Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
Lê Mạnh Thát
NGHIÊN CỨU VỀ THIỀN UYỂN TẬP ANH
NXB Thành Phố Hồ chí Minh 1999 - NXB Phương Đông 2006
10. Thiền sư CỨU CHỈ
(1) Lịch triều hiến chương loại chí 2 tờ 33a2-5 viết: "Núi
Long dội ở tại xã Ðội sơm huyện Duy tiên, bổ sát xuống dòng sông. Lý
Nhân Tôn dựng bảo tháp Sùng thiện điên linh, văn bia chữ toàn dùng
thuyết nhà Phật hoang lạ chưa từng thấy. Cuối đời trần, người Minh phá
hủy tháp đó. Lê Thái Tổ bình định rồi, lại sai dựng lại. Thánh Tôn lên
chơi có đề thơ:
Ngàn nhận non cao chỗ Hóa thành
Leo bao bực đá đến am thanh
Chuyện kỳ triều Lý bia trơ đó
Tội ác giặc Minh vết đã rành
Ðường vắng chân người rêu phủ biếc
Xuân nhiều mưa núi cảnh phô xanh
Lên cao tầm mắt xa vô tận
Muôn dặm mênh mông cỏ giống cành"
Núi Long dội như vậy ở tại xã Ðội sơn phía đông nam huyện Duy tiên, tỉnh Hà nam ngày nay. Ðại Việt sử lược 2 tờ 2b10 và Toàn thư B3
tờ 21a7 nói: "Năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ ba (1122) mùa xuân tháng hai bảo
tháp Sùng thiện điện linh ở Ðội sơn làm xong". Cứu Chỉ mất trong khoảng
1059 – 1065, cho nên chùa Diên linh ở đây đã có từ trước, rồi sau đó
đến năm 1122 mới xây thêm tháp.
(2) cái tên Yên Lãng được Thiền uyển tập anh kể tới cả thảy
năm lần, kể lần thứ nhất tức ở truyện Cứu Chỉ đây. Lần thứ hai ở trong
truyện của Ðạo Hạnh ở tờ 53b3, nói cha của Ðạo Hạnh "đến học ở làng Yên
lãng, rồi lấy con gái họ Tăng, nhân làm nhà ở đó". Lần thứ ba ở truyện
Trí Thiền tờ 63b7 nói Thiền ở "am Phù môn núi Cao dã, Yên lãng". Lần thứ
tư ở truyện Y sơn tờ 70b8, nói Y sơn "về già dời tới trú trì chùa Nam
mô làng Yên lãng". Lần thứ năm ở truyện Hoằng Minh tờ 71b10 nói Minh
người làng Yên lãng, Vĩnh hưng". Trong năm lần này, làng Yên lãng của Từ
Ðạo Hạnh chắc chắn là tại Yên lãng thuộc huyện Vĩnh thuận của Bắc thành
địa dư chí 1 tức làng Yên lãng hay làng Láng ở gần phía tây thủ đô Hà
nội ngày nay.
Còn Yên lãng có núi Cao dã của truyện Trí Thiền
thì chắc phải nằm tại huyện Yên lãng tỉnh Vĩnh phú ngày nay. Về những
bàn cãi xem chú thích tại những truyện liên hệ. Cuối cùng, Yên lãng của
truyện Cửu Chỉ đây chắc phải đồng nhất với làng Yên lãng tại Vĩnh hưng
bởi vì nó có núi Long đội hiện nằm tại huyện Duy tiên mà Vĩnh hưng thì ở
tại huyện Ðông yên, tỉnh Hưng yên. Xem chú thích (1) truyện Hoằng Minh.
Do thế cứ vào vị trí núi Long đội nói trên Yên lãng đây phải nằm tại
huyện Duy tiên. Ðịa phận nó thế nào ta hiện không thể xác định. Ta không
hiểu tại sao đời Lý lại có ba địa danh cùng mang tên Yên lãng nằm ở ba
nơi khác nhau như vậy.
(3) Tức làng Phù đàm huyện Từ sơn tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (3) truyện Ðịnh Hương.
(4) Ðầu đà, phiên âm chữ Phạn Dhùta, cũng phiên là đỗ trà hay đỗ đa.
Dhùta đến từ động từ Dhù có nghĩa là rũ bỏ, tiêu diệt, cho nên hạnh đầu
đà, có nghĩa là rũ bỏ các phiền não, tiêu diệt những chướng ngại do ăn
mặc ở tạo nên. Vì vậy, nội dung hạnh tu này đại khái gồm 12 việc sau:
Ðấy là mặc áo dùng đồ giẻ rách may lại , thứ áo đó không quá ba cái, xin
mà ăn, chỉ ăn một bữa, chỉ ăn một lần trong ngày, không ăn nhiều, ở nơi
quạnh vắng, ở bên bãi mồ, ở dưới gốc cây, ở giữa đất trống, ở trong đám
cỏ, thường ngồi mà không nằm. Ðấy là 12 việc, người tu hạnh đầu đà phải
hoàn thành. Xem Ðại thừa nghĩa chương 15.
(5) Nguyên văn: Lương Văn Nhiệm. Nhưng cứ Ðại Việt sử lược 2 tờ 5a3 và Toàn thư B2
tờ 16a7 thì "Thiên Thành năm thứ nhất (1028) lấy Lương Nhiệm Văn làm
Thái sư". Truyện Huệ Sinh tờ 58b4 cũng có Lương NhiệmVăn. Văn Nhiệm ở
đây chắc chắn là một viết ngược của NhiệmVăn. Chúng tôi sửa lại và dịch
theo.
(6) Nguyên văn:
Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hóa hiện chư tướng
Hữu vi vô vi tùng thử xuất
Hàsa thế giới bất khả lượng
Tuy nhiên biến mãn hư không giới
Nhất nhất quán lai một hình trạng
Thiên cổ vạn cổ nan thử huống
Giới giới xứ xứ thường lãng lãng".
Bài kệ này rập vần mà mượn chữ từ bài kệ sau của Huệ Tư (514-577):
Ðốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
Ẩn hiện linh thông hiện chư tướng
Ðộc hành độc tọa thường nguy nguy
Bách ức hoá thân vô số lượng
Tung hiệp bức tắc mãn hư không
Khán thời bất kiến vi trần tướng
Khả tiếu vật hề vô tỉ huống
Khẩu thổ minh châu quang hoảng hoảng
Tầm thường kiến thuyết bất tư nghi
Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đáng.
Xem Truyền đăng lục 27 tờ 431b5-9.
11-12. HAI Thiền sư BẢO TÍNH VÀ MINH TÂM
(1) An nam chí nguyên 5 tờ 211 viết: "Hai Thiền sư Bảo Tính và
Minh Tâm là sư huyện Ðông ngạn, đứng đầu trong tòng lâm, có lần dựng
hội giảng kinh, cùng vào hỏa quang tam muội. Xương cốt đều hoá thành
thất bảo".
(2) Tức phẩmDược Vương Bồ tát bản sự của kinh Pháp hoa, chép sự tích Bồ Tát Dược Vương tự đốt mình để phụng sự đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức. Xem Diệu pháp liên hoa kinh tờ 53a.
(3) Hoả quang tam muội, Phạn tejoprabhàsamàdhi, cũng gọi Hỏa quang
định, tức một loại thiền định khiến cho thân thể bốc lửa. Xem Bản hạnh
tập kinh 40 tờ. "Bấy giờ đức Như Lai cũng vào hỏa quang tam muội như
thế, thân mình bốc ra ngọn lửa lớn" (Như Lai dĩ thời diệc nhập như thị
hỏa quang tam muội, thân xuất đại hỏa).
(4) Toàn thư B2 tờ 22a4-6 và Cương mục chính biên 2 tờ
38b6-39a1 viết: "Thiên Thành năm thứ nhất. Bấy giờ, có hai nhà sư Nghiêm
Bảo Tính và Phạm Minh Tâm thiêu thân mình tự thành bảy báu. Vua xuống
chiếu đem bảy báu đó giữ lại ở chùa Trường thánh để cúng dường đèn
nhang. Vua cho đó là điềm lành, nên cải nguyên là Thông Thụy".
13. Thiền sư QUẢNG TRÍ
(1) Cương mục chính biên 13 tờ 34b-5 viết: "Núi Không lộ ở tại huyện
Thạch thất, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn tây, trên núi có chùa Lạc lâm, xưa đó
là chỗ hoá thân của Thiền sư Không Lộ, nên có tên đây". Nhưng Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, cải chính chú thích vừa rồi của Cương mục chính biên
như sau: "Núi Không lộ, xét bia ký chùa Lạc lâm ở tại núi Phụng hoàng
xã Sơn lộ, huyện An sơn ngày nay thì chùa do người phương bắc dựng vào
thời Lý, không thấy nói Không Lộ thoát hoá ở đấy, trong chùa cũng không
có thờ Không Lộ. An nam chí của Cao Hùng Trưng nói ở tại huyện
Thạch thất, bởi Thạch thất và Yên sơn xưa là một huyện, mà tên núi lại
nhân theo tên xã, mà vì viết tên Sơn thành Không, nên sợ hoặc có tên như
vậy". Tuy thế, điều chắc chắn là vào thời Lý vàTrần, núi Không lộ đã có
tên Không lộ, như chính Thiền uyển tập anh ở đây đã ghi. Nó ngày nay tức núi Phụng hoàng ở tại xã Sơn lộ, huyện Thạch thất, tỉnh Hà tây.
(2) Hàn Sơn và Thập Ðắc là hai nhà thơ thiền tâm giao nổi tiếng đời Ðường. Về sự tích, xem Truyền đăng lục 27 tờ 433c-434a.
(3) Truyện Chân Không tờ 66a9 cũng chép một bài thơ truy điệu Không
vào năm 1100 và bảo là của " Công bộ thượng thư Ðoàn văn Khâm". Hai bài
thơ của "Công bộ thượng thư Ðoàn văn Liễm" ở đây đã được Lê Quí Ðôn chép
luôn với bài thơ truy điệu vừa nói dưới cái tên "Công bộ thượng thư
Ðoàn văn Khâm" trong Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a6-b6. Theo Ðôn như
vậy, công bộ thượng thư Ðoàn văn Liễm cũng là Công bộ thượng thư Ðoàn
văn Khâm, và chữ Liễm thực ra là một viết sai của chữ Khâm. Kết luận như
thế, ta không biết Ðôn quả đã có bản in Thiền uyển tập anh xưa
hơn bản in năm 1715 của ta ngày nay và bản in đó đã có Ðoàn Văn Khâm
thay vì Ðoàn Văn Liễm, như bản in 1715 đã có. Hay Ðôn đã dựa vào sự suy
luận về tự dạng chữ Khâm và chữ Liễm rất giống nhau, để có một kết luận
như vậy? Tôi nghĩ rằng rất có thể Ðôn có một bản in xưa hơn bản in năm
1715 hiện nay của ta. Dẫu sao đi nữa, nếu Ðoàn Văn Khâm Ðoàn Văn Liễm là
một người, thì ông này đã giữ chức Thượng thư bộ công gần cả đến 15 năm
hay hơn nữa, bởi vì Quảng Trí mất trong khoảng 1085-1091 còn Chân Không
mất năm 1100.
(4) Trừng tức Phật Ðồ Trừng (232-248) danh tăng thần dị Tây vức thời
Tấn. Xem tiểu sử trong Cao tăng truyện 9 tờ 383b-387a. Thập tức Cưu Ma
La Thập (?- 409) dịch giả lỗi lạc Tây vức đời Dao tần. Xem tiểu sử Cao
tăng truyện 3 tờ 330a-333a.
(5) Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a7-8:
Trụ tích nguy phong bãi lục trần
Mặc cư huyễn mộng vấn phù vân
Ân cần vô kế tham Trừng Thập
Sách bạn trâm anh tại lộ quần.
(6) Di lý, chiếc dép để lại. Bồ Ðề Ðạt Ma chết. Sau ba năm, Tống Vân
trên đường đi sứ Tây Vức, gặp Sư tại Thông lĩnh, vai quảy một chiếc dép.
Vân về tâu. Vua Hiếu Trang nhà Bắc ngụy (528-530) cho khai tháp khám
nghiệm thì trong quan tài của Bồ Ðề Ðạt Ma chỉ còn lưu lại một chiếc
dép. Về sau, Thiền sư chết thường được nói là "chích lý tây qui" hay "di
lý". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220b5-10.
(7) Kiến văn tiểu lục 4 tờ 13a9-b2: Vãn Quảng Trí Thiền sư thi:
Lâm loan hồi thủ độn kinh thành
Phất tụ cao sơn viễn cánh sinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu trượng tịch
Hốt văn di lý đả thiền khuynh
Trai đình u điểu không đề nguyệt
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh
Ðạo lữ bất tu thương vĩnh biệt
Viện tiền sơn thủy thị chân hình.
14. Lý Thái TÔN
(1) Lý Thái Tôn (1001-1054), tên thực là Lý Ðức Chính, con của Lý Công Uẩn, nối ngôi Uẩn năm 1028 đến năm1054 thì mất. Xem Ðại Việt sử lược 2, Toàn thư B2.
(2) Cứ Lược dẫn thiền phái đồ in vào đầu Thượng sĩ ngữ lục tờ
5b6-7a6 thì thế thứ truyền thừa và vai trò của Lý Thái Tôn như sau: "Từ
thuở đức Ðại thánh ta là Phật Thích Ca Mâu Ni đem Chính pháp nhãn tạng
niết bàn diệu tâm trao cho Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, lần lượt truyền thọ
phàm 28 đời thì đến Ðại sư Ðạt Ma. Ðạt Ma vào Ðông độ, truyền cho Ðại sư
Thần Quang. Thần Quang truyền xuống phàm sáu đời thì đến Ðại sư Thần
Hội. Chính vào lúc đó, chính pháp mới truyền vào đất nước ta. Không biết
người nhận được trước là ai. Hãy ghi từ Thiền sư Thiền Nguyệt truyền
cho Nguyễn Thái Tôn, tiếp đến Trưởng lão Ðịnh Hương, Thiền sư Viên
Chiếu, Thiền sư Ðạo Huệ tiếp nhau truyền thọ, tên họ ẩn hiện, khó tìm
manh mối, phân làm ba tôn:
(a) Tôn môn ta đã liệt ra ở bản đồ, không phiền chép đủ.
(b) Thiền sư Vương Chí Nhàn truyền cho Hoà thượng Nhiệm Tạng. Hoà
thượng Nhiệm Tạng truyền cho Cư sĩ Nhiệm Túc, đến nay chìm mất, không rõ
thừa kế.
� Hoà thượng Nhật Thiển được pháp với ai đó, truyền cho Chân Ðạo đại
Vương, đến nay tôn này rồi cũng chìm mất. Lại có cư sĩ Thiên Phong từ
Chương tuyền đến, cùng với Ứng Thuận đồng thời, tự xưng thuộc tôn Lâm
Tế, truyền cho quốc sư Ðại Ðăng và Hoà thượng Nan Tư . Ðại Ðăng truyền
cho hoàng đế Thánh Tôn ta và các ngài Liễu Minh quốc sư, Thường Cung,
Huyền sách, Huyền Sách truyền cho Phả Trắc v.v…nay cũng mờ dần không rực
rỡ lắm.
Ôi, Thiền tôn thạnh suy, há nói xiết sao. Nay lược kể các phái Thiền
để lưu lại về sau, hầu bậc học giả biết Thiền có tôn đáng học, chứ chẳng
phải chuyện tự bịa đặt bày ra, ấy vậy".
Sau lời tự dẫn này mới chính là bản đồ truyền thừa của Thiền phái
Trúc lâm, mà người viết lời tự dẫn vừa dịch tự xưng là tôn mình. Cái gọi
là Lược dẫn thiền phái đồ đây chắc chắn là do một tác giả thuộc
phái Trúc lâm viết ra, bởi vì nó không những xưng Trần Thánh Tôn là
"Hoàng đế Thánh Tôn ta" và Lý Thái Tôn là Nguyễn Thái Tôn, mà còn vì
trong bản đồ của phái Trúc lâm, nó liệt đến ba người đệ tử của Pháp Loa
là hết. Thêm vào đó, thật lục của Trần Nhân Tôn trong Thánh đăng lục tờ
40a2 khi nói đến những người đệ tử nối dòng của Nhân Tôn, nó viết: "Ðệ
tử nối pháp đã liệt kê đầy đủ trong Tuệ trung Thượng sĩ ngữ lục đồ tinh dẫn." Cái gọi là "Tuệ trung Thượng sĩ ngữ lục đồ tinh dẫn"
này tức là Lược dẫn thiền phái đồ vừa dịch. Như vậy, bản lược đồ đấy
phải viết sau khi Nhân Tôn mất, tức sau năm 1308, để cho Thật lục có thể
dẫn. Nó do ai viết? Chắc phải là một trong những người đệ tử của Pháp
Loa, mà chính bản đồ của Lược dẫn ghi gồm ba người, đấy là Huyền Quang,
Cảnh Huy và Quế Ðường. Một trong ba người này hay là thị giả cao đệ của
họ đã ghi lại.
Bấy giờ, cứ bản Lược dẫn thiền phái đồ thì thầy của Lý Thái Tôn là Thiền sư Thiền Nguyệt. Thiền uyển tập anh
nói vua "tham vấn thiền chỉ với Thiền Lão". Thiền Lão như vậy đúng ra
phải có tên là Thiền Nguyệt mà vì tôn trọng phải gọi thành Thiền Lão,
như trường hợp Thông Thiền đã gọi thành Thông sư. Ứng Thuận gọi thành
Ứng vương, để khỏi phạm húy của thầy. Do đó Thiền Lão từ đây nó phải là
Thiền Nguyệt.
Ðọc lời tự dẫn của bản Lược dẫn thiền phái đồ trên, ta có thể chắc chắn nó phải viết ra trước năm 1337 khi tác giả Thiền uyển tập anh hoàn thành tác phẩm của mình, bởi vì nếu có Thiền uyển tập anh
người viết lời tự dẫn đã không phải nói"không biết người đắc pháp về
trước Thiền Nguyệt là ai". Rất có thể tác giả lời tự dẫn trên đây cũng
là tác giả của Thiền uyển tập anh. Xem những bàn cãi trong phần nghiên cứu.
(3) Châm chùy, hoặc nói là kiếm chuỳ, chỉ cho sự đào luyện khó nhọc của Thiền gia. Phổ Chiếu, Bích nham lục tự: "Bỉnh phanh Phật đoàn Tổ kiềm chùy, tụng xuất nạp tăng hướng thượng ba tỉ". Xem Bích nham lục 1 tờ 39a5.
(7) Kiến văn tiểu lục 4 tờ 12b9-10 chép y bài kệ ở đây.
15. QUỐC SƯ THÔNG BIỆN
(1) Tức huyện Từ liêm cũ, nay đấy Hoài đức, tỉnh Hà đông. Xem chú thích (2) truyện Vân Phong.
(2) Tức huyện Ðan phụng, Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây,
viết: "Huyện Ðan phụng ở tại phía đông của phủ 35 dặm, từ đông sang tây
rộng 20 dặm, từ nam xuống bắc rộng 25 dặm, từ huyện lỵ đến phía đông
giáp giới với huyện Từ liêm của Hà nội 12 dặm, phía tây đến sông Hát đối
ngạn với địa giới huyện An sơn 8 dặm, phía nam đến địa giới huyện Từ
liêm, tỉnh hà nội 13 dặm, phía bắc đến huyện Phúc thọ phủ Quảng oai 12
dặm. Nó là đất cú lậu đời Hán. Ðời Trần về trước đặt tên Ðan Phụng. Ðời
Minh cải làm huyện Ðan sơn sáp nhập với châu Từ liêm, sau tinh nhập, vẫn
thuộc phủ Giao châu. Ðời Lê Quang Thuận phục hồi lại tên cũ, cải thuộc
phủ Quốc oai kiêm lý". Nay là huyện Ðan phụng tỉnh Hà tây.
(3) Tam học. Chỉ ba môn học chính của Phật giáo, đấy là học về giới,
học về định và học về tuệ, hay thường gọi tắt là giới định tuệ. Ðể học
về giới, người ta phải dựa vào những bản điều luật Phật giáo, tức là
luật tạng. Ðể học về định, người ta phải suy gẫm về những lời dạy của
Phật Thi�ch Ca, tức kinh tạng. Ðể học về tuệ, người ta nghiên cứu những
tác phẩm triết học Phật giáo, tức luận tạng. Cho nên, nói rằng giỏi về
tam học, tức cũng có nghĩa giỏi về toàn bộ kinh điển Phật giáo, tức
kinh, luật và luận. Xem Thích thị yếu lãm quyển trung tờ 292c22-23.
(4) Nguyên văn: Thăng kinh Quốc tự. Quốc tự đây nghi là bản in khắc
sót chữ Khai, tức chỉ chùa Khai quốc của kinh đô Thăng long, nơi những
cao tăng của triều Ðinh Lê đã từng sống. Về chùa Khai quốc, xem chú
thích (1) ở truyệ�n Vân Phong.
(5) Phù Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu. Nguyên bản viết là Phù Thánh Cảm Linh Nhân hoàng thái hậu. Nhưng chúng tôi cứ Ðại Việt sử lược, Toàn thư và Cương mục chính biên
để sửa lại là Phù Thánh Linh Nhân. Linh Nhân là mẹ của vua Lý Nhân Tôn.
Người làng Thổ lỗi, mà sau này khi sinh ra Nhân Tôn đã cải lại là Siêu
loại, họ Lê được Thánh Tôn nạp vào cung năm 1063 và đặt tên là Ỷ Lan phu
nhân. Năm 1066 sinh Nhân Tôn và được tôn làm Thần phi. Năm 1073 khi mới
lên ngôi một năm, Nhân Tôn u sát Dương thái hậu và tôn mẹ minh lên làm
Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh Nhân mất năm 1117 và được thụy là Phù
Thánh Linh Nhân hoàng thái hậu.
(6) Dương Huyền Chi hỏi Bồ Ðề Ðạt Ma sao gọi là Tổ, Bồ Ðề Ðạt Ma trả
lời: "Kinh Phật tâm tông, hạnh giải tương ưng, danh chi viết Tổ". Xem Truyền đăng lục 3 tờ 220a5. Hành giải tức có nghĩa như tri hành hiệp nhất. Hành tức việc làm, và giải có nghĩa sự hiểu biết.
(7) Nguyên văn: "Cố thị sanh Trúc thổ cái vị thiên địa chi chính
trung giả". Tham chiếu Mâu tử lý hoặc luận trong Hoằng minh tập 1 tờ
1c25-26. Sở dĩ sanh Thiên trúc giả, thiên địa chi trung, xử kỳ trung hoà
giả.
(8) Nhất đại thời hưng giáo. Thuật ngữ của Thiền gia chỉ giáo pháp
tam thừa do Phật Thích Ca nói trong suốt 49 năm tại thế, bao gồm các thứ
quyền thiệt, đốn tiệm v.v…ngoại trừ Thiền tôn, một thứ "giáo ngoại biệt
truyền". Từ này tương đương với từ "nhất đại giáo" của Chỉ quán nghĩa
lệ hay "nhất đại thánh giáo" của Thiên thai tứ giáo nghi, mà những người
Thiền tôn, đặc biệt là những người, chuyên về giáo phán, dùng để gọi
toàn bộ giáo lý của Phật Thích Ca. Xem Chỉ quán nghĩa lệ và Thiên thai
tứ giáo nghi.
(9) Truyền thuyết của Thiền tôn về nguyên lai của tôn mình. Vương An
Thạch hỏi Sư Huệ Tuyền về xuất xứ của truyền thuyết này. Tuyền nói trong
Ðại tạng không thấy chép. Vương bảo, tình cờ ông đọc thấy nó trong Ðại
phạm thiên vương vấn Phật quyết nghi kinh (?). Nó gồm có ba quyển, và
nội dung nói theo Vương, thì như sau: Phạm vương đến Linh sơn, dâng hoa
ba là màu vàng cúng Phật và cúng thân mình làm giường ngồi, xin Phật vì
chúng sanh mà thuyết pháp. Thế Tôn lên tòa giảng, cầm hoa dơ lên, trời
người trăm vạn đều không hiểu ra. Chỉ có đầu đà Kim Sắc rạng mặt mỉm
cười. Thế� Tôn nói: " Ta có chính pháp nhãn tạng Niết bàn diệu tâm, thật
tướng vô tướng, đem giao cho Ma Ha Ca Diếp". Vương cũng còn thêm rằng:
"Kinh này phần lớn bàn tới việc đế vương, vì vậy nên bị cất đi trong
cung vua và người đời ít nghe tới nó". Xem Nhân thiên nhãn mục 5 tờ
325b3-13.
(10) Tức Ca Diếp Ma Ðằng, dịch giả kinh Phật đầu tiên tại Trung quốc
theo truyền thuyết. Xem Cao tăng truyện 1 tờ 322c13-323a23.
(11) Tức Trí Khải (538-597) vì sống ở núi Thiên thai, nên cũng gọi là
Thiên Thai hay Thiên Thai đại sư, người sáng lập nên một trường phái
mang tên Thiên Thai tôn, mà tự nguyên uỷ vì dựa vào kinh Pháp hoa
nên gọi là Pháp hoa tôn, và đề xướng ra một phương pháp tu hành chỉ
quán thường được mệnh danh "Thiên thai giáo quán". Xem Tục cao tăng
truyện 17 tờ 564a18-568a15.
(12) Tức Huệ Năng (638-713), vì sống ở chùa Nam hoa dựng gần khe Tào, nên cũng gọi là Tào khê. Xem Truyền đăng lục 5 tờ 235b10- 237a12 và Tống cao tăng truyện 8 tờ 754c1 – 755c10.
(13) Tức Mâu Tử (165 - ?) tác giả Mâu tử lý hoặc luận, tác phẩm lý
luận Phật giáo đầu tiên tại nước ta cũng như của miền đông châu Á, viết
vào khoảng năm 198 sau Tây lịch. Xem Hoằng minh tập 1 tờ 1a26-7a22, Xuất
tam tạng ký tập 12 tờ 82c29-83a1, Phật tổ thông ký 35 tờ 332a27 – b5;
Phật tổ lịch đại thông tải 5 tờ 510b17 – 514a9, Thích thị khể cổ lược 1
tờ 769a12-c6.
(14) Khương Tăng Hội (? – 280), sản phẩm đầu tiên của nền Phật giáo
nước ta, tác dịch giả một số tác phẩm quan trọng, mà đặc biệt nhất là
Lục độ tập kinh, đóng góp rất nhiều tài liệu lịch sử văn học cho công
tác nghiên cứu cổ sử của ta. Xem Xuất tam tạng ký tập 13 tờ 96a29-97a17
và Cao tăng truyện 1 tờ 235a13-236b13 v.v…
(15) Ðàm Thiên pháp sư truyện ở đây tức là truyện của Pháp sư Ðàm
Thiên đời Tuỳ trong Tục Cao tăng truyện 18 tờ 571b12-574 b6, chứ không
phải là của Kinh sư Ðàm thiên đời Tề trong Cao tăng truyện 13 tờ 413a18 –
26, như Trần Văn Giáp (Le Bouddhisme en Annam BEFEO XXXII (1932) đã
đồng nhất một cách sai lầm. Ðàm Thiên đời Tuỳ sinh năm 542 và mất năm
607, thọ 66 tuổi, quả đã có những quan hệ rất mật thiết với Tùy Cao tổ
và đặc biệt về việc cúng dường xá lợi, ông quả đã có một cống hiến đặc
biệt. Xem tiểu sử trong Tục Cao tăng truyện vừa kể.
(16) Nguyên văn: "Án Ðàm thiên pháp sư truyện, Tùy Cao Tổ vị (chi)
pháp (giả hậu) sư vân: Trẫm niệm Ðiều Ngự từ bi chi giáo, báo đức vô do,
vị thiêm nhân vương, hoằng hộ Tam bảo, dĩ biến thu di thể xá ly, nhưng ư
quốc nội, lập thụ bảo tháp, phàm tứ thập cửu sở, biểu thế tân lương, dư
nhất bách ngũ thập tự tháp, ngoại các Giao, châu chư xứ kiến lập, ký tư
phước nhuận, dĩ cập đại thiên. Nhiên bỉ Giao châu tuy nội thuộc, do hệ
ky my, nghi tuyển danh đức Sa môn, vãng bỉ chư xứ hoá, già lịnh nhất
thiết, cu đắc bồ đề".
Trong đoạn này, những chữ để trong vòng ngoặc là những chữ chúng tôi
coi như những diễn tự do lỗi của người viết hay người khắc bản, vì vậy
đã không được dịch. Còn những chữ in đậm là những chữ chúng tôi thêm
vào, cứ trên những dữ kiện lịch sử ngoại tại khác, để ý nghĩa đoạn văn
được chính xác.
Thứ nhất, ở câu "Tuỳ Cao tổ vị (chi) pháp (giả hậu) vân" của nguyên
bản, chúng tôi cho rằng những chữ "chi…giả hậu" là những diễn tự của câu
đi trước, ở đây ta có "nhị phái chi tổ giả hậu viết". Sau khi loại
những chữ "chi…giả hậu" đi rồi, chúng tôi thêm chữ sư vào, để cho câu
văn được gọn nghĩa.
Thứ hai, về loại bỏ chữ Giao châu ở câu "dư nhất bách ngũ thập tự
tháp ngoại các Giao, châu chư xứ kiến lập, ký tư phước nhuận", thì chúng
tôi cứ vào chính bản tiểu sử của Ðàm Thiên nay trong Tục Cao tăng
truyện 18. Ở tờ 537b25-c14, Ðạo Tuyên ghi lại rất rõ những diễn tiến của
việc ban bố xá lợi và xây tháp của Tùy CaoTổ. Tháng sáu năm Nhân Thọ
thứ nhất (601), Cao Tổ ra lệnh "chọn 30 chỗ cao sảng thanh tịnh để dựng
tháp thờ xá lợi" trong khắp Trung quốc, đồng thời ban cho mỗi nơi một
hòm xá lợi. Cứ Xá lợi cảm ứng ký do VươngThiệu viết trong Quảng hoằng
minh tập 17 tờ 216b10 thì chùa Thiền chúng của Giao châu được chọn làm
nơi dựng tháp giữa số 30 chỗ của 30 châu đấy. Sau đợt ban bố thứ nhất
này, tháng giêng năm sau, tức năm 602, Cao Tổ lại ban bố xá lợi đợt hai
cho "hơn 50 châu", mà Khánh xá lợi cảm ứng biểu do Vương Hùng viết trong
Quảng hoằng minh tập 17 tờ 216c7 – 221a7 nói rõ là có 51 châu với một
châu được ban lần thứ hai là thành ra 52 châu.
Và đợt ban bố xá
lợi thứ ba xẩy ra vào mùa xuân năm Nhân Thọ thứ 4 (604), theo đó "vua ra
lệnh xây miếu ở 30 châu, rồi bèn sai dựng linh tháp ở hơn một trăm chỗ
của các châu lớn ở trong nước, để khuyên người tôn sùng điều lành". Như
vậy, rõ ràng dưới thời Tùy Cao Tổ, việc ban xá lợi cho các châu xảy ra
cả thảy ba lần. Lần đầu năm 601 cho 30, lần thứ hai năm sau cho 51 châu
và lần thứ ba cho hơn 100 sở ở tại các châu lớn. Do thế, trong đoạn văn
trên, ta thấy Tùy Cao Tổ kể đến ba lần ban bố xá lợi này, mà lần thứ
nhất nó không cho biết rõ số châu được ban bố và chỉ viết "biến phân
(thu) di thể xá lợi", nhưng lần thứ hai thì nó ghi rõ là "cho lập bảo
tháp phàm 49 sở ở khắp nước" thì hiển nhiên nó muốn nói tới đợt phân
phát xá lợi thứ hai cho 51 châu năm 602. Và lần thứ ba nó viết "còn hơn
150 tháp do các xứ của mỗi châu kiến lập để mong phước nhuận thấm tới
đại thiên" thì rõ ràng nó muốn đề cập tới đợt phân phát thứ ba năm 604,
chứ dứt khoát không thể là "còn hơn 150 chùa tháp của các xứ Giao châu
được. Chữ Giao châu trong câu đó vì vậy phải loại ra coi nó là một diễn
tự lấy từ câu tiếp theo, đấy là "Nhiên bỉ Giao châu tuy nội thuộc…".
Chúng tôi do thế đã thêm chữ Giao châu ấy vào cho câu tiếp theo đấy.
Dựa vào dữ kiện của truyện Ðàm Thiên trong Tục Cao tăng truyện
hiện nay, để mà sửa sai và chấm câu lại đoạn văn trên, ý nghĩa cũng như
những mẫu tin lịch sử của bây giờ đã trở thành rõ ràng và có lý cứ.
(17) Nguyên bản viết Khâu Ni danh. Ðây chắc là một viết sai và khắc
lộn của cái tên Khâu Ðà La, mà Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục kể
ra cùng với Kỳ Vực như hai vị sư "cùng một lúc đến thành Luy lâu, trị
sở của Sĩ Vương" vào khoảng cuối triều Hán Linh Ðế. Ở đây, họ được một
Ưu bà tắc tên Tu Ðịnh mời ở lại. Nhưng Kỳ Vực từ chối và tiếp tục cuộc
hành trình của mình, còn Khâu Ðà La thì bằng lòng và cuối cùng đã truyền
pháp lại cho A man với sự ra đời của bốn vị thánh Pháp Vân, Pháp Vũ,
Pháp Lôi, Pháp Ðiện. Cổ châu tứ pháp phổ lục cũng nói tới truyện này.
Ðạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 9b6-9 dưới mục "Sư Ấn độ thời vua
Hùng" đã coi Khâu Ðà La như một "nhà sư Ấn độ thời vua Hùng" đã gặp Tu
Ðịnh và truyền pháp lại cho A Man. Nội dung chuyện này thì đại khái
giống truyện Man Nương của Lĩnh nam trích quái tờ 25-26, nhưng ở đó tên Khâu Ðà La đã bị đổi thành Giả La Chà Lê.
(18) Tức Kỳ Vực của Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục và đến Luy
lâu cùng một lúc với Khâu Ðà La vào cuối thời Hán Linh Ðế, tức khoảng
những năm 168-189. Cao tăng truyện 10 tờ 388a16-c5 cũng nói tới một Kỳ
Vực đã từng trải qua "miền Giao châu và Quảng châu và đều có chuyện linh
dị", rồi đến Lạc dương vào khoảng cuối đời Tấn Huệ Ðế, tức khoảng những
năm 305-306. Như vậy, Kỳ Vực này đến Giao châu sớm lắm thì cũng khoảng
vào những năm trước sau năm 290. Thế thì, hai Kỳ Vực đây phải chăng là
cùng một người?. Cứ trên hành trạng của hai người thì ta bắt buộc phải
đồng nhất họ với nhau. Nhưng bằng vào sự sai khác niên đại, một sự sai
khác đến những trăm năm, ta tất yếu phải giả định sự có mặt của hai
người khác nhau cùng mang tên Kỳ Vực, nếu quả thật những sử liệu của Cổ
châu Pháp vân Phật bản hạnh ngữ lục là đáng tin cậy.
(19) Truyệ�n Pháp sư Ðàm thiên ngày nay trong Tục Cao tăng truyện 18 tờ 571b12-574b6 không có lời đáp này của Ðàm Thiên cũng như câu đề nghị của Tùy Cao Tổ. Nhưng cũng chính Tục Cao tăng truyện
18 tờ 574b5-6 lại ghi thêm rằng "có Sa môn Minh Tắc vì Thiên mà viết
hành trạng, đầu đuôi quán xuyến, kinh sư ưa chuộng". Thế có nghĩa, trước
và ngoài bản Tục Cao tăng truyện, ta còn có một bản khác mang
tên Hành trạng do Minh Tắc viết về Thiên. Phải chăng bản Hành trạng này
đã chứa đựng những câu nói trên của Tùy Cao Tổ và của Ðàm Thiên và đamg
còn lưu hành ở nước ta vào thời Thông Biện, để cho Biện viện dẫn? Dẫu
sao đi nữa, những gì do hai bản đấy nói không phải không kiểm chứng được
với những tài liệu hiện có ngày nay. Cũng cần thêm là, cứ vào nội dung
của câu nói trên, thì cuộc đối thoại giữa Tùy Cao Tổ và Ðàm Thiên, xảy
ra vào mùa xuân năm Nhân Thọ thứ tư (604), bởi vì đầu tháng giêng thì
Cao Tổ ra lệnh xây hơn một trăm cái tháp, mà chính câu nói đã kê ra, và
đến tháng tư thì nhuốm bệnh và tháng bảy thăng hà.
(20) Quyền Ðức Dư (757-818) làm Tể tướng dưới thời Ðường Hiến Tôn.
Bài tựa cho cuốn sách nhan đề Truyền pháp này ngày nay đã thất lạc. Văn
uyển anh hoa, Toàn Ðường văn cũng như Toàn Ðường văn bổ di không thấy
chép một bài tựa nào như thế cả.
(21) Tức Thiền sư Hoài Uẩn (? – 818) chùa Chương kính ở Kinh Triệu. Xem Truyền đăng lục 7 tờ 252b19-c23.
(22) Lâm Huệ Sinh tức Huệ Sinh tăng thống (? – 1064) của thế hệ thứ 13 của giòng Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Thế hệ này theo Thiền uyển tập anh
thì gồm cả thảy sáu người, nhưng nó chỉ ghi lại tiểu sử của bốn người
thôi, đấy là Lâm Huệ Sinh, Khương Thiền Nham, Nguyễn Minh Không, và
Nguyễn Bản Tịch, chứ không có người nào mang tên Vương Chân hết. Thế hệ
thứ 14 cũng không có ai mang tên đó cả. Thế hệ thứ 12 cũng vậy, chỉ có
tên Vạn Hạnh, Ðịnh Huệ, Ðạo Hạnh, Trì Bát và Thuần Chân. Phải chăng
Vương Chân là một viết sai của Thuần Chân hay Chân Không?
(23) Mai Viên Chiếu (999 – 1090) và Nhan Quảng Trí (mất khoảng những
năm (1085-1091) thuộc thế hệ thứ 7 của giòng Vô Ngôn Thông. Thế hệ này
có bảy người nhưng Thiền uyển tập anh chỉ ghi lại tiểu sử và tên
sáu người thôi, đấy là Mai Viên Chiếu, Ðàm Cứu Chỉ, Nghiêm Bảo Tính,
Phạm Minh Tâm, Nham Quảng Trí và Lý Thái Tôn, chứ không ghi ai tên Lôi
Hà Trạch cả. Những thế hệ trước và sau thế hệ này cũng không ai mang tên
ấy hết. Nhưng ở tiểu sử của Nguyễn Giác Hải thuộc thế hệ thứ 10 cũng
của giòng Vô Ngôn Thông này, ta được bảo: "Hải trước cùng với Không Lộ
đều thờ Hà Trạch làm thầy, sau bỗng chốc trở thành pháp tự của Lộ."
Như
vậy, quả có một Thiền sư có lẽ thuộc thế hệ thứ 7 hay cùng lắm là thứ 8
mang tên là Hà Trạch, mà cả Giác Hải và Không Lộ thờ làm thầy. Nhưng ở
trong bản tiểu sử của Không Lộ thì chỉ nói rằng Lộ "trong khoảng Chương
Thánh Gia Khánh (1059-1065) đã cùng với bạn đạo là Giác Hải đều vân du
phương ngoại, tạm đến chùa Hà trạch nương thân". Thế thì, Hà trạch là
tên một ngôi chùa, chứ không phải là tên người. Tuy nhiên, tên chùa cũng
có thể dùng xưng hô thế cho tên người. Lôi Hà Trạch do vậy là một nhân
vật có thật và có lẽ thuộc thế hệ thứ 7 hay cùng lắm là thứ 8 của giòng
Vô Ngôn Thông, bởi vì Không Lộ là thuộc thế hệ thứ 9 của giòng này. Từ
đó, chữ "tức kim" đi trước chữ "Lôi Hà Trạch" trong nguyên bản, chúng
tôi coi như những diễn tự và đã bỏ đi không dịch.
(24) Toàn thư 1 tờ 3b6-9 (Thái Bình) năm thứ hai (971) lần đầu
tiên định giai phẩm của văn võ vàTăng đạo, lấy….Tăng thống Ngô Chân Lưu
cho hiệu Khuông Việt thái sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ, Ðặng
Huyền Quang làm Sùng chính uy nghi". Tăng lục như vậy là một chức quan
do triều đình đặt ra cho Phật giáo và bắt đầu ở nước ta ngay từ lúc Ðinh
Tiên Hoàng mới lập quốc, qua nhà sư tên Trương Ma Ni. Ở Trung quốc,
chức này bắt đầu xuất hiện với Ðoan Phủ dưới triều vua Ðường Văn Tôn
(827-840). Chức năng của chức này có thể thấy qua lời chiếu sau đây viết
đầu thời Vũ tôn: "có Phật pháp đến đây, từ xưa tới nay, hưng phế có gì
làm chứng, xin lưỡng nhai Tăng lục cùng các Sư tam học viết ra những sự
việc, dâng lên". Xem Ðại Tống tăng sử lược quyển trung tờ 243c26-28.
Chức năng của Tăng lục ngoài việc giữ giấy tờ hộ tịch, như vậy còn có
chức năng của một Sử quan Phật giáo, một chức năng khá thích hợp với
Biện.
(25) Tục ban áo tía cho các nhà sư bắt đầu tới Võ Tắc Thiên (684-774)
ở Trung quốc. Năm 690, nhà sư Pháp Lãng đã tìm một dẫn chứng trong kinh
Ðại vân biện minh cho sự lên ngôi của Thiên, nên được Thiên phong làm
Huyện công và ban áo cà sa tía. Xem Ðại Tống tăng sử lược quyển hạ tờ
248c3-249a29. Ở nước ta, Thông Biện là người đầu tiên nhận áo tía được
biết.
(26) Ðại Tống tăng sử lược quyển trung tờ 244b29-c15 nói về lai lịch
của chức Quốc sư, bắt đầu với Pháp Thường dưới thời Bắc Tề (550-577), đã
xác định nội dung nó thế này: "Về giáo lý bên trong thì học thông cả ba
tạng, gồm thông cả năm món học, cả nước quy y theo, thế là làm rõ hiệu
đó". Năm món học hay ngũ minh nói tới đây tức là triết học, ngôn ngữ
học, luận lý học, y dược học và kỹ thuật học. Ở nước ta thì Khô Ðầu có
lẽ là vị sư đầu tiên được biết mà Lý Nhân Tôn phong làm Quốc sư năm
Quảng Hựu thứ tư (1088). Toàn thư quyển 3 tờ 11b9-12a2 còn ghi
thêm: "Có nơi nói, vua ban cho Sư tiết việt, cùng với tể thần đứng ngang
hàng trên điện vua để xử đoán việc vàn và kiện tụng của thiên hạ". Nhìn
đó, ta có thể thấy sơ vai trò của Quốc sư trong triều đình và lịch sử
Việt nam.
16. ÐẠI SƯ MÃN GIÁC
(1) Cửu liên là tên một châu. Ðại Việt sử lược 3 tờ 20b7 nói
Lý Huệ Tôn "năm Kiến Gia thứ 8 (1218) tháng tư đi chơi châu Cửu liên xem
bắt cá". Ðó cũng là nơi đóng quân của Trần Tự Khánh vào mùa xuân năm
1215, rồi sai các tướng mình lên đóng ở Cửu Cao và Cửu ông để chống lại
Nguyễn Nộn. Toàn thư B4 tờ 29b1-5 nói mùa xuân năm 1216 Lý Huệ
Tôn "ban đêm cùng với phu nhân lén đi đến quân của Tự Khánh, gặp trời
sáng, dừng lại nhà của tướng quân Lê Mích ở huyện An diên thì gặp tướng
của Tự Khánh là Vương Lê đem thủy quân đến đón. Vua bèn ở lại châu Cửu
liên, gọi Tự Khánh đến chầu". Ðại Việt sử lược 3 tờ 29b8-11 cũng
ghi những sự việc ấy, nhưng không nói rõ lộ trình và nơi trú lại của Huệ
Tôn. Ðiều quan trọng là nó ghi lại ngày tháng xảy ra sự việc đó vào
ngày Giáp tuất (nguyên bản viết là Giáp thìn, nhưng nghi thìn là chữ
tuất viết lộn) bởi vì 13 ngày sau vào ngày Bính tuất (nguyên bản viết là
Canh tuất, Canh nghi là viết sai của chữ Bính) Ðại Việt sử lược 3 tờ 30a2 nói: "Tự Khánh dựng điện cỏ ở Tây phù liệt, qui mô nó hoàn toàn phỏng theo Ðại nội", mà Toàn thư thì
nói Lý Huệ Tôn ở lại Cửu liên và cho gọi Tự Khánh tới châu ở đó. Thế
là, nếu Cửu Liên không là Tây phù liệt, như vậy có thể nằm trong khoảng
phần đất hai huyện Thanh oai và Thanh trì, tỉnh Hà đông ngày nay.
Truyện của Mãn Giác ở đây nói vua Lý Nhân Tôn cùng "Linh Nhân hoàng
thái hậu lúc mới lưu tâm đến Thiền học, liền xây chùa bên cạnh cung Cảnh
Hưng, mời Giác tới để tiện hỏi han". Ðại Việt sử lược 2 tờ
12b6-7 cho biết "Năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 7 (1065) tháng 8 vua đến
chơi hành cung Cứu lan, đặt tên cung đó là Cảnh hưng". Vậy dựng chùa ở
cung Cảnh hưng tức dựng ở hành cung Cứu lan. Cứu lan đây chắc là một
viết khác của Cửu liên. Như vậy, chùa Giáo nguyên ở Cửu liên, tức là
chùa do Lý Nhân Tôn dựng bên cạnh cung Cảnh hưng, nghĩa là bên cạnh cung
Cứu lan. Nó có lẽ là chùa Cứu lan mà Huyền Quang làm bài tứ tuyệt "Nhân
sự đề Cứu lan tự" do Trích diễm thi tập ghi lại và Lê Quí Ðôn dẫn ra
trong Kiến văn tiểu lục 9 tờ 18a4-6.
(2) Hai tên Lũng chiền và An cách này không thấy sử sách nào nói tới.
Tuy nhiên, Bắc thành địa dư chí lục 3 trong khi liệt kê các tổng xã của
huyện Duy tiên, có kê hai xã của tổng Hồng khê mang tên Lũng xuyên và
Chiền đầu. Chúng tôi nghĩ rằng hai xã Lũng xuyên và Chiền đầu này vào
thời Lý chắc là ấp Lũng chiền thuộc làng An cách của Mãn Giác nói ở đây.
Ðất của làng An cách đời Lý như vậy thuộc địa phận huyện Duy tiên tỉnh
Hà nam ngày nay. Chúng tôi hiện chưa có dịp làm một cuộc khảo sát hiện
địa, nên chỉ đoán vậy thôi. Truyện Mãn giác ở đây cũng nói làng An cách
có chùa Sùng nghiêm. Ðây là một điểm chỉ rất tốt cho công tác điều tra
hiện địa của chúng ta, vì ta có thể tìm xem hiện ở hai làng Lũng xuyên
và Chiền đầu ngày nay có ngôi chùa nào không?, và chùa đó có phải trước
có tên Sùng nghiêm không?
(3) Tức Lý Hoài Tổ làm trưởng đoàn phái bộ ngoại giao qua cáo ai và
xin phong năm 1073. Xem Lý Ðào, Tục tự thị thông giám trường biên 243 tờ
5a7.
(4) Vô sư trí tức thứ trí tuệ không do thầy truyền dạy, thường dùng
để chỉ cho Phật trí hay tự nhiên trí hay nhất thiết trí. Phẩm thí dụ
kinh Pháp hoa có câu: "Nhất thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô
sư trí". Pháp Tạng giải thích: "Vô sư trí tức là thứ trí tuệ trước vì
không do thầy mà được, nên gọi là vô sư trí". Xem Diệu pháp liên hoa kinh sớ 6.
(5) Do Thánh Tôn dựng vào năm 1065. Ðại Việt sử lược 2 tờ
12b6-7 vào năm đó viết: "Tháng 8, ngày Quí mùi, vua đi chơi hành cung
Cứu lan đặt tên cung đó là Cảnh hưng". Cung này như vậy ở tại núi Cửu
liên, làng An cách.
(6) Chép năm 1096 này là năm Mãn Giác mất, sợ là một sai lầm, bởi vì
đến thế hệ thứ 9 Mãn Giác có một người đệ tử tên Bản Tịnh, và Thiền uyển tập anh chép
Tịnh mất năm 1176 lúc ông 77 tuổi. Như thế Tịnh sinh năm 1100 và do đó
làm sao có thể gặp Mãn Giác được để làm đệ tử? Giả như ta cho con số 77
là một viết sai của 97 đi nữa, thì vào năm Giác mất, Tịnh mới 16 tuổi,
nghĩa là Tịnh đang ở vào cái tuổi chưa thể nhận tâm ấn của Giác một cách
dễ dàng. Vì vậy chúng tôi nghĩ, có lẽ Mãn Giác mất vào năm 1100, tức
năm Hội Phong thứ 9, bởi chữ ngũ rất dễ lẫn với chữ cửu, và như thế, nếu
Tịnh sống tới 97 tuổi, ta có một giải quyết thoả đáng cho vấn đề liên
hệ thầy trò giữa Giác và Tịnh.
17. Thiền sư NGỘ ẤN
(1) Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết: "Núi Ninh ở
phía bắc huyện lỵ Chương đức 19 dặm, trông ra sông Hát, triều Lê dựng
hành cung trên núi để làm nơi đến viếng chơi". Lịch triều hiến chương loại chí
2 tờ 31a1-2 nói: "Ninh sơn ở phần trên huyện Chương đức, trông ra sông
Hát, cảnh trí u nhã. Trịnh Hy Tổ thuở trước thường xây dựng làm nơi du
hành". Huyện Chương đức, theo Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hà
nội, thì đông giáp huyện Thanh oai, tây giáp huyện Mỹ lương, tỉnh Sơn
tây nam giáp huyện Hoài an và bắc giáp huyện Yên sơn, tỉnh Sơn tây. Ðất
huyện Chương đức như vậy tương đương với huyện Chương mỹ, tỉnh Hà đông
hiện nay. Ninh sơn nằm tại huyện đấy.
(2) Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, khi viết về lai lịch
phủ Ứng hòa nói: "Ðời Hán thuộc quận Giao chỉ, đời Lý lấy làm phủ Ứng
thiên, sau cải làm huyện Ứng thiên, đời Minh cải làm Ứng bình thuộc châu
Oai man lệ, phủ Giao châu. Lê Quang Thuận lại đặt làm phủ Ứng thiên
thuộc Sơn nam, Thừa tuyên, gồm 4 huyện. Năm Cảnh hưng thứ 2 (1741) nó
lại thuộc lộ Sơn nam thượng. Ðời Tây sơn nó thuộc trấn Sơn nam thượng.
Năm đầu Gia Long triều ta nhân theo. Năm thứ 14 (1815) cải làm phủ Ứng
hòa. Năm Minh Mạng thứ 3 (1823) cải thuộc trấn Sơn nam, đến năm 12
(1831) đổi không thuộc. Năm thứ 13 (1832) trích hai huyện Chương đức và
Thanh oai, đặt làm phân phủ. Năm Tự đức thứ 31 (1878) bỏ phân phủ. Nó
vẫn gồm bốn huyện".
Bốn huyện của phủ Ứng hòa nói đây là Sơn minh, Hoài an, Chương đức và
Thanh oai, tức đất những huyện Ứng hòa, Mỹ đức, Chương mỹ, và Thanh
oai, tỉnh Hà đông hiện nay. Phủ Ứng thiên thời Lý chắc gồm phần lớn đất
của bốn huyện này.
(3) Thiền uyển tập anh hai lần kể ra tên Kim bài. Một ở đây và
một ở truyện Thần Nghi tờ 39b8. Truyện Thần Nghi nói Nghi ở "chùa Thắng
quang, làng Thị trung, Kim bài". Kim bài này như vậy, chắc chắn chỉ một
địa phận lớn hơn đơn vị làng. Nhưng ở đây, ta được bảo Ngộ Ấn "người Tư
lý, làng Kim bài". Vậy ta có thể giả thiết có làng Kim bài thuộc châu
Kim bài hay phủ Kim bài. An nam chí lược 1 tờ 27 có nói sự tích
bãi Kim bài, nhưng không nói rõ nó nằm ở đâu. Cứ Bắc thành địa dư chí
lục 3 tờ 12a6 thì tổng Thời trung của huyện Thanh oai vào thời Gia Long
có xã Kim bài. Ðất làng Kim bài và châu Kim bài thời Lý như vậy chắc
chiếm một phần đất huyện Thanh oai, tỉnh Hà đông ngày nay. Ấp Tư lý của
Ngộ Ấn ở đây rất có thể là làng Úc lý, tổng Ðông Cứu của huyện Thanh Oai
trong Bắc thành Ðịa dư chí lục 3. Nếu vậy, địa phận làng Kim bài xưa
chắc gom hai tổng Thời trung và Ðông cứu.
(4) Cụ Sư nghi là tên người, bởi vì Toàn thư B3 tờ 22b5 và 37a7 có ghi tên hai người Chiêm Thành, mà tên họ bắt đầu bằng chữ Cụ, đấy là Cụ Ông và Cụ Ban. Về Cụ Ông, Toàn thư viết:
"Năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 (1124) người nước Chiêm thành là Cụ Ông và
đồ đệ ba người đến chầu". Về Cụ Ban, nó viết thêm: "Thiên Thuận năm thứ 5
(1132) mùa thu tháng 7 người nước Chiêm thành là Cụ Ban v.v…trốn trở
lại nước mình, đến Nhật lệ thì bị người trại Nhật lệ bắt gởi về kinh
sư".
(5) Thiền sư Triệu Châu (778-897).Có vị sư hỏi: "Con chó có Phật tánh
không?". Châu trả lời: "không". Xem Vô môn quan tờ 292c21.
(6) Thiền sư Duy Khoan(735-817). Có vị sư hỏi: "Thế nào là đạo?". Sư
đáp: "Núi đẹp lớn". Tăng nói: "Kẻ học đạo mà hỏi thầy về đạo, sao thầy
lại nói về núi đẹp?" Sư đáp: "Ngươi chỉ biết có núi đẹp thì làm sao mà
đạt đạo". Tăng hỏi: "Con chó có Phật tính không?" Sư đáp: "Có". Tăng
hỏi: Hoà thượng có có không?". Sư đáp: "Ta không có". Tăng hỏi: "Tất cả
chúng sanh đều có Phật tính, Hoà thượng vì sao mà riêng không có?" Sư
đáp: "Ta chẳng phải là tất cả chúng sanh". Tăng hỏi: "Ðã chẳng phải là
chúng sanh thì là Phật sao?" Sư đáp: "Chẳng phải Phật". Xem Truyền đăng lục 7 tờ 255a1�6-22.
(7) Thiền sư Duy Khoan. Bạch Cư Dị thường đến hỏi Sư: "Thiền sư lấy
gì mà thuyết pháp?". Sư đáp: "Vô thượng bồ đề, mặc ở thân là luật, nói ở
miệng là pháp, hành ở tâm là thiền. Ứng dụng nó thì có ba, nhưng đích
nó là một. Ví như sông Dương tử, sông Hoàng Hà, sông Hoài, sông Hán tùy
theo chỗ mà đặt tên, tên tuy không phải là một, nhưng tính nước không
phải là hai. Luật tức là pháp, pháp tức là thiền, thì làm sao trong đó
có thể dối dấy lên sự phân biệt". Xem Truyền đăng lục 7 tờ 255a25-29.
18.Thiền sư ÐẠO HUỆ
(1) Tức núi Tiên du hay núi Phật tích tại xã Phật tích, huyện Tiên
du, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Xem chú thích (1) truyện Thiền Lão.
(2) Tức làng Chân hộ, huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Làng
này theo Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 và 3 là nơi quê hương của
số tiến sĩ thời Hậu Lê như Ngô Phúc Tinh khoa năm 1535, Nguyễn Nghiêu Tá
và Ngô Khánh Nồng khoa 1556, Nguyễn Long Bảng khoa 1683. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Ðê yến, giữa những cửa cống của sông Nguyệt đức, tức sông Cầu, có ghi cửa cống làng Chân hộ.
(3) Như Nguyệt đây, cứ một câu cuối truyệ�n Ðạo Huệ theo đấy sau khi
Huệ chết, "môn đồ Quách tăng thống sắm đủ lễ vật, đem về bản quận làm lễ
trà tỳ", chắc là tên một quận đời Lý. Nó cũng có thể là một gọi tắt của
Như nguyệt giang lộ, mà An nam chí lược 1 tờ 19 đã ghi lại. Ðịa
phận nó chắc bao gồm những làng mạc nơi ngã ba làng Như nguyệt hiện nay,
trong đó phần đất huyện Yên phong chắc phải thuộc vào.
(4) Tức Thông Biện, Biện họ Ngô mà vì giỏi kinh Pháp hoa, nên cũng gọi là Ngô Pháp Hoa. Ngô Pháp Hoa cũng là Ngộ Pháp Hoa đấy. Xem truyện Thông Biện trước.
(5) Tam quán tam ma địa, tức lối Thiền định dùng ba lối quán tưởng.
Có tam quán của tôn Hoa nghiêm. Có tam quán của tôn Duy thức. Có tam
quán của tôn Luật. Có tam quán của tôn Thiên thai. Và có tam quán tam ma
địa của kinh Viên Giác. Tam quán tam ma địa ở đây có thể là tam quán
của kinh Viên giác, mà truyện Viên Chiếu đã nói tới và đã giải thích, và
nó là một thứ thiền định thường được ưa chuộng trong Thiền tôn Việt
nam. Nhưng bởi Ðạo Huệ là đệ tử của Thông Biện, một chuyên viên về kinh Pháp hoa
nổi tiếng đến nỗi có tên là Ngộ Pháp Hoa, tam quán tam ma địa ở đây, do
thế, có thể chỉ tam quán của Thiên thai tôn đã dùng kinh Pháp hoa như một văn kiện nghiên cứu và tu hành cơ bản.
Phép
tam quán của tôn này gồm có Không quán, Giả quán và Trung quán. Không
quán tức nhìn sự vật bằng bản chất không của chúng, nghĩa là nhìn chúng
xuất hiện do điều kiện. Khi nhìn được thế rồi, ta tiến tới được cái nhìn
giả, tức giả quán, nghĩa là ý thức được rằng sự vật nằm trong một sự
liên hệ hỗ tương, nên chúng phải tùy thuộc vào sự liên hệ đó, mà không
thể có sự độc lập tuyệt đối được. Sau khi đạt được cái nhìn đó, ta tiến
thêm một bước thứ ba, đấy là cái nhìn trung đạo, tức cái nhìn nhận sự
vật trong chân tướng của nó, không còn nhìn nó hoặc như một xuất hiện
hoàn toàn do điều kiện, hoặc hoàn toàn lệ thuộc vào những điều kiện ấy.
Nó cũng có một hiện hữu nào đấy trong hệ thống liên hệ hỗ tương.
(6) Nguyên văn: Ðại Ðịnh nhị thập niên Thụy Minh hoàng cơ đắc tật. Nhưng cứ Toàn thư B4
tờ 10a3 thì "Ðại Ðịnh năm thứ 12 mùa đông tháng 10 (1151) Thụy Minh
công chúa mất". Như vậy vào năm 1151 công chúa Thụy Minh tức bà cô của
Lý Anh Tôn và là con của Thần Tôn, đã mất. Do thế, không thể nào đến năm
Ðại Ðịnh thứ hai mươi, tức năm1159, lại còn bị đau. Phải chăng chữ nhị
thập ở đây là một viết ngược của chữ thập nhị? Ðây là có thể gần thật
nhất, bời vì Thiền uyển tập anh có nhiều điều viết ngược tương tự, như tên của Lương Nhiệm Văn thì viết thành Lương Văn Nhiệm là một thí dụ. Tuy nhiên, Toàn thư đôi khi có những sai khác với những sử liệu khác như Ðại Việt sử lược, nhất là về một số niên đại của một số nhân vật nên ta không nhất thiết phải tin hoàn toàn ở Toàn thư. Chẳng hạn, theo Toàn thư B5 tờ 5b7 thì Nguyễn Nộn mất vào năm Kiến Trung thứ 5 (1229), nhưng theo Ðại Việt sử lược 3 tờ 31b3 thì Nộn đã chết trước đó 10 năm, tức năm Kiến Gia thứ 9 (1219).
(7) Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội, viết: "Chùa Báo thiên
ở tại thôn Tiên thị, huyện Thọ xương, xưa gọi là phường Báo thiên, do
vua Lý Thánh Tôn dựng. Vua lại xây bảo tháp Ðại thắng tư thiên, cao vài
chục trượng, hình thức nó gồm 12 tầng. Vua phát đồng 12000 cân để đúc
chuông. Ðến đời Nhuận Hồ, đỉnh tháp rơi. Quan An phủ sứ đông đô vì không
báo tai biến đo,� bị biếm chức. Cuối đời Lê, Ngụy Tây gỡ lấy gạch ngói
để dùng việc xây cất khác. Các ngói gạch ấy đều có khắc niên hiệu thời
Lý. Nay những hòn đá xanh còn lại có hình hoa sen là những hòn đá xây bề
ngoài của tháp, còn những viên có tám góc là những viên xây bệ tháp.
Chúng đều những vật xưa cả". Tang thương ngẫu lục quyển hạ viết: "Bảo
tháp Ðại thắng tư thiên tại chùa Báo thiên dựng từ thời vua Lý Thánh
Tôn. Tháp xây 12 tầng, cao mấy chục trượng. Tương truyền bốn vật lớn của
An nam thì tháp này là một. Khoảng Minh Tuyên Ðức, Thái Tổ hoàng đế của
tiên triều tiến binh vây Ðông đô.
Viên tướng giữ thành là Thành
sơn hầu Vương Thông, phá hủy tháp lấy đá chế súng để giữ thành. Tiên
triều nhân nền cũ đắp các núi đất phủ lên trên. Sau hồi thay đổi triều
vua, người ta lại bỏ chùa để làm chợ Báo thiên, dùng các núi đất làm chỗ
để xử tử người tội. Năm Giáp dần (1794) lại cho đào lấy những gạch đá ở
nền tháp để tu bổ thành lũy Thăng long. Khi phá nền tháp, thấy có tám
pho tượng Kim cương chia đứng bốn cửa. Ngoài ra còn có những tượng người
tiên, chim muông, cả đến những giường ghế, chén bát, các thứ lặt vặt
không thể kể xiết, toàn bằng đá cả. Những hòn gạch hoa, hòn nào cũng
thấy khắc những chữ "Lý gia đệ tam để Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo".
Mẩu tin của Tang thương ngẫu lục liên quan đến việc nhà Lê cho đắp nền đất trên nền tháp Báo thiên chắc chắn là sai, bởi vì cả Toàn thư B11 tờ 10a9-b2 và Cương mục chính biên 16 tờ 11b4 đều ghi việc trùng tu chùa Báo thiên vào năm 1434. Ðây là một cuộc trùng tu lớn, như chính Toàn thư thừa
nhận với cái mô tả "thợ mộc trọng đại" do nhà nước đảm nhận sáu năm sau
ngày đất nước hoàn toàn giải phóng khỏi bọn xâm lược Minh. Không những
thế, cảToàn thư B12 và Cương mục chính biên 18 tờ 5b4 đều
nói năm 1448 Lê Nhân Tôn cùng mẹ đến chùa Báo thiên để cầu mưa. Như vậy,
rõ ràng không phải "Tiên triều đã nhận nền cũ của chùa để đắp các núi
đất phủ lên trên". Tiên triều đấy có thể chỉ đời Lê Trung Hưng chăng?.
Dẫu sao đi nữa, nền cũ chùa Báo thiên hiện nay nằm trên nền nhà thờ lớn Thiên chúa giáo Hà nội. Cũng cần thêm là, Ðại Việt sử lược và Toàn thư B4
tờ 14b1 nói Chính Long Bảo Ứng năm thứ 10 (1162) thì phải là năm Nhâm
thìn, chứ không phải Ất hợi. Thật ra, trong khoảng Chính Long Bảo Ứng,
tức từ năm 1163 đến 1172, không có năm nào là năm Ất hợi hết. Do thế, Ất
hợi là một chép lầm của Nhâm thìn. Tự dạng những chữ đó rất giống nhau.
19. THIỀN SƯ BIỆN TÀI
(1) Ðại Việt sử lược 2 tờ 3a6 và Toàn thư B2 tờ 5a2 viết: "Năm Thuận Thiên thứ hai (1011) dựng chùa Vạn tuế trong thành". Tây hồ chí
phần Chùa am, nói: "Chùa Vạn niên ở phía tây hồ Tây thuộc địa phận ấp
Quán la, xưa tên Vạn tuế, sau đổi Vạn niên. Năm Giáp dần Thuận Thiên thứ
5 (1014) Hữu nhai tăng thống tâu xin lập giới đàn tại đó cho tăng chúng
thọ giới. Vua chuẩn tấu. Thời đó, những danh tăng như Lâm Huệ Sinh, Lý
Thảo Ðường kế tiếp trụ trì tại đây. Sau có nhà sư khác thường ở Quảng
châu là Biện Tài đến, viết sửa Chiếu đối lục, còn lưu hành. Chùa nay còn".
(2) Lý Thánh Tôn, cả bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn, đều viết Hiếu
Thánh Tôn. Chúng tôi nghi chữ hiếu là một viết sai của chữ lý. Tự dạng
chúng khá giống nhau. Tài đến nước ta dưới thời Lý Thánh Tôn. Như vậy,
Tài rất có thể là một trong những tù binh người Trung quốc do Lý Thánh
Tôn bắt về Hà nội kiểu Thảo Ðường trong chiến dịch đánh Chiêm thành năm
1069.
(3) Chiếu đối lục. Cứ một câu truyện Thần Nghi tờ 40a9 thì cũng gọi là Chiếu đối bản. Theo câu đấy, thì tác giả của Chiếu đối bản là Thông Biện, chứ không phải là Biện Tài. Phải chăng Chiếu đối lục và Chiếu đối bản là hai tác phẩm? Ta có thể nói rằng Chiếu đối bản là một tác phẩm hoàn toàn của Thông Biện, còn Chiếu đối lục là một tác phẩm do Biện Tài phụng sắc vua sửa lại Chiếu đối bản
của Thông Biện mà thành. Dĩ nhiên, những thêm thắt sửa sai của Tài chắc
chắn tương đối phải ít, bởi vì Tài là đệ tử nối dòng của Thông Biện, và
do đó, dẫu có thêm bớt sửa sai Chiếu đối bản, Tài làm vậy để làm
rạng rỡ uy danh của thầy mình. Vì vậy, ta không có gì đáng ngạc nhiên,
khi thấy về sau những người như Thường Chiếu và Quách Thần Nghi chỉ nhắc
tên Thông Biện trong liên hệ với Chiếu đối bản, mà không nhắc gì tới Biện Tài, và cũng từ đó ta có thể nói Chiếu đối lục tức cũng là Chiếu đối bản với một vài tu chỉnh nào đấy, mà ngày nay ta không biết. Cả Chiếu đối lục lẫn Chiếu đối bản đã tán thất hiện nay chưa tìm thấy. Tây hồ chí viết khoảng sau năm 1851 là tác phẩm duy nhất nói tới Chiếu đối lục của Biện Tài.
20. THIỀN SƯ BẢO GIÁM
(1) Lời cầu án của Nguyễn ThiênTích tring Ðịa dư chí của Nguyễn Trãi kê My lương như một huyện của phủ Quảng oai thuộc Sơn tây. Nhưng Ðại nam nhất thống chí,
tỉnh Sơn tây, mục Kiến trí diên cách nói: "huyện Mỹ lương vốn là huyện
Quảng oai. Ðời Trần về trước nguyên có tên huyện Mỹ lương. Ðời Minh nhân
theo, lệ nó vào châu Quảng oai. Ðời Lê Quang Thuận nó thuộc phủ Quảng
oai. Khoảng năm Cảnh Hưng, đổi nó thuộc phủ Quốc oai. Triều ta nhân
theo. Năm Tự Ðức thứ 5 (1852) bỏ tri huyện, do phủ kiêm lý, gồm 7 tổng,
49 xã thôn". Về vị trí huyện này, nó viết: "Ở cách phủ lỵ 18 dặm, đông
tây rộng 53 dặm, nam bắc rộng 64 dặm, từ huyện lỵ phía đông đến ranh
giới huyện Chương đức tỉnh Hà nội 2 dặm, phía tây đến ranh giới huyện
Bất bạt 51 dặm, phía nam đến ranh giới huyện An hóa, tỉnh Ninh bình 62
dặm, phía bắc đến ranh giới huyện An sơn 2 dặm". Cứ vào mô tả này, thì
đất huyện Mỹ lương cũ nằm trong địa phận huyện Lương sơn tỉnh Hoà bình
ngày nay.
Cũng cần thêm là hai chữ Quân chương, chúng tôi nghi là do chữ quận
viết rời và sai mà tạo nên, bởi vì chữ chương rất có thể là chữ ấp viết
sai, một điều khá tự nhiên, và nếu vậy thì chữ "quân ấp" là chữ quận
viết rời. Hơn nữa, trong truyện nói chùa Bảo phúc là thuộc Ða vân, chứ
không phải là thuộc Quân chương, dù ta không biết Ða vân là ấp hay là
hương. Dĩ nhiên, Ða vân có thể là tên một ấp, và Quân chương là tên chùa
Bảo phúc vì vậy có thể thuộc cả Ða vân lẫn Quân chương. Dẫu sao đi nữa,
bản in đời Lê có Quân chương, mà bản đời Nguyễn khắc thành Quận chương,
chúng tôi tiếp tục để nguyên như vậy để tồn nghi.
(2) Truyện này chỉ nói Bảo Giám người làng Trung thụy, nhưng truyện
Quảng nghiêm tờ 36a11 nói chùa Tịnh quả của Nghiêm ở tại "Trung thụy,
Trương canh". Trương canh, cứ Kiến văn tiểu lục 6 tờ 2a6, thì
"đời Lý Trần đặt quận Trương canh tại Ðan phụng". Trước đó, ở tờ 1a3-4
nó có viết: "Các huyện Từ liêm và Ðan phụng của phủ Quốc oai có nhiều
bãi dâu nên chuộng nghề nuôi tằm dệt vải. Các xã Hạ hội, Thiên mụ, Ỷ la,
Trung thụy và Ðại phùng giỏi dệt các thứ vải quyến the và sa cùng các
loại vải quyến dày, mà tục gọi là lãnh, bả và lãng". Trung thụy như vậy
là tên một làng thuộc huyện Ðan phụng. Do thế, nói rằng Bảo Giám người
Trung thụy, tức cũng nói Bảo Giám quê quán làng Trung thụy huyện Ðan
phụng. Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 1 ghi " làng Trung thụy, hạt
Ðan phụng" là quê của Ðàm Ðình Phương tiến sĩ khoa 1481. Nay là làng
Trung thụy huyện Ðan phụng tỉnh Hà đông.
Ðây là tên gọi tắt những bộ sách chính yếu của các nhà Nho. Thi tức
Kinh thi hay Thi kinh, sách chép những bài thơ và ca dao xưa nhất của
Trung quốc, tương truyền là do Khổng Khưu san định. Thư tức Kinh thư hay
Thư kinh, cũng gọi là Thượng thư, sách chép về cổ sử Trung quốc. Lễ tức
Lễ ký, bộ sách chép về các lễ nghi và cách cư xử ấn định theo tập tục
phong kiến cổ sơ của Trung quốc. Dịch tức Chu dịch, bộ sách bói khoa,
tương truyền là do Cơ Ðán viết ra và Khổng Khưu san hộ.
(4) An nam chí lược 14 tờ 133 ghi Cung hầu xá nhân như một chức quan văn tương đương với Nội trực điện của bên võ.
(5) Ðộng Sơn Lương Giới, Bảo kỉnh tam muội ca:
"Nghệ dĩ xảo lực
Xạ trúng bách bộ
Tiển phong tương trực
Xảo lực hà dự"
Xem Nhân thiên nhãn mục 3 tờ 321b5.
21. THIỀN SƯ KHÔNG LỘ
(1) Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Nam định, viết: "Chùa Thần
quang, xưa là Nghiêm quang, ở tại xã Dũng Nhuệ, huyện Giao Thủy, thể chế
rộng rãi, là chỗ trụ trì của Dương Không Lộ, nay hiển linh, phàm có
thiên tai thủy hạn đến cầu liền nghiệm". Chùa Thần quang ngày nay như
vậy là chùa Nghiêm quang thời Lý. Làng Dũng nhuệ nay gọi là làng Dũng
nghĩa thuộc huyện Giao thủy, tỉnh Thái Bình. Chùa Thần quang thường cũng
gọi tắt là chùa Keo, hiện vẫn còn.
Xác định vị trí chùa Nghiêm quang như vậy thì vị trí Hải thanh đương
nhiên phải rơi vào địa phận huyện Giao thủy, tỉnh Thái bình ngày nay.
(2) Chùa Hà trạch này chắc là chùa của Lôi Hà Trạch, tên một vị Thiền
sư mà Thông Biện nói tới như người đồng thời với Mai Viên Chiếu và Nhan
Quảng Trí. Xem chú thích (22) truyện Thông Biện. Việt sử tiêu án
1 tờ 109b3 ghi lời bàn của Ngô Thời Sỹ thế này: "Triều Lý sùng Phật, từ
Vạn Hạnh nổi tiếng, người ta ưa theo. Tiếp đến có Dương Không Lộ,
Nguyễn Giác Hải đều người Hải thanh, thờ sa môn Hà Trạch làm thầy. Lại
có Chân nhân Thông Huyền cũng nổi tiếng phép thuật, nên Nhân Tôn có lời
khen: "Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo lại huyền". Nhưng kêu rồng
xuống làm cọp nép, đấy chẳng phải tài phò nguy định loạn. Ði trên không,
bay giữa trời, đấy chẳng cách trị dân giữ nước…"
(3) An nam chí nguyên 3 tờ 211 dẫn đoạn này nói về Không Lộ.
Nó viết: "Thiền sư Không Lộ là sư huyện Giao thủy, có thể bay giữa
không, đi trên nước, làm cọp nép, kêu rồng xuống, muôn quái nghìn kỳ,
người không lường nổi".
(4) Không Vương pháp, pháp của Không Vương, tức của Phật, đo đạt được
bản tính không của vạn hữu mà thiết lập. Xem câu hỏi trong truyện Diên
Chiểu ở Truyền đăng lục 13 tờ 303b5:
Bất tằng bác lãm Không Vương giáo
Lược tá huyền cơ thế đạo khan
(5) Bài kệ rập theo bài thơ tặng Duy Nghiễm của Lý Cao trong Truyền đăng lục.
Cao hỏi Nghiễm: "Thế nào là đạo?". Nghiễm giơ tay chỉ trên dưới nói:
"Hiểu không?". Cao đáp: "Không hiểu". Nghiễm nói: "Mây trên trời, nước
trong bình". Cao bèn mừng rỡ sụp lạy và viết bài kệ:
Luyện đắc thân hình tợ hạc hình
Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh
Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết
Vân tại thanh thiên thủy tại bình
(Rèn được thân hình giống hạc hình
Dưới tùng ngàn cỗi đôi hòm kinh
Ta đi hỏi đạo không thêm nói
Mây tại trời xanh, nước tại bình)
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 312b13-17.
(6) Thiền sư Sùng Tín nói với Thầy mình là Ðạo Ngô: Tôi từ thuở tới
đây không được thầy chỉ thị tâm yếu? Ngô đáp: "Từ lúc ngươi tới đây ta
chưa từng không chỉ thị tâm yếu cho ngươi". Tín nói: "Chỉ thị chỗ nào?".
Ngô đáp: "Ngươi mang trà đến ta tiếp cho ngươi, ngươi mang cơm đến ta
nhận cho ngươi. Lúc nào ngươi chào ta, ta liền cúi đầu. Thế thì chỗ nào
là ta không chỉ thị tâm yếu?". Xem Truyền đăng lục 14 tờ
313b19-22. Xem thêm truyện Thiền sư Thiện Hội nói với một tiểu thị giả:
"Ngươi nấu cơm, ta nhóm lửa. Ngươi dọn bàn, ta dở bát. Ta phụ rãy ngươi ở
chỗ nào đâu?". Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b6.
(7) Thiền sư Dược Sơn một đêm kinh hành trên núi, mây vẹt trăng tỏ,
bèn cười vang, truyền dài 90 dặm đông tới Phong dương. Thứ sử Lý Cao
nhân đó làm bài thơ tặng:
Tuyển đắc u cư hiệp dã tình
Chung niên vô tống diệc vô nghinh
Hữu thời, trực thượng cô phong đỉnh
Nguyệt hạ phi vân tiếu nhất thanh.
Xem Truyền đăng lục 14 tờ 312b22.
(8) Bản in đời Nguyễn của An Thiền dưới cái tên Trùng khắc đại nam
thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng chép về một truyện sử hoàn
toàn khác với truyện sử đây về Không Lộ. Nó chép ở tờ 20a6-22a9: "Trong
khoảng Thái Ninh đời vua Lý Nhân Tôn, có Thiền sư Không Lộ, người Lại
trì, huyện Chân định, tỉnh Nam định, họ Nguyễn, thường cùng với Giác Hải
và Từ Ðạo Hạnh kết làm đồng chí. Năm ông 29 tuổi ba người đi qua nước
Thiên trúc, theo học với một vị Sa môn. Ðược lục trí thần thông rồi, bèn
quay trở về quê mình, dựng chùa Diên phúc, chuyên trì chú Ðại bi. Bấy
giờ Không Lộ muốn tạo cho nước Ðại nam bốn món đồ, chỉ hiềm vì nhà nghèo
sức mọn. Một hôm ông nghĩ tới nước Tống đất rộng tất có nhiều đồng tốt
có thể dùng cho việc đúc tạo, bèn liền rút ngắn đường, đi lên phương
Bắc, khách trú ở nhà một trưởng giả, rồi xin đất sáu tấc để dựng chùa.
Vị trưởng giả cười nói rằng: "Xưa Lương Thái tử dựng chùa, đất rộng ngàn
dặm, vàng ròng khắp đất. Sao bây giờ lại lấy sáu tất đất như thể chỗ
chuồng gà mà làm?". Ðêm đó, bèn tung áo cà sa phủ khắp mười dặm đất. Vị
trưởng giả thấy ông có phép làm thần, bèn đem hết vợ con đến lạy tạ. Từ
đó, cả nhà đều qui y Tam bảo.
Ngày hôm sau, ông mặc pháp phục, cầm gậy vào triều, thẳng đứng giữa
sân rồng. Vua bấy giờ đang buổi thị triều thính chính văn võ hai ban,
thấy vị Sư già, bèn triệu vào hỏi: "Lão ông là dân người phương nào, tên
họ là chi, đến đây có việc gì?" Vị Sư già thưa: "Tôi là bần tăng của
một nước nhỏ, xuất gia đã lâu năm, nay muốn tạo bốn món đồ cho Ðại nam,
nhưng vì sức không theo lòng, cho nên tôi không ngại vượt núi băng rừng
ngàn dặm đến đây. Ngưỡng mong Thánh đế mở rộng tấm lòng bố thí cho một
ít đồng tốt, để tiện việc tạo đúc". Vua hỏi: "Ðồ đệ bao nhiêu?". Sư đáp:
"Chỉ một mình bần tăng thôi, xin đầy một bao đồng, tự mình gánh về là
đủ". Vua nói: "Phương Nam đường sá xa xuôi, cho phép Sư tùy sức mà lấy,
chẳng cần đếm ghi". Vị Sư nghèo đã lấy hết kho đồng rồi, mà vẫn chưa đầy
một bao, bèn le lưỡi lắc đầu, vào tâu việc đó. Vua ngạc nhiên hối tiếc,
nhưng nghiệt vì đã hứa cho, nên không thể làm sao được. Vua đem trăm
quân tiễn đưa về nước. Vị Sư nghèo từ chối, nói rằng: "Một bao đồng, tự
mình đủ sức mang đi, chẳng nhọc đưa gánh".
Vị Sư nghèo đi ra ngoài rồi, bèn lấy gậy quảy bao mà đi một cách nhẹ
nhàng. Qua sông bèn lấy nón mà chở, rồi trở về. Trong phút chốc đã tới
bến Hoàng giang, bèn tới chùa Quỳnh lâm, huyện Ðông triều, tỉnh Hải
dương, đúc tượng Phật đại Phật Di Ðà, tháp Báo thiên ở kinh đô một ngọn,
chuông lớn chùa Phổ lại một quả, vạc lớn chùa Phổ minh một cái. Số đồng
còn lại đem đúc hồng chung cho chùa ở xã mình, nặng ba ngàn ba trăm
cân. Lại đúc cho chùa Diên phúc, huyện Giao thủy một quả hồng chung nặng
ba ngàn cân. Công quả hoàn thành, bèn làm bài kệ tán rằng:
Cỡi nón vượt biển lớn
Một giây muôn dặm đường
Tổng đồng một bao hết
Tay múa sức ngàn cân.
Bấy giờ Hoàng đế Nhân Tôn xây điện Hưng Long năm sau mới xong, cực kỳ
tráng lệ. Bỗng nghe trên rường hai con ễnh ương kêu lớn, tiếng như sấm
to. Vua ủ rũ không vui. Lúc ấy, vị chỉ huy sứ tâu: "Chỉ có Không Lộ và
Giác Hải mới trừ được loài quái vật đó". Chỉ huy sứ tức thì nhận lệnh
vào hôm rằm tháng giêng đến trước am sư, Sư hỏi: "Chỉ huy đến sao trễ
thế?" Vị chỉ huy trả lời: "Thầy sao biết trước chức tước của tôi?" Sư
đáp: "Ta cỡi trăng đạp mây nhân vào thành vua, nên sớm biết việc đó".
Ngày đó Sư đến kinh đô. Vua đem một cây đinh lớn đóng vào cột điện, nói
rằng: "Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì làm Pháp chủ". Không Lộ lấy tay
bật cái đinh ra một cách nhẹ nhàng và mật tụng thần chú thì hai con ễnh
ương nghẹn cổ không còn kêu và giây lát rớt xuống đất. Vua thưởng vàng
ròng một ngàn cân, ruộng đèn nhang năm trăm mẫu và phong làm Quốc sư.
Bấy giờ vua Thần Tôn tuổi mới 21, bỗng nhiên biến làm một con cọp dữ,
xông xáo cắn người, nanh vuốt dễ sợ. Vua phải dựng một chuồng vàng mà
nhốt đi. Thì nghe con nít huyện Chân định hát rằng:
Nước có Lý Thần Tôn
Triều đình muôn chuyện thông
Muốn yên bệnh thiên hạ
Phải được Nguyễn Minh Không
Vua xuống chiếu cho vị chỉ huy rằng: "Ðem thuyền đi đón Sư". Vị chỉ huy
đến am, Sư cười nói: "Phải chăng chẳng là chuyện cứu con cọp dữ đó
sao?". Vị chỉ huy hỏi: "Thầy làm sao biết sớm vậy?". Sư đáp: "Ba mươi
năm trước đây ta đã biết chuyện này rồi".
Sư đến, lên trên điện vua ngồi, lớn tiếng nói: "Trăm quan vui lòng
đem đỉnh dầu lớn đến đây". Trong đấy, Sư để thêm một trăm cái kim, rồi
nổi lửa đốt cháy hừng hực. Bên cạnh để cái chuồng giữ vua. Sư lấy tay mò
vào trong đỉnh, lấy ra một trăm cái kim, phóng vào mình vua, quyết
rằng: "LàmThiên tử là quí". Vua tự nhiên lông đuôi vuốt nanh rớt rụng
hết và trở lại làm thân vua. Vua trả ơn bằng vàng ròng một ngàn cân,
ruộng đèn nhang một ngàn mẫu, vĩnh viễn làm ruộng chùa không ghi vào sổ
thuế.
Sư ra đời ngày 14 thánh 8 năm Bính thìn, đến ngày 13 tháng 6 năm Giáp
tuất thì mất. Hiện nay, trước huyện lỵ Thọ Xương, tỉnh Hà nội có đền
thờ Lý Quốc Sư thờ thần tượng Sư hiện có bia ký. Thị dân đạo Tiên muôn
đời đèn nhang phụng sự".
Trên đây là tiểu sử của Không Lộ theo bản in đời Nguyễn của Thiền uyển tập anh
do Hoà thượng Phúc Ðiền thực hiện vào năm 1858 dưới cái tên Trùng khắc
Ðại nam thiền uyển truyền đăng tập lục quyển thượng. Nó rõ ràng là một
hỗn hợp khá lộn xộn những việc làm khác nhau của ba người khác nhau vào
một, đấy là chuyện đi xin đồng của Không Lộ theo truyền thuyết mà đã nổi
tiếng từ thế kỷ thứ 14, như An nam chí lược 15 tờ 147 đã ghi lại
chuyện Giác Hải cùng Thông Huyền làm rơi hai con ễnh ương và chuyện
chữa bệnh vua Lý hần Tôn của Minh Không. Chuyện của Giác Hải thì đã ghi
trong tiểu sử Giác Hải. Chuyện của Minh Không cũng thế. Chúng tất do đó,
không thể nào xảy ra với Không Lộ được. Tiểu sử dịch trên của Không Lộ
như vậy chắc chắn là một tạo dựng hậu kỳ khá vụng về, tối thiểu là từ
bản in đời Lê vào năm 1715 trở đi. Vấn đề bây giờ là ai đã tạo dựng nên
nó? Phải chăng Hoà thượng Phúc Ðiền, người đứng khắc bản in 1858 trên?
Trong lời tựa viết cho bản in năm đó, mà bộ Phật điển tùng san cho in
lại trong Ngự chế thiền điển thống yếu kê đăng lục tờ 1b4-2a1, Phúc
Ðiền nói: "Về phía nước ta thì xưa có Thiền uyển lục là Thiền uyển, tên là Tập anh, ghi
lại nhữngbậc thạc đức cao tăng của ba triều (Ðinh, Lê, Lý) và trình bày
sơ cuộc đời họ". Nhưng trong lổ ngổ không phải một và sai trái thật khó
nghe. Cho nên tôi đã hiệu đính lại, rồi cho chép sạch ra, để in mà công
bố, nhằm giữ lại bản xưa, riêng in làm quyển thượng. Viết thế này, phải
chăng Phúc Ðiền đã khẳng định rằng mình không phải là người đã tạo dựng
nên nó?. Vậy phải chăng nó đã đến từ cái để bản, mà Phúc Ðiền dùng và
gọi là "Cựu bản Tiêu sơn tự" nghĩa là " bản gỗ cũ chùa Tiêu sơn?" Ðây là
một có thể. Nhưng về "Cựu bản Tiêu sơn tự" này nó in năm nào và do ai?
Ta không biết một tí gì hết. Có kẻ sẽ nghĩ rằng "Cựu bản Tiêu sơn tự"
này chính là bản Thiền uyển tập anh in năm 1715 đây. Song, đấy dĩ
nhiên chỉ là một cách nghĩ vô căn cứ, nếu không là hoàn toàn sai lầm,
khi ta thấy sự sửa đổi trầm trọng đã xảy ra ở trên trong bản tiểu sử của
Không Lộ.
Tính tạo dựng hậu kỳ trên của bản tiểu sử càng bộc lộ rõ rệt với sự đồng nhất của truyện Dương Không Lộ trong Lĩnh nam trích quái truyện với bản tiểu sử của Không Lộ trong Thiền uyển tập anh của chúng ta không những về cốt truyện, mà ngay cả về văn từ. Lĩnh nam trích quái
truyện tờ 35: "Hải thanh, Nghiêm quang tự, Không Lộ Thiền sư. Tánh
DươngThị, nãi Hải thanh nhân giả, thế nghiệp điếu ngư, Sư xả kỳ nghiệp
nhi tăng yên, cư thường niệm gia trì đà la ni môn kinh. Chương Thánh Gia
Khánh niên gian, dự Giác Hải vi đạo hữu, tiềm chí Hà trạch tự thê thân
yên, thảo y mộc thực đãi vong kỳ thân, ngoại tuyệt tha cầu, nội tu thiền
định, tâm thần nhĩ mục, nhật giác sảng nhiên. Tiên năng phi không lý
thủy, phục hổ hàng long, vạn quái thiên kỳ, nhân mạc chi trắc. Hậu tầm
quy cố hương, sáng tự cư chi. Nhất nhật hữu thị giả khải vân: "Mỗ tự đáo
lai vị mông chỉ thị tâm yếu, cảm trình kệ vân:
Ðoàn luyện thân tâm thỉ đắc thanh
Sum sum trực cán đối hư linh
Hữu thân lai vấn không không pháp
Thân tại bình biên ảnh tập hình.
Sư giác chi, viết: "Nhữ tương kinh lai, nhữ tương kinh lai, ngô vị nhữ
thọ, ngô vị nhữ ái, hà xứ bất dự nhữ tâm nguyện?" Nãi kha kha đại tiếu.
Sư thường thuyết kệ vân:
Tuyển đắc long xà địa khả cư
Dã hình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Hội tường Ðại Khánh thập niên Lý Nhân Tôn niên hiệu Kỷ hợi lục nguyệt sơ
tam nhật, thị tịch, môn nhân thu xá lợi hàm táng vu tự môn. Hữu chiếu
quảng kỳ tự, quyên hộ tam thiên dĩ phụng hương hỏa".
Ðọc qua truyện này, có thể thấy nó đồng nhất với bản tiểu sử của Không Lộ trong Thiền uyển tập anh, trừ một vai sai khác nhỏ nhặt do việc tam sao thất bổn. Cũng cần thêm là, sự đồng nhất thật đáng ngạc nhiên. Phải chăng cả Thiền uyển tập anh lẫn Lĩnh nam trích quái truyện đã sao truyện của mình từ một bản gốc chung mà Thiền uyển tập anh cho biết là Nam tôn tự pháp đồ của
Thường Chiếu? Hay chúng hoặc những người hiệu đính chúng đã sao chép
lẫn nhau? Ðây là một vấn đề khá lôi cuốn cần phải được nghiên cứu một
cách nghiêm chỉnh.
22. THIỀN SƯ BẢN TỊNH
(1) Lịch triều hiến chương loại chí, 3 tờ18b7-19a4 viết: "Núi
Phụng hoàng ở tại xã Kiệt đặc xưa thuộc Phụng nhãn. Ðỉnh núi đứng thẳng
khi sườn xoè ra giống hình con phượng múa. Thời Trần có xây điện Lưu
quang và cung Tử cực.(…) dưới núi có giếng, đáy có ngọc châu, đẹp nhuyễn
như bùn phơi khô thành châu. Bên núi có hồ Ba ba. Sườn núi có chùa Lệ
kỳ. Khoảng đầu đời Trần, đạo sĩ Huyền Vân ẩn cư để luyện đan, gọi là
Huyền vân động. Chu Văn Trinh, đời Trần khi đã giũ áo từ quan, thích
phong cảnh của Chí linh, đến ở đó…" Bắc thành địa dư chí lục 2 và Ðại nam nhất thống chí,
tỉnh Hải dương cũng ghi những điểm tương tự núi Chí linh ở Kiệt đặc của
truyện đây như vậy phải là núi Phụng hoàng vừa mô tả. Xã Kiệt đặc hiện
thuộc huyện Chí linh tỉnh hải dương ngày nay.
Am Bình dương cho đến đời Trần cũng còn. Nó là nơi Trần Nhân Tôn nhân
bữa ăn cúng dường cuối cùng do Tuyên Từ hoàng thái hậu dâng, như Tam tổ
thực lục tờ 10b2 và Thánh đăng lục tờ 36b5 ghi lại.
(2) Tức làng Phù diễn, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Vĩnh
khương là tên thời Lý của huyện Từ liêm, tức đất huyện Hoài đức. Xem chú
thích (2) truyện Vân Phong. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hà nội
mục Thị tứ còn ghi thêm một làng Phù diễn thuộc huyện Từ liêm ở đây có
chợ Phù diễn và cầu Phù diễn. Quê hương của Bản Tịnh chắc tại làng Phù
diễn này. Làng Phù diễn ngày nay thuộc huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông và
cầu Phù diễn cũng gọi là cầu Diễn, bắc ngang qua sông Nhuệ, cách cầu
Giấy khoảng 10 cây số.
(3) Theo Toàn thư B3 tờ 31b1-3 thì năm Thiên Thuận thứ 1
(1128) Ngụy Quốc Bảo từ chức Nội thư gia lên làm Tả ty, rồi liền đó lên
làm Nội thường thị, năm sau lại lên làm Viên ngoại lang, rồi đến năm
1135 lên làm Tả ty lang trung. Sau khi Lý Thần Tôn, tên Ngụy Quốc Bảo
không còn thấy nhắc đến nữa. Không thấy sử liệu nào khác nói Ngụy Quốc
Bảo giữ chức Hữu bật.
(4) Cả bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều viết: "Thành Dương công chi
thỉnh". Nhưng chúng tôi nghi rằng chữ chi trong hợp từ đó là một khắc
lộn của chữ chúa, bởi vì tự dạng của chúng gần nhau và bởi vì chữ Thành
Dương với lối viết chữ Thành có bộ thổ một bên thường để viết tên cho
những công chúa đời Lý như Kim Thành, Thiên Thành…dẫu hiện tại chúng tôi
chưa tìm ra một công chúa thời Lý nào tên Thành Dương cả.
Còn chùa Càn an có thể là chùa Càn an ở bên cạnh văn miếu tại thủ đô
Hà nội, nơi mà vào thế kỷ 14 đã thực hiện nhiều bản in kinh luận Phật
giáo mà nay còn ghi.
(5) Nguyên văn: Nhất quỉ. Ðể xác định thêm nội dung từ này, tham
chiếu câu viết sau đây trong bài văn tiến Quảng Ninh của Ðào Khưu Nhất
và những người khác ở Ngụy chí: "Tuy xuất xử thù đồ, phủ ngưỡng dị thế,
chí ư hưng trị mỹ tục, kỳ quỉ nhất giả". (Tuy xuất xử khác đường, như
cúi ngửa khác dáng, nhưng đến việc làm thịnh việc chính trị, làm đẹp
phong tục thì nẻo đó là một vậy). Xem Tam quốc chí 11 tờ 21b9-10
(6) Ba câu nói đến tục thờ ma mèo trong truyện Ðộc Cô Ðà ở Tuỳ thư.
Theo đó thì mẹ vợ của Ðà trước thờ ma mèo (miêu quỷ) nhân thế mà đưa đến
nhà Ðà. Vua vẳng nghe mà không tin, gặp khi Hiến hoàng hậu và vợ của
Dương Tố là Trịnh Thị đều mắc bệnh, cho mời thầy thuốc đến, họ đều nói:
"Ðây là bệnh ma mèo". Vua cho Ðà là em khác mẹ của Hoàng hậu và vợ của
Ðà là em khác mẹ của Dương Tố nên nghi là do Ðà làm, bèn mật sai anh của
Ðà là Mục lấy tình anh em mà khuyên giải. Vua lại nhờ tả hữu nói Ðà, Ðà
nói là không có. Vua không bằng lòng đổi thành Thứ sử Thiên châu. Ðà
bèn ra lời oán giận. Vua bèn sai Tả bộc xạ cao thích nạp ngôn Tô Uy, Ðại
lý chính Hoàng Phủ Hiếu Tự và đại lý thừa Dương Viễn cùng xét việc đó.
Con ở của Ðà là Từ A Ni nói mình vốn theo nhà mẹ Ðà đến, thường thờ ma
mèo, mỗi đến ngày Tý thì cúng nó vào ban đêm vì Tý là chuột vậy. Ma mèo
đó mỗi khi giết người, của cải của nhà người bị giết lặng lẽ dời đến nhà
nuôi ma mèo.
Ðà thường ở nhà đòi rượu, vợ Ðà nói: "Không có
tiền để mua". Ðà do thế bả�o A Ni "co �thể sai ma mèo đến nhà Việt công,
để ta có đủ tiền". A Ni liền đọc chú. Về vài ngày thì ma mèo liền đến
nhà Dương Tố, Khai Hoàng năm thứ 11 (590) vừa từ Tinh châu trở về. Ðà ở
trong vườn gọi A Ni bảo, có thể sai ma mèo đến nhà Hoàng hậu khiến bà
ban cho ta nhiều vật". A Ni lại đọc chú, ma bèn vào trong cung. Dương
Viễn bèn sai A Ni gọi ma mèo ở Môn hạ ngoại tỉnh. Trong đêm đó A Ni đặt
nhang vào một bát cháo, cầm thìa gõ mà gọi rằng: "Mèo ta có thể đến,
đừng ở trong cung nữa". Một lát mặt A Ni xanh lè, như bị ai trói kéo,
nói rằng: "Ma mèo đã đến". Vua đem việc đó giao cho công khanh bàn nghị.
Kỳ chương công Ngưu Hoằng nói: "Yêu dị là do người tạo nên, giết người
đi thì có thể làm đứt nó…". Xem Tùy thư 79 tờ 2b12-3a9.
(7) Kim sinh lệ thủy, chữ và ý rút ra từ thiên Ðảo ngôn trong Hàn phi
tử, theo đây thì trong sông Lệ của đất Kinh nam có vàng. Có lệnh cấm
đãi vàng, mà nếu phạm tội thì phải tội phanh thây ở chợ. Nhưng người ta
vẫn tiếp tục đãi trộm vàng, vì biết rằng mình có thể không bị bắt. Cho
nên Hàn phi tử kết luận: "Vì không bắt hết được, thì tuy có hình phạt
phanh thây, chuyện ăn trộm vàng vẫn không chấm dứt". Xem Hàn phi tử 9 tờ
9a4-11.
(8) Nguyên văn:
Huyễn thân bản tự không tịch sanh
Do như kỉnh trung (nội tâm) xuất hình tượng
Giác liễu nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thật tướng.
Cả bản đời Lê lẫn bản đời Nguyễn đều chép như vậy. Chúng tôi tham chiếu bài kệ thị pháp của Phật Tỳ bà Thi trong Truyền đăng lục 1 tờ 204c22-23, theo đó:
Thân tùng vô tướng trung sanh thọ
Do như huyễn xuất chư hình tượng
Huyễn nhân tâm thức bản lai vô
Tội phúc giai không vô sở tru.
Và đề nghị tái thiết lại bài kệ thị tịch của Bản Tịnh như sau:
Huyễn thân bản tự không tịch sanh
Do như kỉnh trung xuất hình tượng
Giác liễu tâm nội nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thật tướng.
(9) Cứ đây thì Bản Tịnh mất năm 1176 và thọ 77 tuổi. Do đó Tịnh sinh năm
1100. Nếu thế làm sao có thể nói "Tịnh nhận được ý chỉ nơi Thiền sư Mãn
Giác của Giác Nguyên?" Bởi vì Mãn Giác mất năm 1096 lúc ông 45 tuổi,
nghĩa là mất lúc Tịnh chưa ra đời. Vậy hoặc năm mất của Giác chép sai,
hoặc tuổi thọ của Tịnh ghi lộn. Chúng tôi nghĩ rằng cả hai trường hợp
đều có thể. Tuổi thọ của Tịnh có thể đúng ra là 97, nhưng vì chữ Hán
viết chữ cửu dễ lộn với chữ thất, nên đã chép lộn thành 77. Nếu Tịnh quả
sống đến 97 tuổi thì ông phải sinh vào năm 1080, nghĩa là sinh ra 16
năm trước khi Giác mất. Nhưng với tuổi 16 này, dù lịch sử phái thiền
cũng có ghi một số vị đắc pháp với số tuổi đó hay ít hơn như trường hợp
Ðạo Tín, chúng tôi vẫn nghĩ nó còn ít quá để cho một người đắc pháp. Vì
thế, năm mất của Mãn Giác có thể bị chép sai. Xem chú thích (6) truyện
Mãn Giác ở trên.
23. THIỀN SƯ MINH TRÍ
(1) Làng Ðiển lãnh tức làng Khương tự, nơi có chùa thờ Phật Pháp vân, chùa Phúc Thánh, cứ Toàn thư B4 tờ 6b4, do Lý Anh Tôn lập vào năm 1184.
(2) Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, giữa những bến đò
của sông Nguyệt đức tức sông Cầu ngày nay, có ghi bến đò Phù cầm. Bến đò
này nằm giữa hai bến Phù yên và Ðẩu hàn. Ðẩu hàn là quê hương của Ðỗ An
Vĩnh tiến sĩ khoa 1499, còn Phù yên là của Lê Doãn Chấp tiến sĩ khoa
1505, cả hai làng ấy Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục ghi là thuộc "hạt
Yên phong" tức thuộc huyện Yên phong, tỉnh Bắc ninh ngày nay. Phù cầm
do thế cũng phải thuộc huyện đó. làng Phù cầm đời Lý như vậy cũng là Phù
cầm huyện Yên Phong tỉnh Bắc ninh ngày nay.
(3) Tức Phật thuyết nhân vương bát nhã ba la mật kinh. Cưu Ma La Thập
dịch, 2 quyển ÐTK 245, giả thiết rằng bản dịch này là bản lưu hành nhất
vào thời Lý, bởi vì có một bản dịch thứ hai do Bất Không thực hiện
khoảng năm 765 cũng có tên Phật thuyết Nhân vương hộ quốc bát nhã ba la
mật kinh, 2 quyển, ÐTK 246.
(4) Thiền sư Ẩn Phong(…), một hôm, trong khi Thạch Ðầu cắt cỏ, Sư
khoanh tay đứng một bên. Thạch Ðầu liệng cái liềm đến trước mặt Sư, làm
đứt một cọng cỏ. Sư nói: "Hoà thượng cắt được cái này, không cắt được
cái kia". Thạch Ðầu đưa cái liềm lên. Sư đón bắt được, làm thế cắt cỏ.
Thạch Ðầu nói: "Ngươi cắt được cái kia, không cắt được cái này". Xem Truyền đăng lục 8 tờ 259b11.
(5) Văn Thù, Duy Ma Cật và 32 vị bồ tát thảo luận về pháp bất nhị.
Các vị kia, mỗi vị, tuỳ trường hợp, đều nói, lìa đối đãi là bất nhị. Văn
Thù nói: "Vô ngôn, vô thuyết, vô thị, vô thức, vượt ngoài đối đáp là
bất nhị". Rồi hỏi Duy Ma Cật. Duy Ma im lặng. Nhân đóVăn Thù tán thán.
Xem Duy Ma Cật sở thuyết kinh quyển trung, phẩm Bất nhị pháp môn tờ
550b28-551c27.
(6) Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch trong lúc đang nói chuyện với một vị
tăng; một vị tăng khác đứng bên cạnh, nói: "Nói là Văn Thù, im lặng là
Duy Ma". Sư nói: "Không nói không im lặng, há không phải là ông sao?".
Vị Tăng im lặng. Sư nói: "Sao không hiện thần thông?" Tăng nói: "Không
từ chối gì sự hiện thần thông, chỉ sợ Hoà thượng thâu vào giáo điển". Sư
nói: "Xét chỗ ngươi đến, thì chưa có con mắt ở ngoài giáo điển". Xem Truyền đăng lục 11 tờ 283b9-c3.
(7) Nguyên văn: Dương diệm mích cầu yên. Dương diệm tức là thứ ánh
nắng mùa xuân có trộn lẫn với bụi mờ giữa nội. Những con nai khát nước
nhìn thấy ánh nắng đó tưởng là nước, rồi cứ đuổi theo cho đến lúc chết.
Xem Lăng già kinh 2.
24.THIỀN SƯ TÍN HỌC
(1) Chính thọ là một dịch nghĩa của chữ tam muội (samàdhì). Quán kinh
huyền nghĩa phần nói: "Gọi là chính thọ, khi tưởng và tâm đều dứt,
duyên và lự đều quên, tương ứng với tam muội, thì gọi là chính thọ".
Xem thêm Ðại thừa nghĩa chương 13.
(2) Nguyên văn: Thiên Tư Gia Thụy ngũ niên Canh thân. Nhưng cứ Ðại Việt sử lược 3 và Toàn thư B4
thì Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 tất phải nhằm năm Canh tuất, chứ không phải
năm Canh thân. Nếu là năm Canh thân, thì nó phải là năm Thiên Tư Gia
Thụy thứ 15 (1200). Ở đây, chúng tôi nghĩ rằng vì chữ tuất khó viết lộn
thành chữ thân nên cho rằng nguyên văn có lẽ thiếu chữ thập trước chữ
ngũ, nên đề nghị đọc lại thành Thiên Tư Gia Thụy thập ngũ niên, và dịch
theo đó.
(3) Nguyên văn: Tử tối mẫu trác. Ðại sư Hương Nghiêm tập Ðăng. Trí Nhàn tụng, "Ðộc cước":
Tử tối mẫu trúc
Tử giác vô xác
Mẫu tử câu vong
Ứng duyên bất thác
Ðồng đạo xướng hỏa
Diệu vân độc cước
Xem Truyền đăng lục 29 tờ 452b16-18. Xem thêm Bích nham lục
16 tờ 156a21-24 về cái công án "kêu mỗ": Có vị sư hỏi Kỉnh Thanh: "Học
nhân kêu, xin sư mỗ". Thanh đáp: "Có sống lại được không?" Vị sư đáp:
"Nếu không sống thì gặp người là chuyện lạ" Thanh nói: "Ấy là tên giữa
đám cỏ".
25. THIỀN SƯ TỊNH KHÔNG
(1) Phúc Xuyên, Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi một làng
tên Phúc Xuyên, quê hương của Phan Nhuệ, tiến sĩ khoa 1748, nhưng lại
ghi làng Phúc xuyên ở hạt Tiên phong. Song Tiên phong là tên một huyện ở
Sơn tây. Ðiều chắc chắn là nó phải nằm ở phía bắc phủ Thiên đức, bởi vì
trước khi đến ở tại chùa Khai quốc phủ Thiên đức, Tịnh Không đã phải
"hành cước nam phương". Bây giờ, truyện của Không cũng nói rằng Không
"ban đầu xuất gia ở viện Sùng phúc châu mình. Nếu viện Sùng phúc ở đây
là chùa Sùng phúc dựng tại làng Siêu loại vào năm 1115, mà Ðại Việt sử lược
2 tờ 21a2-3 ghi lại, thì làng Siêu loại như vậy thuộc vào Phúc xuyên.
Và Phúc xuyên tên một châu đời Lý mà địa phận có thể gồm huyện Siêu
loại, tức huyện Thuận thành tỉnh Hà bắc ngày nay, với một số huyện khác
chưa thể xác định được. Có lẽ Sùng phúc nguyên trước là một viện nhỏ.
Ðến năm 1115 nó được Linh Nhân thái hậu xây dựng lại và đổi thành chùa.
Chắc vào năm này Không đã rời Sùng Phúc để hành cước xuống chùa Khai
quốc ở phía nam, bởi vì ta biết Không mất vào năm 1170, lúc ông hơn 80
tuổi, mà ông bắt đầu hành cước lúc ông 30 tuổi.
(2) Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: "Một hôm Ðạo Ngô cầm gậy đến gặp Sư
thượng đường, Tăng hỏi: "Như hà thị pháp thân?", Sư viết: "Pháp thân vô
tướng". Viết: "Như hà thị pháp nhãn?". Sư viết: "Pháp nhãn vô hà". Sư
hựu viết: "Mục tiền vô pháp, ý tại mục tiền. Bất thị mục tiền pháp, phi
nhĩ mục sở đáo". Ðạo Ngô nãi tiếu. Sư nãi sinh nghi, vấn Ngô: "Hà
tiếu?". Ngô viết: "Hoà thượng nhất đẳng xuất thế, vị hữu sư, khả vãng
Chế trung, Hoa đình huyện, tham Thuyền Tử Hoà thượng khứ". Sư viết:
"Phỏng đắc hoạch phủ?". Ðạo Ngô viết: "Bỉ Sư, thượng vô phiến ngõa già
đầu, hạ vô trác chùy chi địa". Sư toại dịch phục trực nghệ Hoa
đình…..Xem Truyền đăng lục 15 tờ 323c25-324a7.
(3) Giáp Sơn Thiện Hội. Ðạo Ngô viết: "Bỉ sư thượng vô phiến ngõa già đầu, hạ vô trác chùy chi địa". Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324a1.
(4) Tùng thượng trực chỉ, vi thập ma thuyết? Giáp Sơn Thiện Hội tăng
vấn: "Tùng thượng lập Tổ ý, Giáo ý, Hoà thượng thử gian vi thập ma ngôn
vô?" Sư viết: "Tam niên bất thực phạn, mục tiền vô cơ nhân". Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324a20-21.
(5) Nguyên văn:
Trí nhân vô ngộ đạo
Ngộ đạo tức ngu nhân
Thân cước cao ngọa khách,
Hề thức ngụy kiêm chân.
So sánh Giáp Sơn Thiện Hội : Sư có bài tụng:
Minh minh vô ngộ pháp
Ngộ pháp khước mê nhân
Trường thư lưỡng cước thụy
Vô ngụy diệc vô chân.
(6) Thiền sư Giáp Sơn Thiện Hội: Một tiểu sư hầu hạ lâu năm, sau đó bỏ
đi tham phương nhưng không có chỗ dụng tâm. Tiểu sư nghe đồn mọi người
đang đổ xô về Thiện Hội học thiền, bèn trở về nói với Thiện Hội: "Hoà
thượng có sự kỳ đặc như vậy, sao không sớm nói cho con biết?". Sư đáp:
"Ông nấu cơm, tôi thổi lửa, ông khất thực, tôi cầm bát, thì chỗ nào là
chỗ cô phụ ông?". Vị tiểu do đó mà ngộ nhập. Xem Truyền đăng lục 15 tờ 324b2-7.
(7) Giáp Sơn Thiện Hội: "Ngày 7 tháng 11 năm Tân sửu Ðường Trung Hoà
thứ nhất (881), Sư mời chủ sự tới nói: "Ta cùng với chúng tăng nói đạo
nhiều năm, ý chỉ sâu sắc của Phật pháp, mỗi một người phải tự biết lấy,
ta nay thân huyễn hết thời tức phải đi. Các ngươi nên khéo giữ gìn, như
khi ta còn sống, chớ có ùa theo người đời mà sinh ra buồn bã. Nói xong,
đên nửa đêm Sư lặng lẽ mất".
(8) Tức truyện của Hoà thượng (mà Nguyên văn ở đây viết là hòa cái) Thiện Hội ở Giáp sơn, Phong châu, trong Truyền đăng lục
15 tờ 323c20-324b28 ngày nay. Hội họ Liêu, người Kiến đình, Quảng châu,
đệ tử của Ðức Thành. Hội sinh năm 805 và mất năm 881 thọ 77 tuổi. Với
những dẫn chứng trên, rõ ràng cơ duyên thoại ngữ, tức những đối thoại
giữa hai thầy trò Thiền sư nhằm tạo một cơ duyên cho sự giác ngộ, cho
đến câu nói cuối cùng trước khi mất của Tịnh Không đều phần lớn lấy ra
từ truyện của Thiện Hội.
(9) Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật, Thiền uyển tập anh
dẫn hai lần, một ở đây và một ở truyện Nguyện Học. Cứ vào hai dẫn chứng
này thì có thể nói đa số, nếu không tất cả những cơ duyên thoại ngữ của Thiền uyển tập anh đều lấy ra từ Liệt tổ yếu ngữ.
Bởi vì ngay cả trong cả hai trường hợp dẫn đây, mặc dù cơ duyên thoại
ngữ của Tịnh Không cũng như của Nguyện Học hầu như hoàn toàn đồng nhất
với cơ duyên thoại ngữ của Giáp Sơn Thiện Hội và Huệ Tư trong Truyền đăng lục, tác giả vẫn không thể loại bỏ, với lý do là: "chúng đã chép đủ trong Liệt tổ yếu ngữ của Huệ Nhật". Huệ Nhật này là ai và sống vào khoảng nào, ngày nay ta hiện chưa biết. Về nội dung của Liệt tổ yếu ngữ , ta đã biết một phần nào.
26.THIỀN SƯ ÐẠI XẢ
(1) Tức Trâu Sơn, Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, viết:
"Trâu sơn, một tên là núi Vũ ninh ở phía đông huyện lỵ Quế dương 12
dặm, hình núi liên tiếp, trên núi có Việt tính. Tương truyền đời Hùng
Vương, vua nhà Ân đến xâm lăng, đóng quân ở dưới núi, Ðổng thần vương
đánh phá, vua Ân chết tại núi đó, thổ nhân lập đền thờ, lâu năm đền bỏ
hoang. Ðến đời Tần, Thôi Lượng lại sửa sang miếu thờ. Ân Vương cảm bội,
khiến tiên Ma Cô trao cho Lượng một món thuốc tiên, trị được bệnh ngọc
kinh xà lũ. Bên núi có đền thờ tiên Ma Cô, lại có đền thờ Triệu Vũ Ðế và
Triệu Việt Vương". An nam chí nói: "Núi Vũ ninh ở tại châu Vũ
ninh, núi có Tỉnh cương, có rắn đá tên Ngọc kinh tử, có mộ Việt vương".
Sử ngoại ký nói: "Triệu Ðà lấy núi Vũ ninh để cùng với An Dương Vương
giảng hòa, tức là ở đây". Núi Vũ ninh như vậy là núi Trâu ở tại huyện
Quế dương tỉnh Bắc ninh hiện nay.
Về chùa Báo đức, Ðại Việt sử lược 2 tờ 11a8 viết: "Năm Long
Thụy Thái Bình thứ 6 (1059) mùa xuân tháng ba, vua đi săn ở sông Nam
bình tại Lạng châu, nhân đó đến thăm nhà phò mã Thân Cảnh Nguyên, dựng
chùa Sùng nghiêm báo đức ở châu Vũ ninh". Chùa Báo đức như vậy gọi cho
đủ phải là Sùng nghiêm báo đức và do Lý Thánh Tôn dựng vào năm 1059.
Hiện không biết có còn vết tích gì của chùa này tại Trâu sơn hay không?
(2) Bắc thành địa dư chí lục 1 có chép tên phường Ðông tác giữa những
phố phường của thành phố Hà nội đầu thời Gia Long. Trong bốn tổng của
huyện Thọ xương, đây là những tổng Hữu túc, Hậu túc, Tiền nghiêm và Tả
nghiêm, nó đều ghi là phường Ðông tác. Phường này như vậy có thể là một
đường dài ăn thông qua bốn tổng, hay cũng có thể là nó ở vào nơi bốn
tổng ấy giáp giới nhau. Vì thiếu bản đồ, chúng tôi chưa thể xác định
được. Nhưng cứ Phương đình dư địa chí 2 thì phường Ðông tác ở vào tổng
Hữu túc. Mấy tổng khác không thấy ghi.
(3) Hoa nghiêm diệu môn Phổ Hiền thần chú, tức Tốc tật mãn Phổ Hiền
hạnh nguyện đà la ni, có lẽ do Bất Không thêm vào trong lời nguyện của
Phổ Hiền trong bản dịch kinh Hoa nghiêm 40 ÐTK293 tờ 847a2-848b9 của ông
và sau này đã trích thành một bản văn riêng rẽ, mà người ta gọi là Phổ
Hiền bồ tát hạnh nguyện tán ÐTK297 tờ 880a1-882c17. Nó đọc: "Nẵng ma tát
để rị giả địa vỹ ca nam đát tha nghiệt đa nam. Án a mậu phạ ra vĩ nghì
dĩ sa phạ ha".
(4) Ðại Việt sử lược 3 tờ 11a6-8 viết: "Năm Trinh Phù thứ 10
(1185) mùa xuân, Kiến Ninh Vương Long Ích đem quân 12 ngàn người hơn, đi
đánh Lào núi ở Linh sách để trả thù trận La sách. Quân đến thôn Ðỗ gia,
bèn sai người đi chiêu dụ. Thủ quân Ðinh Vũ, quan lang Ðinh Sáng
v.v…đều hàng. Long Ích bắt hết…"
Kiến Ninh Vương như vậy là tước của Lý Long Ích, con của Lý Anh Tôn. Về sự việc đó, Toàn thư B4
tờ 21a8 viết: "Trinh Phù năm thứ 10 mùa thu tháng 7, sai Kiến Khương
Vương Long Ích đem quân đi đánh các bọn mọi Viêm sách, bình định được".
Thế thì Kiến Ninh Vương và Kiến Khương Vương là một người. Ta không hiểu
tại sao Toàn thư lạicó Kiến Khương Vương. Có lẽ bị người đời Lê Trung Hưng cải chữ Ninh thành chữ Khương để tránh húy của Lê Trang Tôn chăng?.
(5) Ðại Việt sử lược 3 tờ 7b2-3 viết: "năm Chính Long Bảo Ứng
thứ 5 (1167) gả Thiên Cực công chúa cho châu mục Lạng châu Hoài Trung
Hầu". Ðến năm Trị Bình Long ứng thứ năm (1209) nó lại viết ở tờ 19b4-7:
"Vua sai Phạm Du đến Hồng lộ huấn luyện quân sĩ, ý nuốn đánh người Thuận
lưu. Khi người Hồng Lộ tới đón đã đúng hẹn, thì Du đang còn cùng Thiên
Cực công chúa thông dâm, không biết hẹn đã quá lúc, bèn cùng với người
Hồng Lộ mất nhau". Du bèn lên thuyền do đường sông mà đi, tới bến Cổ
châu lên bộ đi tới xã A cảo ở Ma lãng thì bị người Bắc giang là Nguyễn
Nậu và Nguyễn Nãi bắt, đưa tới vương tử Sám giết". Không những Phạm Du
đã chết trong tay cô công chúa này, mà một tay kiệt hiệt khác cùng số
người khác cũng sắp mất, đây là Tô Trung Tự, Ðại Việt sử lược 3
tờ 22a7-8 viết: "Năm Kiến Gia thứ nhất (1211) tháng 6 Tô Trung Tự đêm
đến nhà ở Gia lâm cùng Thiên Cực công chúa thông dâm, bị chồng nàng là
quan nội hầu Vương Thượng giết". Năm sau, nhà cô ở Lạng châu bị nghĩa
quân Ðinh Cỗi lấy của cải. Ðến năm 1214, Lý Huệ Tôn cùng mẹ đến ẩn ở nhà
cô. Ðấy là những gì ta hiện biết về cô công chúa khá đào hoa này của
triều Lý.
(6) Nguyên văn: Tuyên minh hổ nham. Có người dịch là "hang Tuyên minh hổ", nhưng Tuyên minh vốn là tên một trại, mà Toàn thư B4
tờ 2a5 nói tới khi kể ra việc tham dự trận đánh chống nghĩa quân Thân
Lợi của chủ đô trại Tuyên minh là Trần Thiềm, còn Hổ nham thì Ðại nam nhất thống chí,
tỉnh Sơn tây, dẫn Thiên hạ quân quốc lợi bệnh, nói: "Năm Minh Vĩnh lạc
thứ 5 (1407) mới đặt phủ Giao châu thì châu Tuyên giang lãnh ba huyện
Tây lan, Ðông lan và Hổ nham. Năm Vĩnh lạc thứ 13 (1415) sáp nhập huyện
Hổ nham vào châu Tuyên Giang". Vậy Hổ nham là tên một huyện thời thuộc
Minh, và cứ truyện Ðại Xả ở đây thì nó có thể là tên huyện thời Lý, Trần
nữa.
Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Từ quán, còn chép
một ngôi chùa tên Hổ nham. Nó viết: "Chùa Hổ nham ở tại sơn phần xãVân
nham huyện Hùng quan, trên vách đá có đề ba chữ lớn "Hổ nham cương", gần
phía đông có núi Mãn, phía tây có sông Lô và ngọn núi Ám chạy bên cạnh,
là thắng cảnh của một phương. Khoảng năm Lê Hồng Ðức, thổ dân dựng lầu ở
trên động, mỗi năm ngày mồng năm tháng giêng, sĩ nữ đều hội lại để đi
xem chơi. Khoảng năm Ðại Chính đời Nhuận Mạc, trùng tu lại, mới đổi tên
là Hổ nham, có đủ bia ký".
Như thế, Hổ nham không những là tên huyện Hổ nham và từ đó chắc có
làng Hổ nham, mà còn có gò Hổ nham, hay Hổ nham cương tại phần núi của
xã Vân nham, huyện Hùng quan tỉnh Sơn tây thời Nguyễn, tức phần đất phía
nửa đông bắc tại huyện Ðoan hùng tỉnh Vĩnh phú hiện nay tại tả ngạn
sông Lô và sông Cháy. Xã Vân nham hiện ở phía nam chỗ hợp lưu của hai
con sông đấy. Dù Ðại nam nhất thống chí có nói cái tên chùa Hổ
nham đến thời Mạc mới có tên, ta vẫn có thể giả thiết nó rất có thể dựng
từ thời Lý và chắc bắt đầu với nhà sư Ðại Xả nói tới ở đây. Một cuộc
nghiên cứu hiện địa tương lai sẽ giải đáp vấn đề đó cho ta.
(7) Toàn thư B4 tờ 14a4 nói: "Ðại Ðịnh năm thứ 19 (1158) mùa
thu tháng 8 Ðỗ Anh Vũ chết". Nếu vậy, làm gì có truyện "trong khoảng
Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175) Thái úy Ðỗ Anh Vũ ra lệnh bắt Ðại Xả vào
cung cấm và hết lời nghiêm trách" nói tới ở đây. Phải chăng Toàn thư chép sai năm mất của Anh Vũ? Ðây là một có thể, cứ vào một số trường hợp sai khác đã xảy ra.
(8) Phép mười hai nhân duyên hay đạo lý 12 nhân duyên là một phạm trù
cơ bản của tư tưởng Phật giáo nhằm giải thích sự sống chết của con
người. Khởi hành từ cái thực tiễn già chết, ta hỏi nguyên nhân tại sao,
thì câu trả lời là vì có sự sinh ra. Hỏi tại sao có sự sinh ra, ta trả
lời vì sự có thai. Hỏi tại sao có thai, ta trả lời là vì có sự giao cấu.
Hỏi tại sao có sự giao cấu, ta trả lời là vì có sự thương yêu. Hỏi tại
sao có yêu thương, trả lời vì có cảm giác. Hỏi sao lại có cảm giác, ta
trả lời là vì có va chạm. Tại sao có va chạm, ta trả lời là vì có sáu
giác quan. Tại sao có sáu giác quan, ta trả lời là vì có những điều kiện
tâm lý và vật lý. Hỏi tại sao có những điều kiện tâm lý và vật lý, ta
trả lời vì có thức. Hỏi tại sao có thức, ta trả lời vì có hành động liên
tục. Hỏi tại sao có hành động, ta trả lời vì vô minh. Ðây là một dây
chuyền 12 khâu kết nối với nhau, mà từ ngữ Phật học Trung quốc thường
gọi là vô minh, hành , thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh, lão tử. Sự liên hệ giữa 12 khâu này, từ Phật học Trung quốc
thường diễn tả bằng chữ duyên. Do thế, khi nói vô minh duyên hành, có
nghĩa vô minh làm điều kiện cho hành động xuất hiện. Hay nói, hành duyên
thức, tức cũng nói, hành làm điều kiện cho thức ra đời…cho đến sự ra
đời của lo buồn, khổ não tức bắt nguồn từ sự sinh ra. Vì có một liên hệ
nhân quả liên tục như thế, nghĩa là một sự liên hệ trong đó nhân trở
thành quả và quả trở thành nhân nên 12 khâu trên được gọi là 12 nhân
duyên.
Kinh sách Phật giáo khẳng định rằng đạo lý 12 nhân duyên vừa mô tả có
thể được khám phá trong những lúc và tại những nơi không có tư tưởng
hay kinh sách Phật giáo. Những người khám phá ra đạo lý đó không dựa hay
nhờ Phật giáo thì Phật giáo gọi họ là những Bích Chi Phật, tức những
người giác ngộ nhờ vào chính mình và chỉ một mình mình mà thôi. Bích Chi
Phật là một phiên âm chữ Phạn Pratyekabuddha, mà từ Phật học Trung quốc
dịch là "Ðộc giác".
(9) Lương Vũ Ðế hay vua Vũ Ðế nhà Lương, tên thật là Tiêu Diễn, người
đã lật đổ nhà Tề tại miền Nam Trung quốc và lập nên nhà Lương vào năm
502. Ðến năm 549, Hầu Cảnh khởi nghĩa và bức tử tại Ðài thành. Lương Vũ
Ðế thường được coi là vị vua sùng thượng Phật giáo nhất trong lịch sử
các vua chúa Trung quốc. Xem Lương thư 1-2
(10) Bảo Chí (419 ?- 515), một nhà sư có những hành tung tương tự như
của Ðại Xả ở đây, có những liên hệ sấm ngữ với Lương Vũ Ðế. Về cuộc đời
ông xem Truyền đăng lục 27 tờ 429c18-430a23.
(11) Ðoạn đối thoại giữa Lý Anh Tôn và Ðại Xả ở đây hoàn toàn lấy ra từ truyện của Bảo Chí trong Truyền đăng lục
27 tờ 430a6-11, theo đấy (Lương Vũ) Ðế một hôm hỏi Bảo Chí rằng: "Ðệ tử
phiền hoặc, lấy gì mà chữa?" Sư đáp: "Lấy 12. Kể hiểu biết cho rằng 12
nhân duyên là thuốc trị phiền hoặc". Lại hỏi về ý chỉ của 12. Sư đáp: "Ý
chỉ ở tại trong 12 chữ viết chỉ thì giờ của đồng hồ. Kẻ hiểu biết cho
rằng nó được viết vào trong 12 giờ khắc." Lại hỏi: "Ðệ tử lúc nào thì
được tĩnh tâm mà tu hành?" Sư đáp: "An lạc tâm. Kẻ hiểu biết cho rằng tu
hành những giới cấm là để làm đừng nghỉ, nghĩa là đến lúc tới được cho
sung sướng thì mới thôi".
(12) Hình ảnh lấy từ phẩm Quang minh biến chiếu cao quý đức vương Bồ
tát của kinh Ðại bát niết bàn, theo đấy có một ông vua đem bốn con rắn
độc đựng chung vào một cái lồng, bảo người thị thần nuôi dưỡng. Nếu để
cho chúng không vừa lòng thì người đó bị xử tử. Người đó bỏ chạy, vua
cho năm người chiên đà la đuổi bắt lại. Ðuổi không kịp, bèn sai một
người giả bộ hiền lành đi dụ dỗ, thì người kia đi đến một làng trống
vắng. Vừa tới, người kia nghe nói đêm đó sẽ có sáu tên cướp đến cướp.
Bèn sợ hãi, chạy đến gặp một con sông cuồn cuộn nước. Bèn quyết ý vượt
qua, bất giờ mới giải thoát thảnh thơi. Bốn con rắn độc ấy, kinh này nói
là dụ cho bốn nhân tố vật chất tạo nên con người, đấy là đất, nước,
gió, lửa. Từ Phật học Trung quốc gọi là tứ đại. Xem Ðại bát niết bàn
kinh 23.
(13) Hình ảnh lấy từ phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát của kinh Ðại bát niết
bàn, ở đấy, sự sinh, già, bệnh , chết của con người được ví với bốn ngọn
núi lớn "từ bốn phương đến muốn hại nhân dân". Xem Ðại bát niết bàn
kinh 29. Ngũ ấm, tức năm nhân tố tâmvật lý tạo nên con người, đấy là vật
chất, cảm giác, tưởng tượng, ý chí, và tri giác hay nhận thức. Từ Phật
học Trung quốc thường gọi sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
(14) Ngựa đá, trâu đất, Thiền gia thường dùng để chỉ cho công vị của thiền. Thiền sư Thúy Nham, Công huấn vấn đáp:
"Nê ngưu ẩm tận trừng đàm nguyệt
Thạch mã gia tiên bất chuyển đầu".
(Trâu đất uống hết trăng đầm lặng
Ngựa đá roi quất chẳng ngoanh đầu).
Xem Nhân thiên nhãn mục 3 tờ 316b5-6