Chương XXX: Sau cuộc Cách mạng Tháng tám
PHẬT TỬ THAM GIA CÁCH MẠNG
Khoảng
1940, Nhật Bản đã khai chiến với Pháp ở biên thùy Việt-Hoa. Nước Pháp
bị nước Đức chiếm đóng nên không đủ sức chống Nhật ở Việt Nam, và phải
cho quân đội Nhật sử dụng các đường giao thông thủy lục để lập căn cứ
chống Đồng Minh. Ngày 9.3.1945, Nhật nổ súng đảo chính Pháp, và tuyên bố
rằng Việt Nam đã độc lập và sẽ cùng Nhật Bản xây dựng khối Đại Đông Á.
Vua
Bảo Đại liền tuyên bố hủy bỏ những hiệp ước ký kết giữa Việt Nam và
Pháp. Với Dụ số 1 ra ngày 17.3.1945, vua nêu khẩu hiệu “Dân Vi Quý” làm
phương châm trị quốc. Ngày 17.4.1945, tất cả các thượng thư đều từ chức
và cả nội các Trần Trọng Kim được thành lập. Nội các này gồm toàn là
những nhân vật trí thức, có uy tín(95). Nhưng nội các chưa làm được gì
thì có tin Nhật sắp đầu hàng Đồng Minh. Đồng bào các tỉnh thi nhau nổi
dậy chống Nhật bắt đầu từ ngày 11.8.1945. Hà Tĩnh đứng dậy ngày 11(*),
Quảng Ngãi ngày 13. Ngày 16 có tin Nhật đầu hàng Đồng Mnh. Ngày 17 hàng
trăm ngàn đồng bào biểu tình tại Hà Nội. Ngày 19.8.1945 thanh niên và
công nhân xông vào Bắc Bộ Phủ. Mặt Trận Việt Minh tuyên bố thành lập
chính quyền lâm thời. Cách Mạng Tháng Tám thành công. Nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa được thành lập. Chính phủ Trần Trọng Kim giải tán.
Ngày
12.8.1945 vua Bảo Đại làm lễ “thoái vị”. Ngày 2.9.1945, Hồ Chí Minh,
chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời ra mắt quốc dân, đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập
tại quảng trường Ba Đình Hà Nội. Các báo Cứu Quốc, Độc Lập ra đời. Tư
tưởng “dân chủ mới” được bắt đầu phổ biến..
Từ
Nam ra Bắc, Phật tử đủ các giới tham dự vào Cách Mạng. Các đoàn thể
Tăng Già Cứu Quốc và Phật Giáo Cứu Quốc được thành lập khắp nơi. Đoàn
Tăng Già Cứu Quốc của Phủ bộ Thủy Nguyên thành lập trước nhất, vào ngày
30.8.1945. Báo Đuốc Tuệ kêu gọi “Tăng Ni các hạt mau mau lập đoàn Tăng
Già Cứu Quốc, theo mục đích mà tham gia vào công cuộc cách mạng hiện
thời”. Bìa sau cuốn sách Đuốc Tuệ này đăng những khẩu hiệu và những lời
kêu gọi như sau:
Ủng hộ chính quyền Nhân dân
Mau mau gia nhập Đội Quân Giải Phóng Việt Nam!
Chống mọi cuộc xâm lăng!
Việt Nam Độc Lập Hoàn Toàn!
Hãy sửa soạn nghênh tiếp Chính Phủ Lâm Thời và Đoàn Quân Giải Phóng sắp về tới nơi!
Hãy đọc Cứu Quốc, cơ quan của Mặt Trận Việt Minh!
Số
báo nói trên là số báo chót của tạp chí Đuốc Tuệ, số 257-258 ra ngày
15.8.1945. những tạp chí khác ở Trung và ở Nam cũng đều nhất loạt đình
bản. Quần chúng Phật tử trong nước chấp nhận sự đình trệ của công việc
hoằng pháp để tham dự hết lòng vào việc nước. Các đoàn thể Thanh Thiếu
Niên Phật Tử không còn giữ được những buổi sinh hoạt riêng. Các Khuôn
Tịnh Độ (đơn vị xã của các hội Phật giáo) cũng không còn giữ được những
buổi sinh hoạt riêng. Tất cả đều đi tham dự vào các tổ chức cứu quốc:
Thiếu Niên Tiền Phong, Thanh Niên Tiền Phong, Phụ Lão Cứu Quốc, Tăng Già
Cứu Quốc, Phật Giáo Cứu Quốc… Guồng máy hoạt động của các Sơn Môn và
các hội Phật giáo từ cấp trung ương đến cấp xã đều được coi như tạm thời
ngưng hoạt động.
Ở
Huế, nơi phong trào Thanh Thiếu Niên Phật Tử đang lên mạnh vào những năm
1942-1945, các giới tăng sĩ và cư sĩ trẻ tuổi đã rất hăng hái tham dự
vào các công tác tổ chức biểu tình, tập họp, chống nạn mù chữ, vận động
quần chúng ủng hộ cách mạng.
Phật
tử cũng như các giới đồng bào khác trong nước khó tìm ra thì giờ để có
thể sinh hoạt riêng. Thì giờ đi họp và đi biểu tình nhiều khi chiếm chỗ
cả thì giờ làm lụng sinh sống. Nhưng họ không thể chịu đựng được sự
ngưng trệ sinh hoạt Phật giáo của họ mãi. Năm 1946, đoàn sinh đoàn Phật
Học Đức Dục, với sự hợp tác của thiền sư Mật Thể và một số các tăng sĩ
và cư sĩ khác, quyết định cho ra một tạp chí Phật học, mặc dù thời giờ
eo hẹp và mặc dù những áp lực lớn lao về kinh tế và về chính trị. Tờ báo
ra đời lấy tên là Giải Thoát. Chủ ý thích nghĩ Phật giáo với nếp sống
cách mạng, những người chủ trương tờ báo đã ghi dòng chữ sau đây dưới
đầu đề Giải Thoát: cơ quan nghiên cứu và áp dụng đạo Phật vào đời sống
mới.
Giải
Thoát ra đời trong những điều kiện khó khăn. Theo những người chủ
trương, đạo Phật có đủ tiềm lực và điều kiện để vươn lên và biến thành
một đạo lý thích hợp hoàn toàn với một xã hội đang đi tới trên đường
cách mạng.
Tại
Hà Nội, các thiền sư Trí Hải, Tố Liên và Thái Hòa cùng một số đồng chí
cũng cho xuất bản tạp chí Tinh Tiến. Cũng như Giải Thoát, Tinh Tiến nỗ
lực phục vụ cùng một lúc phong trào cách mạng và phong trào Phật giáo.
Tuy vậy cả hai tờ đều chết yểu. Giải Thoát ra được chín số, còn Tinh
Tiến ra được mười số.
THIỀN SƯ MẬT THỂ
Thích
Mật Thể là một tăng sĩ trẻ, thông minh, tài năng và nhiều chí khí. Ông
tên đời là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 tại làng Nguyệt Biểu, huyện
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Ông là đệ tử của thiền sư Giác Tiên, xuất
gia từ năm 12 tuổi tại chùa Trúc Lâm, làm sự đệ của các thiền sư Mật
Khế, Mật Hiển và Mật Nguyện. Pháp danh của ông là Tâm Nhất.
Ông
được theo học Cao đẳng Phật học do thiền sư Phước Huệ làm chủ giảng tại
Trúc Lâm và Tây Thiên. Năm 1933 ông đã được mời làm giảng sư hội An Nam
Phật Học, và từ 1933 đến 1936 ông được mời dạy tại trường Tiểu học Phật
giáo của Sơn Môn Thừa Thiên. Năm 1937 ông được gởi qua tu nghiệp tại
Phật học viện Tiêu Sơn ở Trung Hoa dưới sự trụ trì của thiền sư Tinh
Nghiêm. Chiến tranh Hoa-Nhật không cho phép ông cư trú lâu ở đất Trung
Hoa. Về nước, ông bắt đầu trước tác, phiên dịch và dạy học tại trường
Sơn Môn Phật học. Các sách Phật Giáo Yếu Lược, Phật Giáo Khái Luận xuất
bản vào năm 1941-1942 đều là những sách dịch từ các tân thư Phật học do
ông đem từ Trung Hoa về. Tác phẩm Xuân Đạo Lý của Mật Thể xuất bản năm
1942 là một tập văn, thơ và thảo luận của ông viết trên chủ đề “Xuân là
sứ mạng Phật hóa”. Trong tác phẩm này, ông có một bài khảo luận nhan đề
là Phật Giáo Với Hiện Đại, trong đó ông chủ trương rằng văn hóa đạo Phật
có thể mở đường thoát cho một nhân loại đang sống trong hoài nghi, đau
khổ, chán đời và bê tha trụy lạc(96). Trạng thái tâm lý mà ông nói đến
trong bài khảo luận kia là trạng thái tâm lý của những văn nghệ sĩ thời
kỳ tiền chiến trong nước cũng như ngoài nước, đang đi tìm nguồn cảm hứng
nơi những “tòa lâu đài mộng ảo”, đi xa quần chúng, và tự tiêu diệt mình
trong khoái lạc vật chất.
Năm
1941 ông được mời vào giảng dạy tại Phật học đường Lưỡng Xuyên ở Trà
Vinh. Ông ở lại đây chưa được một năm thì lại trở ra Huế. Để thu thập
tài liệu mà viết về Phật giáo sử, ông đi thăm các tổ đình trong nước,
nhất là ở Bình Định, Phú Yên, Thừa Thiên và Hà Nội. Năm 1943 nhà Tân
Việt ở Hà Nội cho xuất bản sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của ông, với
một bài tựa của Trần Văn Giáp. Ông Giáp viết: “Từ khi Hán học không được
nhận dạy ở các trường công, học giới ta lấy quốc văn và Pháp văn thay
vào. Các bậc tân tiến ngày nay đốivới kho sách chữ Hán xưa gần như chim
chích vào rừng. Nếu không dịch ra chữ quốc ngữ thì những tài liệu ấy(97)
cũng chẳng bổ ích cho giới học giả bao nhiêu. Vậy ngày nay thiền gia
học giới có người dụng công sưu tập cả tài hiệu Hán văn, quốc văn cùng
Pháp văn, đem dịch thuật, sửa soạn, phô diễn thành một quyển sách khiến
độc giả có thể biết qua qua cả lịch sử quốc gia Việt Nam trong mấy ngàn
năm, há chẳng có ích lắm ru! Không những thế, những tài liệu đã sưu tập
lại là tài liệu quý giá cho sử học giới sau này. Thì dầu là ở trong
không khỏi có điều sai lầm khiếm khuyết,song về môn tài liệu thì sách
này vẫn là có công to”.
Sách
Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Mật Thể đã được in lại nhiều lần và đã
đóng góp khá nhiều cho sự nghiên cứu văn sử học Việt Nam của các học giả
từ 1945 đến nay. Sách cũng đã được thiền sư Phước Huệ ở chùa Thập Tháp
đề lời “tán ngữ” ở đầu quyển. Thiền sư viết như sau:
“Giữa
mùa xuân năm Quý mùi, Pháp sư Mật Thể vào Nam thăm, lấy trong tay áo
bản thảo cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử viết bằng quốc văn đưa cho tôi mà
nói: “Đây là công trình sưu tầm biên khảo nhiều năm của con, xin Hòa
Thượng đọc và chứng minh cho”. Tôi tiếp nhận bản thảo mà đọc. Mỗi khi
đêm vắng ngồi dưới ngọn đèn khơi cao, cầm bản thảo nơi tay, tôi tự nói
một mình là pháp sư tuy đã theo học với tôi trong nhiều năm nhưng tôi
chưa biết được hết chí hướng và nguyện vọng của ông. Trong cuộc đời tu
học, thì ra không lúc nào ông không lưu tâm đến sự nghiệp hoằng pháp
bằng phương tiện phiên dịch và trước thuật.
“Từ
khi tới Đông Độ, Phật giáo đã đi vào nước Nam ta một ngàn mấy trăm năm
rồi; trong thời gian ấy đạo tổ và thánh tăng kế tiếp nhau xuất hiện,
công đức ấy chiếu sáng trên lịch sử, ta chẳng nên để cho nó phai mờ mai
một. Ngày nay, có được cuốn sách này thì chẳng những là pháp sư có công
với Phật giáo mà còn có công với Phật học nữa. Vì vậy mà tôi rất được
vui sướng và an ủi, vô lượng vô biên, viết mấy dòng này để tán
dương”(98).
Sách
Việt Nam Phật Giáo Sử Lược có tất cả hai phần: phần Tự Luận và phần
lịch sử. Phần Tự Luận có bốn chương. Chương đầu nói về Nguồn Gốc Phật
Giáo. Chương 2 nói về Phật Giáo ở Trung Hoa. Chương 3 nói về địa thế
nước Việt Nam, nguồn gốc và tinh thần người việt. Chương 4 nói về Thiền
Tông.
Phần Lịch Sử có mười chương như sau:
Chương 1 : Thời đại Phật Giáo Du Nhập; Phật Giáo thời Bắc Thuộc.
Chương 2 : Phật giáo đời Hậu Lý Nam Đế và đời Bắc Thuộc thứ ba.
Chương 3 : Phật giáo đời nhà Đinh và đời Tiền Lê.
Chương 4 : Phật giáo đời nhà Lý.
Chương 5 : Phật giáo đời nhà Trần.
Chương 6 : Phật giáo đời nhà Hồ đến đời thuộc Minh.
Chương 7 : Phật giáo đời Hậu Lê
Chương 8 : Phật giáo ở thời đại Nam Bắc Phân Tranh.
Chương 9 : Phật giáo trong thời kỳ cận đại (triều Nguyễn).
Chương 10 : Phật giáo hiện đại.
Thiền
sư Mật Thể là người có chí nguyện lớn. Ông chủ trương phải “cải tổ Sơn
Môn”, và đã xuất bản một tài liệu nhan đề là Cải Tổ Sơn Môn Huế. Cũng
như Thiện Chiếu ở Miền Nam, ông rất nóng lòng vì bước đi chậm chạp trong
quá trình đổi mới chế độ tăng già. Ông cũng va chạm rất nhiều trong
thời gian vận động, nhưng khác với Thiện Chiếu, ông không nản lòng và
không bao giờ muốn cởi bỏ áo tu. Ông lại khác với Thiện Chiếu ở chỗ ông
được đào tạo trong Sơn Môn từ hồi còn bé thơ, và căn bản Phật học của
ông rất vững vàng. Hán văn của ông rất vững. Ông đã tự mình học chữ quốc
ngữ và chữ pháp. Ông là một trong mấy vị tăng sĩ đầu tiên biết làm “thơ
mới”. Chữ Pháp ông học để để đọc các bài nghiên cứu về Phật giáo sử
viết bằng Pháp văn. Ông rất ưa thơ của Hàn Mặc Tử, không biết vì sao.
Mãi
đến năm 1944, ông mới thụ đại giới. Ông thụ đại giới tại giới đàn chùa
Thiền Tôn Huế, và dứng đầu các giới tử, là thủ sa di. Cũng vào năm 1944
ông được mời làm trú trì chùa Phổ Quang.
Tháng
Giêng năm 1946, khi Chính Phủ Lâm Thời tổ chức Tổng Tuyển Cử, ông đã
can đảm đứng ra ứng cử ở Thừa Thiên. Ông được đắc cử làm đại biểu tại
Quốc Hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Đây là lần đầu tiên một vị tăng
sĩ Việt Nam trực tiếp đi vào chính trị. Ngày xưa, vào các thời Đinh,
Lê, Lý và Trần, các thiền sư đã từng làm chính trị nhưng chỉ đứng trong
cương vị cố vấn cho các nhà vua mà thôi. Việc ra ứng cử quốc hội của Mật
Thể phản chiếu lòng yêu nước và sự ủng hộ cách mạng của giới Phật tử
trẻ tuổi. Tuy nhiên, hành động ấy cũng được nhận xét như không được chín
chắn bởi một vài vị tôn túc trong Sơn Môn và một vài giới cư sĩ. Cũng
năm 1946 ông được mời làm chủ tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc Thừa Thiên.
THANH NIÊN TĂNG LÀM CÁCH MẠNG
Trong
số các vị tăng sĩ trẻ tuổi được các Phật học viện Huế, Bình Định, Lưỡng
Xuyên và Hà Nội đào tạo thời ấy, hầu hết tất cả đều có tham dự vào
phong trào Cách Mạng Cứu Quốc. Các học tăng tốt nghiệp xuất sắc nhất của
trường An Nam Phật Học như Pham Quang (Thích Trí Quang), Đỗ Xuân Hằng
(Thích Thiện Minh), Trần Trọng Thuyên (Thích Trí Thuyên) v.v… đều đã
không ngần ngại bắt tay vào việc . Thích Thiện Minh chẳng hạn, phụ trách
Uûy Ban Phật Giáo Cứu Quốc tại Quảng Trị, trong khi Thích Trí Quang phụ
trách Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc tại Quảng Bình. Tại Bình Định, Thích
Huyền Quang, vốn từng theo học Phật học đường Lưỡng Xuyên ở Trà Vinh,
rồi Phật học đường Long Khánh tại Bình Định, phụ trách Ủy Ban Phật Giáo
Cứu Quốc ở đây suốt từ 1945 cho đến 1952.
Về
phía Thanh niên Phật tử, tất cả mười hai Gia Đình Phật Hóa Phổ thành
lập sau đại hội ở đồi Quảng Tế ngày Phật Đản năm 1944, vừa huynh trưởng,
vừa đoàn sinh đều tham dự cách mạng một cách nhiệt thành.
Khí
thế ở Bắc và Nam cũng không khác gì ở Trung hầu hết tăng ni trẻ tuổi
đều đi theo tiếng gọi của cách mạng. Thiền sư Thái Hòa thành lập Tăng
Già Cứu Quốc Đoàn và vận động tổ chức khắp nơi các đơn vị Phật Giáo Cứu
Quốc (ở miền Bắc). Không có Phật học đường nào được mở cửa, dù là Phật
học được cho ni sinh. Tại Phật học đường Phật Quang ở Trà Vinh, đa số
thanh niên học tăng đều bỏ học đi theo kháng chiến.
Những
năm 1946-1947, tuy vậy, đã cho tuổi trẻ Phật tử Việt Nam thấy rằng con
đường cách mạng là một con đường đầy chông gai hiểm trở, không phải là
những chông gia hiểm trở vật chất mà là những xót xa trong tâm hồn gây
nên do áp lực phải lựa chọn. Dấn thân vào cách mạng bằng một tâm hồn
trong trắng, chỉ trong vòng hai ba năm là tâm hồn ấy có thể… chai sạn.
Nguyên do của tình trạng này là hiện tượng đấu tranh của các phe phái
chính trị và tính cách bất không dung của các ý thức hệ.
PHẬT TỬ KÊU GỌI MỘT TINH THẦN CỞI MỞ VÀ DUNG HỢP
Tạp
chí Giải Thoát đã phản ảnh được một phần nào trạng huống kia. Một tấc
phẩm tên là Những Cặp Kính Màu, được viết trong thời gian ấy, đã diễn tả
được khá rõ ràng những khổ đau dằn vặt trong tâm hồn người Phật tử trẻ
tuổi dấn thân vào cách mạng. Tác phẩm này tuy được hoàn thành vào năm
1947 nhưng mãi đên năm 1964 mới được đem đăng trên tuần san Hải Triều Âm
tại Sài Gòn, và sau đó được nhà Minh Đức ở Đà Nẵng ấn hành năm 1965.
tác giả là Võ Đình Cường đã giới thiệu Những Cặp Kính Màu như sau:
“Những Cặp Kính Màu nói lên tâm trạng đau xót của một thanh niên Phật tử
ở vào một bối cảnh lịch sử vô cùng rối ren, phức tạp của nước nhàkhi
những cuộc bắn giết thủ tiêu xảy ra hàng ngày. Một bầu không khí nghi kỵ
oán hờn bao trùm tất cả. Không còn ai hiểu được ai, những người thân
nhất cũng trở thành những kẻ thù.mọi người đều mang một cặp kính màu
khác nhau, và nhìn nhau qua cặp kính màu của họ”(99).
Bối
cảnh của cầu chuyện Những Cặp Kính Màu được dựng ở Huế và Hà Nội vào
những năm 1945, 1946 và 1947, khi mà các thế lực chính trị {…} công khai
công kích nhau trên báo chí và bắt cóc, tra tấn và thủ tiêu nhau trong
bóng tối. Sự đau đớn không phải chỉ là do nhận thức rằng sau một trăm
năm nô lệ bị người Pháp áp bức và giết hại, người Việt lại xoay ra giết
nhau {…}. Sự đau đớn còn do ở chỗ mình phải lựa chọn giữa hai bên: nếu
không chọn thì mình sẽ bị luôn hai bên nghi ngờ và giết chết. Nhân vật
chính của Những Cặp Kính Màu là Lạc. Lạc chỉ muốn chính mình, nhưng
không ai muốn chàng là chàng cả. Ai cũng mang kính màu để nhìn chàng, và
vị vậy, chàng trở nên một kẻ khác. Một trong những cặp kính màu đã nhìn
Lạc và cho chàng vào Việt Quốc(100); vì vậy mà Lạc mất một người yêu
lẫn một một người em… Một cặp kính màu khác nhìn chàng và thấy chàng là
Việt Minh, và điều này đã đưa tới một sự tan vỡ khác. Nỗ lực phi thường
của Lạc là được yêu nước và được có quyền không giết những người yêu
nước khác; nhưng trong guồng máy, điều này trở thành một điều gần như
hoàn toàn không thể thực hiện! Không những điều đó chút nữa trên con
đường đó thì chẳng sẽ mất mạng như chơi. Cuộc đụng chạm ghê gớm {…} đã
bóp nát trái tim Lạc. Ra khỏi vũng máu và nước mắt, tâm hồn. Nhà văn Tam
Ích đã viết về Những Cặp Kính Màu như sau:
“Lạc
là ai: lờ mờ thấp thoáng là tác giả. Những Cặp Kính Màu là anh, là tôi,
là các anh, là chúng tôi, là những người ấy cũng những kẻ kia, là một
số người đông lắm… là tất cả những ai có lý tưởng - Tiếng Pháp gọi người
như thế là idéaliste - nuôi những giấc mộng đẹp cho tất cả chúng sinh
trong đó có chính mình, nhưng lại sợ máu và nước mắt chan hòa, chỉ muốn
ai cũng có hạnh phúc nhưng không muốn có oán hờn… Nhưng hỡi ôi và thương
thay, sự thực bao giừo cũng chua chát: kẻ có lý tưởng, hễ vào “chiến
trường”, khi ra khỏi, ít nhiều đều bỏ xác lại… Hoặc bỏ xác lại, hoặc bỏ
lại một phần của chính mình - mà lại là phần lớn nhất”(101),
Tâm
tư và kinh nghiệm của Lạc hẳn đã phản chiếu khá nhiều tâm tư và kinh
nghiệm của tác giả Những Cặp Kính Màu. Có thể vì tâm tư và kinh nghiệm
ấy mà cuối năm 1947 khi Mặt Trận chống Pháp ở Huế bị vỡ, Võ Đình Cường
đã ở lại Huế mà không đi vào vùng kháng chiến.
Nhưng
có nhiều người trai trẻ Phật tử, cư sĩ cũng như tăng sĩ, đã rút theo
vào vùng kháng chiến. Sự tàn ác của quân đội viễn chinh Pháp khiến họ hy
sinh hết, dẹp hết chính kiến và hình thức tôn giáo để khép mình theo kỷ
luật kháng chiến. Càng này họ càng đi sâu vào guồng máy và nhận thấy
không còn cơ hội để như nhân vật Lạc của Những Cặp Kính Màu. Cái ước
vọng “mình được là mình” được chút nào hay chút ấy {…}.
Trước
khi về chiến khu, Thích Mật Thể đã gặp một số anh em Phật tử đồng chí
tại chùa Thể Chí ở Đại Lộc. Họ ăn một bữa cơm chay cuối cùng với nhau
tại chùa này và bàn tính về việc tương lai. Họ đàm luận về chuyện chống
Pháp, chuyện tương lai Phật giáo và cố nhiên về những động chạm với khó
khăn mà người Phật tử gặp phải trong hàng ngũ kháng chiến. Họ đồng ý là
người Phật tử phải có mặt ở mọi lĩnh vực tranh đấu. Phải phân thân để có
mặt. Tại vùng bị chiếm đóng, nếu được thì dựng lại chùa, quy tụ lại
Phật tử để sinh hoạt và để tạo lập lại phong trào. Tại vùng kháng chiến,
phải tìm cách có mặt trong cơ quan lãnh đạo để có thể bênh vực, che chở
cho thanh niên Phật giáo phục vụ trong hàng ngũ kháng chiến. Thiền sư
Mật Thể cho biết trước rằng việc bảo vệ và xây dựng phong trào Phật giáo
lúc này {…} là một công việc rất khó. Nhưng ông bảo người Phật tử không
thể không có mặt. Bữa cơm trưa kéo dài đến chập tối. Mật Thể lấy trong
bọc áo tất cả số tiền thu được của tạp chí Giải Thoát và trao lại cho
bạn bè ở lại vùng chiếm đóng, dặn họ lấy số tiền đó làm vốn liếng để
xuất bản một tờ báo xuất bản tại Huế nhằm tiếp tục công trình của Giải
Thoát. Rồi cùng với một vị tăng sĩ trẻ tuổi là Thiện mẫn và bốn người
Phật tử cư sĩ khác, ông lên đường đi Quảng Trị. Trong số những người trở
về thành phố Huế hôm đó, có các tăng sĩ Đức Trạm (chùa Ba La Mật), Mãn
Giác (chùa Thiên Minh), Thiên Ân (chùa Châu Lâm), các cư sĩ Đinh Văn Nam
và Cao Hữu Đính.
Thích
Mật Thể theo kháng chiến cho đến năm 1961 thì mất. Ông viên tịch tại
Nghệ An, thọ 49 tuổi. Trong thời gian từ 1957 đến 1961, {…} ông ở tại Hà
Tĩnh và Nghệ An, trong một căn nhà lá miền quê {…}. Vậy mà trong thời
gian ấy, ông vẫn sáng tác được cuốn Thế Giới Quan Phật Giáo. Bản thảo
tác phẩm này đã lọt được vào miền Nam, và được tạp chí Vạn Hạnh xuất bản
vào năm 1967. Bản in này có mang lời tựa của Thích Đức Nhuận, chủ bút
tạp chí Vạn Hạnh.
Thế
Giới Quan Phật Giáo là một tác phẩm nói đến sự cần thiết của đạo Phật
trong tư trào chính trị, văn hóa và kinh tế hiện tại. {…}. Theo ông,
Phật giáo không phải là duy vật, cũng không phải là duy tâm. Ông nhấn
mạnh đến nguy cơ của những nhà làm chính trị thiếu căn bản đạo đức. Ông
nói rằng lý thuyết này đã “nhận vật chất làm căn nguyên sinh ra vạn hữu”
cho nên “xã hội chủ nghĩa {…} chỉ thấy hạnh phúc của con người ở cơm ăn
áo mặc”. Theo ông, “xét tận nguồn gốc gây ra thống khổ của nhân loại,
nguyên nhân chỉ vì lòng tham, sân, si chất chứa nhiều quá. Nếu xã hội
chủ nghĩa tổ chức kinh tế khéo giỏi đến đâu mà không có phương pháp để
thủ tiêu lòng tham, sân, si cùng bản ngã nhỏ hẹp kia, thì nhân loại cũng
không bao giờ hết khổ được”(102)
Với
tư cách đại biểu quốc hội. Mật Thể đã từng che chở và bênh vực cho các
tăng sĩ và cư sĩ hoạt động quanh tờ Giải Thoát và những năm 1946 và
1947. Chính nhờ ông mà tờ Giải Thoát được tồn tại trong một năm trời.
Trong
thời gian ấy, những người chủ trương tạp chí Giải Thoát đã cố gắng mở
cuộc thảo luận với những người theo chủ nghĩa Mác Xít: Họ không thực sự
gọi là người đối thoại họ là Mác Xít. Họ không muốn phân biệt và chia
rẽ. Nhất làhọ không bài bác một lý thuyết nào. Họ chỉ muốn đối thoại, và
phương pháp của họ là cố gắng để làm người đối diện hiểu họ nhiều hơn.
Chính
phủ Cách Mạng Lâm Thời với sắc lệnh số 34 ngày 20.9.1945 đã “cấm không
ai được động đến các đền chùa, Giáo hội” và “tôn trọngquyền tự do tín
ngưỡng của quần chúng”. “Sắc lệnh này sở dĩ ra đời là vì trước đó, tại
nhiều vùng (nhất là ở Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bắc Ninh và Thái
Bình) các địa phương, quá nhiệt thành trong sự thực hiện cách mạng, đã
có hành động ít nhiều vi phạm tới tăng sĩ, tự viện và giáo dưỡng của các
tôn giáo và đã tạo nên phản ứng của các tôn giáo ở những địa phương
này. Sắc lệnh của chính phủ, tuy được tuân phục trên hình thức, nhưng
trên tinh thần vẫn không gây được sự cởi mở thành thực. Các cây bút như
Nguyễn Hữu Quán, Phạm Hữu Bình, Viên Đình v.v… trong tập san Giải Thoát
đã phản ánh tình trạng này.
Phạm
Hữu Bính, trong bài Phật Giáo Bị Lợi Dụng, đã nhắc tới “một số người
trước mặt thì tỏ ra tán dương mà sau lưng thì ngấm ngầm công kích Phật
giáo(103).
Đáng
chú ý là nhận xét của Nguyễn Hữu Quán về sự trách móc đạo Phật về tính
cách thiếu thực hành của n ó. Ông viết: “Trong khi mọi người nghèo đói
có thể ngửa tay xin bất kỳ một người nào, một kẻ lầm đường có thể gõ cửa
ở mọi nhà, một người bệnh có năm bảy người láng giềng chạy đến cho
thuốc, một người khách lạ đến nhà, gặp bữa ăn chỉ thêm một bát đũa… thử
hỏi khi ấy có cần phải lập ra những nhà tế bần, dục anh hay bệnh viện?
Chính trong khi một xã hội việc lập ra những cơ quan từ thiện đã trở
thành vấn đề cấp bách là khi lòng người ở đấy đã có góc có cạnh, đã chia
cách nhau lắm rồi. Họ không thể làm việc thiện một cách trực tiếp, dễ
dàng, mà phải cần những cơ quan môi giới giữa người cho và người nhận,
người giàu và người nghèo, người sướng và người khổ. Vì những lẽ trên,
chúng ta không nên bằng vòa sự thiếu tổ chức những công cuộc xã tế mà
chê trách Phật tử thiếu thực hành”.
Phạm
Hữu Bính lại vạch ra những ảnh hưởng tốt từ ngay phong trào Phật giáo
nổi dậy. Ông lại mời độc giả “điều tra kỹ” xã hội nông thôn: ở làng nào
xã nào có tổ chức khuôn Tịnh Độ thì ở đấy có nhiều thay đổi đẹp đẽ hơn
trước, và phần đông những người tham dự vào việc hành chính của thôn xã
và của cách mạng là Phật tử.
Nguyễn
Hữu Quán có một lối đối thoại mềm mỏng hơn. Ông muốn chứng tỏ rằng ông
không có thành kiến gì đối với người ông đối thoại hết. Ông chỉ mong
người đối thoại của ông cũng chấp nhận thái độ đó. Ông viết:
“Tôi
biết anh là người thành thực. Chúng ta có thể thành thực nắm tay nhau
mà không ngần ngại. Chúng ta cùng sống, cùng gặp nhau trên đường đi.
Những mối băn khoăn của trí tôi đã có khi thoáng làm anh thắc mắc. Nỗi
vui đang dậy trong lòng tôi lắm lúc vụt bừng tron tia mắt anh. Nhưng
giữa lúc trò chuyện, tôi buộc mồm “tôi là Phật tử”. Thế là về xã giao,
tôi đã phạm vào một lỗi. Một cái màn bỗng buông xuống giữa chúng ta”.
Cái
màn ấy, Nguyễn Hữu Quán rất sợ. Và ông làm đủ mọ cách để vén lên Ông
không muốn người kia dán lên ông một nhãn hiệu. Nhãn hiệu duy tâm, nhãn
hiệu phong kiến, nhãn hiệu lạc hậu. Vì nhãn hiệu mà người ta có thể hết
thành thực với nhau; đâm ra nghi ngờ nhau và có thể đi đến chỗ chia rẽ
hoặc hủy hoại nhau. Ông nói: “Đi dán nhãn hiệu, đâu phải là hiểu
biết!”(104).
Nguyễn
Hữu Quán nói rằng ông có đủ sức để trả lời những câu buộc tội đạo Phật,
nói rằng đạo Phật là không khoa học, không cách mạng, không dân chủ,
không thích hợp với xã hội mới. Nhưng ông nói ông không muốn “dàn xếp”
và “theo dõi”. Ông nói “trả lời được những đòi hỏi vụn vặt không phải là
thỏa mãn”. Và quan trọng nhất, ông nói: “uốn nắn theo một khuynh hướng ồ
ạt không phải là đắc thắng”.
Nói
chuyện về vấn đề “hiểu biết chân chính” ông nhấn mạnh đến thái độ khiêm
nhượng và cẩn trọng cần có, và cảnh cáo những thái độ vồ vập, hãnh
diện. Những điều ông viết sau đây đã phản chiếu nhận thức của ông về
thái độ của một số người của thời đại ấy.
“Lửa
thiêng của cách mạng là để tiêu hủy một chế độ quá u tối để lung linh
hứa hẹn hạnh phúc chung cùng và tươi sáng của ngày mai. Cả đến khoa học
lạnh lùng cũng bắt đầu e thẹn vì thấy - với bao nhiêu sáng suốt - mình
chỉ là một dụng cụ đui mù cho tham vọng không bờ bến của loài người.
Khoa học cũng đã bắt đầu thấy trong vũ trụ mông lung vấn đề ít vu vơ và
khẩn cấp nhất là hạnh phúc của con người.
“Vẫn
biết, không phải tìm đường là tất thấy ngay. Lại phải đề phòng cái
thông bệnh: mới thấy lờ mờ một vết đường mòn đã vội hô hoán, tôi kéo
người ta vào, ra vẻ đắc thắng, ra vẻ hãnh diện là đường của ta, rồi dằng
co, rồi hục hặc”.
“Phải
biết xét lòng mình đã. Phải nghiệm rõ trong con đường ấy, ta và người,
cả loài người, có thể đi đến ngày mai tươi sáng chân thật không? Phải
coi chừng: trí thông mình hàm hồ lắm, chỉ chực bào chữa cho những thèm
muốn u ẩn”(104).
Nguyễn
Hữu Quán đề nghị với người đối thoại những nguyên tắc của sự hiểu biết
mà ông đã tìm đọc được trong đạo Phật: tôn trọng xét nghiệm, xóa bỏ
những biên giới ngăn cách giả tạo giữa ta và người, tâm và vật, thời
gian và không gian. Ông chỉ cầu mong ở người đối thoại một điều kiện:
Giữ mãi được lòng thiết tha hạnh phúc chung. Ông nói: “Anh cũng biết như
tôi rằng lòng {tha thiết vì hạnh phúc chung} ấy thường mong manh lắm:
chỉ vì một bực dọc, một lúc suy đốn trong gia đình, một bước thất bại
hơi chua cay là đổ vỡ tất cả: mắt anh sẽ tối lại, anh sẽ đi dần đến cảnh
mịt mù thảm thiết của một thế giới dành giật nhau, bóc lột nhau, trong
đó anh đóng một vai trò mà không thấy ngõ thoát”(104).
Chưa
biết được rằng cuộc đối thoại sẽ rất khó khăn và lâu dài, và nhiều khi
tuyệt vọng, những người chủ trương tạp chí Giải Thoát cũng như đồng bạn
của họ ở mọi nẻo đường của đất nước lúc đó, đã tha thiết mở cuộc đối
thoại với người đồng bào của mình. Tiếng nói chân thành của họ còn vang
vọng mãi tới hôm nay.
TĂNG SĨ VÀ THANH NIÊN PHẬT TỬ HY SINH
Và
cũng ở khắp mọi nẻo đường đất nước, nhiều lớp trai trẻ Phật giáo đã
thay nhau ngã gục trong cuộc kháng chiến, dù là tăng sĩ hay cư sĩ, dù
tay không hay cầm súng. Đau khổ và tang tóc mà chiến tranh thực dân gieo
trên đất nước và trên đồng bào họ to lớn quá(105), khiến họ không có đủ
cơ hội tìm kiếm một con đường tranh đấu độc lập của người Phật tử, một
con đường thích hợp hơn với lý trí và tình cảm của họ. Ở chiến khu hay
tại nội thành, bạo động hay bất bạo động, họ vẫn tiếp tục tranh đấu..
Riêng về tăng sĩ, trên bốn trăm thanh niên tăng ni đã bị thực dân bắn
chết trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1954. Thích Tâm Minh (tên đời là
Nguyễn Quang Lý) đệ tử của thiền sư Quảng Nhuận, chính trị viên trung
đoàn Trần Cao Vân, gục ngã tại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thích
Tánh Huyền (tên đời Nguyễn Văn Hàm) đệ tử thiền sư Mật Nguyện, làm chủ
tịch Ủy Ban Hành Chánh Khu Phố 7 của thị xã Huế đã gục ngã sau lưng chùa
Tường Vân. Thích Châu Quang (tên đời là Huỳnh Văn Sính), đệ tử thiền sư
Quảng Huệ, đã gục ngã trong mặt trận bảo vệ thị xã Huế. Thích Trí
Nghiêm, đệ tử thiền sư Đôn Hậu ngã gục ở chiến khu Quảng Trị. Thích Tâm
Thường chết tại chùa Thiền Tôn, Thích Viên Minh và Nguyễn Chính chết tại
mặt trận Phan Thiết. Thích Minh Trí chùa Thiên Ấn ở xã An Thạch, quận
Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một đã chết một cách vô cùng oan ức. Sau khi bị
thực dân tra tấn. Minh Trí đã bị chôn sống với năm người Phật tử cư sĩ
khác tại Gò Dốc xã Tân Khánh. Họ đã bị bắt buộc đào hố để tự chôn mình.
Thiền
sư Trí Thuyên bị thực dân bắn chết ngay tại Phật Học Đường Kim Sơn, còn
thiền sư Đôn Hậu bị quân đội Pháp bắt giữ và tra tấn tại Huế.
Trên
đây chỉ nêu rra một số trường hợp còn ghi nhận được bằng ký ức. Phải
còn có thì giờ và phương tiện mới thiết lập được bản danh sách những vị
tăng sĩ đã hiến mình cho cuộc kháng chiến giành độc lập quốc gia.
Thiền
sư Trí Thuyên là đại diện cho lớp tăng sĩ trẻ tuổi có học, một dạ một
lòng với đạo Phật và với dân tộc. Ông đã được đào luyện đúng chín năm
tại trường An Nam Phật Học. Sinh ở Quảng Ngãi, ông xuất gia từ tấm bé ở
đó và được gửi về học tại Huế năm 1934. Ông thụ đại giới đàn năm1944 tại
Phật học đường Kim Sơn.
Ngày
Phật đản 1948 tại Phật học đường Báo Quốc Huế, một số học tăng và giáo
sư âm thầm tổ chức lễ cầu nguyện và truy điệu ông, và cầu nguyện cho tất
cả những thanh niên tăng ni khác đã bỏ thân vì cách mạng. Thiền sư
Trọng Ân, giáo sư tại Phật học đường Báo Quốc hồi ấy đã đề vào bức ảnh
của Trí Huyền bốn câu sau đây:
Năm xưa ai cũng như ai
Đốt lò hương, nguyện dưới đài quang minh
Mà nay non nước chưa bình
Người đi đây mất, ảnh hình còn đây?
Người không đi mất, người chỉ đi vào lòng Tổ quốc, lòng dân tộc và vào trong ký ức của những thế hệ Phật tử kế tiếp.
--------------------------------------------------------------------------------
(95)
Nội các gồm có: Trần Trọng Kim, thủ tướng; Tràn Đình Nam, bộ trưởng Nội
vụ; Trần Văn Chương, Ngoại giao; Vũ Văn Hiền, Tài chính; Hồ Tá Khanh,
Kinh tế, Nguyễn Hữu Chí, Tiếp tế; Hoàng Xuân Hãn, Giáo dục Kỹ thuật;
Trịnh Đình Thảo, Tư pháp; Lưu Văn Lang, Công chính Giao thông; Vũ Ngọc
Anh, Y tế Cứu tế; Phan Anh, Thanh niên.
(*) Thực tế, ở hà Tỉnh, huyện cướp chính quyền sớm nhất là Can Lộc cũng phải là ngày 15.8.1945 (N.H.C)
(96) Mật Thể: Xuân Đạo Lý, trang 23.
(97)
Thiền Uyển Tập Anh, Thống Yếu Kế Đăng Lục, Đạo Giáo Nguyên Lưu v.v… và
một vài bộ Ngữ Lục cùng năm ba thiên truyện ksy của các vị cao tăng.
(98) Bài này được in đầu sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, bằng Hán văn.
(99) Hải Triều Âm số 1 ra ngày 21.4.1964.
(100)
Việt Quốc là tổ chức hợp nhất của đảng Cách Mệnh Đồng Minh, Việt Nam
Quốc Dân Đảng và Đại Việt. Cơ quan báo chí của Việt Quốc là Thiết thực.
(101) Tam Ích: Ý Văn. Lá Bối, Sài Gòn 1967.
(102) Mật Thể: Thế Giới Quan Phật Giáo. Vạn Hạnh, Sài Gòn 1967
(103) Phạm Hữu Bình: Phật Giáo Bị Lợi Dụng. Giải Tháot, 1945 (inlại trong tập san Phật Giáo Việt Nam, Sài Gòn số 4-1956.
(104)
Nguyễn Hữu Quán: Hiểu Biết Chân Chính (bức thư ngỏ cùng người bạn muôn
phương). Giải Thoát 1946, in lại trong nguyệt san Phật Giáo Việt Nam,
Sài Gòn số 4-1956.
(105) Một đoạn trong Lịch Sử Việt Nam Hiện Kim của Phan Xuân Hoa, xuất bản tại Sài Gòn năm 1957, trang 95-96:
“Vào
tháng 7.1949 trong một trận càn quét ở tỉnh Hà Đông, quân đội Pháp bắt
được hơn 200 thường dân. Sĩ quan Pháp bắt đứng riêng hai hàng nam nữ, ai
nấy đều bị lột trần truồng. Sau bắt theo lệnh còi do một tên trung sĩ
thổi lên, đôi bên nam nữ phải ôm lấy nhau để nhận lấy một tràng đạn liên
thanh tưới vào mà gục xuống.
“Hôm
11.8.1949, sau khi quây vùng Ninh Giang (thuộc Hải Dương), 80 người bị
bắt đứng sắp hàng làm bia đỡ đạn liên thanh. Khoảng 100 đàn bà bị hiếp
dâm; nhiều trẻ con bị quẳng vào đống lửa.
“Hôm
12.12.1949 ở bến đò An Tí (Vĩnh Yên) Pháp bắt giữ một chiếc thuyền chở
45 người đàn bà và hai đàn ông là những người đi lánh nạn; thu vét hết
của cải xong rồi, lính Pháp trói hai người làm một, quẳng cả xuống sông…
“Quân
đội Pháp đóng ở TrungViệt lại còn tàn bạo hơn thế nữa. Nhiều gia đình
bị tàn sát bằng dao găm. Người ta tính sơ sơ thấy số bị giết lên tới
chừng tám vạn. Không mấy phụ nữ trong khu Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên là không bị Pháp hiếp dâm.
“Hôm
22.2.1949, riêng một trận vây Phong Điền, 860 nóc nhà bị đốt,80 dân
quân bị giết, 113 đàn bà bị hiếp; một người đàn bà có mang sáu tháng
(Hoàng Thị Phong) bị mổ bụng. Cũng trong trận này ông già Trần Văn Địch ở
Vĩnh Xương (Phú Vang) bị ném vào đống lửa. Tại Hương Trà, ông già Trần
Xuyến bị mổ bụng. Ở Quảng Điền hai bà già 60 bị hiếp”.