Chương XXXIII: Chùa Linh Quang và Chùa Từ Đàm ở Trung Việt
CHÙA LINH QUANG VÀ SƠN MÔN TĂNG GIÀ Ở TRUNG VIỆT
Thiền
sư Mật Khế, như ta đã biết, là một trong vị giảng sư đầu tiên của hội
An Nam Phật Học. Ông lại còn có công trong việc xây dựng tổ chức Sơn Môn
Tăng Già và thành lập các trường Sơn Môn Phật Học và An Nam Phật Học.
Sư đệ của ông là thiền sư Mật Thể đã đóng góp nhiều về phương diện biên
khảo và dịch thuật, và cũng đã từng lớn tiếng hô hào “cải tổ Sơn Môn”
gây nên nhiều phản ứng trong giới tăng già và thành lập các trường Sơn
Môn Phật Học. Sư đệ của ông là thiền sư Mật Thể đã đóng góp nhiều về
phương diện biên khảo và dịch thuật, và cũng đã từng lớn tiếng hô hào
“cải tổ Sơn Môn” gây nên nhiều phản ứng lớn trong giới tăng già, phản
ứng thuận cũng có, phản ứng nghịch cũng có. Sự tham dự của Mật Thể vào
Quốc Hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng là một hiện tượng mới trong Phật
giáo. Ngoài hai vị đệ tử này, thiền sư Giác Tiên chùa Trúc Lâm còn có
hai vị đệ tử khác cũng đã đóng góp khá hiều cho việc xây dựng đoàn thể
tăng già tịa Thừa Thiên và Trung Việt. Đó là các thiền sư Mật Hiển và
Mật Nguyện.
Từ
cuối 1946 trở đi, Sơn Môn Tăng Già Thừa Thiên đã bắt đầu hoạt động trở
lại với sự cố gắng của hai thiền sư huynh đệ này. Thiền sư Mật Hiển kế
thế trú trì chùa Trúc Lâm, còn thiền sư Mật Nguyện được Sơn Môn chỉ định
về trú trì chùa Linh Quang. Chùa này bắt đầu từ năm 1951 đã chính thức
trở thành trụ sở trung ương của Sơn Môn Tăng Già Thừa Thiên và Trung
Việt.
Chùa
Linh Quang được xây dựng năm 1852, và được thiền sư Liễu Triệt là tổ
khai sơn(120). Chùa được thiền sư Nguyên Cát chùa Quốc Ân đảm nhiệm
trách vụ trú trì từ năm 1882 sau khi thiền sư Liễu Triệt mất. Năm 1914
thiền sư Đắc Cần kế vị thiền sư Nguyên Cát. Năm 1920, thiền sư Phước Hậu
kế vị thiền sư Đắc Cần.
Năm
1944 các lớp đại, trung và tiểu học của trường Sơn Môn Phật Học được
dời về chùa Linh Quang và thiền sư Trí Thủ được giao phó trách nhiệm
giám viện của trường và trú trì của chùa. Tháng Sáu năm 1946, Sơn Môn
Tăng Già Thừa Thiên quyết định dời trường về chùa Báo Quốc, và trách vụ
trú trì chùa Linh Quang được giao phó cho thiền sư Mật Nguyện.
Năm
1947 trong khi thiền sư Trí Thủ khai giảng Phật học đường Trung Việt
tại chùa Báo Quốc thì các thiền sư Mật Hiến tại Trúc Lâm và Mật Nguyện
tại Linh Quang cũng bắt đầu tích cực xây dựng tổ chức Sơn Môn Tăng Già
Trung Việt, thiền sư Mật Nguyện được Sơn Môn Thừa Thiên cử làm chánh trị
sự vào đầu năm 1951, đại biểu thiền sư quy tụ về chùa Linh Quang để họp
hội đồng. Sơn Môn Tăng Già Trung Việt được thành lập từ đại hội đồng
này và thiền sư Mật Hiển chùa Trúc Lâm được công cử làm trị sự trưởng.
Thiền sư Tịnh Khiết được suy tôn làm tùng lâm pháp chủ. Văn phòng của
Sơn Môn Tăng Già Trung Việt cũng được đặt tại chùa Linh Quang.
Mùa
hè năm 1952, Sơn Môn Tăng Già Trung Việt tổ chức một mùa kết hạ an cư
tại chùa Linh Quang cho tăng sĩ đại biểu từ các tỉnh miền Trung về. Mùa
kết hạ này đã thắt chặt được mối đồng tâm giữa các Sơn Môn địa phương và
trung ương. Từ đó năm nào tại chùa Linh Quang cũng có tổ chức an cư kết
hạ cho chư tăng. Đầu năm 1960 vì nhu cầu mới, chùa Linh Quang lại được
trùng tu một lần thứ hai để đủ cơ sở cho sự hành đạo của Sơn Môn
THIỀN SƯ MẬT NGUYỆN
Thiền
sư Mật Nguyện đảm nhiệm trách vụ trị sự trưởng Sơn Môn Tăng Già Trung
Việt từ năm 1954. Ông rất xứng đáng trong trách vụ này, vì ngoài học lực
vững chãi về nội điển, ông còn có tài tổ chức và hành chính. Ông sinh
năm 1911 tại làng Phú Xuân, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Tên đời
của ông là Trần Quốc Lộc. Năm 1926 ông xuất gia theo hầu thiền sư Giác
Tiên ở chùa Trúc Lâm, và được thế độ năm19 tuổi, pháp danh là Tâm Như.
Ông được theo học trường Sơn Môn Phật Học ở Tây Thiên. Năm 1937 ông vào
Bình Định thụ Đại Giới đàn Tịnh Lâm ở lại học thêm nội điển với thiền sư
Phước Huệ chùa Thập Tháp. Năm 1946, ông khởi sự lập chùa Bảo Tràng Huệ
Giác tại Hòa Tân (Bình Định), nhưng chiến tranh đã phá hủy công trình
này. Về Huế, ông được Sơn Môn Thừa Thiên giao phó trách vụ trú trì chùa
Linh Quang trong đại hội ngày 10.4.1946.
Ông
được mời làm giảng sư cho hội An Nam Phật Học từ hồi hai mươi tuổi, khi
còn là sa di. Đầu năm 1951, ông làm chánh trị sự Sơn Môn Thừa Thiên, và
cuối năm ấy được mời dạy tại Phật học đường Báo Quốc. Năm 1954, ông
được bầu cử làm trị sử trưởng Sơn Môn Tăng Già Trung Việt. Ngày
10.9.1959, trong đại Giáo Hội Tăng Giàtoàn quốc kỳ II, tại chùa Ấn Quang
Sài Gòn, ông được bầu làm trị sự phó Giáo Hội Tăng Già Việt Nam kiêm
nhiệm chức vụ ủy viên nghi lễ của Giáo Hội này.
Năm
1964, ông được mời làm phó đại diện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất tại miền Vạn Hạnh. Năm 1965, Viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn
mời ông vào ban giảng huấn. Năm 1968 ông được công cử vào chức vụ chánh
đại diện Miền Vạn Hạnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kiêm
chánh đại diện tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế. Ông đã dịch các kinh Giải
Thâm Mật và Vô Lượng Thọ, tác phẩm Tân Duy Thức Luận của Thái Hư và viết
một số bài đăng trong các tạp chí Viên Âm, Giác Ngộ và Liên Hoa. Ông
tịch ngày 18-8-1972 tại chùa Linh Quang Huế, thọ 62 tuổi. Sau khi ông
mất, chùa Linh Quang được đặt dưới sự chăm sóc của sư huynh ông là thiền
sư Mật Hiển, lúc ấy đang làm đặc Ủy Tăng Sự của Tỉnh Giáo Hội Thừa
Thiên.
Sơn
Môn Tăng Già Trung Việt từ năm 1959 đã cho phát hành nguyệt san Liên
Hoa do thiền sư Đôn Hậu chùa Linh Mụ làm chủ nhiệm và thiền sư Đức Tâm
chủ bút. Tòa soạn của tạp chí này được đặt tại chùa Diệu Đế. Cộng tác
với tạp chí này có nhiều vị tăng sinh đang chu du tại ngoại quốc.
CƯ SĨ CHƠN AN
Hội
Việt Nam Phật Học, hậu thân củahội An Nam Phật Học, bắt đầu được hoạt
động từ năm 1948 và đặt trụ sở tại số 1B đường Nguyễn Hoàng, Huế. Cư sĩ
Chơn An Lê Văn Định được mời làm vị hội trưởng đầu tiên của hội. Những
nhân vật hoạt động nhất của hội đều là những người đã từng hoạt động
trong hội An Nam Phật Học cũ, trong đó có các ông Hưng Luyến Vương và
Nguyễn Văn Quỳ.
Cư
sĩ Chơn An là một nhà cựu học, đã từng làm tuần vũ tỉnh Phan Thiết
trong chính phủ Nam Triều. Ông đã từng được học Phật với thiền sư Giác
Tiên và thiền sư Phước Huệ. Năm 1948 ông là một nhân sĩ không giữ chức
vụ nào trong chính quyền. Ông là người rất thiết tha với vấn đề thống
nhất Phật giáo. Trong thời gian phục vụ tại hội Việt Nam Phật Học, ông
đã xúc tiến mạnh mẽ việc Việt hóa và thống nhất hóa nghi lễ của giới cư
sĩ. Nhiều bài sám văn, tác bạch và phát nguyện văn trong cuốn Nghi Thức
tụng Niệm của giới cư sĩ (được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
chuẩn y năm 1964) đã được ông biên soạn. Thiền sư Thiện Siêu, giảng sư
của hội Việt Nam Phật Học và trú trì chùa Từ Đàm, đã giúp ông tận lực
trong việc biên soạn những văn kiện nghi lễ này.
Ông
thọ Bồ Tát tại gia ở Giới Đàn Phật Học Viện Nha Trang năm 1958, lúc ông
được 78 tuổi. Nhân dịp này ông đã viết bài phát nguyện sau đây, đầy ý
thức cảnh giác và phản tỉnh:
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Trót lầm mê đắm đuối hình hài
Đếm đốt đã sáu tuần thêm sáu tuổi(*)
Triều quận trong ngoài rong ruổi
Nợ áo xiêm luồn cúi lấy làm vinh
Bởi căn trần bưng bít tâm linh
Không thấy đạo bồ đề cao cả
Vạn pháp duyên sanh đô thị giả
Toán lai danh lợi hữu hoàn vô
Bể trần ai sóng dợn lô nhô
Cảnh phù thế cái vui lồng cái khổ.
Thân tập nhiễm không sớm lo tự độ
Đợi kiếp nào cho hiển lộ Pháp thân?
Trước đài sen Vô Thượng Năng Nhân?
Sụp mình lạy nguyện làm đệ tử:
Giới Bồ Tát con thề trọn giữ
Đời đơi noi sự độ sanh
Mong cho thế giới an lành(121)
Cư
sĩ Chơn An chỉ làm hội trưởng hội Việt Nam Phật Học trong ba niên khóa
đầu. Đến năm 1950, thiền sư Trí Thủ được bầu làm hội trưởng hội Việt Nam
Phật Học.
GIỚI TĂNG SĨ ĐỨNG RA ĐẢM NHIỆM GUỒNG MÁY LÃNH ĐẠO
Đây
là lần đầu tiên một vị tăng sĩ đứng ra làm hội trưởng của một hội Phật.
Từ đây trở đi, chức vụ hội trưởng hội Việt Nam Phật Học luôn luôn được
đảm nhiệm bởi các phần tử Tăng Già. Diễn biến này là một sự kiện rất
đáng chú ý. Các chức vị trong Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất sau đây đều do các phần tử tăng già đảm nhiệm. Đây không
phải là sự ngẫu nhiên mà là một diễn biến hợp lý. Tại miền Trung, cơ sở
của Phật giáo đã được xây dựng rất sớm ở cấp huyện và xã một cách vững
vàng. Ở Thừa Thiên, có thể nói rằng không nơi nào không có tổ chức khuôn
hội và niệm Phật đường. Khuôn hội tức là tổ chức của hội Việt Nam Phật
Giáo ở đơn vị xã. Khi cơ sở của Phật giáo đã được tổ chức khá hoàn bị
như thế thì sự chờ đợi và mong mỏi của tín đồ ở cấp lãnh đạo cũng tăng
trưởng một cách đáng kể. Các thiền sư trong lúc giảng dạy và hóa đạo đã
chứng tỏ học thức và khả năng lãnh đạo của mình, do đó, người tín đồ bắt
đầu nhìn vào họ như những bậc lãnh đạo thực sự, và hoan hỉ thấy họ ngồi
ở cấp tổng trị sự hơn là thấy những Phật tử cư sĩ cũng “cư sĩ” như
mình.
Thiền
sư Trí Quang lên làm hội trưởng hội Việt Nam Phật Học từ năm 1954. năm
sau, tuy đại lão thiền sư Giác Nhiên đứng ở cương vị hội trưởng, ông vẫn
thực sự điều khiển công việc của hội trong vai trò phụ tá. Trí Quang là
một trong những tăng sĩ đã được đào tại trường An Nam Phật Học, và đã
tốt nghiệp trường này. Năm 1954, ông đã 31 tuổi, nghĩa là đã khá trưởng
thành để đảm nhiệm một trách vụ lãnh đạo. Thiền sư Trí Nghiễm mà sau này
được biết dưới pháp hiệu Thiện Minh đã được gửi về các tỉnh cao nguyên
và bình nguyên miền Nam Trung Việt để củng cố lại cơ sở của hội Việt Nam
Phật Học từ năm 1949. Trí Nghiễm cũng tốt nghiệp một lần với Trí Quang
và năm Trí Quang 31 tuổi thì Trí Nghiễm cũng đã 33 tuổi. Đó là những vị
tăng trẻ tuổi, xuất sắc cả về phương diện nội điển lẫn tài năng tổ chức.
Thiền sư Trí Nghiễm đã xây dựng được cơ sở vững chắc cho hội Việt Nam
Phật Học tại các tỉnh Lâm Viên, Đồng Nai Thượng, Khánh Hòa, Phan Rang và
Phan Thiết. Thiền sư Trí Quang từ năm 1954 đến 1957 trong khi giữ trách
vụ hội trưởng trong trị sự hội Việt Nam Phật Học đã cho tái bản tờ Viên
Âm và tích cực sáng tác và biên khảo. Tờ Viên Âm do một tay ông chủ
trương vừa chăm sóc vừa biên tập. Ông dịch Luận Chỉ Quán, Luận Đại Thừa
Khởi Tín rồi biên tập Cuốn Sách Nhỏ Của Người Xuất Gia và Cuốn Sách Nhỏ
Của Người Tại Gia. Hai “Cuốn sách nhỏ” này nói lên được ý hướng của ông
về vấn đề đào tạo những người Phật tử tăng già và cư sĩ mẫu mực. Về “mẫu
mực” của người xuất gia, ông đưa ra hình ảnh của hai vị cao tăng là Huệ
Năng và Cưu Ma La Thập và biên tập các cuốn Ngài Huệ Năng Và Ngài La
Thập. Rồi ông dịch Luận Đại Trượng Phu, biên tập Lịch Sử Truyền Bá Phật
Giáo, Vang Bóng Đức Từ Phụ. Ông cũng dịch Từ Bi Thủy Sám Pháp, Dược Sư
Sám Pháp và Lương Hoàng Sám Pháp.
Đồng
thời với Trí Quang và Trí Nghiễm còn có Trí Đức tức là thiền sư Thiện
Siêu, cũng là người cùng tốt nghiệp trường An Nam Phật Học. Ở chức vụ
trú trì chùa Từ Đàm, thiền sư Thiện Siêu làm giảng sư cho hội Việt Nam
Phật Học, giảng dạy tại Phật học đường Báo Quốc và biên tập tạp chí Viên
Âm. Ông tiếp tục công trình dịch và chú thích kinh Lăng Nghiêm mà cư sĩ
Tâm Minh làm được nửa chừng trên tạp chí Viên Âm cũ. Kiến thức về nội
điển rất vững chãi, ông bắt đầu dịch các kinh trong bộ Trường A Hàm,
kinh Phá Cú và một số các tác phẩm Phật học viết bằng văn bạch thoại như
Nhất Cá Khoa Học Giả Nghiên Cứu Phật Kinh Đích Báo Cáo của kỹ sư Uông
Trí Biểu. Khi Phật học viện Hải Đức ở Nha Trang được thành lập năm 1956,
ông được mời làm đốc giáo.
Thiền
sư Thiện Minh (tức Trí Nghiễm) sau khi xây dựng cơ sở vững chãi cho
Phật Giáo tại các tỉnh miền Nam Trung Việt đã trở về Huế và làm hội
trưởng của tổng trị sự hội Việt Nam Phật Học từ năm 1958 đến 1962. Về
phương diện tài tổ chức và hành chính, thiền sư Thiện Minh xuất sắc hơn
cả hai vị đồng liêu của ông là Trí Quang và Thiện Siêu. Ông là một người
thông minh đối cơ nhanh chóng, trong những buổi đại hội đồng khó khăn
ông thường được mời làm chủ tọa bởi vì ít ai hơn được ông trong trách vụ
ấy. Năm 1963 chính ông đã đứng làm trưởng phái đoàn Ủy Ban Liên Pháp
Bảo Vệ Phật Giáo để thương thuyết một phái đoàn liên bộ của chính phủ
Ngô Đình Diệm, và đã dồn phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và các vị bộ
trưởng cùng đại biểu chính phủ vào thế phải ký bản Thông Cáo Chung trong
đó những yêu sách của Phật giáo đã được chính phủ làm thỏa mãn. Thời
gian 1958-1962 là một khoảng thời gian khó khăn trong đó áp lực của
chính quyền Ngô Đình Diệm càng lúc càng trở nên nặng nề đối với Phật
giáo đồ.
PHẬT GIÁO ĐƯỜNG BÁO QUỐC
Phật
học đường Báo Quốc do thiền sư Trí Thủ chủ trì là một đạo tràng rất
hưng thịnh. Từ năm 1950 trở đi, Phật học đường này đã bắt đầu thu nạp
nhiều học tăng từ Hà Nội và Sài Gòn gửi tới. Trong số các giáo sư giảng
dạy tại Phật học đường, có các thiền sư Bích Phong, Mật Nguyện, Đôn Hậu,
Trí Thủ, Quang Phú, Trọng Ân, Hoằng Thơ, Trí Quang và Trí Đức. Phật học
đường này đã cung cấp giảng sư cho các tỉnh hội Phật học miền Trung, cố
vấn giáo lý cho các đơn vị Gia Đình Phật Tử và giáo sư Phật pháp cho
các tư thục Bồ Đề.
CÁC TƯ THỤC BỒ ĐỀ
Thiền
sư Trí Thủ cũng giữ trách vụ ủy viên hoằng pháp cho hội Việt Nam Phật
Học khi hội này được tái lập năm 1948. Năm 1952, ông đặt đá cho ngôi
trường trung học tư thục Bồ Đề đầu tiên của hội Việt Nam Phật Học tại
thành nội Huế. Từ đó về sau, các trường tư thục Bồ Đề được liên tiếp
dựng lên ở các tỉnh hội và chi hội khắp miền Trung cho các cấp tiểu học
và trung học. Những trường này đều do các tỉnh hội và chi hội của hội
Việt Nam Phật Học quản trị. Tại các trường Bồ Đề, một giờ Phật pháp hàng
tuần được thiết lập trong chương trình giáo dục, ở cấp tiểu học cũng
như ở cấp trung học, Trường Bồ Đề trở nên một môi trường mới cho sự
hoằng pháp và giáo dục thiếu nhi trên tinh thần đạo Phật. Theo báo cáo
của Tổng Vụ Giáo Dục Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất năm 1973 thì
số lượng các trường tư thục Bồ Đề toàn quốc trong năm này lên tới 163
trường.
Trong
số những người đứng ra tổ chức và quản trị các trường tư thục Bồ Đề
người ta thấy có nhiều huynh trưởng của tổ chức Gia Đình Phật Tử, một tổ
chức giáo dục thanh thiếu niên trong phạm vi tổ chức của hội Việt Nam
Phật Học.
TỔ CHỨC GIA ĐÌNH PHẬT TỬ
Tổ
chức Gia Đình Phật Tử đã được thai nghén từ năm 1943 khi đoàn Phật Học
Đức Dục dưới sự hướng dẫn của cư sĩ Lê Đình Thám bắt đầu tổ chức và giáo
dục các đoàn Đồng Ấu Phật Tử theo phương pháp sinh hoạt thành niên.
Những đơn vị tổ chức được gọi là những Gia Đình Phật Hóa Phổ.
Năm
1947, sau ngày tan vỡ mặt trận kháng chiến Huế, một số các đoàn viên cũ
của các Gia Đình Phật Hóa Phổ hợp nhau tại nhà của cư sĩ Phan Cảnh Tú
để tìm lại không khí đầm ấm trước chiến tranh. Nhờ đó, tổ chức Gia Đình
Phật Hóa được tái lập. Hai gia đình đầu tiên là gia đình Hướng Thiện do
cư sĩ Phan Cảnh Tú làm phổ trưởng và gia đình Gia Thiện do cư sĩ Nguyễn
Văn Phiên làm phổ trưởng. Năm 1948 khi hội Việt Nam Phật Học đặt trụ sở
tại ngôi nhà số 1B đường Nguyễn Hoàng thì tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ
cũng đặt trụ sở và mở niệm Phật đường tại đây. Ngày 8 tháng Chạp âm lịch
năm ấy, Gia Đình Phật Hóa Phổ tổ chức lễ thành lập chính thức tại chùa
Từ Đàm. Nhiều gia đình khác được tiếp tục thành lập sau Hướng Thiện và
Gia Thiện, như Chơn Trí, Hương Tử, Hương Đàm… Ban hướng dẫn hồi ấy gồm
có các cư sĩ Võ Đình Cường, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy, Cao Chánh Hựu,
Phan Xuân Sanh, Hoàng Thị Kim Cúc, Tịnh Nhân, Tống Hồ Cầm, Đặng Tống và
Lê Văn Dũng. Những trại huấn luyện được tổ chức để đào tạo cán bộ hướng
dẫn và điều khiển các gia đình. Cư sĩ Võ Đình Cường, tác giả sách Ánh
Đạo Vàng, là người đóng vai trò quan trọng nhất trong công trình tái lập
và tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ. Ông giữ chức vụ trưởng ban hướng dẫn
của tổ chức này.
Tổ
chức Gia Đình Phật Hóa Phổ phát triển ất mau chóng và lan rộng tới miền
Nam và miền Bắc. Ngoài Bắc, các cư sĩ Nguyễn Văn Nhã, Lê Văn Lâm, Vũ
Thị Định tạo dựng các cơ sở đầu tiên cho Gia Đình Phật Hóa Phổ tại Hà
Nội và Hải Phòng. Trong Nam, các cư sĩ Tống Hồ Cầm và Nguyễn Văn Thục
xây dựng các đơn vị Gia Đình Phật Hóa Phổ trong phạm vi hội Phật Học Nam
Việt.
Năm
1951, hội nghị toàn quốc của Gia Đình Phật Hóa Phổ được triệu tập tại
Huế và danh hiệu của tổ chức được đỏi thành Gia Đình Phật Tử. Một Nội
Quy Trình đã được đại hội này soạn thảo và chấp nhận.
Gia
Đình Phật Tử là một tổ chức giáo dục thiếu nhi quan trọng và có sắc
thái độc đáo: có thể nói đó là một trong những nét đặc biệt nhất của đạo
Phật tại Việt Nam. Tại các nước Phật giáo trên thế giới, chưa có tổ
chức thiếu nhi nào đông đảo và có ổ chức khéo léo như thế. Vào năm 1973,
số lượng vừa huynh trưởng vừa đoàn viên của tổ chức này đã lên quá mức
200.000 người. Làm cố vấn giáo lý và giảng sư cho các Gia Đình Phật Tử
đầu tiên là các vị học tăng trung học của Phật học đường Báo Quốc. Tài
liệu học Phật đầu iên cho thanh thiếu niên là tập Phật pháp do các học
tăng Minh Châu, Đức Tâm, Thiên Âm, Chân Trí và Trí Không soạn, xuất bản
vào năm 1950.
Môi
trường hành đạo, với sự thành lập khuôn hội tại các đơn vị xã và sự
thiết lập các trường Bồ Đề và tổ chức Gia Đình Phật Tử, đã trở nên quá
rộng lớn.
CÁC CƠ SỞ TĂNG HỌC
Số
lượng tăng sĩ được đào tạo tại Phật học đường Báo Quốc và các ni viện
tại Huế không đủ để làm thỏa mãn một phần mười nhu cầu hành hóa. Các
Phật học đường khác tại thị xã lớn như Nha Trang, Đà Nẵng và các lớp tu
nghiệp cho tăng sĩ tại trụ sở Sơn Môn Tăng Già tại các tỉnh đã được tuần
tự thiết lập để đào tạo và cung cấp thêm cán bộ tăng sĩ cho môi trường
hành đạo càng ngày càng Phật tử ấy.
Phật
học đường Phổ Đà ở Đà Nẵng đã được thiền sư Trí Hữu quản đốc Phật học
đường Bảo Tịnh ở Tuy Hòa được thiền sư Trí Thành điều khiển. Phật học
đường Nha Trang do thiền sư Huyền Quang giám đốc từ năm 1956. Đến năm
1958, Phật học viện Trung Phần được thiết lập tại chùa Hải Đức Nha Trang
do thiền sư Trí Thủ giám đốc và thiền sư Thiện Siêu đốc giáo. Phật học
đường Nha Trang được sát nhập vào Phật học viện này, và thiền sư Huyền
Quang trở thành tổng thư ký của Phật học viện. Tại chùa Thập Tháp ở Bình
Định, thiền sư Kế Châu cũng thiết lập Phật học đường Phước Huệ.
NI SƯ DIỆU HƯƠNG VÀ NI VIỆN DIỆU ĐỨC
Ni
viện Diệu Đức tại Huế được xây dựng từ năm 1932. Ni viện này được đặt
dưới quyền giám đốc của ni sư Diệu Hương. Tùng lâm này từ năm 1934 trở
đi đã trở nên hưng thịnh, và đã quy tụ trên dưới 100 ni sinh, trong số
đó có nhiều vị từ trong Nam và ngoài Bắc đến tham học.
Ni
sư Diệu Hương tên đời là Nguyễn Thị Kiều, sinh năm 1884 tại làng Dạ Lê
Hạ, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Hồi 16 tuổi bà được vua Thành
Thái triệu vào cung, phong làm mỵ tân. Năm 20 tuổi bà sinh hạ được một
hoàng nữ rất xinh đẹp. Nhưng đến năm 1915 khi vua Thành Thái bị đi đày
và hoàng nữ chết vì bệnh, bà liền xin xuất gia học đạo với thiền sư
Thanh Thái lúc ấy trú trì chùa Tường Vân. Bà thụ đại giới năm 1924 tại
giới đàn chùa Từ Hiếu. Năm ấy bà được 40 tuổi.
Sau
khi thụ đại giới, bà tu học tại chùa Trúc Lâm cùng với các ni sư Chơn
Hương và Giác Hải dưới sự hướng dẫn của ni sư Diên Trường. Năm 1928, ni
viện Diệu Viên ở huyện Hương thủy được thành lập, tự trưởng là ni sư
Diệu Viên đã thỉnh bà về lãnh đạo ni chúng ở đây. Bên cạnh chùa Diệu
Viên, một viện cô nhi được tạo lập lấy tên là Tịnh Lạc.
Năm 1932, một tập thể ni chúng được thành lập tại chùa Từ Đàm. Bà được mời về lãnh đạo sự tu học cho đại chúng.
Đến
năm 1934 ni viện Diệu Đức được thành lập, bà lại được mời về trong chức
vụ tọa chủ. Bà tiếp tục lãnh đạo tùng lâm Diệu Đức mãi cho đến năm 1971
mới viên tịch. Bà thọ được 88 tuổi. Đại diện của Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất đã đưa tiễn bà bằng hai câu đối sau đây được khắc
vào cửa tháp:
Trừng trược(*) nhi thanh, việt tam kỳ ư đương niệm;
Phản bội nhi viên, hướng bát kỉnh vu kim sinh.
Ni
sư Thể Yến, thượng túc của bà lên làm viện chủ ni viện Diệu Đức. Ni sư
Thể Yến tên đời là Tuyết Sơn, quê ở Nghệ An, xuất gia tại chùa Diệu Viên
dưới sự hướng dẫn của bà từ năm 1930. trong số những danh ni đệ tử của
ni sư Diệu Hương còn có các ni sư Thể Quán, Thể Thanh, Thể Tín, Thể
Thuyền… vị nào cũng đảm trách những Phật sự quan trọng trong ni bộ.
Những
ni sư hoạt động nhiều nhất trong lĩnh vực cứu tế xã hội xuất thân từ ni
viện Diệu Viên là Viên Minh, Thể Quán, Thể Thanh và Cát Tường. Hoạt bát
nhất trong các danh ni là ni sư Diệu Không. Bà tên là Hồ Thị Hạnh, sinh
năm 1905 tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Bà xuất
gia năm 1933 tại chùa Trúc Lâm, theo học với thiền sư Giác Tiên, pháp
danh là Trừng Hảo. Bà thụ đại giới năm 1944 tại giới đàn chùa Thiền Tôn
do thiền sư Giác Nhiên chủ tọa. Bà đãtheo học Phật học đường của Sơn Môn
tại các chùa Trúc Lâm và Tây Thiên.
Năm
1928, khi chưa xuất gia bà đã có công vận động xây cất ni viện Diệu
Viên và nhà Tịnh Lạc cho trẻ mồ côi ở Hương Thủy. Năm 1932 cùng với các
nữ cư sĩ Ưng Dinh, Ưng Bàng và một số Phật tử hữu tâm khác, bà cũng đã
vận động mua đất tại thôn Bình An để thành lập chùa Diệu Đức. Bà cũng đã
cùng các bạn lữ vận động yểm trợ cho ni chúng tu học tại chùa Từ Đàm,
cho đến khi chùa này trở thành hội quán của hội An Nam Phật Học.
NHỮNG TẠP CHÍ PHẬT HỌC
Trước
khi các tạp chí Viên Âm của hội Việt Nam Phật Học và Liên Hoa của Giáo
Hội Tăng Già Trung Việt ra đời, tại Huế đã có đặc san Phật Giáo Văn Tập
và tạp chí Giác Ngộ. Đặc san Phật Giáo Văn Tập được xuất bản lần đầu vào
ngày Phật Đản 1947, do cư sĩ Tráng Đinh chủ trương. Cư sĩ Tráng Đinh là
một người có lòng đối với nền văn học Phật giáo; ông đã liên lạc với
các cây bút tăng sĩ và cư sĩ hồi đó để đề nghị sáng tác và đã đứng ra
xuất bản văn tập này ba tháng một lần với phương tiện tài chính do chính
ông vận động. Phật Giáo Văn Tập ra đời trước khi hội Việt Nam Phật Học
được thành lập. Đến năm 1949, ông vận động xin phép xuất bản tạp chí
Giác Ngộ, mời nhà văn Võ Đình Cường làm chủ bút, còn mình thì đứng làm
chủ nhiệm kiêm quản lý. Tờ Viên Âm ra đời đầu năm 1950, do cư sĩ Chơn An
Lê Văn Định đứng làm chủ nhiệm, thiền sư Trí Quang làm chủ bút, và cư
sĩ Tôn Thất Tùng làm quản lý.
Viên
Âm chuyên về khảo cứu giáo lý, khác hẳn với Giác Ngộ có tính cách văn
nghệ và thời sự. Cộng tác với Giác Ngộ, ngoài Võ Đình Cường còn có
Nguyễn Hữu Ba, Cao Khả Chính, Nguyễn Khắc Ngữ, Tống Anh Nghị, Trương Tú,
Trinh Tiên và Lê Bối.
Viên
Âm là cơ quan chính thức của hội Việt Nam Phật Học; thiền sư Trí Quang
cũng đã viết trong tạp chí này với những bút hiệu như Thích Kim Sơn và
Thích Thuyền Minh. Các thiền sư Thiện Siêu, Thiện Minh, Mật Nguyện và cư
sĩ Chơn An đều có cộng tác với tạp chí này.
Tạp
chíLiên Hoa cả Giáo Hội Tăng Già Trung Việt, được xuất bản năm 1959, do
thiền sư Đôn Hậu đứng làm chủ nhiệm và thiền sư Đức Tâm đảm nhiệm trách
vụ chủ bút. Tạp chí này có sự cộng tác của nhiều học tăng đang du học
tại ngoại quốc. Ngoài phần giáo lý, tạp chí cũng đăng nhiều bài có tính
cách văn nghệ. Tạp chí này đình bản vào năm 1966.
Tại
Đà Lạt, từ năm 1950 đã có tạp chí Hướng Thiện do thiền sư Thiện Minh
làm chủ nhiệm. Đến năm 1951, tạp chí này đình bản. Một tạp chí khác ra
đời lấy tên là Liên Hoa, do cư sĩ Huỳnh Văn Trọng chủ nhiệm. Tạp chí này
được một tổ chức Phật tử trí thức tên là Phật Giáo Thiện Hữu trợ lực về
phương diện tài chính. Trong tổ chức này có những cư sĩ như Huỳnh Văn
Trọng, Nguyễn Minh Tâm, André Migot và Pierre Marti. Bác sĩ Migot đã gây
nhiều chấn động thế giới Công giáo vì tác phẩm Phật Giáo Với Văn Minh
Âu Tây, trong đó ông chủ trương nên để cho người Á Đông theo tôn giáo
của họ là Phật giáo và chấm dứt truyền bá Cơ Đốc giáo trong xã hội của
họ. Cư sĩ Pierre Marti, pháp danh là Long Tử, đã từng diễn thuyết về
Phật giáo tại các chùa cao nguyên Trung Phần bằng tiếng Việt. Ông là
quản lý cho tập san Liên Hoa từ năm 1951 đến 1954. Chủ bút của tạp chí
này là thiền sư Nhất Hạnh.
THIỀN SƯ ĐÔN HẬU
Thiền
sư Đôn Hậu, chủ nhiệm tạp chí Liên Hoa, sinh năm 1904 tại làng Xuân An,
phủ Triệu Phong, Quảng Trị. Ông tên là Diệp Thuần, xuất gia năm 19 tuổi
tại chùa Tây Thiên, theo học với thiền sư Tâm Tịnh. Ông là em đồng sư
của thiền sư Giác Tiên. Pháp danh của ông là Trừng Nguyện. Xuất gia được
một năm ông đã được thụ đại giới đàn Từ Hiếu tổ chức năm 1923 do chính
bản sư của ông làm hòa thượng đàn đầu.
Ông
được học Phật với các thiền sư Huệ Pháp, Viên Thành, Hồng Khê và Phước
Huệ. Năm 25 tuổi, ông theo thiền sư Phước Huệ vào chùa Thập Tháp ở Bình
Định để học Phật trong một năm. Sau đó ông trở ra Phật học đường Tây
Thiên, và tốt nghiệp năm 1936. Tư 1932, ông đã được mời làm giảng sư hội
An Nam Phật Học. Năm 1938 ông được mời làm giáo sư cho Phật học đường
và luật sư cho Sơn Môn Thừa Thiên. Năm 1945, ông được ủy nhiệm trú trì
chùa Linh Mụ và làm hội trưởng hội An Nam Phật Học. Năm 1946, ông làm
chủ tịch Phật Giáo Liên Hiệp Trung Bộ. Đến năm 1947, ông bị quân đội
Pháp bắt giữ và tra tấn trong nhiều tuần lễ. Nếu không có bà Từ Cung mẹ
của vua Bảo Đại can thiệp thì ông đã bị quân Pháp đưa ra xử bắn.
Năm
1951, Sơn Môn Tăng Già Trung Phần mời ông giữ chức giám luật. Năm 1952,
khi Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc được thành lập tại Hà Nội, ông cũng
được mời giữ trách vụ Giám Luật. Ông làm chủ nhiệm tạp chí Liên Hoa từ
1959 đến 1966. Năm 1963 ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm giam giữ vì tham
gia tích cực vào phong trào chống chính sách kỳ thị tôn giáo của chính
phủ này. Năm 1964, ông nhận chức Chánh Đại Diện của Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất tại miền Vạn Hạnh. Năm 1975 ông được thỉnh vào Hội
Đồng Trưởng Lão của Giáo Hội và làm Chánh Thư ký cho viện Tăng Thống
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
--------------------------------------------------------------------------------
(120) Xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 2 trang 357
(*) Theo câu này thì lúc làm bài thơ, cư sĩ Chơn An chỉ mới 66 tuổi. Vậy có phải là năm 1958 không (N.H.C.)
(121) Nguyệt san Phật giáo Việt Nam, số 20 và 21, năm Mậu tuất (1958)
(*) Trược: miền bắc đọc là trọc.