể hiệu chỉnh thành 7 chữ là "bạch liên khoa, vị
cơ, kỳ phụ", và điền vào 7 ô trống với ý nghĩa trọn vẹn của một câu văn.
Thiền sư An Thiền, khi dùng một bản gọi là Cựu bản Tiêu sơn tự
làm bản đáy cho việc in lại Thiền uyển tập anh trong bộ Ðại Nam thiền
uyển truyền đăng tập lục, đã không biết các ô trống này nên trong Thiền
uyển truyền đăng quyển thượng tờ 48a10 khắc mất các ô đó để ta có câu
"ngự thí trúng, dĩ tà thuật". Sự kiện có 7 ô trống này của Thiền uyển
tập anh bản đời Lê và những chữ tương đương trong các truyền bản Lĩnh
nam trích quái càng chứng tỏ các truyện Từ Ðạo Hạnh, Minh Không, Không
Lộ và Giác Hải của Lĩnh nam trích quái phải phát xuất từ các truyện
trong Thiền uyển tập anh.
Nói tóm lại, dù ngày nay
truyền bản sớm nhất mà ta có là truyền bản đời Lê I (1715), ta vẫn có
thể giả thiết nếu không nói là khẳng định Thiền uyển tập anh là một văn
bản đời Trần được lưu hành rộng rãi, thậm chí còn được khắc in, để cho
các tác giả như Trần Thế Pháp của Lĩnh nam trích quái biết tới và sử
dụng. Ðể tiện việc tra cứu, chúng tôi cho sưu tập lại 4 truyện này trong
bản Phụ lục I ở sau.
2. TRUYỀN BẢN ÐỜI HỒ
Bước sang thế kỷ thứ XV, lúc Hồ Quý Ly lên nắm quyền, Thiền uyển tập anh vẫn còn được sử dụng rộng rãi. Khi quân Minh đánh chiếm được nước ta vào năm 1407, Thiền uyển tập anh đã
bị chúng thu gom và sau này được dùng để viết An nam chí nguyên. Trong
mục Tiên thích của An nam chí nguyên 3 tờ 209-211 ta thấy ghi lại tiểu
sử của 14 vị thiền sư, trong đó có 13 vị có tên trong Thiền uyển tập anh.
So sánh những ghi chú của nó về 13 vị đấy, thì trừ Thảo Ðường ra, mà Thiền uyển tập anh không có truyện, số còn lại có văn cú hoàn toàn giống với một đoạn trong truyện của những thiền sư ấy trong Thiền uyển tập anh.
Chẳng hạn ta lấy hai vị Thiền sư đầu do nó ghi làm thí dụ. Thứ nhất, về
Thiền sư Tịnh giới, nó viết: " Thiền sư Tịnh Giới là vị sư huyện Ðông
Quan, tu hạnh đầu đà, cảm hóa như thần, Giao châu có hạn, họ Lý sai sứ
đi đón về, nửa đêm Sư đứng giữa sân, đốt hương, mưa ngọt đổ lớn. Họ Lý
khen, tặng làm Thầy Mưa". Còn Thiền uyển tập anh viết: "Thiền sư
Tịnh Giới…người Mão hương…tu hạnh đầu đà…cảm hóa như thần…hạ gặp hạn…Lý
Cao Tôn…sai sứ đi đón về…nửa đêm Sư đứng giữa sân đốt hương, trời bèn
mưa xuống, vua rất khen sủng, thường gọi là Thầy Mưa".
Thứ hai, về Ðạo Hạnh, nó
viết: "Thiền sư Ðạo Hạnh là sư huyện Thạch thất, thường đi khắp tòng
lâm, hỏi tìm tri thức, khi duyên đạo đã thục, pháp lực có thêm, bèn có
thể sai sử chim rừng thú nội, họp nhau đến phục, cầu mưa trị bệnh không
gì là không linh ứng. Nay xác thân đang còn". Thiền uyển tập anh
viết: "Thiền sư Ðạo Hạnh…đi khắp tòng lâm, hỏi tìm ấn chứng…từ đó pháp
lực có thêm, duyên thiền đã thục, bèn có thể sai sử rắn núi, thú rừng,
họp nhau đến phục. Ðốt ngón tay cầu mưa, chú bát nước trị bệnh, không có
gì là không ứng nghiệm tức khắc…Ðến nay xác thân đang còn".
Qua những thí dụ như thế,
ta bắt buộc phải kết luận là, những ghi chú trong An nam chí nguyên
(Ngan-nan Tche-Yuan, E. Gaspardone in, 1932, Hà Nội) phải trực tiếp rút
ra từ Thiền uyển tập anh, hay nếu không đi nữa thì phải rút ra từ
một tác phẩm đã sử dụng sách đó. Với những sự đồng nhất hầu như hoàn
toàn tương tự, không có một kết luận nào khác có thể rút ra. Nhưng chính
bản thân An nam chí nguyên 3 tờ 208 thì nó thú n hận là không biết đến Thiền uyển tập anh
bởi vì nó viết: "Ðạo Phật của Giao Chỉ từ Hán đến Ðường đều không thể
khảo được. Từ thời Lý, Trần, danh tăng rất nhiều, nổi tiếng linh dị.
Quốc vương đem lễ tham hỏi thuật lạ, đến nỗi có vị đã xả thân đi xuất
gia. Quan liêu, sĩ dân thường thường cảm hóa theo. Còn đạo thần tiên thì
cũng hiếm có, thỉnh thoảng mới thấy một hai người mà thôi. Nay thấy Cựu
chí và Quan báo các nơi cùng lời tương truyền của các phụ lão, mỗi mỗi
góp chép lại, mà chọn những ai dấu vết có thể chứng nghiệm được thì phụ
chép vào đấy".
Bằng lời giáo đầu mục Tiên
thích như vậy, An nam chí nguyên đã xác định nguyên lai của các nguồn
tài liệu của mình về những vị Thiền sư dẫn trên. Trong đó, ngoài loại
phụ lão tương truyền ra, ta thấy có "Cựu chí" và"Quan báo các xứ". Về
Cựu chí, thì giữa những thứ chí do nó dẫn có Giao chỉ thông chí, Giao
châu bát huyện ký, Các huyện châu chí, Các phủ chí và Các phủ huyện khai
báo tường tải chí. Ðấy phải là những "Cựu chí"mà nó muốn nói tới, nếu
không muốn hiểu Cựu chí muốn chỉ một chí trong những tác phẩm vừa liệt.
Còn về "Quan báo các xứ" thì đây có thể là tên một tập hồ sơ hành chính
do yêu cầu điều tra tạo nên, nhưng cũng có thể chính tên của tập hồ sơ
đó. Dầu sao chăng nữa, An nam chí nguyên chắc phải lấy những ghi chú về
những vị thiền sư trên, nếu không từ chính Thiền uyển tập anh, thì cũng từ những "Cựu chí" vừa dẫn, và những Cựu chí đấy đến lượt chúng tất cũng phải lấy từ Thiền uyển tập anh, bởi vì sự đồng nhất văn cú và sự kiện vừa thấy tất không thể nào kết luận ngược lại được.
Chỉ có vấn đề là trong số
13 vị sư đấy, trừ Thảo Ðường ra, quê quán hay trú quán của họ bị An nam
chí nguyên thay đổi và gọi họ như những nhà sư của huyện này hay châu
nọ, không giống với Thiền uyển tập anh. Chúng tôi cho rằng vì An
nam chí nguyên rút từ những Cựu chí viết dưới thời Minh chiếm đóng nước
ta, nên tên đất tên làng đã bị bọn xâm lược thay đổi, từ đó báo cáo về
những vị sư cũng bị thay đổi theo. Thêm vào đó, nếu rút ra từ những Cựu
chí, thì những bản chí, nhất là địa chí thường ghi lại những nhân vật
nổi tiếng của vùng liên hệ. Do thế, dù Tịnh Giới người Mão hương, Ngung
giang, An nam chí nguyên đã nói là "Sư huyện Ðông quan", bởi vì Giới đã
nổi tiếng về việc cầu mưa ở tại Thăng Long. Giới Không cũng vậy. Dù Tịnh
Không là người Mãn đẩu, họ vẫn bảo Không là "Sư huyện Gia Lâm, vì có ở
chùa Gia Lâm" v.v…Do thế việc thay đổi quê quán hay trú quán của những
vị sư không điểm chỉ một điều gì khác hơn là hai điểm sau. Thứ nhất, đấy
là những tên đất đặt ra lần đầu tiên dưới thời quân Minh xâm lược. Và
thứ hai, những sách vở ghi lại những vị sư đấy là do quân Minh làm ra.
Thực tế. thì An nam chí
nguyên, trừ phần tổng luận ra, có thể coi như một tác phẩm viết khoảng
năm 1419. Những ghi chú về các vị Thiền sư trên chắc chắn phải dùng
những tài liệu viết trước năm đó. Từ đấy, ta có thể kết luận rằng chúng
chính là những trích dẫn từ một truyền bản xưa nhất của Thiền uyển tập anh,
đấy là truyền bản đời Trần. Ta hiện không có cách nào để xác định
truyền bản đấy là in hay chép. Dẫu thế những ghi chú đó thực sự là dấu
vết của nó còn sót lại, giúp ta kiểm soát được tính đáng tin và giá trị
văn bản của bản in đời Lê. Do thế, chúng tôi cho sưu tập lại toàn bộ
những trích văn vừa nói có trong An nam chí nguyên để làm tư liệu văn
bản cho những nghiên cứu về sau. Chúng sẽ được xếp vào trong phụ lục II.
3. TRUYỀN BẢN 6 QUYỂN
Sau truyền bản đời Hồ, mà
ngày nay ta chỉ còn có 12 trích dẫn ngắn trong An nam chí nguyên, ta có
cái chúng tôi gọi là truyền bản 6 quyển ở đây. Nó đến từ bản thư tịch
của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí 45, ở đây Chú
viết: "Thiền uyển tập, 6 quyển, người thời Trần soạn, ghi lại các sự tích các tôn phái Thiền học từ cuối đời Ðường trải qua đời Ðinh, Lê đến Lý, Trần ". Thiền uyển tập đây dĩ nhiên là Thiền uyển tập anh, bởi vì ghi chú vừa dẫn của Chú là lấy trực tiếp không thêm bớt từ cái ghi chú của Lê Quí Ðôn về Thiền uyển tập anh trong Nghệ văn chí của ông. Chỉ trừ một điểm khác biệt căn bản là, trong khi Ðôn nói "Thiền uyển tập anh một tập" thì Chú bảo Thiền uyển tập có 6 quyển. Ngày nay ta không biết bản Thiền uyển tập anh,
do Ðôn dùng, mà Ðôn chỉ nói có "1 tập", là có bao nhiêu quyển. Nhưng cứ
vào những trích dẫn trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 12b7-13b8 mục Thiên
chương thì chúng chứng tỏ không sai khác với truyền bản đời Lê của bản
in năm 1715 là bao nhiêu. Chúng ta do đó có thể suy diễn ra là Lê Quí
Ðọn chắc cũng dùng bản in năm 1715 đấy. Thế thì truyền bản 6 quyển của
Phan Huy Chú xuất xứ từ đâu?
Những truyền bản đời Lê và đời Nguyễn hiện còn, tức những bản in năm 1715 khoảng 1750 và 1858, không có bản nào ghi Thiền uyển tập anh
có đến 6 quyển cả. Bản in năm 1715 thì ghi có quyển thượng và quyển hạ,
nhưng không phân chia số trang rõ ràng, nên ta cũng chỉ có thể đoán
thôi. Bản in 1750 thì cơ bản giống bản in 1715 với một vài sửa đổi thêm
thắt cùng ba tờ hình và tiểu sử của Trúc lâm tam tổ ở đầu sách và lời
bạt hậu ở cuối sách. Còn bản in năm1858 thì đã bị gom in vào một bộ sách
gồm 5 quyển, nên Thiền uyển tập anh in năm đó trở thành một
quyển duy nhất, đấy là quyển thượng đối với 4 quyển kia trong bộ Ðại nam
thiền uyển truyền đăng tập lục.
Tuy nhiên, nếu phân tích kỹ hơn
hai truyền bản đời Lê thì việc Phan Huy Chú nói truyền bản của ông gồm 6
quyển không phải là hoàn toàn vô căn cứ. Xét hai truyền bản đời Lê hiện
còn, ta thấy, mặc dù ở đầu sách tờ 4a1 và ở cuối sách tờ 72b11 nó ghi Thiền uyển tập anh ngữ lục quyển thượng và Thiền uyển tập anh quyển hạ, chứng tỏ như vậy Thiền uyển tập anh nguyên có hai quyển thượng và hạ, ta thấy bên trong sách ở những tờ 26b1, 44a1, 61a1, 71a1 nó dành hẳn một dòng để ghi bốn chữ Thiền uyển tập anh mà thôi. Bốn chữ Thiền uyển tập anh ở
tờ 44a1 chúng tôi đoán là để phân chia quyển thượng với quyển hạ của
bản in đó, bởi vì nó để tờ 43 hầu như hoàn toàn trống. Như vậy, thì còn
ba trường hợp sẽ ra sao?
Theo lập luận của chúng tôi thì bốn chữ Thiền uyển tập anh ở những tờ 26b1, 61b1, 71b1 cũng có nhiệm vụ tương tự, đấy là chúng chỉ sự bắt đầu của một quyển Thiền uyển tập anh. Tính ra từ những nhan đề Thiền uyển tập anh đó trong truyền bản đời Lê, ta có tối thiểu là đến 5 quyển Thiền uyển tập anh, tức là một bộ Thiền uyển tập anh
5 quyển. Thế nhưng Văn tịch chí của Phan Huy Chú nói bản của nó có đến 6
quyển. Vậy thì, lấy đâu ra một quyển nữa? Chúng tôi cho rằng có thể
truyền bản đời Lê đã ghi thiếu cái nhan đề Thiền uyển tập anh đấy
ở một tờ, khoảng giữa ở những tờ từ 4a1 đến 26b1. Tại sao? Bởi vì nếu
đếm từ trang 26b1 đến trang 72b1 ta có cả thảy đến bốn lần ghi nhan đề Thiền uyển tập anh,
nghĩa là trung bình cứ khoảng mười tờ là có một nhan đề, trong khi từ
tờ 4a1 đến tờ 26b1 ta chỉ có một nhan đề mà thôi. Do thế, chắc khoảng từ
tờ 17 trở đi bản in năm 1715 đã bỏ sót cái nhan đề Thiền uyển tập anh. Nếu thế, việc Phan Huy Chú nói văn bản Thiền uyển tập anh của ông có 6 quyển là hoàn toàn hiểu được.
Thực ra, nhờ cái ghi chú "Thiền uyển tập 6 quyển" đấy của Chú, ta ngày nay mới hiểu được tại sao trong truyền bản đời Lê đã có ghi thêm những nhan đề Thiền uyển tập anh
ở những năm tờ khác nhau. Trước đây, Gaspardone đã vạch ra hiện tượng
khá ngộ nghĩnh của truyền bản đời Lê, nhưng đã không chịu tìm hiểu tại
sao. Ngược lại còn dựa vào nó để đánh thấp giá trị truyền bản đó. Bây
giờ nó trở thành rõ ràng là hiện tượng đấy cho ta biết sự có mặt của một
truyền bản Thiền uyển tập anh gồm 6 quyển. Thế thì, truyền bản 6 quyển này có những liên hệ như thế nào với truyền bản đời Lê?
Riêng với vấn đề này chúng
tôi qui lại rằng: truyền bản 6 quyển xưa hơn truyền bản đời Lê in năm
1715, bởi vì bản in năm 1715 chỉ giữ lại một phần nào vết tích của
truyền bản 6 quyển qua sự hiện diện của những nhan đề Thiền uyển tập anh
vừa nêu, chứ không còn giữ nguyên được tình trạng truyền bản 6 quyển.
Nói khác đi, truyền bản 6 quyển có lẽ cũng là truyền bản đời Trần nói
trước, chứ không gì hơn. Nếu không đi nữa, nó là một bản in trước năm
1715 còn sót lại một cách nguyên vẹn, nghĩa là không bị tình trạng
"khuyết thất" và "thoát lạc" của bản in đời Lê. Dẫu sao, nó cũng là một
truyền bản xưa nhất được biết một cách đích xác chứ không phải qua suy
luận. Khẳng định như thế, chúng tôi cũng muốn nói thêm là, truyền bản
đời Trần có lẽ cũng có 6 quyển. Và từ đó, vấn đề phải chăng từ nguyên ủy
Thiền uyển tập anh có 6 quyển, chắc phải giải quyết trong một chiều hướng tương tự.
4. TRUYỀN BẢN ÐỜI LÊ SƠ
Nếu những trích dẫn trong
An nam chí nguyên không ghi rõ ràng xuất xứ, thì bứơc sang thế kỷ thứ
15, trong việc biên tập lại Việt điện u linh tập và Lĩnh nam trích quái,
ta thấy Thiền uyển tập anh đã được đích danh nêu tên. Cụ thể là
Tục Việt điện u linh tập của Nguyễn văn Chất (1422-?) đỗ Hoàng giáp năm
1448, làm đến Thượng thư bộ hộ, đã chép tiếp ba hay bốn truyện vào Việt
điện u linh tập cũ, trong đó có truyện Sóc thiên vương, mà Nguyễn văn
Chất ghi là cứ vào Thiền uyển tập anh. Có thể nói dây là một trích dẫn sớm nhất hiện biết của đời Lê về Thiền uyển tập anh. Ðiều này chứng tỏ Thiền uyển tập anh lưu
truyền khá phổ biến vào đời Lê sơ tức khoảng trong những năm 1448
-1466, thời gian mà Nguyễn văn Chất làm việc ở Quốc sử viện.
Dựa vào Liệt huyện đăng
khoa lục bị khảo, kết hợp với những thông tin trong Ðại Việt sử ký toàn
thư, ta dễ chấp nhận Tục Việt điện u linh tập là do Nguyễn văn Chất
viết, chứ không phải do Nguyễn Văn Hiền, như tuyệt đại bộ phận các thủ
bản của Việt điện u linh tập tức các bản: A.751; A.47;A.19 và VH1285,
trừ bản A.2879, đã ghi. Bản A.2879 ghi rõ tên Nguyễn Văn Chất. Văn cú
của trích dẫn này, cứ theo bản Việt điện u linh tập lục A.47 so với bản Thiền uyển tập anh
hiện còn có một số xuất nhập. Nhưng nếu cứ Việt điện u linh tập lục
toàn thiên tức các bản A.751 và A.2879 thì văn cú tỏ ra ít xuất nhập
hơn. Dù có xuất nhập nhiều hay ít, thì rõ ràng truyện Sóc thiên vương
của Việt điện u linh tập là do Nguyễn Văn Chất trích dẫn từ Thiền uyển tập anh,
và chúng tôi không bận tâm phân tích ở đây. Mà chỉ cho chép lại các dị
bản để làm tư liệu nghiên cứu cho những người sau, ở phụ lục III.
Trước mắt, cho đến lúc
này, trong thế kỷ 15 ta mới chỉ tìm thấy một trích dẫn duy nhất đây
thôi. Còn bao trích dẫn nữa, ta chưa thể biết được. Tuy nhiên với sự
trích dẫn Thiền uyển tập anh của Nguyễn Văn Chất, ta có thể chắc chắn khi Phan Phù Tiên khởi thảo Việt âm thi tập, Tiên không phải không biết đến Thiền uyển tập anh. Nhưng do yêu cầu chỉ thu thập thơ văn giới hạn vào đời Trần cho nên ông đã không đề cập gì tới mảng thơ văn do Thiền uyển tập anh
cung cấp, chứ tuyệt nhiên không phải vì "phải sau thế kỷ 15, Nho giáo
mất dần địa vị độc tôn trong đời sống tinh thần tình cảm, thì đối với
người nghiên cứu một số thơ văn từ cửa Phật mới được chính thức nhập
tịch văn đàn", như một số người đã sai lầm quan niệm.
Nếu phải
sau thế kỷ 15 do Nho giáo mất dần địa vị độc tôn và thơ văn từ cửa Phật
mới nhập tịch văn đàn thì tại sao trong Việt âm thi tập đã xuất hiện
những nhà thơ Phật giáo như Trần Nhân Tôn, Trần Anh Tôn, Trần Minh Tôn,
Pháp Loa và Huyền Quang v.v…? Và ngay cả một nhà thơ bài xích Nho giáo
tương đối mạnh mẽ như Nguyễn Trung Ngạn với bài thơ "Phổ minh tự đỉnh
minh" cũng được Phan Phù Tiên dành cho một số lượng cực kỳ lớn lao là 36
bài thơ, nếu khi tiến hành biên soạn Việt âm thi tập, Phan Phù Tiên đã
thực hiện nó dưới nhãn quan Nho giáo? Nho giáo chư a bao giờ độc tôn tại
Việt nam và càng không bao giờ độc tôn vào thời Lê sơ của thế kỷ 15 (Lê
Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt nam I, TP. HCM. NXB TP.HCM, 1999,
tr.155-6).
Không những Thiền uyển tập anh
được người trí thức thời Lê sơ biết tới mà ngay cả một bộ sử Phật giáo
khác của thời Lý là Nam tôn tự pháp đồ của Thường Chiếu (?-1203) cũng đã
được các trí thức thời Lê sơ ngưỡng mộ và cho in lại. Phan Huy Chú
trong Văn nghệ chí của Lịch triều hiến chướng loại chí vào thế kỷ19 đã
ghi nhận là Lương Thế Vinh (đậu trạng nguyên năm 1463) có viết tựa cho
tác phẩm này của Thường Chiếu. Sử học Phật giáo vào thời Lê sơ như thế
tỏ ra được giới trí thức thời đó chăm sóc khá kỹ lưỡng. Mà cũng nhờ thế
mà bộ Thiền uyển tập anh mới đến được với chúng ta ngày hôm nay.
5. TRUYỀN BẢN ÐỜI LÊ I
Ðây là truyền bản xưa nhất
hiện còn qua bản in năm 1715. Nó gồm cả thảy 72 tờ, mỗi tờ 2 trang, mỗi
trang 11 dòng, mỗi dòng 17 chữ. Chữ in khá đẹp, gồm có hai loại. Loại
chữ cỡ lớn để dùng in chánh văn, và loại chữ cỡ nhõ thì mỗi dòng có đến
hai hàng, mỗi h àng trung bình có 24 chữ hay ít hơn.
Sách chia làm hai quyển, gọi là Thiền uyển tập anh ngữ lục quyển thượng và Thiền uyển tập anh
quyển hạ. Nhưng vì nó đánh số tờ liên tục, và vì chỉ ghi quyển thượng ở
tờ 4a1 đầu sách sau lời tựa và quyển hạ ở tờ 72b11 cuối sách nên ta
không biết đích xác đâu là quyển thượng chấm dứt và quyển hạbắt đầu. Dẫu
thế chúng ta có thể đoán là quyển thượng chấm dứt ở tờ 43a1 và quyển hạ
bắt đầu từ tờ 44a1 trở đi, dựa vào những bằng chứng sau: (1) từ tờ 44a1
trở đi là nơi mô tả Thiền phái Pháp vân, (2) trước tờ 44a1 đấy, tờ 43
hoàn toàn bỏ trống, như muốn tỏ có một khoảng cách đặc biệt, mà những tờ
khác không thấy có, và (3) tờ 43a1 bắt đầu có ghi nhan đề Thiền uyển tập anh.
Bằng
chứng thứ ba này dĩ nhiên không có hiệu lực mấy do sự có mặt của cái
nhan đề ấy ở những tờ khác, đấy là tờ 26b1, tờ 66b1 và tờ 71b1. Sự có
mặt đó như chúng tôi đã phân tích trên, chứng tỏ rằng tự nguyên ủy Thiền uyển tập anh
có đến 5 hay 6 quyển, như Văn tịch chí của Phan Huy Chú đã ghi. Thế
thì, việc chia sách thành hai quyển thượng, hạxuất hiện từ bao giờ? Câu
hỏi này hiện chưa trả lời dứt khoát được. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng nó
không phải xuất hiện vớibản in năm 1715 đây. Ngược lại, nó đã xuất hiện
trong chính để bản của bản in đó. Lý do cho một sự suy nghĩ như vậy xuất
phát từ một nhận xét chủ quan về văn bản của nó.
Mặc dù người viết tựa cho
nó thú nhận có thực hiện việc "chỉnh cú" nhằm "sửa lại những chỗ thiếu
mất và thêm vào những chữ bị rơi rớt" để tiện in lại, nói chung ông đã
làm việc ấy một cách tương đối cẩn thận và có tính khoa học phê bình
cao. Chẳng hạn, trong truyện Ðạo Hạnh ở tờ 53b10, sau khi viết "hậu ứng
tăng quan ngự thí trúng" (sau đó ứng thi điện thí tăng quan đỗ) ta thấy
bản in để trống một khoảng cho đúng vừa 7 chữ, rồi viết tiếp "dĩ tà
thuật ngỗ Diên Thành Hầu" (dùng tà thuật làm mích lòng Diên Thành Hầu).
Bấy giờ, khảo truyện Từ Ðạo Hạnh trong Lĩnh nam trích quái tờ 77, mà cốt
truyện và ngữ cú hoàn toàn đồng nhất với truyện Ðạo Hạnh của Thiền uyển tập anh, thì câu bắt đầu từ chữ "hậu" đến Diên Thành Hầu đọc thế này: "Hậu ứng tăng thí trúng Bạch liên khoa, Vị cơ phụ vinh dĩ tà thuật ngỗ Diên Thành Hầu".
Rõ ràng, khoảng trống 7 chữ của Thiền uyển tập anh
tờ 53b10 chính là chỗ của 7 chữ chúng tôi in nghiêng trong câu dẫn từ
Lĩnh nam trích quái truyện, chứ không có một ý nghĩa nào khác. Chúng tôi
nghĩ rằng để bản của bản in năm 1715 đến khúc những chữ đó bị rách nát
nên người chỉnh cú đã để nguyên khoảng trống lại, nhằm lưu ý những người
sau về sự rách nát hay thiếu sót ấy, với mục đích khi nào có được bản
mới thì bổ khuyết vào. Trong Thiền uyển tập anh hiện nay, ngoài
nửa dòng trống vừa nói, chúng tôi tìm thấy những khoảng trống khác có
một ý nghĩa tương tự ở những tờ 12b3, 12b5, 12b8 và 13a6 truyện Viên
Chiếu, tờ 27b8 truyện Tín Học, tờ 49b4, 49b7 và 50a1 truyện Ma Ha, nhưng
hiện nay chưa có những văn bản khác để hiệu thù và bổ sung.
Xét trường hợp để trống
gần nửa dòng ở truyện Ðạo Hạnh vừa nêu, chúng tôi cho rằng người làm
công tác chỉnh cú cho bản in đời Lê đã tỏ ra có một cẩn thận khoa học
tốt và một khả nămg phê bình cao. Từ nhận xét đấy, chúng tôi bắt buộc
phải kết luận là có lẽ ông không có khuynh hướng tổ chức lại cả một
quyển sách xưa bằng cách phân chia lại quyển số của nó. Và thực sự, nếu
ta có giả thiết là ông ấy đã làm việc đó, thì sự có mặt của cái nhan đề Thiền uyển tập anh
ở những tờ 26b1, 66a1, 71a1 thực khó mà giải thích một cách ổn thỏa,
bởi vì nếu có sự phân chia lại quyển số, thì tại sao lại còn để nhũng
nhan đề như vậy hiện diện? Sự hiện diện của chúng có ý nghĩa và mục đích
gì? Ta thật không bao giờ có thể trả lời được những câu hỏi như thế,
nếu giả thiết sự phân chia Thiền uyển tập anh thành quyển thượng
và quyển hạ bắt đầu với những chỉnh cú của nó vào năm 1715. Do đó, chúng
tôi cho rằng sự phân chia thành hai quyển thượng, hạ đó đã xuất hiện
ngay trong để bản của bản in năm ấy, nghĩa là, đã xuất hiện từ lâu trước
năm đấy. Lý do cho sự phân chia có lẽ bắt nguồn từ cái muốn làm hợp lý
lại tổ chức của quyển sách.
Thực vậy, nếu chia Thiền uyển tập anh
thành quyển thượng và quyển hạ như truyền bản đời Lê đã có, thì việc
phân tích nội dung nó thật dễ thấy và nhất quán, đấy là quyển thượng mô
tả về dòng thiền Kiến sơ, và quyển hạ nói về dòng thiền Pháp vân với một
bản danh sách những Thiền sư dòng Thảo Ðường. Ngược lại, nếu chia nó ra
thành 5 hay 6 quyển thì tính nhất quán và dễ thấy không được nổi bật
cho lắm, dù không phải là mất hẳn. Chẳng hạn, nếu là 5 quyển thì quyển 1
và 2 tả dòng thiền Kiến sơ, quyển 3 và 4 tả dòng thiền Pháp vân, và
quyển 5 ghi danh sách phái Thảo Ðường. Dẫu sao chăng nữa, việc phân chia
Thiền uyển tập anh thành hai quyển thượng, hạ cho đến năm in
1715 vẫn chưa được dứt khoát chấp nhận. Cho nên, trong truyền bản lưu
hành hiện nay ta mới phát hiện ra sự có mặt của những chứng tích tỏ ra
nó tự nguyên ủy gồm 5 hay 6 quyển như đã nói. Chính sự chưa dứt khoát đó
một lần nữa chứng tỏ sự tôn trọng để bản và tính cẩn thận khoa học của
người làm công tác chỉnh cú cho bản in năm 1715 đấy.
Người làm công tác chỉnh
cú vừa đề cập, ngày nay ta không biết tên gì. Nhưng qua bài tựa do ông
viết vào "ngày tốt của tháng tư năm Vĩnh Thịnh 11 triều Lê" (1715) thì
ông là một nhà nho có học và yêu chuộng Phật giáo. Ông đã làm công tác
chỉnh cú qua lời yêu cầu của "một thiền hữu" của ông. Vị học trò thiền
này, ông không nói rõ là ai, song ta có thể giả thiết là Thích Như Trí.
Nhưng về sư Như Trí đây, ta hiện cũng không biết gì hơn là cái tên vừa
nêu. Nhà nho mộ Phật đấy, dù với tính cẩn thận khoa học tốt và khả năng
phê bình cao, đã thực hiện việc chỉnh cú trong một điều kiện thư tịch
không được như ý muốn lắm. Cho nên truyền bản đời Lê này đang còn chứa
khá nhiều sai lầm, đôi khi sai lầm rất lớn. Tuy nhiên, thật khó mà phân
biệt rõ ràng đâu là sai lầm của chính người chỉnh cú, và đâu là của
chính những người có trách nhiệm khắc bản. Chúng tôi đánh giá tổng quát
toàn bộ bản in thì nó chứa nhiều ưu điểm vượt hẳn bản in khoảng năm 1750
đời Nguyễn về nhiều mặt, trong đó mặt hình thức đại cương đã phân tích ở
trên.
Về mặt nội dung, thì sách
chia làm bốn phần. Phần I từ tờ 1a1 đến 3b6 gồm bài tựa viết vào một
"ngày tốt tháng tư nămVĩnh Thịnh 11 triều Lê", mà không ghi tên người
viết, và bản danh sách những môn đồ của Thích Như Trí, giả thiết là
những người đóng góp vào việc khắc bản cho bản in năm ấy. Phần này có
trong bản in 1750 và hoàn toàn không có trong bản in đời Nguyễn. Phần II
từ tờ 4a1 đến 43a1 mô tả 16 thế hệ truyền thừa của dòng Kiến sơ, bắt
đầu từ Vô Ngôn Thông (759 ? – 826) cho đến Ứng Thuận, gồm truyện của cả
thảy 39 người. Phần III từ tờ 44a1 đến 71a1 mô tả 21 thế hệ truyền thừa
của dòng Pháp vân, từ Tỳ Ni Ða Lưu Chi (? – 594) đến Y Sơn (? – 1213),
gồm truyện của cả thảy 29 người. Phần IV từ tờ 71b1 – 72b11 là một bản
danh sách các Thiền sư thuộc phái Thảo Ðường, bắt đầu từ Thảo Ðường cho
tới Phạm Ðẳng, gồm cả thảy 19 người không có truyện.
Bốn phần này, nếu đem so
sánh với nội dung của truyền bản in khoảng năm 1750 và bản in đời Nguyễn
ta sẽ thấy có những so le đáng chú ý, mà người đọc có thể thấy dưới đây
làm nổi bật hẳn giá trị văn bản của truyền bản đời Lê đây.
Về người đứng in bản văn
và nơi in, bản in năm 1715 này không cho biết rõ ràng gì hết, một điều
thường trái với thông lệ. Tuy nhiên, ta có thể đoán là Thích Như Trí
cùng những môn đồ của ông, mà bản danh sách ở tờ 3b1-6 ghi tới tên 15
người gồm cả nhà tu lẫn người đời. Tung tích những người này, ta nay
hiện chưa biết gì đích xác. Nhưng quan hệ hơn là việc bản in năm đấy
không ghi nơi in hoặc nơi tạng bản của bản in năm ấy, tạo nên không ít
những trở ngại cho công tác truy cứu để bản của bản in khoảng năm 1750,
đời Nguyễn, tức bản in năm 1858. Bản in đời Nguyễn nói dựa vào "bản gỗ
xưa của chùa Tiêu sơn" (cựu bản Tiêu sơn tự). Song bản gỗ của bản in
năm1715 đây không biết giữ ở đâu nên ta không thể nào kết luận về sự
liên hệ giữa bản gỗ chùa Tiêu sơn ấy với bản in năm1715 của ta.
6. TRUYỀN BẢN ÐỜI LÊ II
Truyền bản đời Lê II là
bản in khổ 30cm x 20cm, gồm có 74 tờ, mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 11 dòng,
mỗi dòng 16 chữ, trừ những dòng in tên sách và đề mục cùng những chú
thích khắc chữ nhỏ. Chữ khắc chân phương, dễ đọc, nên dễ gây ra sự lầm
lẫn giữa bản này và bản đời Lê I, nếu không chú ý kỹ. Nét chữ của nó mập
hơn bản kia. Sau bản đời Lê I xuất hiện một thời gian, nó đã được in
lại và trường Viễn đông bác cổ Pháp tìm thấy vào khoảng năm 1930. Theo
Trần văn Giáp mô tả [Trần văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam dès origines
au XIIIè sìecle, BEFEO XXXII (1932),7} thì đây là một văn bản về cơ bản
hoàn toàn giống với bản đời Lê I, chỉ khác là ngay sau bài tựa ở tờ 3b,
có thêm 3 tờ ghi số 8, 9 và 10 in kèm vào. Tờ 8 mặt a in hình và mặt b
khắc tiểu sử của Trúc Lâm Ðiều Ngự. Tờ 9 mặt a in hình và mặt b khắc
tiểu sử của Pháp Loa Phổ Tuệ tổ sư.
Tờ 10 mặt a in hình và mặt b
khắc tiểu sử của Trạng nguyên Huyền Quang tôn giả. Và cuối sách, sau tờ
72b có thêm 2 tờ 73 và 74 chép lời bạt không ghi ngày và tên người viết
cùng một danh sách những tín thí cúng tiền in sách. Gaspardone {E.
Gaspardone, Bibliographie annamite, BEFEO XXXIV (1934), no. 144} cũng mô
tả tương tự và còn cho ta biết đây là bản đã được nhập vào kho sách của
trường Viễn Ðông Bác cổ, với ký hiệu số A.1782 và truyền lại cho tới
ngày nay, (từ đây ta gọi là bản đời Lê II) và thừơng được coi là đại
diện cho bản in của đời Vĩnh Thịnh 11 (1715), tức truyền bản đời Lê I.
Nhưng đây là một quan niệm sai lầm, bởi vì nếu nghiên cứu sâu vào văn
bản của nó, ta sẽ thấy bản Lê II này không hoàn toàn thống nhất với bản
Lê I. Thật sự nếu không có 3 tờ 8, 9, 10 và 2 tờ chép lời bạt ở cuối,
thì mới trông qua, bản in đời Lê II này, về mặt chữ, về số trang, về số
chữ đều giống với bản đời Lê I, gây cho ta ấn tượng hai truyền bản này
là một.
Trong khi tiến hành nghiên
cứu để làm hiệu chỉnh thì chúng tôi mới khám phá ra rằng hai bản này
tuy có vẻ giống nhau nhưng có nhiều khác biệt. Thứ nhất, người đứng in
truyền bản Lê II đã sửa chữa những chữ sai trong truyền bản Lê I. Thí
dụ, tờ 4a7 {Số tờ của hai bản Lê I và Lê II đều giống nhau} bản Lê I có
"túc dạ"……..thì bản Lê II sửa thành "thị dạ"…………..; tờ 11a11 Lê I có
"thục thị"……….., bản Lê II có "thục thị"……..; tờ 20a6 Lê I viết Lưu Hán
với chữ Lưu là giòng, trôi, còn bản Lê II có Lưu…….Thứ hai, là bản Lê II
bổ sung những chữ sót mà bản Lê I bị coi là thiếu. Thí dụ, tờ 17b6 bản
Lê I có "Minh nhị Thiền sư" thì bản Lê II bổ sung thành "Minh Tâm nhị
thiền sư"; tờ 26a2-3, Lê I có " nho giả, nghĩa chi tích", bản Lê II bổ
sung thêm thành " nho giả, nhân nghĩa chi tích" v.v…Nói chung, bản Lê II
đã thực hiện một số hiệu chỉnh, nghĩa là sửa những chữ sai và thêm
những chữ thiếu đối với bản Lê I. Ai làm công việc này, hiện nay ta
không được bảo cho biết. Căn cứ vào lời bạt ở cuối bản Lê II này, mà
chúng tôi sẽ cho in nguyên bản và dịch ở Phụ Lục IV, ta thấy những người
góp tiền in bản này gồm những kinh chủ và hội chủ, tất cả đều có pháp
danh chữ Tính hoặc chữ Diệu. Ðiều này chứng tỏ họ phải là đệ tử của
những vị thầy có chữ Như, theo Truyền pháp kệ của phái Trí Bảng Ðột
Không của dòng Lâm tế:
Trí tuệ thanh tịnh
Ðạo đức viên minh
Chân như tính hải
Tịch chiếu phổ thông.
Những Thiền sư có chữ Như
vào đầu thế kỷ XVIII như: Như Trừng (1690-1728), Như Nhàn (1655 – 1724),
v.v…như vậy, có đệ tử chắc chắn phải sống vào thượng bán thế kỷ này trở
đi, tức có khả năng sống tới những năm 1750. Do thế, những kinh chủ như
Nguyễn Công Kính pháp danh Tính Trác, Nguyễn Công Vận pháp danh Tính
Chuyên, những hội chủ như Trần Tuấn Ðức pháp danh Tính Trì, Trần Tuấn
Vượng pháp danh Tính Duệ, Ðoàn Ðình Khôi pháp danh Tính Pháp, Trần Ðăng
Minh pháp danh Tính Thường v.v…, quyết phải sống vào khoảng thời gian
vừa nói. Vì vậy, việc in truyền bản đời Lê này tất nhiên xảy ra vào
những năm trước sau năm 1750.
Ðó là về thời điểm ra đời
của bản Lê II. Căn cứ vào quê quán của những kinh chủ và hội chủ này, ta
thấy tập trung vào bốn xã chính là Trung mâu, Tử nê, Ðông sơn và Lễ
xuyên. Trong số này, Lễ xuyên nằm tại huyện Ðông Ngạn, phủ Từ sơn thuộc
Kinh bắc cũ, còn Trung mâu thì hoặc là tên xã thuộc huyện Tiên du cũng
của phủ Từ sơn, hoặc thuộc huyện Hưng nguyên của Nghệ an. Nhưng Trung
mâu của Nghệ an hẳn không là quê của những người tham gia in truyền bản
Lê II này. Hai xã Ðông sơn và Tử nê thì ở các tỉnh Kinh bắc, Sơn tây,
Hải dương, Thanh hóa đều có; song ở đây, chúng phải thuộc về huyện Tiên
du, Kinh bắc. Tóm lại, tất cả những người đứng in truyền bản này đều
thuộc vùng Từ sơn, Kinh bắc {Các trấn tổng xa danh bị lãm, A.570, �.}.
Như vậy, truyền bản ấy có phải là bản cũ của chùa Tiêu sơn mà Phúc Ðiền
hòa thượng đã xử dụng để in lại hay không, ta hiện có thể trả lời là
không phải. Lý do nằm ở chỗ, những chữ do truyền bản Lê II hiệu chỉnh đã
không thấy xuất hiện đầy đủ trong bản in của hòa thượng Phúc Ðiền.
Truyền bản Lê II này từ đó
có thể nói là một dị bản của truyền bản Lê I với một số cải chính và
hiệu đính, làm cho truyền bản Lê I tốt hơn. Sự xuất hiện mấy mươi năm
sau truyền bản Lê I của nó tỏ ra phong trào nghiên cứu và học tập lịch
sử Phật giáo Việt nam vào thế kỷ XVIII rất sôi động và khởi sắc. Ðể cung
cấp thêm tư liệu, chúng tôi cho dịch lại lời bạt theo lần in cho truyền
bản Lê II này, gọi là Thiền uyển tập anh bạt hậu, nơi Phụ lục IV.
7. TRUYỀN BẢN ÐỜI NGUYỄN
Trong lời tựa viết cho
việc in lại "năm quyển Truyền đăng" thảo ra vào ngày 15 tháng giêng năm
Tự Ðức thứ 12, tức ngày 12 tháng 12 năm 1858, và in vào đầu bộ Ngự chế
thiền điển thống yếu kế đăng lục hay gọi tắt Kế đăng lục, nhan đề San
khắc truyền đăng thủ Trần gia bản, nhưng ở gáy lại ghi rõ hơn là Truyền
đăng ngũ quyển tân tự, An Thiền đã trình bày khá tường tận ý muốn xuất
bản một bộ sử Thiền tôn Việt nam của mình và phương án để thực hiện ý
muốn đó. Ðấy là lấy bộ Thiền uyển tập anh làm quyển thượng, lấy
bộ Kế đăng lục của Như Sơn gồm 3 quyển, tức quyển nhất, quyển tả và
quyển hữu làm ba quyển tiếp theo, còn quyển cuối cùng thì đó chính An
Thiền sáng tác viết về "ba tổ đời Trần, hai phái Lâm tế và Tào động, hai
phía đạo đời làm thành một tập cùng những ghi chú lặt vặt sách ngoài,
riêng làm quyển hạ". Bộ Truyền đăng ngũ quyển này, cứ vào cái tên ghi ở
quyển thượng tức Thiền uyển tập anh có lẽ có tên Ðại nam thiền uyển truyền đăng tập lục hay gọi tắt là Thiền uyển truyền đăng lục, hay Ðại nam thiền uyển truyền đăng. Dẫu sao chăng nữa, đó là những tên An Thiền dùng để gọi bộ Thiền uyển tập anh của chúng ta, sau khi đã thêm vào hai chữ "quyển thượng".
Quyển thượng của bộ Ðại
nam thiền uyển truyền đăng như vậy chắc chắn in xong trước năm 1858, hay
cùng lắm thì in xong vào năm đó. Nó gồm cả thảy 65 tờ, mỗi tờ 2 trang,
mỗi trang 10 dòng, mỗi dòng 21 chữ. Chữ in thật đẹp, cùng một cỡ, trừ
một số rất ít có chữ cỡ nhỏ để chú thích. Nhưng vì những nguyên chú xuất
hiện trong truyền bản đời Lê, phần lớn đã bị bản in này in thành cỡ chữ
lớn nên số chữ cỡ nhỏ trở thành không quan trọng gì cho lắm. Bắt đầu
mỗi truyện, nó in trồi lên một ô. Vì thế, tuy nói mỗi dòng 21 chữ, nhưng
thật sự thì chỉ dòng bắt đầu mỗi truyện mới có số chữ đó, còn tất cả
những dòng còn lại thì chỉ có 20 chữ mà thôi. Mỗi dòng đều có chấm câu,
nhưng công tác chấm câu không được thực hiện một cách đạt yêu cầu, nên
đôi chỗ chấm câu hoàn toàn sai.
Sách không chia thành
nhiều quyển và cũng không có một dấu tích gì cho phép ta giả thiết là nó
gồm nhiều quyển hết. Từ đầu tờ 1a1 nó có tên Trùng khắc Ðại nam thiền
uyển truyền đăng tập lục quyển thượng. Ở cuối sách tờ 65a10 nó cũng có
tên Ðại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng. Còn gáy các tờ
từ 1 cho đến 65 đều có ghi Thiền uyển truyền đăng lục quyển thượng. Sự
thống nhất toàn bộ bản Thiền uyển tập anh thành quyển thượng của
bộ Ðại nam thiền uyển truyền đăng tập lục này dĩ nhiên là công cũng như
tội của An Thiền. Chính trong lời tựa dẫn trên, Thiền đã minh xác rất rõ
ràng vai trò của mình trong việc tạo nên quyển thượng đấy.
Ông nói: "Kịp đến nước ta thì xưa có Thiền uyển làm
lục, Tập anh làm tên, ghi lấy thạc đức cao tăng của ba triều, trình sơ
nét chính, nhưng bên trong sai lầm không phải một, ngược lộn không kể
ra, do đó tôi đã hiệu đính lại, viết sạch ra mà khắc vào bản gỗ, để bảo
tồn bản văn xưa, riêng làm quyển thượng". Như vậy Thiền không những là
người tổ chức lại bản văn của Thiền uyển tập anh cũ mà còn làm
công việc chỉnh cú và hiệu đính bản văn đó cùng việc in nó ra nữa. Thực
vậy, Trùng khắc đại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng tờ
1a2 ghi rõ: "Hòa thượng Phúc Ðiền chùa Liên tôn có giới đao độ điệp
thuộc phái Lâm tế hiệu đính và khắc bản".
Hòa thượng Phúc Ðiền là
đạo hiệu của An Thiền, vị Sư trú trì chùa Ðại giác ở Bồ sơn, Bắc Ninh.
Ông là một dịch giả quốc âm lớn cũng như một nhà nghiên cứu có tiếng tăm
của thế kỷ thứ 19. Trong bài tựa Quốc âm tiểu luận viết ở đầu sách Khóa
hư giải âm, An Thiền đã ghi 34 bộ kinh sách Phật giáo do chính ông dịch
quốc âm và do một "Trưởng lão" nhóm sơn môn lại để khắc bản ra từ năm
1840 đến năm 1861, đó là:
1. Kim cương kinh 1 quyển
2. Di Ðà kinh 1 quyển
3. Qui sơn cảnh sách 2 quyển
4. Sa di sớ 2 quyển
5. Thiền lâm bảo huấn 4 quyển
6. Ðại đường từ ân xuất gia châm 1 thiên
7. Di Sơn đại sư phát nguyện 1 văn
8. Vân Thê đại sư phát nguyện 1 văn
9. Trúc song 3 quyển
10. Hộ pháp luận 1 quyển
11. Khóa hư lục 3 quyển
12. Thái căn đàm 1 quyển
13. Tam giáo nhất nguyên 1 quyển
14. Nhân sinh nhất đán 1 văn
15. Bán điểm 1 văn
16. Hàn lâm sở 1 quyển
17. Vương thị cảnh thế lương ngôn 1 thiên
18. Tân soạn Thích giáo chân ngôn 1 thiên
19. Tiên nho công luận 1 thiên
20. Thượng đường quốc ngữ 1 thiên
21. Phụng Phật tổ đối liễn kỷ cú
22. Hoa nghiêm phương san kinh 82 quyển
23. Giải hoặc thượng hạ 2 quyển
24. Tam giáo quản khuy Nho Thích Ðạo 3 tập
25. Truyền đăng Phật tổ 5 quyển
26. Phật tổ thống ký
27. Cổ bản phạn giáp 54 quyển
28. Kim vi phương san 20 quyển
29. Tại gia tu trì
30. Ðạo giáo nguyên lưu 2 quyển
31. Tiểu du già 1 quyển
32. Lễ thiên địa lương tinh cập âm hồn bài vị 22 bài
33. Trùng khắc đại giới điệp 1 trương
34. Tân biên ngũ giới thập giới điệp 1 trương
Theo Thích song tổ ấn tờ
3a6-7 do Tịnh Hạnh viết vào năm 1924 thì Hòa thượng Phúc Ðiền có dịch
"Ðại nam thiền uyển tập một quyển, Trúc song một bộ, Phật tổ thống chí
một bộ", vào năm Minh Mạng thứ 9 (1828). Trúc Song và Phật tổ thống chí
đều có ghi trong số 32 dịch phẩm vừa dẫn, nhưng Ðại nam thiền uyển tập,
mặc dù Thích song tổ ấn nói có một quyển, ta biết chắc chắn là phải gồm
cả thảy năm quyển, như đã bàn cãi ở trên và chúng tôi chưa tìm thấy một
dấu vết gì khác về một bản dịch quốc âm của nó. Ngoài những dịch phẩm
đấy, chúng tôi hiện đã tìm được Ðạo giáo nguyên lưu ba quyển, Thiền lâm
qui ước ba quyển, Tân tập tại gia nhật dạ tu trì nghi thức một quyển,
Phóng sanh giới sát văn một tập, Tiểu du già, Hàn lâm sở, nhưng tất cả
đều bằng Hán văn. Chỉ mới phát hiện được các bản dịch Kim cương, Di Ðà
và Khoáhư lục bằng quốc âm.
An Thiền như vậy là một
tác gia lớn không những của Phật giáo thế kỷ thứ 19, mà còn là của văn
học và tư tưởng nước ta thế kỷ đó. Việc ông cho ra đời bộ Ðại nam thiền
uyển truyền đăng tập lục không phải không là một sáng kiến hay. Ðiều
đáng tiếc là ngoài bài tựa San khắc truyền đăng thủ Trần gia bản dẫn
trên, giới thiệu tổng quát phương án và tư liệu của việc in ra bộ đó, An
Thiền đã không viết giới thiệu riêng cho từng quyển. Do thế, ngày nay
ta không rõ Thiền đã dùng truyền bản nào để in lại Thiền uyển tập anh
thành quyển thượng của Ðại nam thiền uyển truyền đăng. Chỉ thấy vào tờ
đầu quyển thượng đấy, Thiền chua "bản gỗ cũ chùa Tiêu sơn", với ý nghĩa
là, Thiền đã dùng truyền bản của bản gỗ chùa đó.
Về lai lịch bản
gỗ ấy, ta hiện chưa biết gì cả. Có người nói "bản gỗ của chùa Tiêu sơn"
là đồng nhất với truyền bản đời Lê của bản in năm 1715. Nói thế, chúng
tôi nghĩ là một sai lầm, bởi vì ngoài những xuất nhập văn bản, mà ta
hiện chưa thể phát hiện nguồn gốc, tối thiểu ta đang có một chứng cớ tỏ
ra "bản gỗ cũ của chùa Tiêu sơn" dứt khoát không phải là truyền bản đời
Lê in năm 1715. Ðấy là ở truyện Viên Chiếu, bản của Phúc Ðiền hoà thượng
tờ 11a9 thiếu hẳn cơ duyên thoại ngữ của đúng một tờ trong bản in 1715,
tức từ tờ 14b9 đến tờ 15b9. Nhưng rõ ràng tờ thiếu đó lại không ăn hợp
với khuôn khổ của nguyên một tờ trong bản in 1715 . Trái lại, nó đã ăn
lên tờ 14b và còn thừa ở tờ 15b. Chúng tôi do thế nghĩ "bản gỗ cũ chùa
Tiêu sơn" không phải là truyền bản của bản in năm 1715 cũng như bản đời
Lê II.
Kết luận như vậy, ta sẽ
rất khó giải thích nguồn gốc những xuất nhập xảy ra giữa truyền bản đời
Lê I và đời Lê II và truyền bản đời Nguyễn, vì lẽ ta không thể qui trách
nhiệm hoàn toàn cho An Thiền về sự ra đời của những xuất nhập ấy. Dẫu
sao, đó là một kết luận phải chăng, và sự có mặt của những xuất nhập chỉ
biểu hiện cho sự ưu việt của truyền bản đời Lê mà thôi, không hơn không
kém. Cũng cần thêm rằng những xuất nhập ấy có lẽ đã xuất hiện trong
chính "bản gỗ chùa Tiêu sơn" và xuất phát từ một cây bút có liên hệ với
truyền thống chùa núi Phả lại. Bởi vì sự sai khác giữa hai truyền bản
đời Lê và truyền bản đời Nguyễn chủ yếu nằm trong truyện Không Lộ. Không
Lộ theo truyền bản đời Lê là vị Sư của chùa Nghiêm quang ở Hải Thanh,
trong khi truyền bản đời Nguyễn muốn gồm luôn cả chùa núi Phả lại nữa.
Truyền thống liên kết Không Lộ với chùa núi Phả lại đấy đã thấy xuất
hiện trong An nam chí lược 15 tờ 147, như vậy chứng tỏ có một lịch sử xa
xưa. Từ đó, không cần phải đợi đến An Thiền mới nảy ra cố gắng tạo nên
một truyền thuyết mới về Không Lộ, trái lại nó đã có ngay từ thời "bản
gỗ cũ chùa Tiêu sơn" khắc thành, nếu không là sớm hơn nữa.
Do thế, về nội dung truyền
bản đời Nguyễn, tuy chủ yếu là đồng nhất với hai truyền bản đời Lê, đã
có hai xuất nhập chủ chốt. Thứ nhất, nó hoàn toàn thay đổi truyện của
Không Lộ bằng một nội dung mới khác hẳn với truyện Không Lộ của truyền
bản đời Lê I và Lê II. Thứ hai, nó thiếu truyện Minh Không ở thế hệ 13
của dòng thiền Pháp vân. Sự thiếu truyện Minh Không này có thể không
phải do người đứng khắc "bản gỗ cũ chùa Tiêu sơn" hay chính An Thiền tạo
nên từ hành động loại bỏ văn bản có ý thức của họ. Trái lại, nó có lẽ
xảy ra, vì truyền bản của "bản gỗ cũ chùa Tiêu sơn" hay chính bản thân
bản gỗ cũ đó đã thiếu mất một tờ, khi An Thiền sử dụng để in lại thành
quyển thượng của bộ Ðại nam thiền uyển truyền đăng tập lục. Lý do cho
một giả thiết như thế nằm ở chỗ truyện của Minh Không trong bản in năm
1715 chiếm đúng một tờ, tức từ tờ 59b2 đến 60b1, mà có thể rơi đúng lên
khuôn 1 tờ của truyền bản nguyên ủy của đời Nguyễn, chớ không phải ăn
thâm đến hai tờ khác nhau, như ở trường hợp truyện Viên Chiếu và ở đây.
Một lần nữa, nếu giải thiết ấy tỏ ra đúng đắn, thì sự thiếu truyện Minh
Không vừa nêu là một chứng cớ khác cho khẳng định rằng "bản gỗ cũ chùa
Tiêu sơn" không phải là bản in năm 1715.
Ngoài ra, bản in do An
Thiền thực hiện đã không có lời tựa của người hiệu đính bản in năm 1715.
Ðấy có thể là do Thiền cố ý loại bỏ. Nhưng cũng có thể vì "bản gỗ cũ
chùa Tiêu sơn" dựa trên một truyền bản khác với bản in 1715, nên lời tựa
ấy không có. Chúng tôi nghĩ, trường hợp thứ hai này gần đúng với sự
thực hơn, bởi lẽ nội dung bài tựa bản in năm1715 không đến nỗi có những
xúc phạm gì, mà An Thiền cần phải loại bỏ, và thực sự nếu có nó, giá trị
cuốn sách một phần nào được tăng lên. Do thế, đấy là có thể là một
chứng cứ thứ ba cho ta khẳng định rằng "bản gỗ cũ chùa Tiêu sơn" không
thể là bản in năm1715, như có người đã nghĩ. Khẳng định như vậy, ta vẫn
chưa biết văn bản của truyền bản đời Nguyễn trước "bản gỗ cũ chùa Tiêu
sơn" là ra sao cả. Dẫu thế, trừ sự sai khác chính yếu về truyện Không Lộ
chưa thể giải quyết một cách thỏa đáng trên, ta có thể nói nội dung
truyền bản đời Nguyễn là đồng nhất với truyền bản đời Lê, khi coi sự
thiếu truyện Minh Không trong truyền bản trước xuất phát từ việc mất một
tờ trong "bản gỗ cũ chùa Tiêu sơn", như truyện Viên Chiếu đã thiếu một
tờ trong phần cơ duyên thoại ngữ.
8. BẢN CHÉP TAY A.2767
Ðúng ra, sau khi chúng ta đã có trong tay 3 bản in Thiền uyển tập anh,
đó là bản in đời Lê I, Lê II và đời Nguyễn, thì bản chép tay A.2767 do
trường Viễn đông bác cổ Pháp thuê chép hiện tàng trữ tại thư viện Hán
Nôm Hà nội không đáng cho ta bận tâm bàn cãn ở đây. Tuy nhiên, nhân viên
trường Viễn đông bác cổ Pháp dùng vi phim chụp lại trước khi rời khỏi
Hà Nội vào năm 1954, rồi phổ biến cho những người nghiên cứu miền nam sử
dụng. Ðặc biệt Viện đại học Vạn Hạnh đã dùng nó làm bản đáy để chép lại
và in ronéo ít lắm là hai lần để làm tài liệu giảng dạy, vào những năm
1965 và 1966, từ đó được phát tán rộng rãi, trong nước cũng như ngoài
nước, cho nên bản chép tay A.2767 này có cơ hội gây nhiều lầm lẫn cho
những người học tập và nghiên cứu gần đây.{Chẳng hạn, về truyền thừa
Khương Tăng Hội, bản chép tay này thêm thắt mấy chữ "Khương Tăng Hội chi
nhân", khiến hầu hết những người dịch và viết về Thiền uyển tập anh
dựa trên bản này, đều tin là Khương Tăng Hội có dòng Thiền truyền đến
đời Lý. Xem Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt nam, Tu viện Chơn Không, 1973,
tr.98; Nhất Hạnh, Thiền sư Tăng Hội, nxb Lá bối, tr. 11; Ngô Ðức Thọ, Thiền uyển tập anh,
Hà nội, nxb Văn học, 1990, tr.90} Do vậy, chúng tôi phải nói sơ đôi
chút về bản in chép tay A.2767 này, để người sau thận trọng hơn khi phải
dùng các bản chép tay loại ấy.
Thứ nhất, bản A.2767 có
tên là Ðại nam thiền uyển truyền đăng tập lục, như vậy nó đã dùng bản in
thế kỷ XIX của thiền sư An Thiền ở chùa Ðại Giác, Bồ sơn, Bắc ninh, làm
bản đáy để chép lại. Thứ hai, nó chép đúng theo khuôn khổ của bản in
đời Nguyễn, nghĩa là số trang, số dòng và số chữ cùng giống nhau trên
mỗi trang. Bản in năm 1966 do Ban tu thư đại học Vạn Hạnh ấn hành, cũng
theo cùng cỡ. Còn bản năm 1965 thì chép một cách tùy tiện nên không kể
tới. Thứ ba, vì chép đúng theo cỡ trang, số dòng và số chữ của mỗi
trang, bản này đã có những khuyết tật của bản đời Nguyễn, nghĩa là nó đã
loại bỏ truyện Không Lộ của dòng Vô Ngôn Thông có trong bản đời Lê I và
Lê II và thế vào đó bằng một truyện Không Lộ mới, mà đôi khi nó lại
viết thành Khổng Lộ khi chép về truyện Không Lộ đúc "Ðại nam tứ khí". Ở
truyện Viên Chiếu, nó thiếu một tờ giống như bản in đời Nguyễn.
Và
cuối cùng nó không có truyện Minh Không. Những sai sót này, lúc ta so
với bản đời Nguyễn của Thiền sư An Thiền, là tình trạng "tam sao thất
bổn" mà người xưa đã từng nói đến. Thứ tư, ngoài những chép sai, chép
sót và chép thiếu nằm rải rác ở khắp cả bản chép như nêu trên, bản sao
A.2767 này đã tùy tiện thêm thắt một số đoạn viết. Cụ thể là đoạn phiến
về Khương Tăng Hội trong truyện Thông Biện quốc sư, ở tờ 17a3, nó thêm
năm chữ "Khương Tăng Hội chi nhân". Và sự tình này xảy ra là do việc
trường Viễn đông bác cổ Pháp trả tiền công cho bản chép trên cơ sở số
chữ đã chép, nên người chép đã thêm một số chữ để kiếm thêm tiền, như
Hoàng Xuân Hãn đã từng nhận xét {Hoàng Xuân Hãn, Ðại nam quốc sử diễn
ca. Saigon, Trường Thi, 1957}. Tóm lại, đây là một bản chép tồi tệ,
không đáng để ta nói đến.
Trong lần xuất bản trước vào năm1976, bản nghiên cứu Thiền uyển tập anh
của chúng tôi không đề cập gì đến bản chép tay này vì suy nghĩ như thế.
Nhưng do gần đây những sai lầm của bản chép tay này đã gây ra nhiều
nhiễu loạn cho nhận thức trong giới nghiên cứu, đặc biệt là ở nước
ngoài, vì không tiếp cận được với những truyền bản gốc, nên đã nêu lên
vài vấn đề tưởng có vẻ như là khám phá mới mẻ, song thực sự chỉ là xuất
phát từ những sai lầm đó mà thôi. Do vậy, chúng tôi phải đưa ra vài nhận
xét ở đây. Và vì nó phát tán rộng rãi qua những lần in ronéo, nên trong
khi làm bản hiệu đối, chúng tôi ghi nhận sự sai biệt của nó đối với 3
bản kia để giúp những người có bản vi phim hay bản ronéo trong tay có
thể dò theo để hiệu chỉnh lại cho đúng.
9. VẤN ÐỀ CHỌN LỰA TRUYỀN BẢN
Sau khi đã giới thiệu và
phân tích tám truyền bản, mà ta hiện có thể truy cứu được, thì rõ ràng
truyền bản đời Trần, đời Hồ, đời Lê sơ và truyền bản 6 quyển của Phan
Huy Chú ngày nay đã hoàn toàn tán thất, do thế không giúp ích gì lắmcho
công tác lựa chọn đề bản của ta. Còn lại như vậy là truyền bản đời Lê I,
đời Lê II và truyền bản đời Nguyễn, mà chủ yếu là bản in năm 1858 của
chúng. Với những phân tích trên, ta bây giờ có thể so sánh và đánh giá
trị văn bản của từng bản in. Thứ nhất, về mặt hình thức, hai bản in đời
Lê với những lời chua in bằng khổ chữ nhỏ và với những dấu vết của
truyền bản sáu quyển đã tỏ ra hơn hẳn bản in đời Nguyễn bằng hai đặc
điểm đó, mà bản in đời Nguyễn không có. Tiếp đến, về nội dung, bản in
đời Nguyễn, có lẽ vì mất một tờ, trong nguyên bản, đã đánh rơi mất đúng
gần một nửa số cơ duyên thoại ngữ của Viên Chiếu trong truyện Viên
Chiếu.
Ðồng thời truyện Không Lộ hoàn toàn khác hẳn truyện Không
Lộ trong hai bản đời Lê, biểu hiện một tạo dựng vụng về hậu kỳ, mà ta
hiện chưa thể xác định được nguồn gốc. Ngoài ra, vì truyện Không Lộ của
nó đã bao gồm luôn truyện của thiền sư Minh Không, nay truyện Minh Không
của dòng thiền Pháp vân không xuất hiện trong phần viết về dòng thiền
đấy. Sự vắng mặt nó cũng có thể đến từ việc nguyên bản, mà An Thiền dùng
để in bản in năm1858, đã bị mất tờ có truyện Minh Không. Dẫu sao chăng
nữa truyện Minh Không đã không thấy xuất hiện trong dòng thiền Pháp vân.
Cuối cùng, về quyển số, vì gộp Thiền uyển tập anh vào làm quyển
thượng của bộ Ðại nam thiền uyển truyền đăng tập lục, bản in đời Nguyễn
đã loại bỏ hết mọi dấu tích phân chia quyển số của hai bản in đời Lê,
một điều không phải là không nguy hiểm cho những người nghiên cứu.
Còn giữa bản in đời Lê I
và Lê II, khi so sánh, tuy bản đời Lê II có một số ưu điểm là sửa lại
những chữ sai và sót của bản Lê I, nhưng vì nó xuất hiện sau bản Lê I và
không phải lúc nào nó cũng sửa đúng cả, nên chúng tôi vẫn chọn bản Lê I
làm bản đáy. Và đó là chưa kể bản Lê II có đóng chung với ba tờ 7, 8, 9
khắc chân dung và ghi tiểu truyện của Trúc lâm tam tổ, biểu thị nó có
một số pha tạp, mà ta hiện không biết lý do vì sao. Ít nhất, những pha
tạp đó đã làm nó mất đi khá nhiều tính đáng tin cậy của nó, như
Gaspardone đã vạch ra.{E. gaspardone, Bibligraphie Annamite, BEFEO XXXIV
(1934) 144}
Do thế, nếu so sánh hai
truyền bản đời Lê và bản đời Nguyễn, chúng tôi chọn truyền bản đời Lê I
mà cụ thể là bản in năm 1715, làm bản đáy, rồi tham khảo bản in đời Lê
II và Nguyễn cùng những trích dẫn của truyền bản đời Trần, đời Hồ và đời
Lê sơ để làm một bản hiệu cho công tác phiên dịch của chúng tôi. Nói
trắng ra, chúng tôi dùng bản in năm 1715 của Thiền uyển tập anh
để dịch, rồi tham khảo thêm bản đời Lê II và Nguyễn và những trích dẫn
của truyền bản đời Trần, đời Hồ và đời Lê sơ bổ sung cho cách đọc bản in
năm 1715, và trong một số trường hợp rất ít (không lên quá số ba), để
cải chính cách đọc của bản in đó. Xem bản hiệu đối đính kèm ở dưới.