Chương XXXIX: Phật tử đòi thực thi thông cáo chung
CUỘC TUYỆT THỰC TẠI CHÙA XÁ LỢI
Thông
Bạch của đại lão thiền sư Tịnh Khiết được đưa ra ngày 15.7.1963 thì
chiều ngày 16.7.1963 khoảng trên 150 vị tăng ni tổ chức biểu tình trước
tư dinh đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. Họ trương biểu ngữ kêu gọi Hoa Kỳ và
các nước bạn Việt Nam Công Hòa thuyết phục chính quyền Ngô Đình Diệm
thi hành những điều đã được ký kết trong bản Thông Cáo Chung.
Từ
ngày 15.7.1963 chư tăng tại chùa Xá Lợi, kể cả các vị lãnh đạo phong
trào trong Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, đã bắt đầu một cuộc tuyệt
thực. Rạng sáng ngày 17.7.1963, một cuộc diễn hành ôn hòa được phát xuất
từ chùa Giác Minh, đường Phan Thanh Giản. Đoàn người này lúc bắt đầu di
thì chỉ có trên 1000 người và chỉ giăng một biểu ngữ: “ Chúng tôi đi
thăm thầy chúng tôi đang tuyệt thực để đòi hỏi thực thi Thông Cáo
Chung”. Họ vượt qua được mấy lớp rào cảnh sát và kêu gọi quần chúng gia
nhập vào lực lượng diễn hành của họ. Những biểu ngữ sau đây được trương
lên:
“Chúng tôi bị lường gạt quá nhiều”
“Cờ Phật giáo phải là cờ của tất cả Phật giáo đồ”
“Yêu cầu chính phủ giữ đúng lời thành tín đã hứa”
Đoàn
biểu tình đã mấy lần phá được những hàng rào dây thép gai để tiến tới,
nhưng lực lượng cảnh sát và mật vụ đã được huy động đến quá đông đảo.
Được trang bị đầy đủ, Họ thiết lập những hàng rào kẻm rất kiên cố và dàn
ra phía sau những chiếc xe cứu hỏa. Thiền sư Quảng Độ, người điều động
cuộc diễu hành, đề nghị quần chúng ngồi xuống mặt đường và tĩnh tâm niệm
Phật giáo. Đoàn người lúc bấy giờ chỉ cách chùa Giác Minh có năm trăm
thước. Sau nửa giờ niệm Phật, quần chúng lặng yên nghe thiền sư Quảng Độ
đứng lên nói về cuộc vận động của Phật giáo đồ toàn quốc. Dùng loa
phóng thanh, ông chậm rãi nói về chính nghĩa của cuộc tranh đấu. Từ hai
đầu đường Phan Thanh Giản và các đường phố lân cận như Nguyễn Thiện
Thuật, quần chúng đều đứng lại lắng tai nghe. Các cửa sổ các tầng lầu
đều được mở ra; đồng bào xuất hiện trên sân thượng của nhà cửa hai bên
khu phố để nghe thiền sư thuyết giảng. Lực lượng cảnh sát dùng ống loa
đinh che lấp tiếng nói của ông, nhưng máy phóng thanh của chùa Giác Minh
khá mạnh: tiếng nói của thiền sư Quảng Độ vẫn còn được nghe rất rõ. Vào
lúc 10 giờ 30 cuộc đàn áp thật sự bắt đầu. Cảnh sát và mật vụ xông vào
cướp giật biểu ngữ. Tăng ni và những người điều động cuộc diễu hành bị
tấn công bằng báng súng và gậy gộc trước con mắt của giới báo chí và
quan sát viên quốc tế. Tiếng la hét của phụ nữ và trẻ em vang dậy. Có
nhiều vị tăng ni bị đánh ngã quỵ. Có nhiều vị khác bị liệng lên xe cảnh
sát và bị chở đi. Bị đàn áp dữ dội, đoàn biểu tình rút lui từ từ về chùa
Giác Minh và chùa Từ Quang sát cạnh. Cảnh sát theo sát họ tới cổng chùa
và thiết lập một hàng rào dây thép gai để phong tỏa chùa. Trên 600 tăng
ni và phật tử bị cô lập trong chùa hơn hai ngày đêm như thế.
BIỂU TÌNH DIỄN HÀNH
Cũng
vào sáng ngày 17.7.1963 khoảng 400 vị tăng ni đến tập họp tại chùa Xá
Lợi. Sau khi lễ Phật và mặc niệm tại chánh điện chùa, họ sắp hàng diễn
hành từ đường Bà Huyện Thanh Quang qua đường Lê Văn Thạch lên đường
Nguyễn Thông, Ngô Thời Nhiệm, Lê Văn Duyệt, và đi về hướng chợ Bến
Thành. Họ vượt qua được mấy hàng rào kẽm gai và tiến được về vườn hoa
của Nam chợ Bến Thành. Cuộc diễn hành này, nhờ tính cách bất ngờ của nó,
đã làm cho các lực lượng cảnh sát đối phó không kịp trong bước đầu. Đến
khi các lực lượng này được huy động đầy đủ thì đa số chư tăng ni đã đến
được chợ Bến Thành, tăng ni trương lên những biểu ngữ: “Yêu cầu chánh
phủ thực thi bản Thông Cáo Chung”Lúc này các lực lượng cảnh sát chiến
đấu đã vây quanh đám biểu tình, dưới quyền chỉ huy của viên giám đốc
cảnh sát Trần Văn Tư. Ông Trần Văn Tư yêu cầu chư tăng ni hạ cờ Phật
giáo và các biểu ngữ xuống, nhưng không ai tuân lệnh. Vị đại diện tăng
ni đứng lên xin nói về mục đích của cuộc biểu tình diễn hành. Ông giám
đốc nha cảnh sát chỉ cho phép vị này được nói trong năm phút, “mau lên
còn để chúng tôi thi hành nhiệm vụ”. Đại diện cho chư tăng ni nói:
“Chúng tôi tới đây để tỏ cùng quốc dân dồng bào biết rằng: Bản Thông Cáo
Chung đã ký kết hơn một tháng nay nhưng chính phủ đã không thực thi
nghiêm chỉnh mà còn dùng đủ mọi cách để khủng bố, bao vây, bắt bớ, đàn
áp, xuyên tạc Phật giáo đồ”.
Lúc
này, đồng bào trong chợ đã đổ xô ra rất đông, và từ các ngả đường quần
chúng cũng kéo tới chật ních. Sau khi phát biểu xong, vị đại diện yêu
cầu lực lượng cảnh sát giải tỏa để chư tăng được diễn hành về chùa Xá
Lợi. Ông Trần Văn Tư không chịu, quyết định dùng “những biện pháp thích
nghi” để ngăn chặn cuộc diễn hành trở về chùa Xá Lợi mà ông biết là sẽ
vô cùng đông đảo. Trong khi chờ đợi sự giải tỏa của cảnh sát, các vị
tăng ni ngồi xuống đất và bắt đầu niệm Phật. Cuộc đàn áp bắt đầu, cảnh
sát xông vào, bắt liệng các vị tăng ni lên xe bịt bùng. Chư tăng chóng
cự lại bằng cách quàng lấy tay nhau từng chuỗi dài. Tình thế trở nên hỗn
loạn.
Thấy
cuộc đàn áp xảy ra trước mặt quần chúng đông đảo như vậy là không hay,
ông giám đốc cảnh sát đổi sách lược. Ông ra lệnh ngừng sự bắt ép và đích
thân tới điều đình với các vị điều động cuộc diễn hành, hứa sẽ dùng xe
cảnh sát chở tất cả chư tăng ni về chùa Xá Lợi.
Thấy
cuộc biểu tình đã đạt được nhiều kết quả và chư tăng ni nhiều người đã
bị mất sức, thêm nữa thấy ông giám đốc cảnh sát đã lấy danh dự mà hứa sẽ
chở chư tăng ni về chùa Xá Lợi, vị đại diện bằng lòng để cho tăng ni
lên xe. Nhưng những chiếc xe này, khi đến ngã tư Tổng Đốc Phương, thay
vì chạy về chùa Xá Lợi, lại rẽ hướng về Lục Tỉnh. Thấy mình bị lừa, chư
tăng ni đập cửa xe rầm rầm. Các vị ngồi trước lấy chân đạp thắng xe, và
gạt tay lái cho xe đâm vào lề đường. Nhiều vị mở cửa xe phóng xuống
đường khi xe đang chạy. Thấy vậy các xe cảnh sát phải ngừng lại. Tất cả
các vị tăng ni đều tập hợp lại thành một khối giữa công lộ. Cảnh sát lại
dùng dây thép gai vây họ lại. Hai vị cảnh sát trưởng đến gần chư tăng,
xưng lại đại diện ông giám đốc cảnh sát, hứa lần này sẽ thực sự cho tăng
về chùa Xá Lợi. Sợ bị gạt lần nữa, chư tăng ni không ưng thuận, chỉ yêu
cầu được tự do đi bộ về chùa xá lợi. Họ ngồi xuốt đất để đòi hỏi sự
giải tỏa của lực lượng cảnh sát. Nhưng cảnh sát không giải tán. Cuộc đàn
áp lại xay ra, khốc liệt gấy mấy lần trước: chư tăng ni bị đánh đập và
ném lên xe như những con thú vật. Quần chúng ở đây không đông đảo như ở
chợ Bến Thành và giới báo chí không có mặt, vì vậy chư tăng ni bị hành
hung một cách tàn nhẫn: có vị bị thoi vào những nơi hiểm yếu, có vị bị
bóp họng, có vị bị đấm đá túi bụi.
TĂNG NI BỊ GIAM GIỮ
Các
xe cảnh sát chở đầy tăng ni phóng nhanh khỏi thành phố đến chùa Hoa
Nghiêm ở An Dưỡng Địa, một khu nghĩa địa lớn nằm trong khoảng đồng trống
miền Phú Lâm. Tại đây cảnh sát đã được túc trực và giấy thép gai đã
được giăng thành hàng rào bốn phía. Tất cả tăng ni đều bị cô lập tại
đây. Chiều đến, lực lượng bố phòng của cảnh sát được tăng cường hùng
hậu.
Vào
khoảng nửa đêm, cảnh sát có võ trang súng ống đột nhập vào phòng chư
tăng để xét hỏi, điều tra lý lịch, và tra hỏi xem ai là người xúi giục
họ đi biểu tình. Những vị tăng sĩ Việt gốc Miên được tra hỏi cặn kẻ hơn
cả.
Chiều
ngày hôm sau, 18.7.1963, nhân viên công quyền đến bắt tăng ni đi khai
lý lịch, in dấu tay và chụp hình: họ bảo đó là thủ tục thông thường phải
làm trước khi các vị tăng ni được trả tự do, và hứa là vào ngày mai
19.7.1963 họ sẽ mời Ủy Ban Liên Phái tới để trao trả chư tăng ni về chùa
Xá Lợi.
Trưa
19.7.1963, đột nhiên nhiều xe cảnh sát được đưa tới và cảnh sát đòi chở
chư tăng ni về chùa Xá Lợi, không thấy có vị địa diện nào của Ủy Ban
Liên Phái, chư tăng ni không chịu lên xe, cương quyết ở lại chờ lệnh.
Sáng
20.7.1963, đột nhiên tất cả những hàng rào giây thép gai và những lực
lượng cảnh sát phong tỏa An Dưỡng Địa biến mất, và ông Ngô Trọng Hiếu,
bộ trưởng Công Dân Vụ và Trần Văn Tư giám đốc cảnh sát xuất hiện với một
đoàn báo chí Việt Nam và ngoại quốc. Trước mặt các ký giả và nhiếp ảnh
viên, ông Trần Văn Tư giải thích rằng sở dĩ chư tăng ni được giam giữ
tại đây là vì họ biểu tình bạo động và bất hợp pháp và đã hành hung các
nhân viên công lực. Thiền sư Chánh Lạc đại diện cho chư tăng ni đứng lên
giải thích cho báo chí nghe về mục đích và lập trường đấu tranh bất bạo
động của phật tử, cải chính những điều vu khống của ông giám đốc Cảnh
sát, rồi trả lời rành rẽ từng câu hỏi cả các phóng viên đặt ra.
Sau
đó, đoàn tăng ni quyết định theo phái đoàn báo chí về Sài Gòn. Đoàn
người đến Phú Lâm thì, sau khi để cho giới báo chí đi khỏi, một toán
cảnh sát chiến đấu ngăn chặn tất cả tăng ni lại. Thiền sư Chánh Lạc đề
nghị toàn thể ngồi xuống mặt đường niệm Phật. Trong khi các vị đại diện
tăng ni đối thoại với cảnh sát thì một phái đòan của Ủy Ban Liên Phái do
thiền sư Thiện Minh hướng dẫn, đến kịp. Kết cuộc là chư tăng được đưa
về chùa Xá Lợi bằng xe đò, có một đoàn xe bình bịch của cảnh sát dẫn lộ.
Vào
lúc 12 giờ 15, đoàn xe tới trước cổng chùa Xá Lợi. Bấy giờ họ được
thiền sư Tịnh Khiết, các thiền sư khác trong Ủy Ban Liên Phái và quần
chúng túc trực sẵn ở đây đón tiếp. Thiền sư Tâm Châu, chủ tịch Ủy Ban
Liên Phái cảm động trước những hy sinh và chịu đựng của chư tăng ni
trong bốn ngày bốn đêm vừa qua, đã đứng dậy lạy tạ đại chúng. Cử chỉ này
đã làm cho mọi người xúc động.
Những
vị tăng ni trọng thương được đưa ngay vào chăm sóc. Sau khi kiểm điểm,
số tăng ni bị bắt hoặc mất tích lên gần tới năm chục vị(183)
Báo
chí và các đài truyền thanh truyền hình quốc tế đã đăng tải đầy đủ về
những cuộc biểu tình nói trên tại Sài Gòn. Quần chúng tại quốc nội theo
dõi các đài B.B.C, V.O.A, biết rất rõ những gì đã xảy ra tại Sài Gòn va
những dư luận xôn xao trên thế giới.
DƯ LUẬN QUỐC TẾ CHẤN ĐỘNG
Trong lúc đó, tất cả các cấp lãnh đạo trong Ủy Ban Liên Phái vẫn tiếp tục tuyệt thực tại chùa Xá Lợi.
Chính
quyền Ngô Đình Diệm biết rõ những gì đang xảy ra trên dư luận quốc tế,
nhất là dư luận người Mỹ. Những ký giả như David Halberstam của tờ New
York Times viết trên báo này rất nhiều bài bất lợi cho chế độ Sài Gòn.
Ký giả này nói chính phủ Ngô Đình Diệm đã bị nhân dân ghét bỏ, và vấn đề
lật đổ chính quyền Diệm chỉ là vấn đề thời gian. Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ
Wayne L. Morse tuyên bố ngày 19.7.1963 rằng ông không đồng ý cho Hoa Kỳ
viện trợ thêm một đồng nào nữa cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Tin tức
những ký giả Hoa Kỳ bị cảnh sát hành hung được các báo chí ở Hoa Tịnh
Đốn và Nữu Ước đăng tải. Tờ Hoa Thịnh Đốn Thời Báo (Washingtin Post) đã
viết những bài bình luận sau đây ngày 19.6.1963: “Cuộc tranh chấp không
còn là một biến động có tính cách địa phương nữa. Vì chế độ ông Diệm
liên hệ mật thiết quá đối với Hoa Kỳ, nên cái nguy cơ Phật giáo đồ ở
khắp Á châu sẽ có cảm tưởng rằng dù sao Hoa Kỳ cũng dung túng trước sự
kỳ thị tôn giáo. Tuy đó là một cảm nghĩ sai lầm nhưng dù sao đồng minh
của một chế độ độc tài và áp bức cho nên Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng.”
Tổng
thống Ngô Đình Diệm nhìn thấy nguy cơ của mình. Ngày 18.7.1963 ông lên
tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn. Ông đọc những thông điệp để xoa dịu
tình hình. Thông điệp được lặp đi lặp lại nhiều lần trên đài phát thanh.
Ông nói:
“Để
tỏ rõ chủ trương của chính phủ cương quyết thi hành đúng đắn và hữu
hiệu Thông Cáo Chung và để đánh tan mọi hồ nghi hoặc mưu mô xuyên tạc
chia rẽ, chiếu theo đề nghị của Hội Đồng Liên Bộ, tôi vừa chấp thuận:
1-
Chỉ thị của nghị định số 358 ngày 9 tháng 7 năm 1963 ấn đinh thể thức
treo cờ Phật giáo. Thể thức này đã áp dụng riêng cho Tổng Hội Phật Giáo
sẽ áp dụng cho bất tất cả các môn phái nào tự ý công nhận Phật giáo kỳ.
2-
Chỉ thị Ủy Ban Liên Bộ hợp tác mật thiết với phái đoàn Phật giáo để
cùng nghiên cứu điều tra giải quyết hoặc theo hồ sơ hoặc tại chỗ nếu cần
những khiếu nại liên quan đến sự thực thi Thông Cáo Chung.
3-
Chỉ thị các cấp quân dân chính mỗi người trong lĩnh vực của mình, trong
lời nói cũng như trong việc làm, tích cực góp phần vào việc thực thi
Thông Cáo Chung.
Tôi
mong rằng quốc dân đồng bào ghi nhận ý chí hòa giải tột bực của chính
phủ trong vấn đề Phật giáo và tôi yêu cầu quốc dân đồng bào từ nay sẽ
khách quan phán quyết để có thái độ hành động, không để ai làm ngăn cản
bước tiến của tân tộc trong nhiệm vụ diệt Cộng cứu quốc”.
Lời
kêu gọi “ghi nhận ý chí hòa giải tột bực của chính phủ” được nói lên
trong khi chùa Xá Lợi, Giác Minh, Ấn Quang tại Sài Gòn và nhiều ngôi
chùa khác trên khắp lãnh thổ còn bị phong tỏa và trên 300 vị tăng ni
đang bị vây hãm tại An Dưỡng Địa, và hơn bốn trăm tăng ni khác rải rác
trong toàn quốc đang bị giam giữ. Sáng ngày 19.7.1963, thiền sư Tâm Châu
gửi một văn thư cho tổng thống Diệm để đáp lời hiệu triệu của ông.
Trong lá thư thiền sư ghi nhận lời hiệu triệu này của tổng thống và yêu
cầu ông cấp tốc phóng thích tất cả những ai bị chính quyền giam giữ từ
ngày 8.5.1963, bồi thường cho các nạn nhân cuộc thảm sát ấy. Đồng thời
ông cũng báo tin rằng các chùa Xá Lợi, Ấn Quang và Giác Minh, sau khi
được giải tỏa vào khoảng nửa giờ vào sáng 8.5.1963, đã bị các lực lượng
cảnh sát phong tỏa trở lại. Ông kết luận: “Các vấn đề trên được giải
quyết xong, chúng tôi mới có thể hợp tác với Ủy Ban Liên Bộ mà nghiên
cứu, xem xét những vấn đề khác để cho cuộc hòa giải được hoàn toàn tốt
đẹp.
Lập
trường Ủy Ban Liên Phái, do đó là sẽ không chấp thuận việc cộng tác với
chính quyền để thành lập Ủy Ban Hổn Hợp chừng nào những điều căn bản
nhất của Thông Cáo Chung chưa được thực thi. Văn thư trao đổi giữa Ủy
Ban Liên Phái và Ủy Ban Liên Bộ trong thời gian từ ngày 19.7.1963 đến
30.7.1963 phần lớn là để đề cập tới vấn đề này. Về phía Phật giáo, Ủy
Ban Liên Phái tiếp tục công bố những tài liệu vi phạm Thông Cáo Chung
của chính quyền: những vụ mất tích tăng sĩ, những vụ ám sát và đã thương
phật tử, những vụ rãi truyền đơn giả tạo để chống phong trào đấu tranh
cho năm nguyện vọng v.v…(184) .
HỆ THỐNG THÔNG TIN CỦA ỦY BAN LIÊN PHÁI
Các
báo chí thủ đô đều nằm trong tay chính quyền cho nên Ủy Ban Liên Phái
phải thiết lập một hệ thống truyền tin đặc biệt. Các thiền sư Quảng Độ
và Đức Nghiệp là những người phụ trách liên lạc với các ký giả quốc tế
và các tòa lãnh sự ngoại quốc tại Sài Gòn: mỗi khi có tin tức gì cần
thông báo, các vị dùng điện thoại, hoặc của chùa, hoặc của những tư gia
quanh chùa. Nhiều khi bản tin được truyền đi trên những mảnh giấy nhỏ và
được điện thoại cho giới báo chí từ những địa điểm rất xa chùa. Cùng
với những vị thông thạo sinh ngữ khác, họ dịch những bài báo ngoại quốc
có liên hệ đến cuộc tranh đấu để phổ biến. Họ thu thanh những bản tin do
các đài phát thanh ngoại quốc truyền đi và chép thành những bản tin.
Thiền sư Châu Toàn điều động một số nhân viên ngày đêm ấn hành những bản
tin này bằng máy in phức bản (stencils). Tài liệu được chuyển đi các
trung tâm khác ở thủ đô để được in lại và phổ biến. Tại Huế và các trung
tâm đấu tranh khác như Quảng Trị, Quảng Nam, Nha Trang, Đà Lạt, Bình
Long, Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Định v.v… đường lối thông tin và tranh
đấu cũng được phỏng theo phương thức này.
Trong
suốt thời gian tranh đấu, ngày nào quần chúng cũng đến chùa rất đông
đảo để lễ Phật. Ngồi tuyệt thực và ủng hộ Ủy Ban Liên Phái. Các thiền sư
Giác Đức và Hộ Giác phụ trách thuyết giảng trong các buổi tập hợp và
tuyệt thực này. Họ giải thích cho quần chúng rõ lập trường của Phật
giáo, thái độ của chính quyền, tố cáo những hành động vi phạm Thông Cáo
Chung và nói về dư luận quốc tế đối với cuộc tranh đấu đòi thực thi Năm
Nguyện Vọng. Hai vị đều là những thiền sư trẻ và có tài hùng biện.
NHỮNG THỦ ĐOẠN CỦA CHÍNH QUYỀN
Trong
guồng máy chính quyền, thậm chí trong các lực lượng an ninh, cảnh sát
mật vụ đã có nhiều người đứng về phía tranh đấu. Ủy Ban Liên Phái luôn
luôn được thông báo trước về những biện pháp đàn áp của chính quyền.
Cuộc biểu tình của hơn 100 thương phế binh trước chùa Xá Lợi ngày
23.7.1963 do chính quyền tổ chức để chống đối phong trào Phật giáo cũng
đã được Ủy Ban Liên Phái biết được và thiền sư Tâm Châu đã gửi thư đến
chính quyền để phản đối ngay 22 tháng 7 năm 1963. Trong một thư đề ngày
22 tháng 7 năm 1963, thiền sư cũng cho chính quyền biết là ông Ngô Trọng
Hiếu, bộ trưởng Công Dân Vụ đang cho 300 cán bộ cạo đầu giả làm tăng sĩ
để đi quyên tiền và đặt may cờ cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đang
tổ chức một cuộc biểu tình khác cho cô nhi và quả phụ chiến sĩ, và một
cuộc biểu tình khác nữa cho những người hành khất và những người có bệnh
hủi, xúi giục những người này vào chùa Xá Lợi để khiêu khích và để cảnh
sát có cớ vào chùa(185).
Ủy
Ban Liên Phái đã in sẵn một lá thơ để phát cho những người tự nhận là
thương phế binh đến biểu tình trước chùa Xá Lợi ngày 23 tháng 7 năm
1963. Lá thư này rất ôn tồn, giải thích cặn kẽ về cuộc đấu tranh của
Phật giáo, ghi nhận sự đóng góp và hy sinh của các thương phế binh cho
công trình bảo vệ miền Nam và kêu gọi thương phế binh tham dự vào cuộc
tranh đấu đòi dân quyền và bình đẳng tông giáo(186).
Chiều
23.7.1963 nha Tổng Giám Đốc Thông Tin triệu tập một cuộc họp báo, cho
biết rằng trung tá Trần Thanh Chiêu, thanh tra trung ương dân vệ đoàn và
tác giả các cuộc biểu tình của thương phế binh hồi sáng đã bị chính
quyền cách chức và phạt 40 ngày ngày trọng cấm. Ngay sau đó, thiền sư
Tịnh Khiết viết thư cho tổng thống Diệm xin khoan hồng cho trung tá
Chiêu, vì theo thiền sư: “Không bao giờ vị sĩ quan ấy có ý tự mình làm
một việc công khai chống lại mệnh lệnh của tổng thống nếu không có một
áp lực từ bên ngoài nào đó”(187).
Chiều
ngày 24.7.1963, Ủy Ban Liên Phái nhận được một lá thư từ các thương phế
binh gửi tới chùa Xá Lợi. Lá thư này bày tỏ sự ủng hộ của thương phế
binh đối với cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ và phàn nàn về nhóm người
đã lợi dụng danh nghĩa thương phế binh để làm những điều phản lại nguyện
vọng của thương phế binh. Lá thư này mang chữ ký của mười đại diện
thương phế binh(188). Ngày 1.8.1963 khoảng 300 anh em thương phế binh đã
tự động tập họp tại chùa Xá Lợi, làm lễ Phật ở chánh điện. Đại diện
củahọ đến gặp thiền sư Tâm Châu của Ủy Ban Liên Phái và phát nguyện ủng
hộ cuộc tranh đấu.
Ngày
23.7.1963, ni sư Diệu Huệ mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi cho biết bà
sẽ thiêu thân để chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền
Ngô Đình Diệm. Ni sư Diệu Huệ là thân mẫu của nhà bác học Bửu Hội, lúc
bấy giờ làm đại sứ cho chính quyền Ngô Đình Diệm tại nhiều nước thuộc về
miền Tây Phi Châu.
Ngày 30.7.1963, lễ chung thất (49 ngày) của thiền sư Quảng Đức được tổ chức long trọng tại chùa Xá Lợi.
Hưởng
ứng lời kêu gọi của Ủy Ban Liên Phái, đồng bào thủ đô đổ dồn về chùa
ngay từ hồi tang tảng sớm mặc sự ngăn cản và đe dọa của các giới công an
và cảnh sát. Quần chúng chật ních cả vòng trong lẫn vòng ngoài của
chùa. Sau lễ cầu nguyện cho giác linh thiền sư Quảng Đức, một bản Tuyên
Ngôn của Ủy Ban Liên Phái được phổ biến, kêu gọi đồng bào đẩy mạnh cuộc
tranh đấu bất bạo động.
Ngày
1.8.1963, thiền sư Tịnh Khiết gửi một điện văn cho tổng thống John F.
Kennedy, phản đối việc ông đại sứ Hoa Kỳlà Frederic Nolting tuyên bố với
hãng thông tấn U.P.I rằng không có chuyện kỳ thị tôn giáo và ngược đãi
Phật giáo đồ tại Việt Nam.
NGỌN LỬA NGUYÊN HƯƠNG
Ngày
4.8.1963, trong khi chư tăng ni và tín đồ Phật giáo Bình Thuận đang còn
tuyệt thực ở chùa Hội Quán tỉnh hội, thiền sư Nguyên Hương châm lửa tự
thiêu mình ở đài chiến sĩ ngay trước tỉnh đường Bình Thuận (Phan Thiết).
Thiền
sư Nguyên Hương tục danh là Huỳnh Văn Lễ, sinh năm 1940 tại làng Long
Tỉnh, Quận Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Ông xuất gia năm 18 tuổi, theo
học với thiền sư Viên Trí chùa Bửu Tích. Năm 20 tuổi, ông thọ đại giới,
và có đạo hiệu Đức Phong. Ông nhận chức trú trì chùa Bửu Tạng ở Bình
Thuận từ tháng 9 năm 1962. Ông thiêu thân một mình, không cho ai hay
biết. Trước khi thi hành một bản nguyện ông để lại một lá thư gửi thiền
sư Tịnh Khiết, một lá thư khác gửi bổn đạo chùa Bửu Tạng và một lá thư
khác gửi song thân. Nội dung những bức thư này là ý nguyện của ông muốn
đóng góp vào những nỗ lực tranh đấu để chấm dứt tình trạng đàn áp Phật
giáo đồ. Trong lá thư gửi song thân, ông xin hai người tinh tiến niệm
Phật và đừng trách cứ gì vị bổn sư của ông là thiền sư Viên Trí, vì
thiền sư này không hay biết gì về bản nguyện tự thiêu của ông(189).
Thiền
sư Nguyên Hương, hiệu Đức Phong, tuy mới có 23 tuổi, nhưng đã có định
lực khá vững vàng. Ông ngồi yên trong lửa đỏ cho đến khi ngã xuống. Đồng
bào thấy lửa cháy đến bao quanh đài chiến sĩ. Một đơn vị quân đội được
lập tức huy động tới để giải tán quần chúng và chở thi hài ông về bệnh
viện Phan Thiết. Đồng bào kéo tới bệnh viện, nhưng các nhân viên công
lực đã kéo đến phong tỏa bệnh viện này.
Tuy
vậy, trước khi bệnh viện bị phong tỏa, khoảng 20 vị vừa tăng ni vừa
thanh thiếu niên phật tử đã lọt vào được bệnh viện để túc trực bên thi
thể thiền sư Nguyên Hương. Sau khi bệnh viện bị phong tỏa, những người
này không ra được nữa. Quần chúng kéo đến bệnh viện càng lúc càng đông.
Tăng ni và phật tử ngồi xuống trước cổng bệnh viện và bắt đầu tụng niệm
cầu siêu cho giác linh người mới khuất. Chính quyền cho xe phát thanh đi
khắp thành phố, báo tin “một thanh niên thất tình chán đời tự tử tại
đài chiến sĩ”. Các lực lượng cảnh sát không giải tán được quần chúng.
Mãi cho đến nữa đêm, theo lời yêu cầu của thiền sư Quang Thế, Minh Thuần
và Ấn Tâm, đồng bào mới chịu ra về. Các vị tăng ni và thanh thiếu niên
phật tử trong bệnh viện nhất định không rời bệnh viện, sơ chính quyền
chuyển thi hài của thiền sư. Một số tăng ni và phật tử khác cũng nhất
quyết ngồi ngoài bệnh viện. Suốt đêm họ luân phiên tụng kinh cầu nguyện.
Tại
chùa Tỉnh Hội, quần chúng cũng đã tập đông đảo. Loa phát thanh được bắt
lên cột cờ sân chùa và thiền sư Châu Đức đứng ra trình bày về sự tình
đã xẩy ra, cải chính những điều mà xe phát thanh của chính quyền đã rao
nói trong thành phố. Ông cho đồng bào biết là “đại đức Nguyên Hương, một
vị tăng sĩ của Giáo Hội Tăng Già Bình Thuận vừa tự thiêu để phản đối
chính quyền về việc không chịu thực tâm thi hành Thông Cáo Chung”.
Các
lực lượng cảnh sát liền tới bao quanh chùa Tỉnh Hội. Sáng ngày
5.8.1963, cảnh sát và dân vệ kéo tới đàn áp, bắt các tăng ni nhốt vào
trong phòng danh cho người điên ở bệnh viện và chở thi hài của thiền sư
Nguyên Hương đi mất.
Tại
Sài Gòn, tin thiền sư Nguyên Hương tự thiêu đến tại Ủy Ban Liên Phái
ngày 5.8.1963. Lễ cầu siêu cho thiền sư được dự định tổ chức vào ngày
11.8.1963, trên toàn quốc. Tại chùa Xá Lợi ngày hôm đó, lễ cầu siêu được
Đoàn Sinh Viên Phật Tử, Đoàn Thanh Niên Bảo Vệ Phật Giáo và Liên Đoàn
Học Sinh Phật Tử điều động và tổ chức. Số người tham dự lên tới hai chục
ngàn người.
Tại
lễ cầu siêu này, số lượng tăng ni rất đông đảo. Các tăng sĩ gốc Miên có
mặt từng đoàn, cũng mặc pháp phục như họ là các tăng sĩ Nam Tông gốc
Việt. Tăng sinh và ni sinh của tất cả các Phật học viện miền Sài Gòn,
Gia Định và Thủ Đức đều có mặt.
Thiền
sư Tịnh Khiết đứng ra làm chủ lễ. Lễ Cầu Siêu cử hành xong, chúc thư
của thiền sư Nguyên Hương được đem ra tuyên đọc. Trong quần chúng, một
rừng biểu ngữ được dựng lên. Trong các biểu ngữ này, có một biểu ngữ nội
dung thật đặc biệt: “Tổng thống Ngô Đình Diệm hãy nắm vững trách nhiệm,
đừng để ai lũng đoạn quyền hành, vu khống, đàn áp Phật giáo”.
Thiền
sư Giác Đức đứng trước máy vi âm giải thích về biểu ngữ này. Ông nói
đến áp lực nặng nề của các ông Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và bà Trần Thị
Lệ Xuân đối với tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông nhấn mạnh đến sự lộng
quyền của ông Ngô Đình Nhu và bà Ngô Đình Nhu, phân tích những âm mưu
phá hoại tổ chức Phật giáo và những sự cố tình vi phạm bản Thông Cáo
Chung. Quần chúng hoan hô từng chập.
Cũng
vào ngày 5.8.1963 thiền sư Tịnh Khiết gửi một lá thư cho ông Ngô Đình
Diệm, lưu ý tổng thống về tin đồn liên hệ tới một cuộc đảo chính giả
hiệu có mục đích ép ông phải tức khắc đàn áp Phật giáo.
KẾ HOẠCH “NƯỚC LŨ”
Ngày
6.8.1963, Ủy Ban Liên Phái lại được mật báo về một kế hoạch của chính
quyền nhằm tiêu diệt phong trào Phật giáo, gọi là “kế hoạch nước lũ”. Kế
hoạch này nhằm phân hóa và cô lập lực lượng phật tử, bao vây kinh tế,
chặn đứng tất cả guồng máy thông tin của họ và nhất là bôi xấu từng vị
lãnh đạo của phong trào bằng cách giả tạo những “bằng cớ hợp pháp” của
họ để có thể truy tố họ trước pháp luật(190). Trong lá thư gửi cho tổng
thống Diệm ngày 7.8.1963, thiền sư Tịnh Khiết báo tin cho tổng thống về
kế hoạch này, đồng thời lưu ý ông một lần nữa về những âm mưu thâm độc
của những người thân tín nhất bên ông.
Ngày
12.8.1963 một nữ sinh Mai Tuyết An đến chùa Xá Lợi chặt bàn tay trái
của cô để cảnh cáo chính quyền, cô chặt nhiều lát nhưng bàn tay của cô
không đứt.máu loang đầy áo cô. Các vị tăng sĩ nghe tin chạy tới, tìm xe
chở cô vô bệnh viện. Trước khi chặt tay, cô nữ sinh này đã viết ba bức
thư, một cho tăng ni Phật giáo đồ, một cho tổng thống Diệm và một cho bà
Ngô Đình Nhu.
NGỌN LỬA THANH TUỆ
Ngày
13.8.1963, một cây đuốc người nữa được thắp lên ở chùa Phước Duyên ở
quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Người tự thiêu là một học tăng 18 tuổi,
tên là Thanh Tuệ.
Thiền
sư Thanh Tuệ tên đời là Bùi Huy Chương sinh năm 1945 tại Quảng Trị. Ông
xuất gia năm 1960, theo học với thiền sư Đảnh Lễ tại chùa Phước Duyên.
Đêm 12.8.1963 ông viết bốn bức thư để lại, một cho tổng thống Diệm, một
cho tăng tín đồ Phật giáo, một cho thầy ông và bổn đạo, và một cho gia
đình. Thư của ông viết rất gọn gàng và vắn tắt. Trong thư viết cho tổng
thống Diệm ông yêu cầu chấm dứt việc khủng bố và áp bức phật tử và phóng
thích hết những người bị giam giữ. Ông lại nói rằng chính sự nhục mạ và
càn rỡ của bà Nhu sẽ làm cho chính quyền sụp đổ và đưa Phật giáo đồ đến
thành công. Hai giờ khuya ngày 13.8.1963, tại ngôi chùa Phước Duyên hẻo
lánh, trong lúc thầy ông đi vắng, ông ra ngồi ngoài Tam Quan chùa và
chấm lửa tự thiêu. Khi nhân viên công lực hay tin thì quần chúng trong
xã đã tới bao quanh cổng chùa khóc lóc. Cảnh sát không cho phép đưa di
thể người học tăng trẻ tuổi về chùa Từ Đàm. Việc xô xát diễn ra và trong
một cuộc đàn áp 25 người trong làng đã bị thương, trong số đó có 5
người phải chở đi bệnh viện. Cảnh sát chở thi hài thiền sư Thanh Huệ đi
mất.
Ngày
13.8.1963, Ủy Ban Liên Bộ của chính quyền mở cuộc họp báo tại Hội
trường Diên Hồng, đổ trách nhiệm cho Ủy Ban Liên Phái đã không cộng tác
để thành lập Ủy Ban Hổn Hợp trong mục đích thi hành Thông Cáo Chung.
Ngày hôm sau, Ủy Ban Liên Phái mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi, và trước
mặt giới báo chí quốc nội và quốc tế, thiền sư Thiện Minh đã giải thích
những lý do khiến Ủy Ban Liên Phái chưa chịu tham dự thành lập Ủy Ban
Hổn Hợp. Thiền sư nói rằng sở dĩ Thông Cáo Chung không được thi hành là
chỉ tại vì chính quyền không chịu thi hành. Theo ông, Thông Cáo Chung
chỉ là một biện pháp của chính quyền để dẹp bỏ ngày tang lễ của thiền sư
Quảng Đức. Không có một điều khoản nào ghi trong Thông Cáo Chung đã
được thi hành. Ông cho biết báo chí tại quốc nội, kể cả tờ The Times of
Vietnam, chỉ được quyền đăng tải quan điểm của chính quyền và sự thực
luôn luôn bị chính quyền bít lấp. Ông kêu gọi ngừng phong tỏa các chùa,
phóng thích tất cả những người bị bắt giữ và chấm dứt mọi hành động đàn
áp, khủng bố, phỉ báng xuyên tạc. Đồng thời ông cũng cho biết tin đại
lão thiền sư Tịnh Khiết kêu gọi chư tăng ni và tín đồ ngưng hành động tự
thiêu.
NGỌN LỬA DIỆU QUANG
Tại
Huế ngày 15.8.1963, khoảng một ngàn sinh viên và học sinh tổ chức biểu
tình tại thành phố để phản đối vụ đàn áp trước chùa Phước Duyên và buộc
chính quyền trả lại di thể thiền sư Thanh Tuệ về chùa. Cũng hồi tám giờ
rưỡi ngày hôm đó, một ni sư tẩm dầu xăng và châm lửa tại quận Ninh Hòa
gần thị xã Nha Trang.
Ni
sư Diệu Quang tên đời là Ngô Thị Thu, sinh năm 1936 tại làng Phù Cát
tỉnh Thừa Thiên. Ni sư xuất gia hồi 21 tuổi, theo học với ni sư Diệu Hoa
tại ni viện Vạn Thạnh Nha Trang. Tất cả những di bút của cô để lại cũng
như thi hài của ni sư Diệu Quang lập tức bị cảnh sát mang đi biệt tích.
Không ai biết được nội dung của những bức thư ni sư để lại. Phẩn uất về
thái độ của giới công quyền, một cuộc biểu tình tuần hành rất lớn được
tổ chức ngay tại thị xã Nha Trang để phản đối. Cuộc biểu tình này bị đàn
áp rất dã man. Hơn 200 người bị bắt giữ và gần 30 người bị đả thương.
Chùa Hội Quán và Phật học viện Hải Đức bị phong tỏa và điện nước bị cắt
suốt trong ba ngày đêm. Khoảng 300 tăng sĩ và cư sĩ thân cận chư tăng bị
cô lập trong hai địa điểm đó.
Vì
có nhiều người bị thương trong chùa và vì thuốc men và phương tiện chạy
chữa khác không có nên một số tăng đồ và tín đồ liều phá vòng vây quanh
chùa để chạy ra ngoài cầu cứu sau ba ngày bị phong tỏa. Họ bị đàn áp dữ
dội. Bốn vị tăng, một vị ni và ba vị cư sĩ bị trọng thương. Hai vị tăng
sĩ khác bị liệng xuống hồ. Rất đông thanh thiếu niên bị bắt.
LỆNH TỔNG ĐÌNH CÔNG TẠI HUẾ
Ngày
16.8.1963 tại Huế, tất cả mọi chợ búa trường học, xí nghiệp và công tư
sở đều nhất loạt tổng đình công theo lời kêu gọi của giới lãnh đạo Phật
giáo. Chính quyền thị xã ban hành lệnh giới nghiêm và thiết quân luật
toàn diện. Tất cả các chùa lớn đều bị phong tỏa, hàng ngàn người bị cô
lập trong các chùa Linh Quang, Từ Đàm và Diệu Đế.
NGỌN LỬA TIÊU DIÊU
Ngày
hôm đó, để cứu nguy, thiền sư Tiêu Diêu châm lửa tự thiêu ngay tại chùa
Từ Đàm, để lại ba bức thư, một cho thiền sư Tịnh Khiết, một cho các đệ
tử của ông và một cho tổng thống Diệm.
Thiền
sư Tiêu Diêu đã bảy mươi mốt tuổi. Ông sinh năm 1982 tại làng An Truyền
quận Phú Vang tỉnh Thừa Thiên. Ông xuất gia lức ba mươi tám tuổi, theo
học với thiền sư Tịnh Khiết ở chùa Tường Vân. Ông thọ đại giới năm 1952
và sau đó dựng một tịnh thất tại chùa Châu Lâm để tĩnh tu. Ông từng được
học Phật tại các chùa Tây Thiên và Linh Quang. Ông tự thiêu vào lúc bốn
giờ sáng ngày 16.8.1963.
Sợ
chính quyền đến cướp nhục thể của thiền sư như những lần trước, gần năm
ngàn người đã túc trực ngày đêm tại chùa Từ Đàm để bảo vệ và sẵn sàng
ngăn chặn cảnh sát.
Cùng
ngày hôm ấy, Ủy Ban Liên Phái tịa chùa Xá Lợi sau khi được tin, đã gửi
thông bạch tố cáo sự tàn nhẫn của chế độ trước dư luận quốc dân và thế
giới. Lá thư của thiền sư Tịnh Khiết gửi tổng thống Diệm chiều hôm ấy
nói đến sự ngược đãi của chính quyền đối với người phật tử “một sự ngược
đãi chưa từng có trên đất nước này”. Ông viết: “Chúng tôi đã đến nước
không còn nghĩ đến sự kêu cầu nhân đạo và công lý; chúng tôi chỉ mong
bao nhiêu tội ác của một chế độ xem dân như cỏ rác được thực hiện ngay
để chúng tôi có dip chết an hơn là sống khổ và cũng để cho chân tướng
nền Cộng Hòa Nhận Vị do nhà Chí Sĩ xây dựng được phơi bày trước mắt đồng
bào và thế giới”(191)
Tại
Huế, linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng Đại Học Huế bị bãi chức vì ông
đã nói thẳng vào mặt những người cầm đầu chính phủ: “Các ông vô đạo. Bên
Phật giáo có chính nghĩa”.
GIÁO CHỨC ĐẠI HỌC TỪ CHỨC
Các
giới chức Viện Đại Học Huế trong đó có ông Lê Khắc Quyến (khoa trưởng Y
Khoa), Bùi Tường Luân (Khoa trưởng Luật Khoa), Tôn Thất Hạnh (Khoa
trưởng Khoa Học), Nguyễn Văn Tường (Giám đốc Học Vụ Đại Học Sư Phạm), Lê
Tuyên (Giám đốc Học Vụ Văn Khoa) và ba mươi nhân viên giảng huấn của
trường đại học này ra thông cáo từ chức. Đồng thời toàn thể giảng viên
Viện Hán Học Huế cũng ra tuyên cáo phản đối chính quyền và tuyên bố từ
bỏ chức vụ.
Các
giới đều đã có mặt trong cuộc tranh đấu. Sự bất hợp tác trở nên toàn
diện tại Huế, phong trào bất hơp tác bắt đầu chuyển sang Sài Gòn và các
tỉnh.
Tại
Huế, mọi guồng máy xã hội đều tê liệt. Ngoài lực lượng cảnh sát, lực
lượng đặc biệt, công an và mật vụ, không còn ai theo lệnh chính quyền
nữa. Chính quyền lầm vào một tình trạng nguy ngập đến nỗi phải chyên chở
từ Sài Gòn ra Huế trước ngày 16.8.1963 nhiều đơn vị cảnh sát chiến đấu
và lực lượng đặc biệt. Trên đường không còn một ai qua lại.
Tại
Sài Gòn ngày 16.8.1963, Ủy Ban Liên Phái gửi một bức điện tín cấp báo
cho tổng thư ký Liên Hiệp quốc và cho các tổ chức Phật giáo bạn như Thái
Lan, Nhật Bản, Đại Hàn, Tân Gia Ba, Tích Lan, Miến Điện, Đài Loan và Ấn
Độ. Điện tín nói đến tình trạng bi thiết của Phật giáo Việt Nam và kêu
gọi cấp cứu: “Chúng tôi gửi đến Thế Giới Tự Do, các tổ chức Phật giáo
ngoại quốc lời kêu cứu thiết tha này và thầnh thật tri ân mọi sự can
thiệp, nhân danh nhân quyền, để chấm dứt một sự ngược đãi đã trở thành
dã man”.
Trong
khi đó quân đội Cộng Hòa được lệnh cắm trại 100%. Đường phố đầy cảnh
sát võ trang. Dây thép gai từng đống lớn chất trên vĩa hè xung quanh các
chùa.
LỄ CẦU SIÊU TẠI CHÙA XÁ LỢI
Ngày
17.8.1963, lệnh tập họp để cầu siêu cho tất cả những thiền sư đã thiêu
thân vì bảo vệ Phật giáo được Ủy Ban Liên Phái truyền ra. Trên ba mươi
ngàn người đã đến chùa Xá Lợi vào sáng ngày 18.8.1963. Sau bài diễn văn
đã được tuyên đọc. Đoàn Viên Sinh Viên Phật tử Sài Gòn kêu gọi quần
chúng tham dự một cuộc tuyệt thực tại chỗ. Khoảng mười ngàn người hưởng
ứng ngồi xuống. Chủ lực của cuộc tuyệt thực này là thanh niên thuộc các
đoàn thể Sinh Viên Phật Tử, Học Sinh Phật Tử và Đoàn Thanh Niên Bảo Vệ
Phật Giáo. Rất nhiều đồng bào không tuyệt thực cũng ở lại yểm trợ.
Suốt
ngày hôm ấy, quần chúng thủ đô thay nhau, hết lớp này đến lớp khác, kéo
đến chùa để ủng hộ cho cuộc tuyệt thực. Cảnh Sát Chiến Đấu túc trực
quanh vùng để đề phòng tuyệt thực biến thành cuộc biểu tình diễn hành.
Thiền sư Giác Đức lại lên máy vi âm để đàm đạo với đại chúng.
Dùng
những lý luận sắc bén, ông diễn bày tính cách phi nhân của chế độ. Ông
lại lên án gắt gao bà Ngô Đình Nhu về những lời nhục mạ Phật giáo của
bà(192). Sẵn thù ghét chế độ, quần chúng hoan hô ông từng chặp. Ông lên
diễn đàn nhiều lần trong một ngày và giữ cho cuộc tuyệt thực luôn luôn
linh động.
Từ
ngã tư các đường Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm đến đường Phan
Thanh Giản, quần chúng đứng ngồi chật ních. Thế đấu tranh của quần chúng
càng lúc càng mãnh liệt.
ĐÒN ÁC LIỆT CUỐI CÙNG CỦA CHÍNH QUYỀN
Chính
quyền Ngô Đình Diệm không lùi bước. Ngày 21.8.1963 chính quyền này đánh
một đòn ác liệt cuối cùng: tất cả các ngôi chùa làm căn cứ cho cuộc
tranh đấu của phật tử trên toàn quốc đều bị tấn công một lần và tất cả
các vị lãnh đạo của cuộc tranh đấu, tăng ni cũng như cư sĩ, đều bị tống
vào ngục tối.
Ủy
Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo tại chùa Xá Lợi được mật báo về cuộc
đánh úp này vào lúc 5 giờ chiều ngày 20.8.1963. Một buổi họp thu hẹp của
Ủy Ban Liên Phái được tổ chức ngay sau đó để bàn định kế hoạch đối phó
với cuộc tấn công này mà các vị lãnh đạo Phật giáo cho là lá bài chót
của chế độ. Sau buổi lễ Phật vào tám giờ rưỡi tối, các phật tử đến hành
lễ tại chùa Xá Lợi được yêu cầu ra về trước chín giờ thay vì ra về trước
mười một giờ như thường nhật. Vào khoảng mười giờ đêm thì cảnh chùa đã
trở lại yên tĩnh. Tam quan chùa và các cửa hông đều được đóng lại kỹ
lưỡng. Đèn ngoài sân chùa được để sáng chứ không tắt như mọi hôm. Các
tiểu ban của Ủy Ban Liên Phái vẫn im lặng làm việc. Một số thanh niên
tăng ngồi canh gác sau các cổng chùa. Vào lúc mười lăm phút sau nửa đêm,
Ủy Ban Liên Phái nhận được một tin nữa bằng điện thoại do một người
không xưng danh tin cho biết chùa Xá Lợi sắp bị tấn công và các vị lãnh
đạo Phật giáo sẽ bị bắt cóc. Tất cả tăng ni trong chùa đều im lặng niệm
Phật để chờ đợi. Đúng ba mươi phút sau nữa đêm, một hồi còi ré lên phía
ngoài và xe cảnh sát đổ đến vây quanh chùa. Khoảng 200 người của Lực
Lượng Đặc Biệt ào tới tấn công chùa. Giây điện thoại và dây đèn bị cắt
đứt. Các vị lãnh đạo cao cấp của Phật giáo lúc này đã rút lên chánh
điện, bao bọc bởi chư tăng ni. Một số thanh niên tăng trấn ở cầu thang
để ngăn không cho bọn người hung dữ tiến lên xâm phạm vào các bậc trưởng
thượng của họ. Những cuộc đập phá đã bắt đầu. Bàn thờ thiền sư Quảng
Đức bị lật đổ, các cánh cửa và hương đài bị đập phá. Một số chư tăng
đánh trống và dộng chuông để báo hiệu nguy cấp cho dân cư trong khu phố.
Nhiều vị khác gõ vào bất cứ thứ gì có thể tạo nên âm thanh để góp phần
báo hiệu. Sau khi phá phách bên dưới xong xuôi, những người tấn công bắt
đầu leo lên thượng điện. Tại đây, thanh niên tăng đã chất ghế và bàn
đầy cầu thang khiến họ không tiến lên ngay được. Những người tấn công
tung lựu đạn cay lên. Bị khói cay, các tăng ni ho sặc sụa, nước mắt nước
mũi chảy ròng ròng. Họ dùng khăn ướt bịt mặt lại và tiếp tục liệng thêm
bàn ghế xuống để chặn đường cầu thang. Thanh niên tăng cầm cự được
khoảng gần một giờ rưỡi thì kiệt lực. Nhiều vị ngã ra bất tỉnh. Lựu đạn
cay ném lên chánh điện nhiều quá khiến không còn không khí để thở. Áo
quần họ cháy sém. Những người tấn công đã lên tới chánh điện, dùng súng
và lưỡi lê dồn tất cả tăng ni vào một góc. Họ còng tay từng người rồi
dẫn ra trước sân thượng điện. Những ai kháng cự đều bị đánh đập không
nương tay. Những người mệt mõi không đi nhanh đều bị họ tống báng súng
vào lưng. Nhiều tăng ni mặt mày bị dập, máu tuôn ướt áo.
Trong
khi đó, một số trong những người tấn công đi lùng soát các phòng ốc
khác trong chùa. Họ phá cửa một căn phòng khóa kín trên tăng xá và tìm
thấy gần mười vị thiền sư đang tĩnh tọa. Đại lão thiền sư Tịnh Khiết có
mặt trong số người này. Ông bị những người tấn công xô ngã sấp và bị một
vết thương nơi mắt trái.
Trong
lúc cuộc đàn áp đang diễn ra trên thượng điện một số tăng sĩ ở bên dưới
tìm cách leo lên bức tường sau chùa Xá Lợi để thoát ra bên ngoài. Bốn
vị trong số đó bị bắn rơi lại dưới chân tường. Hai vị trèo thoát được
sang địa phận của cơ quan USOM(193) của Hoa Kỳ và xin tỵ nạn ở đây.
Ngót
hai trăm năm mươi vị tăng ni bị bắt. Những người tấn công được lệnh áp
giải các thiền sư Tịnh Khiết, Tâm Châu, Thiện Minh, Quảng Độ, Giác Đức
và các vị quan trọng khác trong Ủy Ban Liên Phái đi trước. Các vị tăng
ni khác lần lượt áp giải ra xe. Năm chiếc xe cam nhông lớn chất đầy các
vị tăng ni, người thì bị thương, người còn bất tỉnh, rời chùa Xá Lợi.
Cuộc tấn công chùa chấm dứt vào lúc 2 giờ 15’ sáng ngày 21.8.1963.
Chùa
Xá Lợi bị phá tang hoang. Tượng Phật Thích Ca tại Chánh Điện cũng bị
xâm phạm. Những người tấn công đã móc mắt tượng Phật để chiếm lấy hai
hạt kim cương trong hai mắt tượng.
Trong
khi chùa Xá Lợi ở Sài Gòn bị tấn công thì trong toàn lãnh thổ Việt Nam
các chùa lớn làm căn cứ cho cuộc tranh đấu của Phật giáo cũng đều bị tấn
công nhất loạt. Cuộc tấn công chùa Từ Đàm ở Huế gặp sức kháng cự của
khoảng năm ngàn phật tử trong chùa, đã phải kéo dài từ một giờ khuya tới
tám giờ sáng. Lực lượng tấn công là hai ngàn rưỡi, tất cả đều thuộc Lực
Lượng Đặc Biệt. Các chùa Diệu Đế, Linh Quang, Ấn Quang, Giác Minh, Từ
Quang, Báo Quốc và các chùa hội quán các tỉnh hội Phật giáo trong nước
đều bị đánh úp cùng một ngày một giờ, khắp nơi, tăng sĩ vác đều bị đánh
đập và bắt trói trước khi dẫn đi. Số lượng những vị tăng sĩ và cư sĩ
toàn quốc bị bắt nhốt đêm đó, theo tài liệu của chính quyền là 1.400 vị,
nhưng có thể cao hơn nhiều. Tài liệu mật của Ngũ Giác Đài(194) về cuộc
chiến tại Việt Nam cũng nói đến 1.400 vị bị bắt trong đêm đó.
Theo
sách Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật giáo Việt Nam của Đuốc Tuệ, ngoài số
tăng ni và cư sĩ lãnh đạo cuộc tranh đấu bắt vào đêm 20.8.1963, chính
quyền đã cho người đi bắt thêm khoản hai ngàn người khác tại tư gia của
họ trong đêm đó và những ngày kế tiếp. Bác sĩ Lê Khắc Quyến, khoa trưởng
Y Khoa Huế và thi sĩ Vũ Hoàng Chương tác giả bài Lửa Từ Bi cũng bị bắt
giam trong dịp này. Trong số những người bị bắt sau này, có nhiều giáo
sư, luật sư và sinh viên nhất là ở Sài Gòn và Huế. Tất cả các nhân viên
của Ban Chấp Hành Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn và Huế cũng đều bị bắt
tại tư gia của họ.
Sáng
tinh sương ngày 21.8.1963 trên toàn lãnh thổ Việt Nam Công Hòa, sắc
lệnh thiết quân luật đã được dán đầy trên thành phố. Xe phóng thanh của
chính quyền chạy khắp phố phường và thôn xã để loan tin “chính phủ đã
diệt xong bọn phản động”. Truyền đơn và hiệu triệu của chính quyền bay
đầy đường.
Các
chùa chiền trong toàn quốc hoang tàn và vắng lạnh đến não nùng. Một sự
im lặng nặng nề và tang tóc bao trùm lên đời sống của toàn dân chúng.
Tất cả các vị lãnh đạo Phật giáo đều đã bị bắt. Sóng gió do phong trào
phật tử gây ra hình như không còn nữa. Nhưng sóng gió bắt đầu nổi dậy
trong lòng mọi người. Những đợt sóng ngầm vĩ đại trong lòng đại dương
không còn ai ngăn chặn và không có cách nào ngăn chặn được nữa. Đêm
20.8.1963 chính quyền của tổng thống Diệm đã chọn cho chính mình một
tuyệt lộ.
--------------------------------------------------------------------------------
(183)
Sách Phật Giáo Đấu Tranh do Quốc Oai biên soạn (Tấn Sanh, 1963) có in
danh sách 21 vị tăn ni bị cảnh sát đã thương trầm trọng ngày 17.7.1963.
Theo Quốc Oai, tất cả các vị tăng ni trong cuộc biểu tình ngày 17.7.1963
đều bị đánh đập, không nhiều thì ít. Cảnh sát xé nát áo nhiều người. Có
vị bị thương máu me đầy người.
(184) Bản kê khai một số hành động vi phạm Thông Cáo Chung Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật Giáo Việt Nam. Quốc Tuệ, trang 276-278.
(185) Phật Giáo Tranh Đấu. Quốc Oai, trang 135-140.
(186) Sách đã dẫn, trang 137-140
(187)
Một tháng sau, trung tá Trần Thanh Chiêu được công khai tuyên dương
công trạng và được gắn Trung Dũng Bội Tinh (Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật
Giáo Việt Nam. Quốc Tuệ, trang 231).
(188) Sách đã dẫn, trang 237-239.
(189) Sách vừa dẫn, trang 318-319.
(190) Sách vừa dẫn, trang 278-291)
(191) Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật giáo Việt Nam. Quốc Tuệ, trang 362.
(192)
Bà Ngô Đình Nhu đã từng gọi hành động tự thiêu của các thiền sư là
“nướng chả” và đã từng tuyên bố công khai với báo chí trong nước và
ngoại quốc là các vị tăng càng tự thiêu càng nhiều thì bà càng vỗ tay
hoan hô.
(193) U.S.O.M. là United State Operation Mission.
(194) The Pentagone Papers do nhật báoThe New York Times xuất bản năm 1971, New Yorl