Chương XXXIV: Chùa Quán Sứ Bắc Việt
HỘI TĂNG NI CHỈNH LÝ BẮC VIỆT
Tạp
chí Đuốc Tuệ đình bản sau khi ra số chót là 257-258 ngày 15.8.1945. Để
phù hợp vơi tư trào mới các thiền sư Trí Hải và Tố Liên cho xuất bản
Tinh Tiến song song với tờ Giải Thoát ở Huế. Thiền sư Tuệ Tạng, hội
trưởng hội Việt Nam Phật Giáo và trú trì chùa Quán Sứ từ đầu năm 1945,
cũng giao trách nhiệm mình cho những người tẻ tuổi và rút về tĩnh cư tại
chùa Phúc Lâm ở Nam Định.
Cư sĩ Bùi Thiện Cơ và bào huynh là cư sĩ Bùi Thiện Can, nhận lãnh trách nhiệm giữ gìn nền móng của hội Việt Nam Phật Giáo.
Hợp
tác với các thiền sư Trí Hải và Tố Liên có các thiền sư Quảng Hoằng,
Ngọc Bảo, Vĩnh Tường, Thái Hòa, Tuệ Chiếu, Thanh Sam và nhiều cư sĩ Hữu
Tâm như Nguyễn Hữu Kha và Nguyễn Xuân Chữ.
Sau
khi mặt trận kháng chiến Hà Nội vỡ, thiền sư Tố Liên trở về chùa Quán
Sứ để bắt đầu xây dựng lại cơ sở Phật. Hội Việt Nam Phật Giáo được thành
lập lại vào năm 1949, do cư sĩ Bùi Thiện Cơ làm hội trưởng và cư sĩ
Viên Quang làm tổng thư ký, trụ sở vẫn được đặt tại chùa Quán Sứ. Một
viện cô nhi được thành lập. Số nhi đồng được bảo trợ lên tới 160 em. Năm
1950, hội cung thỉnh thiền sư Tuệ Tạng làm chứng minh đạo sư. Hai năm
sau, hội xây dựng hai trường tư thục trung học tại Hà Nội, trường Khuông
Việt cho nam sinh và trường Vạn Hạnh cho nữ sinh.
Cùng
với các thiền sư đồng chí hướng, năm 1949 thiền sư Tố Liên vận động
thành lập hội Tăng Ni Chỉnh Lý Bắc Việt mà thiền sư đứng làm hội trưởng.
Hội đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ. Một tạp chí lấy tên là Phương Tiện
được xuất bản do chính thiền sư làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Bán nguyệt
san này được phát hành khá rộng rãi trong toàn quốc. Một ấn quán được
thành lập tại số 73 phố Quán Sứ Hà Nội lấy tên là nhà in Đuốc Tuệ, do cư
sĩ Nguyễn Đình Dương quản lý. Nhà in này ấn hành báo Phương Tiện và
xuất bản nhiều kinh sách, trong đó có tác phẩm của Thiều Chửu, Võ Đình
Cường, Nguyễn Văn Ngọc, Quang Phú, Tố Liên, Trí Hải, Mai Thọ Truyền,
Hoàng Hoa, Thanh Hương v.v…
Hội
Tăng Ni Chỉnh Lý Bắc Việt được đổi tên là hội Phật Giáo Tăng Già Bắc
Việt vào ngày 9.9.1950. Qua năm sau, hội cung thỉnh thiền sư Mật Ứng làm
thiền gia pháp chủ.
Từ
năm 1949, hội đã cho khai giảng các Phật học đường Quán Sứ và Văn Hồ,
Phật học đường quán Sứ dành cho tăng sinh, được khai giảng ngày 2 tháng
Tám âm lịch 1949 và Phật học đường Văn Hồ, dành cho ni sinh, được khai
giảng 4 hôm sau đó. Ni viện Vân Hồ đặt dưới quyền giám đốc của các ni sư
Đàm Soạn và Đàm Đậu, thu nhận tới 50 ni sinh trong niên khóa đầu.
TỔNG HỘI PHẬT GIÁO VIÊT NAM VÀ GIÁO HỘI TĂNG GIÀ TOÀN QUỐC
Hội
Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt năm 1950 đã ủy nhiệm thiền sư Tố Liên đi dự
hội nghị thành lập World Fellowship of Buddhists - Thế Giới Phật Giáo
Liên Hữu - triệu tập lần đầu tiên tại Colombo ở Tích Lan từ 26.5.1950
đến ngày 7.6.1950. Hội nghị này đã quy tụ được đại biểu 26 nước Phật
giáo. Một bản điều lệ của hội Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu được chấp
thuận, một ban quản trị được bầu cử trong đó có bác sĩ Malasekera đứng
làm chủ tịch, và lá cờ năm sắc được chấp thuận là Phật kỳ. Các nước có
đại biểu tham dự hội nghị đều trở thành những trung tâm địa phương
(regional centers) của hội Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu. Về Hà Nội, thiền
sư Tố Liên đã thiết lập văn phòng Trung Tâm Địa Phương Việt Nam của hội
Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu tại chùa Quán Sứ. Lá cờ 5 sắc tượng trưng
cho ngũ căn ngũ lực được treo lần đầu tại chùa Quán Sứ vào ngày Phật Đản
năm 1951.
Sự
thành lập hội World Fellowship of Buddhists (mà tại Việt Nam Phật tử
quen gọi là hội “Phật Giáo Thế Giới) đã là một kích thích tố cho sự
thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam vào năm 1951 và Giáo Hội Tăng Già
Toàn Quốc vào năm 1952.
Đại
Hội Phật Giáo Toàn Quốc được các tập đoàn Phật Giáo Việt Nam triệu tập
tại Huế từ ngày 6.5.1951. Năm mươi mốt đại biểu các tổ chức Phật Giáo
Tăng Già Bắc Việt, Việt Nam Phật Giáo (Bắc Việt), Giáo Hội Tăng Già
Trung Việt, Việt Nam Phật Học (Trung Việt), Giáo Hội Tăng Già Nam Việt
và hội Phật Học Nam Việt họp đại hội tại chùa Từ Đàm, thảo duyệt và chấp
thuận một bản Điều Lệ Nội Quy thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam,
bầu cử một ban Quản Trị và suy tôn thiền sư Tịnh Khiết chùa Tường Vân
làm hội chủ.
Năm
1952, các đoàn thể tăng già Bắc Trung Nam triệu tập đại hội tại chùa
Quán Sứ Hà Nội ngày 7.9 để thành lập Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc. Đại
Hội này đã bầu cử một Tổng Trị Sự và suy tôn thiền sư Tuệ Tạng làm
thượng thủ.
THIỀN SƯ TUỆ TẠNG
Thượng
thủ Tuệ Tạng tên đời làm Trần Thanh Tuyên, sinh năm 1989 tại làng Quần
Phương Trung, quận Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Năm 14 tuổi ông xuất gia tại
chùa Phúc Lâm ở làng Quần Phương Thượng. Năm 16 tuổi ông được thế độ với
pháp danh Tâm Thi. Sau đó không lâu, ông về ở chùa Cồn ở ấp Văn Lý, Nam
Định. Năm hai mươi tuổi ông thọ đại giới đàn chùa Phúc Lâm. Sau khi
thầy của ông là tổ sư chùa Phúc Lâm thị tịch, ông bắt đầu đi du phương
học đạo. Ông đã theo học tại các tổ đình Vĩnh Nghiêm và Tế Xuyên, và đã
chú trọng đặc biệt đến sự nghiên tầm luật tạng. Ông nổi tiếng là nhớ
luật và trì luật bậc nhất.
Năm
1920, cùng với các thiền sư trú trì chùa Dương Lai, Duyên Bình và Quế
Phương ở Nam Định, thiền sư Tuệ Tạng thành lập hội Tiến Đức Cảnh Sách để
quy tụ thanh niên tăng ni và hướng dẫn sự tu học cho các vị này. Hội
Tiến Đức Cảnh Sách đặt trụ sở ở chùa Quế Phương. Hội trưởng là thiền sư
trú trì chùa Dương Lai. Thiền sư Tuệ Tạng giữ chức giáo sư luật học.
Năm
1934, ông đã cùng thiền sư Trung Thứ yểm trợ đắc lực cho việc thành lập
hội Bắc Kỳ Phật Giáo tại Hà Nội, và đến năm 1935, theo lời yêu cầu của
thiền sư Trí Hải và của hội Việt Nam Phật Giáo, ông đã giữ chức giám
viện cho chùa Quán Sứ.
Năm
1936,khi Phật học đường của hội Bắc Kỳ Phật Giáo được khai giảng ở chùa
Bằng Sở với thiền sư Trung Hậu ở chức giám đốc và thiền sư Trung Thứ ở
chức vụ đốc giáo, ông đã nhận lãnh trách vụ phó đốc giáo kiêm giáo sư
luật học. Thiền sư Trung Thứ viên tịch năm 1940 và thiền sư Trung hậu
cũng viên tịch năm 1941. Một mình ông phải đứng trông nom Phật học đường
Bằng Sở, giữ cả trách vụ giám đốc lẫn đốc giáo.
Từ
năm 1941 đến 1945 vì tình thế khó khăn, trường Phật học phải dời về
Quán Sứ rồi sang Bồ Đề, lên Trung Hậu, về Cao Phong rồi về Hương Hải,
cuối cùng lại dời về Quán Sứ. Vậy màlúc nào trường cũng có từ 50 đến 60
tăng sinh. Thiền sư Tuệ Tạng đã cưu mang trường trong suốt thời gian khó
khăn này. Một nữ cư sĩ làm hội trưởng hội Tế Sinh Bắc Việt, tên là
Hoàng Thị Uyển trong thời gian ấy đã dâng cúng một trăm mẫu ruộng ở ấp
Cao Phong tỉnh Phúc Yên để thiền sư có đủ tư lương nuôi dưỡng trưởng
tăng học.
Đầu
năm 1945, thiền sư Tuệ Tạng được mời giữ chức hội trưởng hội Việt Nam
Phật Giáo và trú trì chùa Quán Sứ. Nhưng đến cuối năm, để thích hợp với
trào lưu mới, ông giao trách nhiệm lại cho những người trẻ tuổi hơn như
các thiền sư Tố Liên, Trí Hải và cư sĩ Thiều Chửu rồi về ẩn cư tại chùa
Cồn. Năm 1947 ông làm pháp chủ trường hạ chùa xã Quần Phương Trung. Cảm
mến đức độ ông, tăng chúng cán nơi lại xin về thụ giáo: từ 1946 đến 1949
đạo tràng lúc nào cũng đông đảo, số tăng sinh ít khi xuống dưới 60 vị.
Thời
cuộc biến chuyển, học chúng lại phải dời sang chùa Bằng Sở rồi chùa Cát
Nội. Cuối năm 1949, ông và học chúng lại trở về chùa Cồn
Năm
1950, theo lời thỉnh cầu của Hội Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt, ông lại
trở lại chùa Quán Sứ giữ chức đốc giáo Phật học đường Quán Sứ. Đồng thời
hội Việt Nam Phật Giáo cũng mời ông làm chứng minh đạo sư cho hội.
Tổng
Hội Phật Giáo Việt Nam thành lập năm 1951 đã cung thỉnh ông làm chứng
minh đạo sư, và đại hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc họp tại chùa Quán Sứ
ngày 7.9.1952 đã suy tôn ông là thượng thủ.
Thiền sư Tuệ Tạng lên làm thượng thủ cho Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc năm ông được 63 tuổi.
Năm
1953 với tư cách thượng thủ ông cho ra đời một Lá Tâm Thư lời lẽ thống
thiết, kêu gọi tăng sĩ và cư sĩ góp sức trùng hưng Phật giáo.
Năm
1954, khi đất nước bị chia đôi bởi hiệp định Genève, ông đã cùng các
thiền sư Trí Hải, Tố Liên, Vĩnh Tường và nhiều cây cột trụ vững vàng
khác của Hội Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt nhất tâm kiên trì bảo vệ cơ sở
của Phật giáo tại Miền Bắc. Nhưng thời cuộc đã thay đổi và sự hành đạo
từ vùng đất nước từ vĩ tuyến thứ 17 trở ra đã trở nên khó khăn. Thiền sư
Tuệ Tạng đã rời bỏ chùa Quán Sứ ở thủ đô Hà Nội để về chùa Quần Phương,
Nam Định. Tại đây, thiền sư đã mất vào ngày 10.5.1959, thọ bảy mươi
tuổi. Nhục thân của thiền sư đã được an táng tại vườn chùa Vọng Cung tại
thị xã Nam Định.
Trong
số những vị đệ tử của thiền sư Tuệ Tạng hành đạo tại miền Nam, ta thấy
có các thiền sư Chân Thượng, Thanh Cát và Bình Minh đã ghi lại tiểu sử
của thầy một cách tỉ mĩ và thiền sư Chân Thường, hành đạo từ 1966 tại
Pháp, cũng đã làm một bài diễn ca song thất lục bát căn cứ trên tài liệu
ấy.
HỘI PHẬT TỬ VIỆT NAM
Tại
Hà Nội từ năm 1949, song song với Hội Việt Nam Phật Giáo, còn có hội
Phật Tử Việt Nam được thành lập tại chùa Chân Tiên do một số các vị cư
sĩ hữu tâm trong đó có các ông Văn Quang Thùy, Nguyễn Văn Chế, Lê Văn
Lâm, Trương Đình Vy, Lê Văn Giáp và Bùi Hưng Gia góp sức. Hội thường tổ
chức diễn thuyết tại chùa Chân Tiên. Trong số các diễn giả, có bác sĩ
Monod Herzen, giáo sư trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn. Họi cũng thiết
lập một ban Hoằng Kinh để xuất bản các kinh sách Phật giáo, đặt trụ sở
tại số 56 đường Hàng Trống, Hà Nội. Hội Phật Tử Việt Nam cũng đã thiết
lập được một số các chi hội tại các tỉnh, hoạt động nhất là chi hội Hải
Phòng mà trụ sở đặt ở chùa An Biên.
Cư
sĩ Tuệ Nhuận Văn Quang Thùy đã cùng với các bạn đồng chí cho xuất bản
nguyệt san Bồ Đề để phổ biến Phật học. Tạp chí này ra đời ngày
22.9.1949, báo quán đặt tại số 108 đường Boret, Hà Nội. Cư sĩ Tuệ Nhuận
đứng lên làm chủ nhiệm kiêm chủ bút.
Tạp
chí Bồ Đề được xuất bản từ tháng Chín năm 1949 cho đến mãi tháng Năm
năm 1954 mới đình. Cư sĩ Tuệ Nhuận đích thân phiên dịch chú giải luận
Duy Thức Tam Thập Tụng, Thập Mục Ngưu Đồ cũng viết nhiều bài giáo lý cơ
bản cho tạp chí của mình. Cộng tác với Bồ Đề có nhiều cây bút vững vàng
như Nguyễn Xuân Chữ, Lê Văn Giáp, Hồng Liên, Đế Châu, Vũ Đình Mẫn, Trí
Dung, thanh Văn, Lê Văn Lương v.v… Cát Tường Lan là một cây bút nữ sĩ
trẻ trung rất được Phật tử trẻ tuổi mến chuộng. Nguyễn Đại là một người
đóng góp phần thơ ca gần như thường xuyên cho bán nguyệt san Bồ Đề, vốn
nặng phần văn nghệ hơn tạp chí Phương Tiện. Cát Tường Lan bắt đầu viết
cho Bồ Đề từ năm 1951. độc giả của cô là tuổi trẻ. Văn của cô trong
sáng, nhẹ nhàng và tươi vui. Cô đã sử dụng hình thức khoa học để giảng
dạy Phật pháp cho tuổi trẻ. Bài Lời Nói Của Hòn Cuội của cô đăng ở Bồ Đề
số 52 ra vào tháng Mười 1951 là một bài điển hình của văn cô. Cô đã
nhân một hòn cuội mà nói đến luật vô thường, đến nguyên lý nhân quả và
đến cả lý bất sinh bất diệt của pháp giới. Cô đã nhắc tới định luật của
Lavoisier “không có gì mất đi, không có gì sinh ra”.
Từ
năm 1950 đến 1954 dưới sự hướng dẫn của các thiền sư Tố Liên và Trí
Hải, các tổ chức Gia Đình Phật Tử được thiết lập mau chóng ở Hà Nội và
các tỉnh lân cận. Các cư sĩ Lê Văn Nhã, Lê Văn Lâm, Vũ Thị Định, Lê
Vinh, Đặng Văn Khuê, Trần Thanh Hiệp, ni cô Hải Triều Âm đã là những cây
thạch trụ đầu tiên cho phong trào giáo dục thanh thiếu Phật tử ở miền
Bắc. Gia đình Minh Tâm ở Hà Nội và Gia đình Liên Hoa ở Hải Phòng là
những Gia Đình Phật Tử được thành lập sớm nhất. Tháng Tư năm1951, các
Gia Đình Phật Tử ở Bắc Việt đã gửi đại biểu tham dự đại hội Gia Đình
Phật Tử Toàn Quốc tại chùa Từ Đàm Huế, và đã cùng thống nhất với phong
trào ở Trung và ở Nam.
THIỀN SƯ TỐ LIÊN
Trong
số các nhân vật hoạt động nhất của Phật giáo miền Bắc, các thiền sư Tố
Liên, Trí Hải, Tuệ Chiếu và Vĩnh Tường là những khuôn mặt nổi bậc nhất.
Thiền sư Tố Liên tên đời là Nguyễn Thanh Lai, sinh năm 1903 tại Hà Đông,
xuất phát từ chùa Hương Tích và là đệ tử của thiền sư chùa này. Tính
người cương trực, chuộng hoạt động, ông đã từng đi du phương tham học
nhiều nơi và đã dừng lại khá lâu để trau dồi Phật học tại các đạo tràng
Tế Xuyên và Vĩnh Nghiêm. Ông cũng đã từng tu học tại thiền viện Côn Sơn ở
Thanh Mai. Từ Côn Sơn về, để cộng tác với hội Bắc Kỳ Phật Giáo, ông đã
đóng góp rất nhiều cho Phật học đường Quan Sứ và cho những hoạt động xã
hội và văn hóa của hội. Ông làm chủ tịch hội Tăng Ni Chính Lý Bắc Việt
hồi ông được 47 tuổi.
Ông
đã có công cho khắc in rất nhiều bản và phổ biến trong toàn quốc bộ
Việt Nam Phật Điển Tùng San, mong tác phẩm này được lưu truyền hậu thế
và không còn bị mai một. Chủ nhiệm và chủ bút báo Phương Tiện, ông còn
lo mọi việc đối nội và đối ngoại không những cho Hội Phật Giáo Tăng Già
Bắc Việt mà còn cho Hội Việt Nam Phật Giáo nữa. Chính ông đã vận động
suy tôn thiền sư Mật Ứng lên làm Thiền gia pháp chủ của Phật Giáo Tăng
Già Bắc Việt. Cũng chính ông đại diện cho Phật Giáo Việt Nam đi dự hội
nghị thành lập hội Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu năm 1950 tại Tích Lan, và
đưa Phật Giáo Việt Nam vào tư cách sáng lập hội viên của hội này. Trong
thời gian từ 1949 đến 1954 ông thường vào Trung và Nam để tham luận và
đàm đạo với các nhà lãnh đạo Phật giáo ở đây về phương thức thống nhất
Phật giáo và xây dựng cơ sở vững chãi cho một giáo hội tương lai. Ông để
tâm rất nhiều đến việc đào tạo tăng tài và thiết lập những cơ sở văn
hóa về giáo dục cho giáo hội. Ông chuyên viết bài giảng phổ thông về
Phật học để nhà Đuốc Tuệ ấn hành.
Ông
không biết cúi đầu bất cứ trước một quyền lực nào. Năm 1952 khi có lệnh
động viên cả giới tăng sĩ Phật giáo, ông đã phản đối dữ dội quyết định
này trước mặt thủ hiến Bắc Việt
Năm
1954 sau khi đất nước bị qua phân, ông cùng thiền sư Trí Hải nỗ lực bồi
đắp và bảo vệ cơ sở Phật giáo đã được xây dựng lại từ 1949 tại miền
Bắc. Chính sách hạn chế tôn giáo {…} đã từ từ giới hạn phạm vi hoạt động
của Hội Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt và Hội Việt Nam Phật Giáo. Năm 1958
{…} hội Phật Giáo Thống Nhất được thành lập với thiền sư Trí Độ ở chức
vụ hội trưởng. Những cơ sở thành lập 1949 bị giải tán. Thiền sư Tố Liên
cùng các đồng chí mất dần vai trò lãnh đạo. Thiền sư Tuệ Tạng, thượng
thủ Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc phải rời chùa Quán Sứ để về Nam Định.
Thiền sư Trí Độ liên tục làm hội trưởng hội Phật Giáo Thống Nhất cho đến
năm ông viên tịch (1979). Thiền sư Trí Độ là người được chính quyền tin
tưởng. Từ năm 1955 trở đi ông đã được liên tục cử vào Đoàn Chủ Tịch Ủy
ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Những
cơ sở như Phật học đường Văn Hồ, Phật học đường Quán Sứ, trường trung
học Khuông Việt, trường trung học Vạn Hạnh, nhà xuất bản Đuốc Tuệ, tạp
chí Phương Tiện, cô nhi viện Phật giáo v.v… đã lần lượt bị giải tỏa từ
sau 1954. Thiền sư Tố Liên bị xa cách với quần chúng mà ông lãnh đạo.
Ông mất tại Hà Nội năm 1977.
THIỀN SƯ TRÍ ĐỘ
Thiền
sư Trí Độ, hội trưởng Phật Giáo Thống Nhất, tên đời là Nguyễn Kim Ba,
sinh năm 1895 tại làng Phổ Trạch, tổng An Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm chín
tuổi ông được học chữ Nho và năm mười tám tuổi ông theo học trường sư
phạm. Năm 1919 ông được bổ đi dạy tại trường Vĩnh Lưu. Nơi đây, được gần
gũi thiền sư Liên Tôn, ông trở thành hâm mộ đạo Phật. Thiền sư Liên Tôn
khuyên ông tới thọ giới xuất gia với thiền sư Trí Hải chùa Bích Liên ở
làng Háo Đức, quận An Nhơn. Năm 31 tuổi ông được thiền sư Trí Hải đưa
tới chùa Thập Tháp để học với thiền sư Phước Huệ. Năm 1931, thiền sư Lê
Khánh Hòa ở Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học gửi thư cho thiền sư Phước Huệ để
mời ông và thiền sư Liên Tôn vào Nam cộng tác với tạp chí Từ Bi Âm.
Trong Từ Bi Âm, ông dịch và chú giải kinh A Di Đà, Phổ Môn, Vu Lan Bồn,
viết về Duy Thức trong một loạt bài mà đề tài là Luận Về Sóng Thức, và
viết những bài giáo lý như Phép Lạy Hồng Danh Sám v.v…
Năm
1934 ông trở về Bình Định, và sau đó không lâu, ông ra Huế và được mời
làm đốc giáo trường An Nam Phật Học năm 1935. Vốn từng được huấn luyện
về sư phạm, ông đã đưa vào trường An Nam Phật Học lối giảng dạy có
phương pháp rất được các học tăng ưa thích.
Tham
dự vào phong trào Phật Giáo Cứu Quốc từ 1945, ông được bầu làm ủy viên
Ủy Ban Liên Việt tại Thanh Hóa năm 1950, và năm 1953 ông được nhà nước
chỉ định làm ủy viên Ủy Ban Việt Nam Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới. Ông lại
được giữ chức vụ ủy viên Ban Thường Vụ của Quốc Hội Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa các khóa 2, 3, 4 và 5. Năm 1975 ông được vào Sài Gòn thăm chùa
Ấn Quang và Viện Đại Học Vạn Hạnh. Ông tịch ngày 24.10.1979 tại Hà Nội
và đã được nhà nước ban Huân Chương Độc Lập hạng ba và Huân Chương Kháng
Chiến hạng nhì.
THIỀN SƯ TRÍ HẢI
Thiền
sư Trí Hải tên đời là Đoàn Thanh Tảo, sinh năm 1906 tại Nam Định, trú
trì chùa Mai Xá, đệ tử của thiền sư Thông Dũng ở chùa Mai Xá, tỉnh Hà
Nam. Ông xuất gia năm 17 tuổi, thọ đại giới năm 20 tuổi. Năm 25 tuổi ông
được ủy nhiệm trú trì chùa Phú Đa ở xã Yên Lập, tỉnh Hà Nam. Năm sau vì
bản sư viên tịch, ông trở lại trông coi chùa Mai Xá.
Ông
là người có công đầu trong việc vận động thành lập hội Bắc Kỳ Phật
Giáo, và đã suốt đời xây dựng cho cơ sở Phật giáo tại miền Bắc. Chính
ông đã thu xếp để mời thiền sư Tố Liên từ Thanh Mai về để cộng tác với
chùa Quán Sứ.
Năm
1934, sau khi đã vận động thành lập xong hội Bắc Kỳ Phật Giáo, ông
chuyên lo về việc giao tế và đối ngoại của hội. Ông đứng ra trùng tu
chùa Quán Sứ năm 1936. Ông lại vận động nhà in Đuốc Tuệ và viện cô nhi
cho hội và đã dành rất nhiều thì giờ của ông để chăm sóc những cơ sở
này. Ông đã ủy cho đệ tử của ông là thiền sư Tâm Giác trông lo về ngành
thanh thiếu niên Phật giáo.
Năm
1952, tại đại hội thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại chùa Từ Đàm
Huế, ông được bầu làm phó hội chủ của Tổng Hội. Phái đoàn hội Phật Giáo
Tăng Ni Bắc Việt lúc ấy được lãnh đạo bởi thiền sư Mật Ứng, Thiền gia
pháp chủ Bắc Việt.
Thiền
sư Trí Hải là tác giả cuốn Truyện Phật Thích Ca bằng thơ lục bát, ấn
hành năm 1951. Tác phẩm này tuy chỉ có 50 trang nhưng được phổ biến rộng
rãi vì tính cách đại chúng của nó. Từ năm 1951 đến 1953 sách đã tái bản
tới bảy lần, mỗi lần hàng vạn cuốn. Sách do nhà in Đuốc Tuệ xuất bản.
Nhà in Hòa Ký ở Hà Nội cũng đã in nhiều bài giảng của ông, như các bài
Công Cầu Đạo Của Đức Thích Ca, Công Quả Tu Hành Của Đức A Di Đà, Để Của
Thân Sau, Phật Học Thiền Thuyết, Phật Với Chúng Sinh, Thiện Ác Vào Báo
Ứng, Từ Bi Hỷ Xả v.v… phần lớn những bài giảng này được ấn hành khoảng
từ 1935 đến 1940. Ông đã biên soạn và phiên dịch được cả thảy 28 tác
phẩm trong đó có Kinh Lục Độ Tập, Khóa Hư Lục Và Trúc Lâm Tông Chỉ
Nguyên Thanh.
Sau
1958, cũng như thiền sư Tố Liên, ông đã bị cô lập hóa và không tiếp tục
được sự nghiệp hoằng hóa lớn của mình. Ông viên tịch vào ngày 30.6.1979
tại Hải Phòng, thọ 74 tuổi sau một chuyến thăm viếng miền Nam. Tại đây
ông đã gặp nhiều bạn đồng chí cũ.
Các
thiền sư Tố Liên và Trí Hải mặc dù gặp nhiều khó khăn, đã sống trên 20
năm trong môi trường xã hội chủ nghĩa. Thiền sư Vĩnh ường, một người
đồng chí của họ, trú trì chùa Thần Quang, Hà Nội, người đã thực hiện pho
tượng đồng lớn nhất Việt Nam, chỉ sống được không đây một năm tại môi
trường này. Theo báo Tự Do số 730 ra ngày 6.6.1959 tại Sài Gòn thì ông
đã quyết tịch năm 1955 tại chùa Thần Quang (Ngũ Xã) ở Hà Nội {…}.
Phật
giáo tại miền Bắc, từ 1954 trở đi đã cố gắng đi vào bề sâu. Không tạp
chí Phật giáo nào xuất bản. Không Phật học viện nào mở cửa thâu nhận học
tăng. Không có kinh sách nào in ấn, trừ bộ kinh Lăng Nghiêm của cư sĩ
Tâm Minh. Phật tử chỉ được tổ chức lễ lược mỗi năm hai kỳ: ngày Phật Đản
và ngày Vu Lan. Thiền sư từ 30 tuổi trở xuống đều phải cởi áo hoặc để
đi vào quân ngũ, hoặc đi vào mặt trận sản xuất. Các Phật học viện không
còn học tăng. Mỗi tự viện chỉ còn lại một hoặc hai tăng sĩ lớn tuổi.
Những vị này phải dùng phần lớn thì giờ của mình để làm công việc canh
tác sản xuất. Ruộng đất của chùa được hiến cho nhà nước để làm cách mạng
xã hội. Giáo hội không còn tài sản nào để làm cơ sở hành đạo.
Tuy
vậy, tiềm lực của đạo Phật vẫn còn rất lớn ở chiều sâu. Tiềm lực này đã
được thấy một lần năm 1963 tại quảng trường Ba Đình, khi Phật tử Thủ Đô
được mời tới để dự lễ truy niệm thiền sư Quảng Đức, người đã tự thiêu
tại Sài Gòn để chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Phật tử Hà Nội, nhân dịp
này, đã đến tràn ngập quảng trường Ba Đình, đông đảo không kém gì ngày
mà chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1945 {…}.
CÁC NI VIỆN MIỀN BẮC
Hiện
biên giả chưa có được phương tiện khảo cứu về sinh hoạt của giới ni sư
miền Bắc. Ni chúng ở miền Bắc có một truyền thống lâu dài hơn miền Trung
và miền Nam, đó là lẽ đương nhiên. Tại Hà Nội có một ni viện lớn ở
đường Hàng Than đã được thành lập nhiều đời; tổ đình này thường được gọi
là Sơn Môn Am. Mỗi năm các ni sư quy tụ về đây để kết hạ có khi trên
một trăm vị. Tại Hà Đông ở làng Khoang có một ni viện quy mô khác được
gọi là Sơn Môn Khoang. Đây cũng là một tổ đình lớn của ni giới. Ở Phúc
Yên, Sơn Môn Trung Hậu cũng đã đào tạo được nhiều vị danh ni để gửi đi
hoằng hóa khắp nơi.
Chùa
Viên Minh ở Hà Nội gần đền thờ Hai Bà Trưng cũng là một tổ đình. Chùa
này do ni sư Đàm Kiền tạo dựng. Sau khi ni sư Đàm Kiền viên tịch, các ni
sư Đàm Chất, Đàm Nghĩa, Đàm Hinh và Đàm Thuần kế nhau chủ trì ni viện
này. Năm 1930, ni sư Đàm Thu, người kế vị Đàm Thuận, lo việc trùng tu.
Bà là tổ thứ sáu của chùa Viên Minh. Nhờ có bài văn trên bia chùa do Phó
Bảng Hoàng Tăng Bi soạn cho nên tên tuổi các ni sư nói trên đã được lưu
truyền lại.
Ni
viện đầu tiên tổ chức theo kiểu học viện mới là ni viện Bồ Đề ở Hà Nội,
trong khuôn khổ nền Phật giáo phục hưng do thiền sư Thanh Hanh lãnh
đạo. Kế đó là ni viện Văn Hồ do thiền sư Tố Liên vận động thành lập vào
năm1949. Ni sư Đàm Soạn được mời làm giám học và quản chúng ni viện này.
Ni
viện Vân Hồ bước vào thời kỳ thịnh đạt để từ năm 1952. Trong ban giảng
huấn, ngoài các ni sư như Đàm Soạn và Đàm Đậu, còn có các thiền sư Tuệ
Tạng. Tố Liên và Trí Hải. Chương trình học, ngoài nội điển, còn có sinh
ngữ, khoa học phổ thông và tiểu công nghệ.
NI SƯ ĐÀM SOẠN
Ni
sư Đàm Soạn là một danh ni rất được mến chuộng. Vì đã từng làm tọa chủ
các chùa Thanh Nhàn, Từ Hàng và Đức Viên nên ni sư cũng thường được gọi
bằng những danh xưng này. Đây là vị ni đầu tiên được vời vào hoàng cung
Huế dạy đạo cho các bậc hoàng hậu và cung phi. Ni sư Đàm Soạn sinh ở
làng Cự Đà, tỉnh Hà Đông, xuất gia từ hồi nhỏ tuổi, và được theo học với
thiền sư Đông Đồ tại Sơn Môn Trung Hậu tỉnh Phúc Yên.
Năm
1928, bà có tham dự vào việc xem đất để xây cất chùa Diệu Viên tại
ThừaThiên. Chùa Diệu Viên có thể được xem như là ni tự đầu tiên ở Huế.
Ni sư Hương Đạo, sau này làm tự trưởng Diệu Viên, là đệ tử của bà. Bà
thường hay vào Huế mỗi năm ba tháng để cùng các ni sư ở đây làm Phật sự.
Năm 1950 bà được mời làm giám học và quản chúng ni viện Vân Hồ. Sau đó
bà mời ni sư Đàm Đậu chấp chưởng trách vụ này để bà có thêm thì giờ lo
việc giảng dạy.
Năm
1952 bà được hội Dược Sư mời vào viếng chùa Dược Sư ở Gia Đình. Bà đã
khuyến khích các ni sư ở đây nỗ lực phát triển xây dựng chùa Dược Sư
được thành lập, bà ở lại an cư ở đây ba tháng. Sau đó bà về Hà Nội an cư
tại chùa Đức Viện. Bà tịch ở Bắc Ninh năm Mậu Thân (1968). Một trong
những vị cộng sự xuất sắc nhất của bà là ni sư Đàm Đậu, xuất thân từ
chùa Đàn Thu ở Hà Nội. Ni sư Đàm Hậu là khuôn mặt có thể gọi là sáng
chói của ni viện Vân Hồ.