2. Thiền sư Cảm Thành
(1) Bản đời Lê viết "Tánh
Thị", thì Thị đây chỉ họ của Cảm Thành. Thành như vậy họ Thị, họ Thị
không phải là không biết đến trong lịch sử. Tam quốc chí 63 còn ghi lại
một nhân vật của triều Tôn Ngô tên Thị Nghi, rồi chú rằng: Nghi nguyên
có họ Thị nhưng sau viết cải thành Thị. Bản đời Nguyễn trước chữ "Tánh
Thị", viết thêm hai chữ "vị tường". Ðây chắc là một tăng bổ của Phúc
Ðiền, nếu không phải là của Tiêu sơn tự cổ bản.
(2) Lịch triều hiến chương loại chí 3
tờ 2a6-7 nói: "Phật tích ở tại huyện Tiên du, lại có tên là núi Tiên
du. Xưa có tiều phu Vương Chất vào thấy hai ông già đánh cờ dưới bóng
cây tùng, bèn dựa búa đứng xem. Xem xong cuộc cờ, ngó lại thì không thấy
ai cả, mà cán búa đã mục bao giờ, nên có tên là thôn Lạn kha". Vậy núi
Tiên du cũng có tên là núi Phật tích hay núi Lạn kha. Và núi Lạn kha
này, Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, nói: "Núi Lạn kha ở
tại huyện Tiên du về phía nam cách bốn dặm, trên núi có ao Thú long,
trên chóp Thất sơn có bàn cờ đá. Tương truyền xưa có tiều phu Vương Chất
vào núi thấy hai ông già đánh cờ dưới bóng cây tùng bèn dựa búa đứng
nhìn, đến khi cuộc cờ tan, mà không biết cán đã mục tan. Dưới núi có
động tên Vạn phúc, cảnh trí thanh vắng tương truyền đời Lý dựng nên. Sử ky�
nói Triệu Ðà đóng quân ở núi Tiên du đánh với An Dương Vương, tức là
nơi đây. Truyền kỳ lục nói Từ Thức cởi áo cừu cho tiên nữ, tức cũng ở
núi đây". Tuy nhiên An nam chí lược 1 tờ 22 cũng ghi: "Núi Tiên
du có bàn đá lấp loáng dấu những đường gạch, tương truyền Tiên đánh cờ
trên đó, sau bọn con gái đi hái củi giao hợp ở trên đó nên nó lật xuống
và vỡ ra". Nay tức núi Lạn kha, huyện Tiên du, Hà Bắc.
(3) Kinh Pháp hoa, phẩm
Phương tiện: "Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện
ở đời". Xem Diệu pháp liên hoa kinh 1 tờ 7a21.
(4) Truyền đăng lục
1 tờ 205b26 – 28 nói, khi Phật sắp nhập diệt, Phật nói với đệ tử Ma Ha
Ca Diếp rằng: "Ta đem thanh tịnh pháp nhãn. Niết bàn diệu tâm, thật
tướng vô tướng, vi diệu chánh pháp, đem giao cho ngươi, ngươi nên giữ
gìn".
(5) Cả đoạn từ "Khi Ðạt Ma
mới đến" cho tới "không nên truyền nữa" ở đây là dẫn y nguyên văn câu
nói của Hoằng Nhẫn cho Huệ Năng lúc Nhẫn truyền ca sa cho Năng, mà cả
Pháp bảo đàn kinh tờ 394a28 lẫn Truyền đăng lục 3 tờ 223a20 đều
có chép. Nguyên văn nó đọc: "Tích Ðạt Ma sơ chí, nhãn vị chi tín, cổ
truyền y bát dĩ minh đắc pháp. Kim tín tâm di thục, y nãi tranh đoan.
Chỉ ư nhữ thân, bất phục truyền dã". Vì dẫn nguyên văn này, cho nên chữ ông trong đoạn này phải hiểu là chỉ Huệ Năng.
(6) Sự truyền thừa nói đến trong đoạn này, ta có thể vẽ thành đồ biểu như sau:
Thích Ca Mâu Ni
Ma Ha Ca Diếp…
Bồ Ðề Ðạt Ma (? – 528)
Huệ Khả (487 – 593)
Tăng Xán (? – 606)
Ðạo Tín (580 – 651)
Hoằng Nhẫn (601 – 674)
Huệ Năng (638 – 713)
Nam Nhạc Hoài Nhượng (677 – 744)
Mã Tổ Ðạo Nhất (709 – 788)
Bách Trượng Hoài Hải (720 – 814)
(7) Nguyên văn: Nhất hoa khai ngũ diệp. Ðạt Ma truyền pháp cho Huệ Khả đọc bài kệ:
Ngô bản lai tư độ
Truyền pháp cứu mê tình
Nhất hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 219c 17-18
(8) Nguyên văn: Tiềm phủ mật ngữ, thiên vạn hữu duyên. Lời phú chúc của Ðạt Ma cho Huệ Khả cũng nói:
Tiềm phù mật chứng
Thiên vạn hữu dư
Nhữ dương xiển dương
Vật khinh vị ngộ.
Xem Truyền đăng lục 3 tờ 219c15.
(9) Nguyên văn: Xúc đồ thành trệ. Hoà thượng Bảo Chí,
Thập tứ khoa tụng:
Ngu nhân bị tha cấm hệ
Trí giả tạo tác giai không
Thanh văn xúc đồ vi tuệ
Ðại sĩ nhục nhãn viên thông.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 450 c13-14. Xem thêm Bích nham lục 5 tắc 4 (tờ 182a5).
(10) Nguyên văn: Ngã bản
vô ngôn. Có thể dịch: "Ta vốn không lời". Vô Ngôn có thể chỉ Vô Ngôn
Thông, cũng có thể chỉ cái chân lý không thể diễn tả được.
3. THIỀN SƯ THIỆN HỘI
(1) Ðây chắc là một viết
đảo của tên chùa Thiền định tại làng Khương tự huyện Siêu loại ngày xưa,
nay là huyện Thuận Thành Hàbắc. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc
ninh viết: " Chùa Diên ứng ở tại xã Khương tự, huyện Siêu loại, có bốn
pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Ðiện rất có dấu thiêng.
Ðời Trần, Mạc Ðĩnh Chi dựng chùa một trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín
nhịp, nền cũ nay hãy còn. Xét Pháp vân Phật truyệ�n thì thuở Sĩ Nhiếp
làm thái thú đóng tại thành Luy lâu, ở núi xanh phía tây thành ấy cómột
vị Sư tên Khâu Ðà La. Có người con gái của Tu Ðịnh tên A Man bị Sư phạm
đến mà có thai, sinh ra một đứa con gái. Sư đem dấu trong một cây to
giữa núi sâu, sau bị gió mưa lớn, cây trốc gốc, nổi trong nước trôi đến
bến Luy lâu. Người ta cho là lạ, vớt cây lên bờ rồi đẽo thành bốn pho
tượng Phật, rồi cất chùa tên là Thiền định, tức nay là chùa Diên ứng để
đặt bốn tượng ấy mà thờ. Về sau mỗi khi cầu mưa đều có linh ứng, nên đặt
tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Ðiện. Thập di ký của Lý Tế
Xuyên nói: "Người Cổ Châu mỗi năm mừng ngày Phật đản đều họp nhau ở chùa
Thiền định". Ðời Trần Nghệ Tôn có khen ban mỹ hiệu. Sử đời Lê chép Lê
Nhân Tôn vào năm Thái Hoà thứ 6 (1448) sai Lê thái úy đến Cổ châu rước
tượng Phật Pháp Vân về chùa Báo thiên tại kinh thành để cầu mưa.
(2) Tức huyện Siêu loại. Ðại nam nhất thống chí,
tỉnh Bắc ninh viết: "Huyện Siêu loại, từ đông sang tây 27 dặm, từ nam
xuống bắc 9 dặm, đông đến địa phận huyện Lương tài 7 dặm, tây đến địa
phận huyện Gia lâm thuộc phân phủ 6 dặm, bắc đến địa giới huyện Gia bình
3 dặm, thuộc đất Luy lâu đời Hán. Sử ky� nói, Sứ quân Lý (Lãng
công) chiếm cứ Siêu loại, tức là ở đây. Năm Thiên Huống Bảo Tượng (1068)
đổi làng Thổ lôi làm làng Siêu loại (xin ghi vào đây để tiện tham
khảo), sau đổi làm huyện. Ðời thuộc Minh nó thuộc Bắc giang. Lê Quang
Thuận cải thuộc phủ Thuận an và do phủ đó kiêm lý. Triều ta nhân theo.
Nó coi 6 tổng 68 xã thôn". Hiện nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Hà bắc.
Cương mục chính biên 3 tờ 26b6 nói: "Làng Siêu loại ở tại huyện Siêu
loại, tỉnh Bắc ninh, nay là xã Thuận quang". Nhưng hiển nhiên xã Thuận
quang hiện không có chùa Thiền định. Do đó, làng Siêu loại đời Lý phải
coi là tương đương với huyện Siêu loại tức huyện Thuận thành ngày nay.
(3) Ðiển lãnh, tên làng.
Truyện này nói Thiện Hội "lúc nhỏ xuất gia với Sư Tiệm Nguyên chùa Ðông
lâm cùng làng". Vậy chùa Ðông lâm ở tại làng Ðiển lãnh. Bây giờ cứ Cổ
châu pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục tờ 16b3-4 ta biết một ngôi chùa tên
Ðông lâm ở Ðiển lĩnh, và đây là chùa thờ Phật Pháp vân thời Lý Nhân Tôn.
Vậy Ðiển lãnh cũng là Ðiển linh và ở tại làng Khương tự ngày nay. Ngoài
chùa Ðông lâm, làng này còn có chùa Phúc Thánh mà Minh Trí (tức Thiền
trí) trụ trì.
(4) Chùa này, Ðại Việt sử lược 2 tờ
10b3 nói dựng vào năm Long Thụy Thái Bình năm thứ hai (1055), nhưng
không nói rõ ở đâu. Cứ theo đây thì nó phải ở làng Ðiển lãnh. Truyện của
Thiền sư Minh Trí ở dưới còn ghi thêm một chùa khác nữa cũng thuộc Ðiển
lãnh đó là chùa Phúc thánh. Chùa này theo Toàn thư B4 tờ 6b4 ghi vào năm 1144 Lý Anh Tôn cũng cho dựng một chùa tên Phúc thánh.
(5) Giáo, chỉ Phật giáo được truyền thừa bằng kinh điển; các tông phái ngoài Thiền tông.
(6) Tham chiếu, Phú pháp
tụng nhân duyên truyện 1 tờ 297b6-8: "Khi gặp diệt độ, Phật bảo đại đệ
tử Ma Ha Ca Diếp: " Ngươi nay nên biết, trong vô lượng a tăng kỳ kiếp,
ta vì chúng sanh, siêng tu khổ hạnh, một lòng chuyên tìm pháp không gì
hơn. Nguyện xưa của ta như vậy, nay đã thỏa rồi".
(7) Vị tằng thuyết nhất
tự. Các thiền gia thường nói nó xuất xứ từ kinh Văn Thù. Hiện có một số
kinh mang tên Văn Thù hay Văn Thù là người đối thoại chính. Nhưng không
có kinh nào có câu đó. Ý� nghĩa tương tự cũng có thể tìm thấy trong kinh
Lăng già 3 tờ 498c17-19: "Ngã tùng mỗ dạ đắc tối chánh giác nãi chí mỗ
dạ nhập bát Niết bàn, trung gian nãi chí bất thuyết nhất tự."
(8) Thiền sư Ðại Châu Huệ
Hải: "Tầm văn thủ chứng giả ích trệ, khổ hạnh cầu Phật giả cu mê, ly tâm
cầu Phật dã ngoại đạo, chấp tâm thị Phật dã vi ma". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 248a1-3.
(9) Thiền sư Ðại Châu Huệ
Hải: "Hữu hành giả vấn" Tức tâm thị Phật, na cá thị Phật?". Sư vân: "Nhữ
nghi na cá bất thị Phật chỉ xuất khán". Vô đối. Sư vân: "Ðạt tức biến
cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ." Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a22-24.
4. THIỀN SƯ VÂN PHONG
(1) Tây hồ chí, phân về Cổ
tích, ghi: "Chùa Khai quốc ở tại bờ sông Nhị hà, phía bắc của hồ (Tây),
nay là bến Yên phụ mé ngoài đê. Nguyên Nam Ðế nhà Tiền Lý nhân nền cũ
của chùa An trì của triều Hồng Bàng, mà dựng lên, nên có tên Khai quốc.
Sau danh tăng triều Ngô là Nguyễn Vân Phong người Từ liêm tu bổ lại.
Trong khoảng hai triều Ðinh và Lê, Quốc sư Ngô Khuông Việt thường trú
trì tại đó. Nhà Lý trùng tu lại". Ðến phần về chùa chiên, Tây hồ chí
lại ghi: "Chùa Khai quốc do Nam đế triều Tiền Lý nhân nền cũ chùa An
trì, mà dựng lên. Chùa ở bến Yên Phụ trên bờ sông phía ngoài đê thuộc
mạn bắc hồ. Khi họ Lý dời đô đến, có sửa sang lại. Những danh tăng như
Lý Thảo Ðường, Ngô Thông Biện, đến Viên Học và Tịnh Không đều có ở đó.
Triều Trần thường hay đến chơi. Trong khoảng Ðại Bảo nhà Tiền (phải đọc
là Hậu) Lê (1428 – 1789), vua ban tên An quốc. Tiên nhân Trần Tú Uyên
sinh ở đó nên có tên vậy. Trong khoảng Hoằng định (1600 – 1618) nhà Hậu
Lê, bờ sông bị lở, người trong ấp dời vào bên hồ, nay là chùa Trấn bắc".
Về chùa Trấn bắc này, nó
viết tiếp: "Trấn bắc là chùa An quốc dời vào, đổi tên như vậy, nay ở
trong phần đất phường An phụ. Bãi Rùa trên hồ nguyên có điện Hàm nguyên
của triều Trần việc dựng điện có nói trong phần về cổ tích, nền cũ nó
vẫn còn. Năm Lê Hoằng Ðịnh thứ 16 (1615) sông lở, chùa gần sụp. Người
trong ấp dời vào dựng lại ở đấy. Trong khoảng Chính hoà (1680 – 1704),
vua đến chơi, đổi tên chùa là Trấn quốc. Trong khoảng Vĩnh Hựu (1735 –
1739) và Cảnh Hưng (1740 –1786) có những danh Tăng như Hà Giác Quan, Ðỗ
Tu Ma, Ðỗ Trung Nghĩa đều ở đó. Ba tháp Thông quang, Linh quang và Viên
quang cùng tượng của họ hiện còn. Ðời Gia Long của triều ta, Bùi phương
trượng kế đăng, tháp Tịch quang của Sư này nay vẫn còn. Ðầu đời Thiệu
Trị, vua tuần du Bắc hà, đổi tên chùa là Trấn bắc, sắc cho quan tỉnh làm
bảng vàng treo, nay còn".
Ðó là lai lịch chùa Khai quốc của thủ
đô Hà nội viết vào khoảng sau năm 1851, năm Nguyễn Ðăng Giai được bổ
làm kinh lược sứ sáu tỉnh miền Bắc, mà Tây hồ chí nhắc tới. Ðây là niên đại chậm nhất xuất hiện trong nó. Về chùa Trấn bắc này, Ðại nam nhất thống chí,
tỉnh Hà nội, viết: "Chùa Trấn bắc vốn tên là chùa Trấn quốc, ở bên Hồ
Tây, phường Yên phụ, huyện Vĩnh Thuận, xây vào khoảng Lê Hoằng Ðịnh
(1600 – 1618) đến khoảng Vĩnh Tộ (1619 – 1628) thì trùng tu nên cơ sở
trở nên rộng rãi, cảnh trí trở nên đẹp đẽ. Bi ký của Trạng nguyên Nguyễn
Xuân Chính viết đang còn. Năm Minh Mạng thứ hai (1821) triều ta vua ban
cho chùa 20 lạng bạc. Ðến năm Thiệu Trị thứ hai, vua xa giá đến chơi
cúng chùa một đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền kẽm, đổi biển chùa làm
chùa Trấn bắc".
(2) Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a6 nói: "Vào thời Lý, Trần, đặt trấn Vĩnh Khương, ở Từ liêm". Về huyện Từ liêm, Ðại nam nhất thống chí,
tỉnh Hà nội, viết: "Huyện Từ liêm, từ đông sang tây rộng 11 dặm, từ bắc
xuống nam rộng 14 dặm, đông đến huyện Vĩnh thuận một dặm, tây đến địa
giới huyện Ðan phụng 10 dặm, nam đến địa giới huyện Thanh trì, phủ
Thường tín 5 dặ�m, bắc đến bờ sông Nhị hà đối diện với địa giới huyện
Ðông ngạn tỉnh Bắc ninh và huyện An lãng, tỉnh Sơn tây 9 dặm. Ðời Hán là
đất huyện Luy lâu. Ðời Tuỳ đổi làm huyện Giao chỉ. Ðường Vũ Ðức năm thứ
tư (621) cắt ra, đặt tên huyện Từ liêm, rồi đặt Từ châu vì huyện đó có
sông Từ và sông Liêm, nên gọi tên đó. Năm thứ 6 (623) đổi làm Nam Từ
châu. Năm đầu Trinh Quán (627) bỏ châu đó đi, đem ba huyện sáp nhập vào
huyện Giao chỉ thuộc Ðô hộ phủ. Sau phục nguyên tên huyện chưa rõ đời
nào. Ðời thuộc Minh, nó thuộc phủ Giao châu. Ðời Lê Quang Thuận nó thuộc
thống hạt của phủ Quốc oai tỉnh Sơn tây. Năm đầu Gia Long triều ta nhân
theo. Năm Minh Mạng thứ 12 (1832) cải thuộc phủ Hoài đức kiêm lý, gồm
13 tổng, 87 xã thôn sở". Nay là đất huyện Hoài đức, tỉnh Hà tây.
(3) Nhập thất đệ tử, chỉ
người đệ tử đắc ý nhất. Ý nghĩa rút ra từ câu "Do giả thăng đường hỷ, vị
nhập ư thấtgiả" của chương Tiên tiến trong Luận ngữ. Xem Luận ngữ 11 tờ 3b7.
5. ÐẠI SƯ KHUÔNG VIỆT
(1) Tây hồ chí, phần
Ðền miếu, nhân nói về Sóc Thiên vương ghi rằng: "Vương là người ấp Sóc
sơn làng Thường lạc" rồi chú là "nay huyện Kim anh". Chú như thế có lý
hay không? Chúng tôi nghĩ là có lý, vì hai cớ sau. Thứ nhất , trong
truyện của Thiền sư Trí Bảo đời thứ 11 dòng Kiến sơ, thì Bảo ở chùa
"Thanh tước núi Du hỷ làng Cát lợi hy, Thường lạc". Bây giờ, cứ Ðại nam nhất thống chí,
tỉnh Bắc ninh, thì "núi Thanh tước ở tại phía tây huyện lỵ Kim anh 14
dặm, giáp giới huyện An lãng, tỉnh Sơn tây". Núi Thanh tước này, chúng
tôi nghĩ là núi Du hý mà Khuông Việt đã đến dựng chùa, và chùa Thanh
tước mà Trí Bảo ở, rất có thể là do Việt dựng.
Sau này, có lẽ vì
tên Du hý không được nghiêm trang cho lắm, nên người ta đã lấy chùa
Thanh tước, để gọi nó. Chứng cớ thứ hai là cái bia chùa Báo ân tìm thấy
tại xã Tháp miếu, huyện Yên lãng, tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Trong phần ghi
giới hạn ruộng của chùa này, ta có câu: "Ðông cận chí Lợi hy xã vi
giới…phía đông gần đến xã Lợi hy làm giới hạn. Cứ vào đây thì không cần
phải bàn biết ruộng chùa Báo ân lúc đó gồm những gì, ta có thể kết luận
rằng, xã Lợi hy ở phía đông huyện Yên lãng và xã Tháp miếu, nếu xã Lợi
hy đấy là thuộc làng Cát lợi hy của Thường lạc nói trên. Quận Thường lạc
đời Lý như vậy chắc chắn phải bao gồm phần đất của huyện Kim anh ngày
nay.
Ðại nam nhất thống chí,
tỉnh Bắc ninh viết: "Huyện Kim anh ở về phía tây hơi xiên nam của phủ
Thiên phúc 20 dặm, từ đông sang tây rộng 36 dặm, nam xuống bắc rộng 42
dặm, từ huyện lỵ sang phía đông tới địa giới huyện Ðông ngạn phủ Từ sơn
22 dặm, phía tây tới địa giới huyện Yên lãng, tỉnh Sơn tây 14 dặm, phía
nam tới địa giới huyện Ðông ngạn, phủ Từ sơn 9 dặm, phía bắc đến địa
giới huyện Phổ an tỉnh Thái nguyên 33 dặm. Ðầu đời Lê Quang Thuận đặt
gọi là Kim hoa. Năm Thiệu Trị thứ nhất triều ta (1841) cải làm Kim anh,
lãnh 9 tổng 33 xã thôn". Huyện Kim anh ngày nay thuộc tỉnh Vĩnh phúc.
(2) Thọ giới Cụ túc, tức
nhận lấy đầy đủ những kỷ luật chi phối đời sống cá nhân và đời sống tập
thể của tổ chức Phật giáo. Thường thường, những kỷ luật ấy gồm số những
điều luật, mà tùy theo tôn phái và nam nữ, có thể bắt đầu từ khoảng hai
trăm mấy chục giới cho đến 500 giới, dùng cho đời sống cá nhân. Khi một
người nào chịu nhận số những điều luật đó, họ được gọi là Tỳ kheo nếu là
đàn ông, hay Tỳ kheo ni nếu là đàn bà, và họ là những người đã thọ Cụ
túc giới.
(3) Ðại Việt sử lược 1 tờ 17a9 nói: Năm Thái Bình thứ hai (971) đặt phẩm trật cho quan văn quan võ, thầy tu và đạo sĩ". Toàn thư B1
tờ 3b6-8 cũng ghi: Năm Thái Bình thứ 2 bắt đầu định phẩm cho văn võ
Tăng đạo", nhưng còn thêm: "Tăng thống Ngô Chân Lưu được vua ban hiệu là
Khuông Việt đại sư". Cứ vào đây thì cũng có thể thấy, dù cả hai bộ sử
không ghi rõ năm nào Việt được phong làm Tăng thống, ta có thể kết luận
dễ dàng là, Việt phải được phong làm Tăng thống vào chính năm Thái Bình
thứ 2 (971), bởi vì Tăng thống là một chức quan do triều đình thiết lập
trong liên hệ với tổ chức Phật giáo, mà thời Ðinh Tiên Hoàng thì đến năm
(971) mới bắt đầu thiết lập những phẩm trật không những cho các quan
văn vũ, mà còn cho cả tăng sĩ và đạo sĩ, do đó chức Tăng thống của Việt
cũng phải ra đời vào năm đó.
(4) Ðây là lần đầu tiên
chức Tăng thống được nói đến trong lịch sử của nước ta. Về lai lịch chức
này tại Trung quốc, Ðại tống tăng sử lược quyển trung tờ 243a 19b-12
viết: "Về sự bắt đầu của chức này, thì khi nhà Diêu Tần đặt chế độ ở
Quan trung, bèn lập nên Tăng chính để làm người đứng đầu Phật giáo. Khi
nhà Ngụy lên ngôi ở đất Bắc, bèn cải làm Tăng thống để thống lãnh sư
sãi, tuy nêu một tên mới, nhưng chức vụ vẫn giữ. Trong khoảng Hậu Ngụy
Hoằng Thỉ (396-397), Sa môn Pháp quả ở Triệu quận, giới hạnh tinh
nghiêm, mở trường thuyết pháp, vua Thái Tổ trưng làm Sa môn thống… Chức
quan Sa môn thống bắt đầu từ Pháp Quả vậy. Lại có Sa môn Sư Hiền người
Kế tân, vốn dòng vương gia đông du đến đất Lương, rồi lại tới kinh đô,
gặp lúc Phật pháp bị bãi bỏ (440 – 451), bèn tạm làm nghề bốc thuốc để
giữ đạo không đổi. Ðến ngày Phật pháp trùng hưng lại làm Samôn cùng với
năm người bạn. Vua Ngụy (Văn Thành Ðế 452 – 465) tự mình cắt tóc cho Sư,
xuống chiếu cho Hiền làm Tăng thống. Chức quan Tăng thống bắt đầu từ Sư
Hiền vậy. Ðến khi nhà Tùy trùng hưng Phật giáo, thay đổi hoàn toàn
phong tục, mời Tăng Mãnh ở chùa Ðại hưng thiện làm Tuỳ quốc đại thống…
Lại có Sa di Hiệu Thánh, trước ở Lạc dương giữ chức Quốc tăng đồ sau mời
vào Nghiệp,…đổi làm Quốc thống, tức Tăng thống của một nước vậy. Nhà
Tống nhân theo chế độ nhà Ðường, bỏ Tăng thống mà lập Tăng lục".
Ở Trung quốc như vậy, chức
Tăng thống bắt đầu với Sư Hiền khoảng từ năm 452 cho đến đời Ðường thì
bỏ chức đó mà lập nên chức Tăng lục. Ở nước ta Ðinh Tiên Hoàng đã thiết
trí chức Tăng thống, nhưng đồng thời cũng đặt luôn chức Tăng lục, vì năm
971 này, sau khi ban Khuông Việt đại sư cho Tăng thống Ngô Chân Lưu,
thì cùng lúc đã cử Trương Ma Ni làm Tăng lục.
(5) Lịch triều hiến chương loại chí
3 tờ 4b2-3 viết: "Núi Vệ linh ở tổng Kim hoa bàn cứ giữa một số xã,
trước núi có một ngọn hình giống cái lư hương, đầy núi có hàng ngàn cây
tùng xanh biếc, quang cảnh u tịch. Tương truyền (Phù Ðổng) Thiên Vương
phá giặc Ân rồi, đến đó, cưỡi ngựa sắt bay lên trời mà đi mất, để lại
một chiếc áo treo ở cây si. Nay bốn xã xung quanh núi đều phụng thờ.
Miếu ở dưới chân núi, rất có tiếng thiêng".
Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, viết: "Núi Sóc ở xã Vệ linh huyện Kim anh, cũng gọi là núi Vệ linh. Ðịa dư chí
của Nguyễn Trãi nói, sông Thiên đức và Vệ linh Kinh bắc. Vệ linh tức là
núi đó. Tương truyền đó là chỗ Phù Ðổng Vương đánh ngựa bay lên trời,
nay có miếu thờ. Thế núi quanh co, phía trước có một ngọn giống như hình
cái lư hương, cách bên bờ núi, cây cối xanh tốt, quang cảnh u tịch.
Núi Vệ linh như vậy cũng
có tên núi Sóc ở tại huyện Kim anh tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Truyện Thiền
sư Trường Nguyên thuộc đời thứ 10 dòng Kiến sơ của Thiền uyển tập anh nói Nguyên ở tại chùa Sóc thiên vương núi Vệ linh chợ Bình lỗ. Chùa này rất cóthể là chùa do Khuông Việt dựng nên.
(6) Cái tên Bình lỗ xuất hiện xưa nhất trong Toàn thư
B4 tờ 2b4-8 trong trận đánh với nghĩa quân Thân Lợi vào tháng 5 năm
1141. Nhưng phải đợi đến câu nói của Trần Quốc Tuấn rằng: "Ðời Ðinh, Lê
dùng được người tài giỏi, Nam phương mới mạnh, Bắc phương mệt yếu trên
dưới cùng một chí, dân tâm không rã rời, đắp thành Bình lỗ, mà phá quân
Tống", mà Cương mục chính biên 8 tờ 36b2-4 cũng ghi lại, rồi chú về
thành Bình lỗ như : "Thành Bình lỗ, Cựu sử không ghi, chỉ Ðịa dư chí của Nguyễn Trãi chú rằng triều Lý đào sông Bình lỗ để tiện việc đi lại ở Thái nguyên". Nhưng khảo Ðịa dư chí
của Nguyễn Trãi, thì lời chú vừa dẫn không phải do Nguyễn Trãi hay
những người thời ông viết ra. Ngược lại, nó do Nguyễn Thư Hiên của thế
kỷ thứ 18 chép lại từ chính sử. Hiên đậu tiến sĩ năm 1721. Khảo chính sử
tức Toàn thư B3 tờ 12a6 thì trong thời nhà Lý không bao giờ có
việc đào một con sông nào tên Bình lỗ hết. Ngược lại chính vào thời Lê
mới xảy ra việc ấy.
Toàn thư B11 tờ 77a và Cương mục chính biên
18 tờ 14b 4-8 viết: "Năm Thái Hòa thứ 7 (1449) sai tư khấu Lê Khắc
Phục, đốc lĩnh Bách tác chư cục, Tứ sương thiên khai vệ quân và binh dân
trấn Thái nguyên đào sông Bình lỗ từ Lãnh canh đến cầu Phù lỗ thông với
Bình than để tiện việc đi lại ở trấn Thái nguyên". Như vậy, chắc Nguyễn
Thư Hiên đã cứ vào đoạn này để nói tới chuyện nhà Lý đào sông Bình lỗ,
bởi vì về một mặt Toàn thư B3 tờ 12a-6 có ghi là vào "năm Quảng
Hựu thứ 5 (1089) đào sông Lãnh kênh, và mặt khác đoạn vừa dẫn lại bảo
đào sông Bình lỗ bắt đầu từ Lãnh canh. Nói khác đi, theo Hiên và cứ vào
hai đoạn đó thì sông Lãnh kênh cũng là sông Bình lỗ. Vậy sông Bình lỗ là
sông nào? Cứ vào đoạn Toàn thư vừa dẫn, ta phải đào sông Bình lỗ
từ Lãnh canh tới cầu Phù lỗ thông với Bình than. Thế thì cầu Phù lỗ ở
đâu? Ngày nay tại huyện Kim anh, tỉnh Vĩnh Phú ta có một làng tên Phù
lỗ. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, không những xác nhận
có làng tên Phù lỗ, mà còn nói làng này có chợ, gọi là chợ Phù lỗ. Nó ở
huyện Kim anh. Làng này hiện có một con sông chạy ngang qua, đó là sông
Cá lồ. Vậy sông Bình lỗ chắc là sông Cá lồ này, chứ không gì khác. Quận
Bình lỗ từ đó phải gồm phần đất con sông này chảy qua, mà ta có thể
tưởng tượng là rơi vào khoảng huyện Kim anh ngày này.
(7) Theo vũ trụ quan huyền
thoại Phật giáo tiểu thừa thì vũ trụ chia làm ba cõi, đó là cõi có tham
dục, cõi có hình tướng, cõi không hình tướng. Cõi có tham dục hay dục
giới lấy núi Tu di làm trung tâm, và quả đất chúng ta ở về phía nam ngọn
núi ấy, tên là Nam diêm phù đề. Núi đó có bốn tầng. Tầng thứ nhất cho
đến tầng thứ ba là chỗ ở của những loài dạ xoa. Tầng thứ tư là chỗ ở của
bốn vị vua trời hay Tứ Thiên Vương ở tại bốn phương của tầng ấy, mà về
phía bắc thì do vị vua tên Tỳ Sa môn Thiên Vương, tức phiên âm của chữ
vaisravâna, cũng gọi là Ða Văn Thiên Vương. Cuối cùng trên chóp đỉnh tu
di là cõi trời Tam Thập Tam Thiên hay cũng gọi là trời Ðao lợi hay Ðâu
suất, nơi ngự trị của Ðế Thích. Ðế Thích như vậy theo huyền thoại này
cai quản cõi Dục giới. Xem Trường a hàm 20 tờ 39c.
Nhưng tên thần nói đến trong truyện đây là dẫn từ thần thoại vừa kể.
(8) Ðại Việt sử lược
1 tờ 19ab-9: "Năm Thiên phúc thứ nhất (981) mùa xuân tháng ba, Hầu Nhân
Bảo đem quân đến Lãng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến sông
Bạch Ðằng, vua tự làm tướng đem quân chống lại, đóng cọc ngăn sông.
Quân Tống rút lui về giữ sông Ninh, Vua sai quân đánh giả hàng, để dụ
Nhân Bảo lên phía Bắc. Nhân Bảo thua, Bảo bị bắt và chém. Khâm Tộ
v.v…nghe Nhân Bảo thua, rút lui". Toàn thư B1 tờ 14 a1-7 viết:
"Năm Thiên Phúc thứ hai (981) mùa xuân tháng ba Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn
Hưng đến Lạng sơn. Trần Khâm Tộ đến Tây kết, Lưu Trừng đến sông Bạch
đằng. Vua tự làm tướng đem quân chống lại, sai quân sĩ đóng cọc ngăn
sông. Quân Tống rút lui, lại đến sông Chi lăng. Vua sai quân sĩ giả hàng
để dụ Nhân Bảo, nhân thế bắt được Bảo, chém đi. Khâm Tộ v.v…nghe quân
thủy bại, rút quân về. Vua đem các tướng đuổi đánh. Quân Khâm Tộ thua
lớn, chết hơn phân nửa, thây rải đầy đồng, bắt tướng chúng là Quách Quân
Biện và Triệu Phụng Huân đem về Hoa lư". Cương mục chính biên I
tờ 16b5 – 18a1 cũng chép chuyện này. Về sông Chi lăng, nó chú rằng: "Chi
lăng thuộc Ôn châu phủ Trường Khánh là ở đầu địa giới tỉnh Lạng sơn.
Sông Chi lăng là sông của xã Chi lăng".
Xã Chi lăng hiện nay ở về
phía nam huyện Chi lăng tỉnh Lạng sơn, có dòng sông Thương chảy ngang
qua nó ở khúc ải Chi lăng sát dưới chân dãy núi đá vôi có tên Cai kinh,
rồi xuôi dòng xuống sông Lục đầu. Vậy sông Chi lăng của Toàn thư tức là sông Thương ngày nay. Còn sông Ninh của Ðại Việt sử lược là sông nào? Con sông này chắc là sông Chi ninh, vì Toàn thư B1
tờ 30a8-9 ghi chuyện Lê Ngọa Triều cho cột người nơi mạn thuyền, rồi
cho người chèo qua chèo lại để cho cá sấu ăn, ở tại sông Ninh, nhưng Ðại Việt sử lược 1 tờ 21b4 lại ghi sự việc đó xảy ra ở sông Chi Ninh. Vậy nó cũng là sông Hữu ninh, mà Thiền uyển tập anh ở đây nói tới. Chữ chi và chữ hữu tự dạng rất giống nhau, và chữ hữu của bản in Thiền uyển tập anh ngày nay là một bản khắc lộn của chữ chi bởi vì cứ vào đoạn trích của nó trong Việt điện u linh tập
tờ 42 thì nó ghi là Chi giang. Như vậy, sông Ninh là sông Chi ninh, và
cứ những dẫn chứng trên thì nó phải là sông Chi lăng. Sông Chi ninh có
lẽ đến cuối đời Lê vì kỵ húy của Lê Trang Tôn( (1533 – 1548) là Ninh,
nên đã sửa lại là Chi lăng, nhân ở cạnh đấy đã có ải Chi lăng và xã Chi
lăng.
(9) So sánh đoạn này với đoạn trích của nó nhan đề Sóc thiên vương sự tích ký do Nguyễn Văn Chất (1422 - ?) thêm vào trong Việt điện u linh tập tờ 39, mà sau này một "nho sĩ họ Ðoàn" đã chép lại vào quyển thứ ba của Lĩnh nam trích quái truyện tờ 115 vì truyền bản cũ chứa nhiều chữ sai, nên tôi xin phiên âm ra đây để tiện việc đối chiếu:
"Án Thiền uyển tập thơ, tích
Lê Ðại Hành thời, hữu Khuông Việt thái sư bất sỹ, thường nhàn du Bình
lỗ quận Vệ linh sơn, ái kỳ cảnh trí u nhã, dục sáng am cư chi. Nhất nhật
du lãm sơn am, giả mỵ kiến, thân phi kim giáp, thủ chấp kim thương,
tùng giả sổ thiên nhân tự xưng thị Sóc Thiên Vương, quản lĩnh Dạ Xoa
thần linh, phụng Thượng đế mạng, bảo thử thổ hộ phương dân, dự quân hữu
duyên, cố tương kiến sĩ. Thái sư kinh giác, văn sơn trung hát thanh,
nhân nhập thâm sơn, kiến nhất đại mộc phồn mậu, thụy khí khả ái, nải tức
kỳ xứ lập miếu, phạt thủ đại mộc tố thần tượng, như mộng trung sở kiến
giả.
Thiên Phúc niên gian, Tống
binh nhập khấu. Ðại Hành hoàng đế tố văn kỳ sự đảo. Thời Tống binh trú
Tây kết thôn nội, lưỡng quân vị tiếp. Hốt kiến nhất nhân, thân trường
trượng dư, phi phát nộ mục, tùng giang trung xuất, ba đào dũng kích.
Tống binh đại cụ nhi thối. Tống tướng quân Quách Quỳ nãi ban Sư bắc hồi.
Ðại Hành mạng tăng lập từ vũ dĩ tạ chi".
Ðoạn trích trong Việt điện u linh tập,
trừ hai câu cuối cùng mà Nguyễn Văn Chất hay những người sao chép về
sau đã thêm vào một cách sai lầm, tương đối trùng hợp với bản văn của Thiền uyển tập anh. Bản trích của nho sĩ họ Ðoàn trong Lĩnh nam trích quái,
dù dựa vào Nguyễn Văn Chất, đã có nhiều xuất nhập văn cú, đặc biệt là
đoạn về rút quân về giữa Chi ninh giang của tướng Tống. Nó bảo: "Quân
Tống bỗng thấy một người xuất hiện giữa sóng gió, cao hơn mười trượng,
tóc tai dựng ngược lên, trừng mắt mà nhìn, ánh sáng thần chói lọi. Quân
Tống thấy mà khiếp sợ, rút về giữa Chi(nó viết là kỳ) giang".
(10) Ngọc lang quy, màbản đời Nguyễn tờ 5b10 gọi Vương lang quy, là tên Khuông Việt đặt cho bài từ, chứ đúng ra nó phải có tên Nguyễn lang quy, bởi vì thể tài, âm luật và nhạc điệu, của nó hoàn toàn đồng nhất với Nguyễn lang quy . Nguyễn lang quy
chỉ sự từ biệt Ðào Nguyên để trở về trần của Lưu Thần và Nguyễn Triệu.
Chính nó dựa tích đó mà có tên, và từ đấy nó thường là một thứ nhạc từ
tiễn đưa. Theo từ luật 4 tờ 19b2-5 thì âm luật của loại từ Nguyễn lang quy thế này:
x b x t t b b
x b x t b
x b x t t b b
x b x t b
b t t t b b
x b x t b
x b x t t b b
x b x t b
trong b là vần bằng , t là
vần trắc và x là có thể là bằng hay trắc tùy ý. Như vậy bài từ theo
điệu Nguyễn lang quy đúng là có 4 vế, mỗi vế hai câu, mà câu đầu có 7
chữ và sau 5 chữ. Nhưng riêng câu đầu của vế thứ 3 thì chỉ có 6 chữ, nên
tổng cộng số chữ của bài từ loại đấy tất có cả thảy 47 chữ. Bây giờ cứ
vào âm luật vừa nêu, ta thử xét lại bài từ Ngọc lang quy đó các bản chép
lại của Khuông Việt. Bản in đời Lê, đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh đều chép:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương
Cữu thiên quy lộ trường
Nhân tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến tinh tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường
Phân minh báo ngã hoàng.
Toàn thư B1 tờ 18b5 - chép:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Diêu vọng thần tiên phục đế vương
Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lương
Cữu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết đối ly trường
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cường
Phân minh tấu ngã hoàng.
Việt sử tiêu án 1 tờ 70a3-6 chép giống y như Toàn thư, chỉ trừ câu thứ nhất nó chép thiếu chữ quang và câu thứ bảy nó đối hai chữ nam cương thành biên phương. So hai bản chép Thiền uyển tập anh và Toàn thư với bản âm luật nêu trên thì hiển nhiên bản chép của Thiền uyển tập anh tỏ ra dư một chữ, trong khi bản Toàn thư dư đến hai chữ. Xét ra, câu thứ năm của bản Thiền uyển tập anh có đến bảy chữ, trong khi theo luật thì chỉ có sáu chữ thôi, như vậy dư một chữ. Bây giờ, so câu đó với câu tương đương trong Toàn thư thì
quả nó dư một chữ, và chữ đó là chữ nhân. Do đó, sau khi loại bỏ chữ
nhân ra khỏi nó và chúng tôi nghĩ chữ ấy là một diễn tự từ chữ trường đi
trước nó mà ra, bản chép Thiền uyển tập anh tỏ ra hoàn toàn phù hợp với bản âm luật trên. Bản chép Toàn thư ,
ngược lại, đi thêm vào câu thứ hai 2 chữ "diêu vọng", và như vậy câu
đấy có 7 chữ. Chúng tôi hiện chưa truy ra đâu là nguyên do của sự thêm
hai chữ đó. Song cứ vào bản âm luật trên thì chúng dĩ nhiên là không phù
hợp, và không phù hợp ngay cả với bản chép Thiền uyển tập anh. Vì thế, chúng tôi đề nghị nên lấy bản Thiền uyển tập anh, sau khi đã loại bỏ chữ nhân trong câu 5, làm chuẩn cho việc nghiên cứu lịch sử từ và nhạc điệu từ Việt Nam.
Có thể nói bài Ngọc lang quy đây là bài từ xưa nhất thuộc loại Nguyễn lang quy hiện còn, không những của nước ta, mà còn của Trung quốc nữa, bởi vì những bài từ Nguyễn lang quy
xưa nhất hiện còn ghi trong các sách từ như Tống lục thập danh gia từ,
Tuyệt diêu hảo từ thiêm, Từ tổng v.v… là câu Âu Dương Tu và Tô Thức,
Hoàng Ðình Kiên và Yên Cơ Ðạo. Trong Giáo phường ky� tờ 5b7, Tồi Lịnh Khâm có ghi Nguyễn lang mê giữa những tên khúc không lưu hành trong giáp phường đời Ðường. Chúng tôi nghi Nguyễn lang mê đấy là tiền thân của Nguyễn lang quy.
Về nhạc điệu bạch thạch đạo nhân ca khúc 2 tờ 2a8 liệt nó vào loại
lịnh, nhưng đãkhông ghi lại nhạc bản của nó. Cho nên, ngaỳ nay ta khó
biết đích xác nó phải hát như thế nào, dầu có sách nói nó thuộc chính
khúc cung nam lữ v.v…
(11) Toàn thư B tờ
18 a5-b8 viết: "Năm Ðinh hợi Thiên Phúc thứ 8 (987) Tống lại sai Lý Giác
đến san phong. Bấy giờ, vua sai Pháp sư tên Thuận giả làm người chèo
đò, đi đón. Giác rất giỏi văn chương. Lúc ấy, gặp khi có hai con ngỗng
bơi trên mặt sông, Giác vui ngâm:
Ngỗng ngỗng đôi con ngỗng
Ngoảnh mặt ngó ven trời.
Pháp sư đang lúc cầm chèo, cũng tiếp vần đọc:
Lông trắng phơi dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.
Giác càng lấy làm lạ. Ðến khi về tới sứ quán, Giác làm một bài thơ gởi cho Sư rằng :
May gặp thời minh giúp việc vua
Một mình hai đợi sứ Giao châu
Ðông đô đôi biệt dòng lưu luyến
Nam việt muôn trùng ngóng chửa bưa
Ngựa đạp mây mù qua sóng đá
Xe rời núi biếc thả buồm đưa
Ngoài trời còn có trời soi rạng
Sóng lặng khe đầm trăn ngắm thu.
Thuận đem bài thơ dâng cho
vua. Vua mời Sư Ngô Khuông Việt đến xem. Không Việt nói: " Bài thơ này
có ý tôn trọng Bệ hạ cùng với chúa nó không khác". Vua khen ý đó, tặng
thưởng càng nhiều. Giác giã từ trở về, vua xuống chiếu cho Khuông Việt
viết một khúc từ đến tiễn đưa. Bài từ thế này:
"Trời thanh gió thuận buồm gấm trương
Xa ngắm thần tiên về đế hương
Muôn trùng sông núi vượt đại dương
Xa xôi hút dặm đường
Lòng lưu luyến ngỏ ly trường
Cầm tay Sư hỏi han
Nguyện đem thâm ý vì Nam bang
Phân minh tâu thượng hoàng".
Giác vái mà trở về.
Xem thêm Việt sử tiêu án 1 tờ 69b37a6 có chép đủ và y hệt những bài thơ ở đây. Cương mục chính biên 1 tờ 22b7-23a2 của năm Ðinh hợi Thiên Phúc thứ 7 không ghi việc Lý Giác đến san phong cho Lê Ðại Hành. Ðại Việt sử lược cũng thế.
(12) Núi Du hý của quận
Thường lạc này chắc là núi Thanh tước của huyện Kim anh, tỉnh Vĩnh phú
ngày nay. Truyện của Thiền sư Trí Bảo thuộc đời thứ 11 dòng Kiến sơ nói
Bảo ở tại chùa "Thanh tước, tại núi Du hý, làng Cát lợi hy, Thường lạc".
Như vậy, ngay thời Lý đã có chùa Thanh tước tại núi Du hý. Nó có lẽ do
Khuông Việt dựng lên. Ðất quận Thường lạc ngày nay gồm một phần nếu
không là toàn bộ vào huyện Kim anh ngày nay. Ðại nam nhất thống chí,
tỉnh Bắc ninh nói: "Núi Thanh tước ở phía Tây huyện Kim anh cách huyện
lỵ 14 dặm, giáp giới với huyện Yên lãng, tỉnh Sơn tây". Cái tên Du hý có
vẻ không được trang nghiêm lắm, nên có người đã đổi nó thành Thanh
tước, như tên nó ngày nay.
(13) Cứ tiểu sử này thì Khuông Việt được phong làm Tăng thống lúc 40 tuổi. Nhưng theo Ðại Việt sử lược1 tờ 17a10 cũng như Toàn thư B1
tờ 3b7-8 thì đến năm Thái Bình thứ hai, nghĩa là vào năm 971 mới có
việc định phẩm trật của văn võ và Tăng đạo. Cho nên, chức Tăng thống của
Việt không thể phong trước năm 971.
Vậy, Việt phải sinh vào
năm 930. Bấy giờ, nếu Việt mất vào năm Thuận Thiên thứ hai nhà Lý, tức
năm 1011, như thế thì tuổi thọ của Việt, tính theo tuổi Việt nam, tất
phải 82 tuổi. Cả ba bản in triều Lê và Nguyễn đều ghi thọ 52 tuổi, thọ
ngũ thập hữu nhị. Chúng tôi nghĩ chữ "ngũ" chắc chắn là một viết sai của
chữ "bát", một điều rất dễ xảy ra, do thế, đề nghị sửa "thọ ngũ thập
hữu nhị" thành "thọ bát thập hữu nhị" và dịch là "thọ 82 tuổi".
6. THIỀN SƯ ÐA BẢO
(1) Về việc Ða Bảo đến ở
chùa Kiến sơ và có những liên lạc với Lý Công Uẩn, truyện Xung thiên
dũng liệt chiếu ứng uy tín đại vương của Việt điện u linh tập tờ
205 viết: "Xét Báo cực truyện và Thế truyền nói, Vương thần thổ địa chùa
Kiến sơ giáng sanh. Xưa Thiền sư Chí Thành (nghi là Cảm Thành) ở chùa
Kiến sơ tại làng Phù đổng, lập nhà thờ thần thổ địa ở mé bên phải của
chùa làm chỗ thanh tịnh để niệm Phật tụng kinh. Ngày tháng soi mòn, phần
lớn đã làm mất dấu cũ của nó, nên Sa môn thiền sư không do đâu mà biết
được. Thổ nhân ưa thờ quỷ, đốt hương cầu đảo, gọi bậy là dâm từ. Ðến khi
Thiền sư Ða Bảo trùng tu chùa, cho chỗ thờ là dâm từ, muốn phá hủy đi.
Một hôm, tại cây cổ thụ của đền thờ thần hiện một bài thơ đề kệ rằng:
Phật pháp ai hay hộ
Giữ đức tại Kỳ viên
Nếu không ta gây giống
Sớm theo xứ khác thiên
Chớ chở Kim cang bộ
Dấu kín Na la diên
Ðầy trời người như bụi
Chùa Phật thành oan khiên.
Ngày khác, một bài kệ khác lại hiện ra ở đó, thần ứng ra tám câu viết:
Phép Phật từ bi lắm
Oai quang khắp đại thiên
Muôn thần đều hướng hóa
Ba cõi thảy khắp truyền
Thầy ta ra hiệu lịnh
Tà qủy ai dám trên
Nguyện thường theo họ giới
Lớn nhỏ giữ Kỳ viên.
Sư lất làm lạ, bèn lại
thiết đàn trì giới cho thần, cúng dùng đồ chay lạt. Lý Thái Tổ lúc còn
tiềm long, biết Ða Bảo đức hạnh cao thượng, cùng làm đàn việt cho Bảo.
Khi đã nhận ngôi, tự thân đến chơi chùa Bảo. Thiền sư nghênh giá đi qua
bên chùa. Sư lên tiếng hỏi: "Phật tử, ngươi sao không nhanh nhẹn đến
chúc mừng đức tân thiên tử?". Thần ứng thanh, hiện ra nơi da cây bốn câu
rằng:
Ðức kế càn khôn lớn
Oai thanh yên tám miền
Cõi âm nhờ ân huệ
Nhuần thấm phong Xung thiên.
Thái Tổ thấy đọc, rất biết
ý của thần, ban hiệu là Xung thiên thần vương. Bài thơ tự nhiên biến
mất. Vua lấy làm lạ, sai thợ tạc tượng của thần, dung nghi hùng vĩ, và
tướng hầu tám pho. Sơn thếp xong rồi, lại hiện ở dưới đại thụ một bài
thơ bốn câu:
Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn chiếu đuốc
Bóng mất trời lên non.
Sư đem bài kệ trình vua.
Thái Tổ không hiểu nó nói gì. Về sau nhà Lý tám đời thì truyền ngôi cho
nhà Trần. Chữ Bát cùng với chữ Bát giống nhau. Một tám tức như tám. Huệ
Tôn tên là Sám, đấy gọi là "trời lên non". Nó thần diệu như vậy đó.
Truyện Xung thiên chiêu
ứng thần vương của Lĩnh nam trích quái truyện cũng trùng trường hợp như
vừa dẫn, trừ một số những sai khác về văn cú và điểm xuất phát, mà theo
nó thì chuyện này rút ra từ Cổ pháp ký và Kỷ đức ký. Tuy nhiên cứ Toàn thư B4
tờ 34a4-b1 trong lời bàn của Ngô Sĩ Liên về việc nhà Lý mất ngôi thì
nhân vật chính của chuyện không phải là Ða Bảo, mà là Vạn Hạnh. Liên
viết: Thế truyền Lý Thái Tổ lúc mới được thiên hạ, xa giá trở về Cổ pháp
đến thăm chùa làng Phù đổng. Có thần nhân đề thơ trên cột chùa rằng:
Một bát nước công đức
Tùy duyên hóa thế gian
Sáng choang còn soi đuốc
Bóng mất trời lên cao.
Sư Vạn Hạnh đem bài thơ
dâng lên. Lý Thái Tổ xem, nói rằng: "Việc thần nhân không thể hiểu
được". Người đời truyền tụng nó, mà không biết nó nói gì. Ðến khi họ
Lýmất ngôi, mới biết bài thơ quả đúng. Bởi vì Huệ Tôn trở lên đến Thái
Tổ có tám đời, mà Huệ Tôn tên Sám, tức trời lên non thì bóng mất". Như
thế, nhân vật chính của cả truyện trên đúng ra phải là Vạn Hạnh chứ
không phải Ða Bảo. Và cứ vào đấy, thì những bài thơ trên cũng phải là
của Vạn Hạnh. Chúng thực tế có thứ chất thơ phong thủy và sấm truyền của
những bài thơ hiện còn lưu truyền mệnh danh là của Vạn Hạnh. Việt sử tiêu án 1 tờ 128a6-9 cũng ghi lại chuyện Lý Thái Tổ gặp bài thơ vừa nói, nhưng không ghi ai dâng lên.
7. TRƯỞNG LÃO ÐỊNH HƯƠNG
(1) Ðây nói Hương ở chùa
Cảm ứng tại Ba sơn, nhưng truyện của Viên Chiếu dưới nói: " Chiếu đến
học với Ðịnh Hương ở núi Ba tiêu". Vậy, Ba sơn tức cũng Ba tiêu sơn. Có
lẽ vì sự sai khác vừa thấy, bản in đời Nguyễn thay vì có Ba sơn, nó đã
viết Tiêu sơn. Nhưng cứ sử thì Ba sơn và Tiêu sơn cũng là một. Vạn Hạnh
sau khi dựa vào sấm văn để tuyên bố là "nhà Lê đương mất, nhà Lý đương
hưng", thì "Lý Công Uẩn sợ lời nói đó tiết lộ, sai anh mình đem Vạn Hạnh
đi mất". Ðại Việt sử lược 2 tờ 1b3 nói "dấu Vạn Hạnh ở Ba sơn". Song Toàn thư B1 tờ 32a6 thì nói "dấu Vạn Hạnh ở Tiêu sơn". Thì rõ ràng Tiêu sơn của thời Lê trở đi là Ba sơn của thời Lý Trần.
Lịch triều hiến chương loại chí
3 tờ 2a5-6 nói: "Tiêu sơn ở tại xã Tiêu sơn huyện Yên phong, trên có
chùa Trường liêu, triều Lý dựng theo chỗ tu trì của tể tướng Thiền sư
Vạn Hạnh. Lý Thái Tổ đầu thai ở đó". Ðại nam nhất thống chí 38,
tỉnh Bắc ninh viết: "Tiêu sơn ở phía tây nam huyện lỵ Yên phong 14 dặm.
Núi có chùa Thiên tâm và chùa Trường liêu. Mẹ Lý Thái Tổ có lần đến chơi
chùa Tiêu sơn, cùng giao hợp với thần nhân mà sinh ra vua. Quốc sư nhà
Lý là Sư Vạn Hạnh có bài sấm cây bông gạo truyền ra từ nơi đây". Núi
Tiêu sơn như vậy ở tại xã Tiêu sơn, huyện Yên phong tỉnh Hà bắc ngày
nay.
Còn về chùa Cảm ứng, Lịch triều hiến chương loại chí cũng như Ðại nam nhất thống chí
không thấy nói tới. Bộ trước kê ra một chùa tên Trường liêu cho núi
Tiêu sơn. Bộ sau thêm chùa Thiên tâm. Vậy chùa nào là chùa Cảm ứng? Về
chùa Trường liêu, Ðại nam nhất thống chí 39, tỉnh Bắc ninh viết: "Chùa Lục tổ tức là chùa Trường liêu. Sử ky�
nói, Sư Vạn Hạnh trú trì chùa đó, sau mất, Lý Thái Tổ tự thân đến điếu
viếng, dựng đàn siêu độ, cấp dân làm tự đinh, quanh năm cúng thờ". Nhưng
cứ truyện Thường Chiếu tờ 37b7 thì chùa Lục tổ ở tại làng Dịch bảng phủ
Thiên đức, tức làng Ðình bảng, huyện Từ sơn hiện nay. Vậy chùa Ttrường
liêu dứt khoát không phải là chùa Lục tổ. Cứ Cương mục chính biên 2 tờ 7b1 thì chùa Trường liêu tức chùa Tiêu sơn. Còn chùa Thiên tâm, Việt sử tiêu án 1
tờ 77a9-b1 viết: "Nguyên trước, viện Cảm tuyển, chùa Thiên tâm, châu Cổ
pháp có con chó sinh con sắc trắng có lông đen vằn vện có hai chữ
"Thiên tử", người ta bàn cho rằng đó là điềm năm Tuất sẽ sinh ra một
người đại quý.
Vua quả sinh vào năm Giáp Tuất Thái Bình thứ 5" Chuyện này Ðại Việt sử lược 2 tờ 2a5-7 nói xảy ra ở "chùa Ứng Thiên, châu Cổ pháp", còn Toàn thư B2 tờ 1b6-2a1 thì ghi nói tại "viện Cảm tuyển chùa Ứng thiên tâm, châu Cổ pháp". Ngoài ra Toàn thư B2 tờ 1a3 bảo mẹ Lý Công Uẩn thường đến chơi chùa Tiêu sơn, cùng giao hợp với thần nhân mà sinh Uẩn. Việt sử tiêu án 1 tờ 77b6-8 lại dẫn Ngoại truyện, rồi
viết: "Mẹ vua năm tuổi hai mươi, nghèo khổ không chồng, đến nương tựa
vị Sa môn già chùa Ứng thiện, vị Sa môn già cho làm bếp, bèn giả ngủ,
lửa tắt, vị Sa môn bỗng chạm đến, kinh hoảng đứng dậy, trong lòng biết
mình có thai mà sinh ra vua". Cứ vào những dẫn chứng đó thì chùa Tiêu
sơn cũng là chùa Ứng thiên , cũng là chùa Ứng thiên tâm, cũng là chùa
Thiên tâm. Từ đấy ta cũng có thể nói chùa Cảm ứng là nó bởi những sai
khác tên gọi vừa thấy đồng bởi chùa Ứng thiên tâm. Lại có viện Cảm
tuyển, mà chính truyện của Vạn Hạnh của Thiền uyển tập anh viết thành Hàm toại, nên rất có thể tự nguyên ủy người ta thường gọi tắt tên chùa là Cảm ứng.
(2) Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B2 tờ 3a2 nói năm 1010 Lý Thái Tổ "đổi Cổ pháp làm Thiên Ðức". Cương mục chính biên
2 tờ 6b3-6 chú: "Cổ pháp tên châu, từ Ðinh về trước là châu Cổ lãm, nhà
Lê đổi là Cổ pháp, nhà Lý nâng lên làm phủ Thiên đức, đời Trần cải làm
huyện Ðông ngạn, nhà Hậu Lê nhân theo, nay là huyện Ðông ngạn, tỉnh Bắc
ninh ấy vậy". Ðại nam nhất thống chí 38, tỉnh Bắc ninh cũng chép vậy. Nhưng rõ ràng phủ Thiên đức đời Lý không chỉ gồm có huyện Ðông ngạn, bởi vì Thiền uyển tập anh ở đấy nói Ba sơn ở phủ Thiên đức, nhưng Ba sơn ngày nay và thời Ðại nam nhất thống chí
1 ở tại huyện Yên phong. Vậy tối thiểu phủ Thiên đức gồm ngoài huyện
Ðông ngạn ra, còn có huyện Yên phong, và huyện Tiên du nữa.
(3) Châu minh là quê hương
của bốn vị Thiền sư khác ngoài Ðịnh Hương, đấy là Bảo Tính, Minh Tâm,
Cứu Chỉ, và Tín Học. Nó cũng là nơi có chùa Thông thánh, ở đấy Tức Lự đã
sống và dạy dỗ học trò. Theo truyện của Tức Lự thì nó thuộc về phủ
Thiên đức. Truyện của Cứu Chỉ nói Chỉ người Phù đàm, Chu minh. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 1
có ghi một làng tên Phù đàm quê hương của Quách Tán tiến sĩ khoa 1478
và nói Phù đàm thuộc huyện Ðông ngạn, tức huyện Từ sơn, tỉnh Hà bắc hiện
nay. Cứ vào đồng nhất này và cứ vào việc Chu minh rất có thể bao gồm cả
địa phận làng Phù đàm và vài làng kế cận huyện Từ sơn tỉnh Hà bắc hiện
nay.
(4) Nguyên văn: Ðệ tử liễu
thời hoàn đồng vị liễu. Thiền sư Qui Sơn Linh Hựu: "Cho nên Tổ sư nói:
Biết rồi cũng giống như chưa ngộ". Xem Truyền đăng lục 29 tờ 264b25. Xem thêm Long Nha hoà thượng, Cư độn tụng:
Ngộ liễu hoàn đồng vị ngộ nhân
Vô tâm thắng bại tự an thần
Tùng tiền cổ đức xưng bần đạo
Hướng thử môn trung hữu kỷ nhân.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 453 a1-2.
(5) Nguyên văn: "Sùng Hưng Ðại Bảo tam niên Canh dần. Nhưng cứ Ðại Việt sử lược 2 tờ 9a2 và Toàn thư B2
tờ 37b1 thì Canh dần phải nhằm năm Sùng Hưng Ðại Bảo thứ hai, chứ không
phải thứ ba. Chữ tam chắc chắn là một viết lộn của chữ nhị, chỉ cần
thêm một nét thôi. Chúng tôi dịch theo đề nghị sửa sai này.
(6) Ðồng An Sát thiền sư. Thập huyền đàm:
Diệu thể bản lai vô xứ sở
Thông thân hà cánh hữu tung do.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455b9-10.
(7) Về ý và từ, rýt ra từ
định nghĩa Không Không trong Ðại trí độ luận. "Những gì là Không Không?
Trả lời: Tất cả mọi vật đều Không, cái Không ấy cũng Không nên gọi là
Không Không"
(Hà đẳng vi Không Không? Nhất thiết Pháp Không thời Không diệc Không, thị danh Không Không).
Ðại trí độ luận còn định
nghĩa thêm: "Không Không là đem Không mà phá vỡ nội Không, ngoại Không
phá ba Không đó gọi là Không Không" (3) Xem Ðại trí độ luận 31 tờ 287c24-27
8. Thiền sư Thiền lão
(1) Thiền Lão đúng ra phải
có tên là Thiền Nguyệt. Xem chú thích (2) truyện Lý Thái Tôn. Nhưng có
lẽ vì tôn trọng Nguyệt nên chỉ xưng Thiền Lão, rồi sau thành quen. Nhưng
cũng có thể tránh húy Nguyệt của Thiện Ðạo quốc mẫu.
(2) Núi Thiên phúc này là
một ngọn của núi Tiên du, bởi vì truyện của Ðạo Huệ ở tờ 23b5 nói Huệ ở
"chùa Quang minh, núi Thiên phúc, Tiên du", nhưng truyện của Cứu Chỉ ở
tờ 16b7 nói Chỉ "vào ở chùa Quang minh núi Tiên du". Thì núi Thiên phúc
là núi Tiên du, tức núi Lạn kha hay núi Phật tích ở xã Phật tích huyện
Tiên du, tỉnh Hà bắc hiện nay. Có lẽ, cái tên Thiên phúc bắt đầu xuất
hiện lúc Lý Thái Tôn xây viện Thiên phúc ở núi Tiên du, mà Toàn thư B2 tờ 29b7 ghi lại vào năm 1041.
(3) Từ sơn đây chắc là Tư
sơn khắc sai vì tự dạng giống nhau. Hiện tượng này xảy ra nhiều lần
trong bản in này. Ngoài ra cứ truyệ�n của Thiền Lão thì Lão không ở nơi
nào khác "chùa Trùng minh núi Thiên phúc, Tiên du".
(4) Tham chiếu câu trả lời của Toàn Phó trong Truyền đăng lục. Có người hỏi Phó: " Hoà thượng tuổi nhiều ít?" Phó trả lời:
"Thỉ kiến khứ niên cửu nguyệt cửu
Như kim hựu kiến thu điệp hoàng"
(Mới thấy năm qua chín tháng chín
Mà nay lại gặp lá thu vàng.)
Xem Truyền đăng lục 12 tờ 297b20-21
(5) Thúy trúc hoàng hoa.
Cách ngữ của thiền nhằm chỉ chân lý không nằm đâu xa, nó nằm ngay trước
mặt, ý nghĩa rút từ câu nói của Thiền sư Ðại Châu Huệ Hải: "Trúc biếc
xanh xanh, đều là pháp thân, hoa vàng dờn dợn, chẳng gì là chẳng phải
Bát nhã". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c15.
(6) Cứ vào đây thì hình
như Thiền Lão phải viên tịch dưới thời Lý Thái Tôn. Nhưng truyện của
Quảng Trí ở tờ 18a9-10 nói: "Năm đầu Chương Thánh Gia Khánh (1059) Sư bỏ
đời đến tham học với Thiền Lão ở Tiên du", thì rõ ràng Lão không thể
viên tịch dưới triều Lý Thái Tôn được, bởi vì Chương Thánh Gia Khánh là
niên hiệu của Lý Thánh Tôn. Lý Thái Tôn mất năm 1054.
9. Thiền sư Viên Chiếu
(1) Tức huyện Thanh trì. Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 28b2 nói: "Huyện Thanh trì, xưa gọi là Thanh đàm" Ðại nam nhất thống chí,
tỉnh Hà nội, nói: "Huyện Thanh trì xưa là châu Long đàm thuộc phủ Giao
châu, Lê Quang Thuận đổi lại cho lệ thuộc vào phủ thống hạt. Ðời Trung
Hưng tránh tên húy mới đổi là Thanh trì". Phương đình địa dư chí 5 nói:
"Huyện Thanh trì xưa là Long đàm nhà Minh đổi làm Thanh đàm thuộc châu
Phúc yên, Lê Trung Hưng đổi làm Thanh trì, lại đổi chữ Thanh ba chấm
thủy thành chữ Thanh không có ba chấm thủy, lĩnh mười hai tổng, 100 xã
thôn sở". Hoàng minh thực lục ghi: "Ngày mồng một Quí tị tháng sáu năm
Vĩnh lạc thứ năm (1407) đổi huyện Long đàm xưa ra làm Thanh đàm". Lịch triều hiến chương loại chí
2 tờ 28b2 viết: "Huyện Thanh trì xưa gọi là Thanh đàm, đời Lê Trung
Hưng vì tránh húy của Thế tôn (là Ðàm) cải làm Thanh trì". Nay là huyện
Thanh trì, tỉnh Hà đông.
(2) Phúc đường vì bao gồm
Long đàm, tức phải gồm huyện Thanh trì và một số huyện khác, mà trong đó
rất có thể nhất là huyện Thượng phúc ngày nay. Cái tên Phúc đường cho
đến thời Trần vẫn còn dùng. Thầy của Tuệ Trung Thượng Sỹ là Tiêu Diêu,
quê quán ở Phúc đường. Thượng sĩ ngữ lục tờ 31b7-32a3 còn chép một bài thơ của Tuệ Trung tả cảnh vật Phúc đường, nhan đề Phúc đường cảnh vật:
Phúc đường cảnh trí đã sum vầy
Nhờ ngọn gió thiền mát mẻ vây
Lơ thơ dậu đổ măng gầy mọc
Vắng vẻ sân sâu thông dại đầy
Chưa nhằm lúc thới người hiền hiện
Hãy thích rừng sâu thú quý đây
Sớm muộn trời già khai Phật nhật
Mận đào khắp ngõ ánh xuân say.
(3) Tức là mẹ của Lý Thánh Tôn. Ðại Việt sử lược
2 tờ 11a1 viết: "Long Thụy Thái Bình năm thứ nhất (1054) tôn mẹ Mai Thị
làm Linh Cảm thái hậu". Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt (Viện Ðại
học Vạn Hạnh xuất bản, 1966, tr 422 và 432) vì không nhận ra điều vừa
dẫn tưởng lầm Linh Cảm thái hậu là Linh Nhân thái hậu, nên đã hai lần
viết "Sư Viên Chiếu cháu Thái hậu Linh Nhân" hay "Sư Viên Chiếu là con
anh thái hậu Ỷ Lan". Thực ra, Ðại Việt sử lược là cuốn sử duy nhất nói thái hậu
Linh Cảm là mẹ của Lý Thánh Tôn. Các cuốn sử khác như Toàn thư B2 tờ 39b1 và Cương mục chính biên 3 tờ 21a1 thì ghi: "Tôn mẹ Mai Thị làm Kim Thiên hoàng thái hậu". Ðại Việt sử lược là một cuốn sử đời Trần ghi là thái hậu Linh Cảm, thì không biết Toàn thư đã lấy cái tên Kim Thiên hoàng thái hậu từ đâu?
(4) Truyện của Nguyện Học ở
tờ 35b7 có nói Học "nhỏ theo học với Viên Trí chùa Mật nghiêm". Nhưng
Viên Trí chùa Mật nghiêm này tất không phải là vị trưởng lão chùa Mật
nghiêm ở đây, bởi vì Nguyện Học mất năm 1175 thì dù Học có sống tới 95
tuổi đi nữa, Viên Trí bấy giờ mới là người cùng thế hệ với Viên Chiếu mà
thôi. Chiếu sinh năm 999 và mất năm 1090. Do thế, vị trưởng lão chùa
Mật nghiêm ở đây rất có thể là thầy của Viên Trí.
(5) Tức ba phép tu thiền
định kê ra trong kinh Viên giác nhằm đạt được sự giác ngộ hoàn toàn, đây
là samatha (Phạn: samatha), tam ma bạt đề (samàpatti) và thiền na
(dhyàna). Samatha nguyên nghĩa nó là dừng nghỉ, nghĩa là, làm cho tâm
hồn tán loạn, dừng nghỉ lại một chỗ. Do sự thanh trừng các ý niệm sai
lầm và hiểu được sự vọng động của các thức, "trí tuệ thanh tịnh phát
sinh, thân tâm khách trần theo đấy mà mất hẳn, từ đó bên trong cảm thấy
tĩnh tịch nhẹ nhàng. Do sự tịch tĩnh đó nên tâm của các Như Lai ở trong
mười phương thế giới được hiện rõ như bóng ở trong gương. Phương tiện đó
gọi là sa ma tha". Samàpatti nguyên nghĩa là để vào một nơi, tập trung
vào một chỗ, nghĩa là "đem cái tâm giác ngộ thanh tịnh, hiểu biết rằng
tâm tính và căn trần đều do huyễn hóa mà dấy lên các huyễn để trừ huyễn,
biến ra các huyễn để phơi bày mọi thứ huyễn, nên bên trong phát ra lòng
đại bi nhẹ nhàng. Phương tiện đó gọi là tam ma bát đề". Dhyàna nguyên
nghĩa là suy nghĩ, chiêm nghiệm nghĩa là, "biết rõ rằng thân tâm đều trở
ngại vì không biết sự giác ngộ sáng suốt là không dựa vào các thứ ngăn
che, vĩnh viễn vượt qua được thế giới có ngăn che và không ngăn che,
phiền não và niết bàn cũng không còn vướng mắc nhau, thì niềm nhẹ nhàng
tịch diệt phát ra bên trong phương tiện đó gọi là thiền na". Xem Ðại
phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh ÐKT 842 tờ 917c14 tờ
918a4.
(6) An nam chí nguyên
3 tờ 209 dẫn đoạn này: "Thiền sư Viên Chiếu là vị sư huyện Thanh Ðàm
thông minh hiếu học, nghiên cứu Thiền tôn. Một hôm nằm mộng thấy Bồ tát
Văn Thù đem dao đến mổ bụng súc ruột dùng thuốc rịt lại. Từ đó những gì
đã học trong lòng trở thành rõ ràng như đã từng biết. Về sau tôn phong
của Sư nổi lớn". Xem thêm Ðạo giáo nguyyên lưu quyển thượng tờ 16a4-5.
(7) Ngôn ngữ tam muội này,
tức là một tên khác của Phân biệt chư pháp cú tam muội, một trong 108
thứ tam muội do Ðại phẩm bát nhã dẫn ra, mà Ðại trí độ luận giải thích
thế này: "Chứng được thứ tam muội đó thì có thể phân biệt hết ngôn ngữ
văn tự của tất cả các pháp, giảng thuyết cho chúng sanh không vướng mắc
trở ngại". Xem Ðại trí độ luận 17 tờ 400c 28-29.
(8) An nam chí lược 15 tờ 147 dẫn đoạn này, rồi bảo là từ Tham đồ hiển quyết. Nó viết: " Thiền sư Mai Viên Chiếu thường viết Tham đồ hiển quyết, đại khái nói rằng: "Một hôm đang ngồi trước nhà, bỗng có một vị sư đến hỏi: "Phật với Thánh, nghĩa ấy thế nào?"
Chiếu đáp: "Cúc trùng dương dứơi dậu
Oanh thục khí đầu cành.
Sách ấy phần lớn gồm những lời như vậy".
Cứ vào đâu nói "Sách ấy
phần lớn gồm những thứ đó" của Lê Tắc, ta có thể kết luận rằng tất cả cơ
duyên thoại ngữ trong truyệ�n này đều rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không là toàn bộ Tham đồ hiển quyết, mà các tác giả Thiền uyển tập anh đã chép vào đây. Chúng tôi nghĩ rằng, nó rất có thể là toàn bộ, bởi vì so với phần Ðối cơ của Thượng sĩ ngữ lục, số thoại ngữ dẫn ra đây lên tới đến 180 câu hỏi đáp, trong khi của Thượng sĩ ngữ lục chỉ tới 96 câu mà thôi, thì cũng đủ thấy nó đã đầy đủ tới mức nào . Dầu một phần hay toàn bộ, ta có thể nói rằng Tham đồ hiển quyết là tác phẩm văn học và tư tưởng xưa nhất của đời Lý được bảo tồn dưới một dạng hình trọn vẹn.
(9) Bồ Ðề Ðạt Ma chín năm
bích quán trên Thiếu thất. Phật Thích Ca 20 ngày trầm mặc tại Ma Kiệt
đà. Ở đây muốn nói đến mật chỉ của Phật và Tổ. Lâm Khê Kỉnh Thoát hoà
thượng, nhập đạo thiển thâm tụng:
Thiếu thất dữ Ma kiệt
Ðệ đại xưng dương hử
Ngã kim vấn nhữ đồ
Thủy tác tương lai chủ.
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 454 a21.
(10) Càn tượng và Khôn duy
là những từ lấy ở Chu Dịch, thiên Hệ từ thượng:"Trời cao đất thấp, định
ra càn và khôn. Ở trên trời thành nên tượng, ở dưới đất tạo nên hình,
biến hóa mà hiện ra". Xem Chu dịch 7 tờ 1a3-7. Những từ đấy dùng để chỉ
trời đất. Từ Nhạc Hoài là để chỉ núi sông. Nhạc tức là Ngũ nhạc, tức năm
ngọn núi lớn của Trung quốc, đây tượng trưng cho tất cả núi. Hoài tức
sông Hoài, đây chỉ cho tất cả sông.
(11) Ý� và tứ rút từ hai câu của Ðường Thái Tôn tặng cho Tiêu Vũ:
Tật phong tri kỉnh thảo
Bản đảng thức thành thần.
Xem Tân đường thơ 101 tờ 2a9-10. Trong Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi dịch:
"Khi bão mới hay là cỏ cứng
Thuở nghèo thì biết có tôi lành."
(12) Có người hỏi Thiền sư
Viên Chiếu: "Một tạng tròn sáng, thì thế là gì?" Chiếu đáp: "Nhọc người
xa đến". Hỏi: "Thế thì chẳng phải là một tạng tròn sáng sao?". Chiếu
đáp: "Xin uống một chén trà". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367c13-15.
(13) Có người hỏi Thiền sư
Ấn Xương: "Khi không chịu bàn bạc thì sao?" Xương đáp: "Thì đến mà làm
gì?". Hỏi "Ðến cũng không bàn bạc". Ðáp: "Ðến suông cũng ích gì?" (Không
lai hà ích). Xem Truyền đăng lục 20 tờ 363b 15-17.
(14) Có người hỏi Thiền sư
Ðại Châu Huệ Hải: Pháp thân và Bát nhã là gì? Hải đáp: "Xanh xanh trúc
bíêc đều là pháp thân, dờn dợn hoa vàng chẳng cái nào là chẳng Bát nhã".
Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247c15.
(15) Ðông a, nơi ông già
hẹn gặp Trương Lương sau 13 năm. Trương Lương là bầy tôi nước Hàn. Khi
Tần Thỉ Hoàng thống nhất Trung quốc, Lương muốn báo thù cho nước, nhưng
không có cách n ào thành công. Môt hôm gặp một ông già trên cầu. Ông
đánh rơi chiếc dép xuống cầu và bảo Lương đi lượm. Lương dầu tức giận,
vẫn làm theo lời ông. Sau ông trao bí quyết cho Lương và dặn Lương sau
13 năm đến gặp ông ở Cốc thành. Bùi Ân chua Cốc thành ở huyện Ðông a.
Xem Sử ky� 55 tờ 2b2-4.
(16) Dã Hiên, tên một vị Thiền sư . Những tài liệu Phật giáo và Thiền tôn Trung quốc không ghi một ai có tên như vậy cả. Trong Thượng sĩ hành trạng do Trần Nhân Tôn viết và in ở Thượng sĩ ngữ lục
tờ 40a4-5, Trần Nhân Tôn nói rằng trong khi để tang mẹ mình thì có yêu
cầu Tuệ Trung "giảng hai lục Tuyết đậu và Dã hiên". Tuyết đậu lục là của
Thiền sư Trùng Hiển ((980-1052). Còn Dã hiên lục của ai, thì nay ta
không rõ. Rất có thể là tác phẩm của một Thiền sư Việt nam. Nếu Dã Hiên
là một Thiền sư Việt nam thì ông phải sống trước thời Viên Chíêu, tức
trước năm 999.
(17) Kim Cốc, nơi Thạch
Sùng, người giàu nhất đời Tấn, xây dựng lâu đài cực kỳ tráng lệ xa hoa
và là nơi ái thiếp của Sùng là Lục Châu tự tử, hiện ở phía tây bắc huyện
Lạc dương, tỉnh Hà nam. Xem Tấn thư 3 tờ 10b7-13a4.
(18) Long nữ hiến châu.
Ðiển một người con gái dâng châu cho Phật trên hội Linh sơn và thành
Phật ngay sau đó. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 12, phẩm Ðề Bà Ðạt Ða tờ
3a-b. Xem thêm Hoà thượng Ðan Hà, Ngoạn châu ngâm:
Long nữ Linh sơn thân hiến Phật
Bần nhi y hạ kỷ ta đà.
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 463b25.
Ðàn na, phiên âm chữ phạn dàna, nghĩa là bố thí.
(19) Lao nhi vô công. Chữ
lấy từ thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu: "Cầu chi kỳ bản, kinh
tuần nhi đắc, cầu chi kỳ mạt, lao nhi vô công." (Tìm cái gốc nó thì qua
tuần tất có, tìm cái ngọn nó thì nhọc mà vô ích). Xem Lã thị xuân thu 14
tờ 3a8, thành ngữ Lao nhi vô công cũng thường dùng trong Phật giáo để
chỉ việc tu Thiền mà không kiêm tu Tịnh độ.
(20) Có người hỏi Thiền sư Âu chương:
"Thế nào là: Một vầng trăng treo
Muôn nước đều thấy"
Chương đáp: "Khó nói với kẻ nhắm mắt". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367b 23-24.
(21) Thí dụ chiếc thuyền, rút ra từ kinh Kim cang:
"Nên biết rằng Ta nói pháp
cũng như thí dụ về chiếc thuyền". Xem Kim cang kinh tờ 749b10. Vĩnh Gia
Huyền Giác, Quán tâm thập môn:
Nhiên độ hải ưng thượng thuyền
Phi thuyền hà năng độ?
(Nhưng qua biển phải lên thuyền,
Không thuyền sao qua được?)
Xem Truyền đăng lục 5 tờ 242a18-19
(22) Tùy lưu thỉ hoạch diệu lý. Từ và ý rút ra từ bài kệ truyền pháp của Ma Noa La, tổ thiền thứ 22 ở Ấn độ:
Tâm tuỳ vạn cảnh chuyển
Chuyển xứ thật năng u
Tùy lưu nhận đắc tánh
Vô hỷ phục vô ưu
Xem Truyền đăng lục 2 tờ 214a 24-25
(23) Ðiển Kinh Kha đi sứ
Tần trong Chiến quốc sách. Thái tử nước Yên và khách khứa tiễn Kinh Kha
đến sông Dịch. Cao Tiệm Ly đánh đàn, Kinh Kha tiến mà ca:
"Gió vi vu hề sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ một đi hề không trở về"
Xem Chiến quốc sách 31 tờ 5b10-11
(24) Thí dụ vàng quặng của
kinh Viên giác: "Thiện nam tử, như luyện quặng vàng, vàng không phải do
luyện mà có. Khi đã thành vàng rồi thì không trở lại làm quặng nữa,
trải qua thời gian vô cùng, tính vàng vẫn không hoại mất". Xem Ðại
phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh tờ 915c17-18.
(25)Ðiển của Tề Văn 4 trong Chiến quốc sách
và của thiên Thuyết lâm trong Hàn phi tử. Tỉnh Quách Quân nước Tề muốn
xây thành Tiết. Có nhiều người can ngăn nên dặn kẻ gác cửa, hễ ai xin vô
để can ngăn thì đừng cho vô. Có người nước Tề xin vô để nói ba tiếng
thôi, rồi chết cũng đành. Quách Quân cho vô. Người khách chỉ nói lớn ba
tiếng "Biển cá lớn", rồi vọt chạy. Quách Quân ngạc nhiên cho gọi lại.
Người khách mới giải thích ba chữ đó có nghĩa gì. Quách Quân mới thôi
xây thành Tiết. Xem Chiến quốc sách 8 tờ 1b2a và Hàn phi tử 8 tờ 5b-6a.
(26) Ðiển của Tề Văn 2 trong Chiến quốc sách.
Nước Sở có hai người thi vẽ rắn để uống rượu. Một người vẽ xong trước
lại vẽ rắn thêm chân. Người vẽ xong sau không chịu, cho rằng rắn không
có chân, rồi giựt ly rượu mà uống. Xem Chiến quốc sách 9 tờ 2b-3a.
(27) Thiền sư Thanh Lâm:
Tử xà dương đại lộ
Khuyết tử mạc đương đầu
(Rắn chết giữa đường lớn
Xin ông chớ đương đầu)
Xem Vạn tùng lão nhân bình xướng Thiên Ðồng Giác hoà thượng lụng cổ thung dung am lục 4 tắc 5 tờ 264a26-c6.
(28) Hứa Chân Quân, tên
tục là Hứa Tốn làm quan lịnh Tinh dương đời Bắc ngụy. Theo truyền
thuyết, ông sau theo đạo thần tiên và bay lên trời, đến đời nhà Triệu
Tống thì được phong là Thần công diệu tế chân quân. Cái tên Hứa Chân
Quân do thế mà có. Xem Nguỵ Thư 46 tờ 2b8 và Thái Bình quảng ký, Thần
tiên 14.
(29) Hải tạng, chỉ đạo
Phật trong kinh điển hay tất cả kinh điển đạo Phật. Tào khê, chỉ cho
Thiền phái. Phật Quả tham bái Chân Giác Thắng. Thắng chích cánh tay chảy
máu rồi nói: "Ðây là một giọt Tào khê". Xem Tục truyền đăng lục 25 tờ 634a5.
(30) Bất dị kim thời, đặc
ngữ của Thiền chỉ cho việc sau khi giác ngộ không khác gì lúc chưa giác
ngộ. Hoà thượng Bảo Chí, Thập nhị thời tụng:
Giả sử tâm thông vô lương thì
Lịch kiếp hà tằng dị kim nhật
(Giả sử lòngthông từ vô thỉ
Nhiều kiếp sao tằng khác hôm nay).
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 450b16-17.
(31) Thiền sư Minh Giác
thượng đường, có vị sư hỏi: "Sờ sờ ở khoảng mắt lòng, mà tướng không thể
thấy, rành rành trong vòng sắc trần mà lý không thể phân. Ðã ở trong
khoảng mắt lòng sao lại không thấy tướng của nó? (Chiêu chiêu ư tâm mục
chi gian, nhi tướng bất khả đổ. Hoảng hoảng tại sắc trần chi nội nhi lý
bất khả phân. Ký ư tâm mục chi gian, vi thập ma bất đổ kỳ tướng?)
Xem Minh giáp ngũ lục tờ 760a4.
(32)Thiền sư Ðồng An Sát, Thập huyền đàm, "hồi cơ":
Niết bàn thành lý thượng do nguy
Mạch lộ tương phùng một định kỳ
Quyền quải cấu y vân thị Phật
Khước trang trân ngự phục danh thùy
Mộc nhân dạ bán xuyên ngoa khứ
Thạch nữ thiên minh tải mạo qui
Vạn cổ bích đàm không giới nguyệt
Tái tam lao lộc nãi ưng tri.
(Niết bàn thành ấy vẫn còn nguy
Ðường phố gặp nhau chẳng hẹn kỳ
Giả mặc đồ dơ tên gọi Phật
Nếu mang áo ngự gọi tên gìn
Nữa đêm người gỗ mang giày mất
Vừa sáng gái trơ đội mũ về
Ðầm biếc ngàn xưa trăng luống giọi
Ba lần mò mẫm mới hay ri).
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 455c5-8
(33) Long Ðàm Sùng Tín hỏi Ðạo Ngô: "Làm sao để quyết chắc?"
Ngô nói: "Nhiệm tính tiêu diêu
Tuỳ duyên phóng khoáng"
(Tiêu diêu mặc tính
Phóng khoáng tùy duyên)
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 313b21-22.
(34) Ðiển rút từ thiên Ngũ
đồ trong Hàn Phi Tử. Nước Tống có người làm nông gặp một con thỏ chạy
vấp phải một gốc cây mà chết. Anh đem về làm thịt ăn. Hôm sau anh ra
đồng, bỏ cả cày bừa, đến gốc cây ngồi đợi một con thỏ khác. Thỏ khác đã
không được, mà còn bị cả nước Tống cười. Xem Hàn phi tử 19 tờ 1a-b.
(35) Nang trung bảo, từ
rút ra từ khác phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký của kinh Pháp hoa, nhằm chỉ
cho Phật tánh sẵn có trong mọi người. Thơ của Thiền sư Ðỗ Lăng Úc:
Ngã hữu thần châu nhất khỏa
Cửu bị trần lao cơ tỏa
Kim triêu trần tịnh quang sanh
Chiếu kiến sơn hà vạn đóa.
(Ta có ngọc thần một quả
Lâu bị bụi phần phủ xoá
Sáng nay bụi sạch sáng ra
Soi thấu sơn hà muôn đóa).
Xem Tục truyền đăng lục 13 tờ 547b8-9
(36) Có người hỏi Âu Chương: "Bỗng nhiên không mây, thì trăng trung thu ra sao?". Chương đáp: "Tốt nhất là không mây". Xem Truyền đăng lục 20 tờ 367b 22-23
(37) Ðiển lấy từ thiên Ðạo
chích của Trang Tử. Vỹ Sinh có hẹn với một đứa con gái dưới cầu. Người
con gái ấy không đến. Nước sông dâng lên. Vỹ Sinh ôm cột cầu mà chết.
Xem Trang Tử 9 tờ 21a2-3.
(38) Một pháp hay nhất pháp, nếu muốn cho đủ thì phải nói:
"Thật tế lý địa
Bất thọ nhất trần
Phật sự môn trung
Bất xả nhất pháp".
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 269b 17-18.
(39) Tổ Long, một biệt
hiệu của Tần Thỉ Hoàng, hâm mộ thuật trường sinh, sai Ðạo sĩ Từ Phúc,
cũng có tên là Từ Thị, dẫn một ngàn đồng nhi ra biển đông tìm Bồng lai
vào năm 217 trước tây lịch. Bồng lai đâu không thấy, mà bảy năm sau, Tần
Thỉ Hoàng chết. Và họ chẳng bao giờ trở về. Xem Sử ky� 6 tờ 14a11 và 21a8.
(40) Có người xin Diên Chiểu "Chặt đứt cội gốc"
Chiểu đáp: "Ít gặp khách sâu mũi
Nhiều trạm người khắc thuyền"
Hỏi: "Chính vào lúc đó thì sao?"
Chiểu đáp: "Rùa mù gặp gỗ đầu yên ổn
Cây héo sinh hoa vật ngoại xuân".
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 303a10-13
(41) Có người hỏi Thiền sư
Huệ Thanh: "Xưa Phật chưa ra đời thì như sao?". Thanh đáp: "Ngàn năm
gốc cà ấy" (Thiên niên già tử căn). Xem Truyền đăng lục 12 tờ 297c18-19.
(42) Thiền sư Văn Ích, Văn ích tụng:
Ma ni bất tuỳ sắc
Sắc lý vật ma ni
Ma ni dự chứng sắc
Bất hiệp bất phân ly
(Ma ni không theo sắc)
Trong sắc chẳng ma ni
Ma ni cùng các sắc
Không hiệp không phân ly)
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 454b19.
(43) Hồ Tăng Nhãn. Bồ Ðề
Ðạt Ma thường được các môn đệ thiền gọi là Bích nhãn hồ tăng, "thầy tu
Hổ mắt xanh". Xem Bích nham lục 5 tắc 47 tờ 183b18-19.
(44) Ðiển rút từ thiên Hoà
thị của Hàn phi tử. Biện Hòa người nước Sở được ngọc phác, dâng Lệ
Vương, bị chặt hết một chân, vì Lệ Vương cho là dối, sau lại dâng vua kế
vị là Vũ Vương, lại bị chặt một chân nữa cũng cùng lý do. Xem Hàn phi
tử 4 tờ 10b5-13.
(45) Xúc mục bồ đề, nhìn
bất cứ đâu cũng thấy là giác ngộ cả. Thạch Sương Khánh Chư tham kiến Ðạo
Ngô, hỏi: "Thế nào là xúc mục bồ đề?". Ðạo Ngô gọi sa di. Sa di đáp:
"Dạ". Ðạo Ngô nói: "Thêm nước vào tịnh bình".
Xem Truyền đăng lục 15 tờ 320c11 và Minh giáo ngữ lục tờ 675a18.
(46) Dẫn Vĩnh Gia Huyền Giác, Chứng đạo ca:
Phần cốt tuỷ thân vị túc thù
Nhất cú liêu nhiên siêu bách ức
(Nát thịt tan xương chưa đủ đền
Một câu rõn được vượt muôn ngàn).
Xem Vĩnh gia chứng đạo ca ÐTK 2014 tờ 316c21.
(47) Duy thử nhất sự thật, dư nhị tắc phi chân. Câu rút ra từ phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nhằm nói chỉ một Phật thừa duy nhất là sự thật, hai thừa kia, tức Thanh văn thừa và Duyên giác thừa, chỉ là sự quyền biến. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 8a.
(48) Nguyên văn: "Nhất nhân hướng ngung lập
Mãn tòa ẩm bất hoan.
Nhưng cứ vào xuất xứ của từ và ý của hai câu này, chúng ta phải đọc:
"Nhất nhân hướng ngung khấp
Ðộc hướng ngung dĩ yểm lệ".
Và dịch theo cách đọc ấy. Bởi vì trong bài Sênh phú, Phan Nhạc có viết câu:
"Chúng mãn đường nhi ẩm tửu
Ðộc hướng ngung dĩ yểm lệ".
Lý Thiện chú thích nó thế
này: "Thuyết uyển nói: Người xưa cho thiên hạ giống như một nhà. Nay cả
nhà uống rượu, mot� người riêng bỗng nhiên ngoảnh mặt khóc thì người
trong nhà đều không vui". (Thuyết uyển viết: Cổ nhân ư thiên hạ nhất chí
đường thượng, kim hữu mãn đường ẩm tửu, hữu nhất nhân độc sách thiên
hướng ngung khấp, tắc nhất đường chi nhân giai bất lạc). Xem Văn tuyển
Lý Thiện chú 18 tờ 17a 2-4. Xem thêm Thuyết uyển 5 tờ 2a 10-17. Chúng
tôi dựa vào xuất xứ đây, để đề nghị cách đọc và dịch trên.
(49) Việc lớn hay đại sự tức đại sự nhân duyên, mà phẩm Phương tiện của kinh Pháp hoa nói tới, đây là mở bày cho chúng sanh con đường để đi vào tri kiến giác ngộ. Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 7a21.
Tây lai ý, chỉ cho sự mật truyền của Bồ Ðề Ðạt Ma.
(50) Dẫn chữ từ thiên Học
nhi của Luận ngữ: "Xảo ngôn lịnh sắc, tiện hỷ nhân". (Kẻ khéo nói, đẹp
mặt, thường ít có lòng nhân). Xem Luận ngữ 1 tờ 1b8 và 17 tờ 6b7.
(51) Nguyên văn: Toản quy đả ngõa nhân. Về từ "Toản qui" xuất xứ của nó từ phần Quy sách trong Sử ky�
128 tờ 4a7-8. Theo đó thì "Bậc vương giả ra quân làm tướng tất phải
toản qui trên miếu đường, để giải quyết việc tốt xấu". Lời chua của
Dương Kinh trong thiên Vương chế của Tuân Tử 5 tờ 10a3 viết: "Toản qui
tức là đốt lửa bằng cỏ gai mà hong mu rùa". Toản qui do thế có nghĩa là
bói rùa. Còn Ðả ngõa hay đập ngói thì lấy từ tích của quan làm việc
Trường Di bị tầng lớp quân đội ném gạch đá vào, vì Di chủ trương không
cho họ dự vào hàng thanh phẩm. Xem Bắc sử 43 tờ 5a10-13. Ðả ngoã đây như
vậy có nghĩa ăn cướp.
(52) Dẫn Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:
Tâm thị căn, pháp thị trần
Lưỡng chủng do như kính trượng ngân
Ngân cấu tận trừ quangthỉ hiện
Tâm pháp song vong tánh tức chân.
(Tâm là căn, pháp là trần
Hai thứ còn như vết trên gương
Vết bụi chùi sạch gương mới sáng
Tâm pháp đều quên tính tức chân).
Xem Vĩnh Gia chứng đạo ca ÐTK 2014 tờ 396b22. Xem thêm chú giải của Ngạn Kỳ, Chứng đạo ca chú TcT111 tờ 193b-194a.
(53) Về đờn của Bá Nha, thiên Hiếu Hạnh lãm của Lã thị xuân thu
nói: "Bá Nha đánh đờn, Chung Tử Kỳ nghe đờn. Khi Nha mới đánh đờn, và ý
nghĩ đến Thái sơn, Chung Tử Kỳ nói: "Ðánh đờn hay thay ư, cao ngất như
núi Thái ư !". Một chặp chi, Nha lại nghĩ đến giòng nước chảy, Chung Tử
Kỳ nói: "Ðánh đờn hay thay ư, ồ ạt như dòng nước chảy ư !". Chung Tử Kỳ
chết, Bá Nha phá đờn, cắt dây. Suốt đời không còn d0ánh đờn lại nữa, cho
rằng đời không còn ai còn đủ khả năng nghe cho mình đánh đờn lại nữa".
Xem Lã thị xuân thu 14 tờ 4a7-14.
(54) Vũ trích nham hoa, Thiền sư Minh Giác, có người hỏi bản nguyên chư Phật ra sao, đáp: "Màu lạnh ngàn núi"
Lại hỏi: "Nguyên ủy hướng thượng có có không?". Sư đáp: "Mưa rơi hoa non" (Vũ trích nham hoa). Xem Tục truyền đăng lục 2 tờ 476a8-9.
(55) Bốn bệnh: tức bệnh
làm ra (tác bệnh), bệnh phó mặc (nhiệm bệnh), bệnh đình chỉ (chỉ bệnh)
và bệnh hủy diệt (diệt bệnh), mà người ta gặp phải trên con đường đi tìm
sự giác ngộ hoàn toàn. Kinh Viên giác, định nghĩa bốn bệnh như sau:
Bệnh làm ra xảy ra khi người ta nghĩ rằng "tôi làm ra các hạnh để cầu
Viên giác". Bệnh phó mặc mắc phải khi người nói rằng: "tôi không có ý
đoạn tuyệt với sinh tử, không cầu Niết bàn đối với Niết bàn sinh tử
không có ý niệm dấy lên hay diệt đi, phó mặc cho tất cả, tuỳ thuận pháp
tính để cầu Viên giác". Bệnh đình chỉ tức bệnh nói rằng "tự tâm tôi, tôi
đứt hết các ý niệm được tất cả tính bình đẳng tịch diệt để cầu Viên
giác". Bệnh huỷ diệt có được khi người ta nói rằng: "tôi diệt hết tất cả
phiền não thân tâm hoàn toàn không, không có, huống hồ là cảnh giới hư
vọng của căn trần, tất cả đều vắng lặng hẳn để cầu Viên giác". Xem Ðại
phương quảng viên giác tu đa la liễu nghĩa kinh tờ 920b.
(56) Chữ lấy từ kinh Pháp hoa:
"Duy Phật dữ Phật nãi năng cứu tận chư pháp thật tướng" (chỉ người giác
ngộ với người giác ngộ mới có thể rõ hết thật tướng thật của tất cả mọi
vật). Xem Diệu pháp liên hoa kinh 2 tờ 5c.
(57) Nội thiên trong Bảo
phác tử của Cát Hồng (284-363) nói: "Tề thông thiên sở dĩ nó có thể
chống độc, ấy bởi nó là con thú chuyên ăn mọi thứ có độc và những thứ
cây có gai nhọn, chứ không ăn bậy những thứ có cây mềm dẻo bao
giờ".(Thông thiên tê sở dĩ năng cấp độc giả, kỳ vi thú chuyên thực bách
thảo chi hữu độc giả cập chúng mộc hưu thích cứu giả, bất vọng thực nhu,
hào chi thảo mộc). Xem Bảo phác tử 7 tờ 23a4.
(58) Ý rút từ Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền Giác:
Xả vọng tâm, thủ chân lý
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy.
(Bỏ lòng vọng, lấy lẽ chân
Bỏ lấy, lòng đó thành dối xảo).
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 406c5.
(59) Ngôn ngữ đạo đoạn.
Chữ của luận Ðại trí độ: Thế nào là chân lý tuyệt đối?" Ðáp: "Tất cả
ngôn ngữ đều dứt, tâm hành đều diệt" (nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn tâm
hành xứ diệt) Xem Ðại trí độ luận tờ 61b7. Xem thêm Tín tâm minh:
Tín tâm bất nhị
Bất nhị tín tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn
Khư lai phi kim.
Xem Truyền đăng lục 30 tờ 457b23.
(60) Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiểu, có người hỏi: " Thiền nào là một đường thẳng?". "Nhắm thẳng vào chỗ cong". Xem Truyền đăng lục 13 tờ 303c12. Xem thêm Chứng đạo ca của Vĩnh Gia Huyền giác: "Trực diệt căn nguyên của Phật sở ấn" Xem Truyền đăng lục 30 tờ 460a1.
(61) Ý lấy từ hai câu của Tuệ Trung quốc sư: "Cô tức nghiết phạn, hàn tức trước y. (Ðói thì ăn cơm rét thì mặc áo). Xem Truyền đăng lục 28 tờ 439a22-23
(62) Khắc chu khách. Ðiển lấy từ Thiện thận đại lãm của Lã thị xuân thu. Nước Sở có người đi thuyền, bị rơi kiếm xuống sông, bèn làm dấu chỗ rơi trên mạn thuyền để tới bến mà tìm. Xem Lã thị xuân thu
15 tờ 19a9-13. Kinh Bách dụ có một chuyện tương tự thế đó. Xem Bách dụ
kinh ÐKT 209 tờ 545c. Thiền sư Văn Ích cũng có làm bài tụng:
Bảo kiếm bất thất
Hư chu bất khắc
Bất thất bất khắc
Bất tử vi đắc.
Xem Truyền đăng lục 19 tờ 545b 15
(63) Nghệ văn chí của Lê Quí Ðôn ghi: "Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển Long Ðàm Viên Chiếu thiền sư soạn ".Văn tịch chí
của Phan Huy Chú chỉ ghi :"Dược sư thập nhị nguyện văn, 1 quyển", mà
không ghi tác giả. Ðây chắc là một bài văn phát triển 12 nguyện của Phật
Dược Sư, trong kinh Dược Sư nhấn mạnh đến tính chất tại thế của kinh
này.
(64) Ðây chắc phải là Sứ
bộ năm 1087 do Hộ bộ viên ngoại lang Lê Chung và Phó hiệu uý Ðỗ Anh Bối
làm chánh và phó sứ dẫn đầu, bởi vì Triết Tôn lên ngôi 1086 và đến năm
1090 nghĩa là năm Viên Chiếu mất, ta mới gởi một bộ phái khác sang kết
hiếu. Do thế nếu phái bộ ngoại giao năm 1090 có mang sách Dược sư thập nhị nguyện văn
sang Tống để cho các nhà sư Tống ngợi ca, thì ở nhà Viên Chiếu đã mất,
nên Chiếu không thể nào nhận lời khen của Lý Nhân Tôn được. Xem Tục tư tri thông giám thường biên 399 tờ 5b4, Tống sử 17 tờ 4b6 và 9b1, Ðại Việt sử lược 2 tờ 18a3-9, vàToàn thư B3 tờ 11b6-7.
(65) Pháp sư cao tòa ở đây có thể là Thiền sư Ðại Bản .Lâm gian lục quyển
hạ tờ 55a5-b2 nói Ðại Bản bị triệu đến ở chùa Tướng quốc dưới thời Tống
Thần Tôn và rất có thể sống ở đó cho tới năm 1087, khi sứ bộ ta tới.
(66) Về tuổi hạ, xem chú thích(7) truyện Chân Không.
(67) An nam chí lược 15 tờ 157: "Thiền sư Mai Viên Chiếu thường soạn Tham đồ hiển quyết
đại lược nói: "Một hôm khi đang ngồi trước nhà, bỗng có 1 vị Tăng hỏi:
"Phật cùng với Thánh, nghĩa ấy thế nào ?". Ðáp: "Dưới dậu thu cúc rậm.
Ðầu cành xuân yến ca". Sách ấy phần lớn gồm những thứ như thế đó. Cứ vào
dẫn chứng này của Lê Tắc, ta có thể nói rằng tất cả cơ duyên thoại ngữ
dẫn chứng trong truyện này đã hoàn toàn rút ra từ Tham đồ hiển quyết, nếu không nói là chúng chính là toàn bộ nội dung và văn ngữ của Tham đồ hiển quyết. Nếu khẳng định tất cả cơ duyên thoại ngữ đấy là Tham đồ hiển quyết,
thì nó là một tác phẩm đời Lý được giữ lại cho tới ngày nay, một tác
phẩm xưa nhất của lịch sử văn học, tư tưởng và triết học Phật giáo nước
ta.
(68) Cứ vào truyện này thì tác phẩm của Viên Chiếu gồm có:
1. Dược sư thập nhị nguyện văn
2. Tán Viên giác kinh
3. Thập nhị Bồ tát hành tu chứng đạo tràng
4. Tham đồ hiển quyết
Nhưng cứ một câu viết
trong truyện của Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm ở dưới, theo đó, "Viên
Chiếu thường có ca thi gởi tặng Bảo Tính, ngợi ca cái chí hướng cao
thượng của Tính, có ghi đầy đủ trong tập của Chiếu nên đây không phiền
chép ra" (Chiếu thường hữu ca thi di Bảo, mỹ kỳ cao chí, cụ tại tập
trung, tư bất phiền lục). Ta bắt buộc phải nghĩ rằng Chiếu còn có một
tác phẩm khác bao gồm tất cả thi ca của Chiếu mang tên có lẽ là Viên
Chiếu tập hay Viên Chiếu thi tập.