Chương XXXVI: Thế đứng của Phật Giáo Việt Nam
THÁI ĐỘ BẤT HỢP TÁC CỦA PHẬT GIÁO VÀ ĐẠO DỤ SỐ 10
Từ
sau khi các mặt trận chống Pháp tại các thành phố bị tan vỡ, đất nước
được đặt dưới hai vùng kiểm soát: vùng giải phóng được kiểm soát bởi
chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và vùng tạm chiếm được kiểm soát
bởi quân đội Pháp và chính quyền “bù nhìn” do Pháp dựng lên. Chính quyền
đầu tiên của vùng Pháp kiểm soát là chính quyền Nguyễn Văn Xuân thành
lập vào tháng Năm năm 1948 tại Sài Gòn. Chính quyền này liên lạc với cựu
hoàng Bảo Đại tại Hương Cảng. Cựu hoàng về nước ngày 2.7.1949 một thỏa
hiệp về “nguyên tắc độc lập thống nhất”, đặt Việt Nam vào trong khối
Liên Hiệp Pháp. Các chính phủ Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn
Tâm, Bửu Lộc và Ngô Đình Diệm tiếp nối nhau cai trị vùng “quốc gia”
dưới quyền của quốc trưởng Bảo Đại. Cho đến khi Hiệp định Genève năm
1954 chia cắt đất nước Việt Nam thành hai miền Nam Bắc.
Tại
vùng giải phóng tức là ở các chiến khu, mọi hoạt động đều được hướng về
mục tiêu kháng chiến và sản xuất để nuôi dưỡng kháng chiến, cho nên
sinh hoạt tôn giáo đã được hạn chế tới mức tối thiểu. Tuy có bất bình về
chính sách hạn chế tôn giáo của chính quyền cách mạng, giới phật tử vẫn
hết lòng phục vụ kháng chiến, nghĩ rằng một ngày mai khi đánh đuổi hết
giặc Pháp về nước, mình sẽ tranh đấu cho quyền tự do tín ngưỡng của mình
cũng chưa muộn.
Tại
các vùng tạm chiếm mà sau nầy được gọi là vùng quốc gia, giới phật tử
có nhiều tâm lực hơn để hoạt động phật sự. Mọi người có ý thức rất rõ về
cuộc kháng chiến chống Pháp đang tiếp diễn trên mọi nẻo đường đất nước
và tâm hồn họ nồng nhiệt hướng về cuộc kháng chiến đó. Bằng mọi phương
thế, họ tìm cách liên lạc, gia nhập và ủng hộ phong trào kháng chiến.
Sau khi hồi cư, nhiều thanh niên lại bỏ nhà đi theo tiếng gọi của Tổ
Quốc, tìm lên chiến khu, tìm về miền giải phóng. Những người khác ở lại
vùng Pháp kiểm soát và âm thầm hoạt động cho kháng chiến. Trong một
chương trước ta đã thấy rằng trong giới tăng sĩ cũng có nhiều người bí
mật hoạt động cho kháng chiến, và nhiều vị đã chết dưới mũi súng của
người Pháp hoặc những kẻ làm tay sai cho Pháp.
Những
tang thương do chiến tranh gây nên và nhất là những thủ đoạn tàn ác của
quân đội viễn chinh Pháp đã làm cho người Phật giáo quyết tâm đứng hẳn
về phía kháng chiên dù họ biết rằng có những người trong giới lãnh đạo
kháng chiến không có được con mắt bao dung đối với Phật giáo.
Tuy
nhiên, tại vùng thực dân tạm chiếm, số người làm tay sai cho Pháp trong
việc dò xét và tố cáo đồng bào không phải là ít. Có những kẻ chuyên môn
đưa mật thám Pháp tới các xóm làng hoặc khu phố để nhận diện những
người hoạt động cho kháng chiến. Họ được mật thám Pháp trùm lên đầu một
chiếc bao bố có chừa hai lỗ thủng để nhìn. Những người dân nào bị bao bố
gật đầu đều bị mang về bót. Tất cả những hành động liên lạc, ủng hộ
hoạt động bí mật cho kháng chiến một khi bị khám phá đều đưa người ta
đến tù đày, tra tấn hoặc thủ tiêu. Nhưng tất cả những hình phạt đó không
ngăn được lòng yêu nước. Chính con cháu của những người làm mật thám
cho Pháp cũng hoạt động cho kháng chiến. Những thanh niên này, một khi
bị bắt, được cha mẹ can thiệp với Pháp để thả ra. Để con của mình đừng
hoạt động cho kháng chiến nữa, những người này thường vận động để cho
chúng được đi ra nước ngoài du học.
Như
ta đã thấy ở một chương trước, sau khi hồi cư, đồng bào đi chùa rất
đông. Tại chùa, họ tìm được niềm an ủi sau bao nhiêu biến động đổ vỡ,
sau bao nhiêu điêu linh, tàn pha, tang tóc và chia ly. Sinh hoạt tôn
giáo là một nhu cầu lớn của quần chúng. Chùa là một nơi thích hợp và an
toàn nhất để người ta gặp nhau và cùng nhau cầu nguyện. Các hội Phật
giáo bắt đầu sinh hoạt trở lại. Thực dân Pháp nghĩ rằng thà để cho người
ta bỏ thì giờ vào việc tôn giáo tín ngưỡng còn hơn là để họ có thì giờ
liên lạc và hoạt động kháng chiến. Về phía những người phật tử, không
khí sinh hoạt phật tử là không khí gần gũi nhất với tình tự dân tộc, và
trở về chùa cũng như là trở về với lập trường dân tộc. Đứng về phương
diện tổ chức, cố nhiên các chùa và các hội không có liên hệ gì với kháng
chiến, nhưng đứng về phương diện tình cảm và xu hướng, ai cũng biết
rằng chùa không dính líu mảy may nào với thực dân và với những lực lượng
tay sai của thực dân, trái lại, còn có những liên hệ tình cảm nồng hậu
đối với cuộc kháng chiến của dân tộc. Bằng cớ là sự tham dự với tư cách
cá nhân của những thành phần tăng sĩ và cư sĩ, già cũng như trẻ, trai
cũng như gái, vào cuộc kháng chiến.
Thực
dân Pháp biết rõ điều đó, và những người tay sai của họ cũng biết rõ
điều đó, cho nên chính quyền vùng Pháp kiểm soát luôn luôn gài mật thám
vào các tổ chức Phật giáo để dò xét. Không có tỉnh hội Phật học nào mà
không có ít ra là một nhân viên mật thám xen vào trong ban trị sự. Các
tổ chức Phật giáo, tuy vậy, vẫn từ từ xây dựng được những cơ sở của
mình, vì trên mặt hình thức, lập trường “không chính trị” được họ tôn
trọng một cách tuyệt đói và không bao giời trong một phiên họp của ban
trị sự tỉnh hoặc của tổng trị sự miền mà một vấn đề chính trị được đem
ra thảo luận.
Lập
trường “không chính trị” của các hội Phật giáo lại còn giúp cho người
phật tử Việt Nam thoát được áp lực của chính quyền luôn luôn muốn họ
đừng về phe chống lại kháng chiến và tuyên bố chống lại kháng chiến.
Thực dân Pháp cũng biết rõ điều này. Không kiểm soát được lực lượng phật
tử về mặt tình cảm và xu hướng, họ tìm cách kiểm soát phật tử về mặt tổ
chức. Đạo dụ số 10 do thực dân ép Bảo Đại ký năm 1950 là một trong biện
pháp họ đặt ra để kiểm soát các hội Phật giáo trong nước.
Đạo
dụ số 10 đặt các tổ chức tôn giáo vào thể chế các hiệp hội thông
thường. Điều thứ 7 của Đạo dụ này nói rằng chính quyền “có quyền bác
khước đi không cho lập hội mà không phải nói lý do” và giấp phép lập hội
dù đã được cấp, cũng có thể bãi đi, nếu chính quyền xét hỏi và kiểm
soát cơ sở, hồ sơ và nội tình của các tôn giáo. Cấp lãnh đạo của tôn
giáo, theo đạo luật này, cũng phải được do đại hội đồng bầu cử. Tuy
nhiên các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô không bị đặt vào trong
thể chế các hiệp hội. Điều thứ 44 của đạo dụ nói rằng một “chế độ đặc
biệt cho các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô” sẽ được quy định và
ban hành.
Đạo
dụ nói trên đã kiến tạo nên rất nhiều bất mãn trong giới Phật giáo, Cao
Đài và Hòa Hảo đối với chính quyền Bảo Đại. Người ta thấy rõ dụng ý của
thực dân Pháp và chính quyền thân Pháp: chỉ có thể tin tưởng vào sự
trung thành của giáo dân Cơ Đốc Giáo đối với việc chống Việt Minh mà
không thể tin tưởng vào những tổ chức tôn giáo khác, nhất là Phật giáo.
Dù rằng trong số đồng bào Công giáo vẫn có phần tử hết lòng tham gia
kháng chiến, sự đối xử kỳ thị của chính quyền thân Pháp đã đào sâu thêm
hố chia rẽ vốn đã có sẵn giữa người Phật giáo và người Công giáo: người
phật tử, từ ngày đất nước bị đặt dưói quyền đô hộ của người Pháp, đã
thấy rằng giáo hội Công giáo được người thực dân đặc biệt nâng đỡ và đã
chiếm được địa vị ưu thắng trong xã hội.
Trong
suốt thời gian kháng chiến, nhiều thanh niên bị công an Pháp bắt giữ vì
tội tham dự kháng chiến đã được thả về khi có một linh mục Pháp đứng ra
bảo lãnh. Đã có nhiều bà mẹ vì vậy đã chịu theo đạo Công giáo để có thể
đến nhờ vị linh mục bảo lãnh cho con mình được tự do.
Không
lợi dụng được các đoàn thể Phật giáo để chống lại kháng chiến, thực dân
Pháp và chính quyền Bảo Đại đã âm mưu thành lập những tổ chức Phật giáo
thân chính quyền như tổ chức Phật giáo Thuyền Lữ ở miền Trung và tổ
chức Phật giáo Cổ Sơn Môn ở miền Nam. Những tổ chức này tuy được chính
quyền nâng đỡ vẫn không phát triển được vì không có quần chúng và vì
không có người có thực tài lãnh đạo.
{…}
ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM CHẤP CHÍNH
Chiến
thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng Năm năm 1954 là kết quả của nỗ lực phi
thường của toàn dân Việt Nam, kể cả những người sống trong vùng Pháp
kiểm soát. Chiến thắng này đã đưa tới thỏa hiệp Genève và sự rút lui
khỏi Việt Nam sau này của quân đội viễn chinh Pháp. Nhưng Hiệp định
Genève, kỳ ngày 20 tháng Bảy năm 1954, đã chia cắt đất nước Việt Nam
thành hai, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến.
Tại
hội nghị Genève, phái đoàn Pháp do ông Mendès France đứng đầu đã tranh
luận với phái đoàn Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng điều khiển. Quyền quyết
định, tuy vậy không thuộc vào hai nước Pháp và Việt mà lại thuộc về bốn
cường quốc có mặt trong hội nghị: Hoa Kỳ, Anh Cát Lợi, Liên Xô và Trung
Hoa. Lúc này thế giới đã chia làm hai khối: khối Cộng Sản và khối Tư
Bản, hoặc nói một cách khác: Khối “Xã Hội Chủ Nghĩa” và khối “Dân Chủ Tự
Do”. Giải pháp dùng cho Việt Nam trước đó đã được dùng cho Đức Quốc và
Triều Tiên. Hiệp định Genève quy định thời gian rút quân của hai bên về
phần đất dành cho mình, thời gian tập kết và di cư của những người muốn
chọn lựa miền cư trú, việc phóng thích tù binh và thường dân bị giam giữ
và việc tổ chức Ủy Ban Quốc Tế Giám Sát Đình Chiến.
Trước
ngày ký kết hiệp định Genève, dưới áp lực của người Hoa Kỳ, chính phủ
Pháp và quốc trưởng Bảo Đại đã để cho ông Ngô Đình Diệm thay thế ông Bửu
Lộc ở chức vị thủ tướng chính phủ: Thủ tướng Ngô Đình Diệm chấp chính
ngày 8.7.1954.
Sau
ngày ký kết Hiệp định Genève, với sự yểm trợ của Hoa Kỳ, cùng những
phương tiện vận chuyển của quân đội Pháp, ông đã tổ chức đưa một triệu
dân di cư từ miền Bắc vào miền Nam. Số người Công giáo di cư lên tới hơn
700.000 người. Số còn lại là những người Phật giáo và các tôn giáo khác
Thủ
tướng Ngô Đình Diệm muốn liên hệ trực tiếp với Hoa Kỳ để xây dựng và
bảo vệ miền Nam, cho nên đã không ngần ngại tổ chức truất phế quốc
trưởng Bảo Đại và thoát ly sự kềm kẹp của thực dân Pháp. Ông đã thẳng
tay đàn áp lực lượng Bình Xuyên, Cao Đài và Hòa Hảo khi các lực lượng
này liên hiệp với nhau để đòi hỏi ông cải tổ chính phủ, để thực hiện
“một chính quyền lành mạnh không có tính gia đình trị”. Ngày 26.10.1955,
sau khi tổ chức cuộc trưng cầu dân ý để truất phế Bảo Đại, với tư cách
quốc trưởng, ông đứng lên tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa ở
miền Nam, và đồng thời ban hành một bản Hiến Ước tạm thời. Điều thứ 2
của bản Hiến Ước định rằng “quốc trưởng đồng thời cũng là thủ tướng
chính phủ, lấy danh hiệu là tổng thống Việt Nam Cộng Hòa”. Rồi ông tổ
chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến và “đề nghị” với Quốc Hội soạn thảo một
bản Hiến Pháp căn cứ trên “căn bản Duy Linh” và “đường lối Nhân
Vị”(149). Từ tháng Bảy năm 1954, Hoa Kỳ đã bắt đầu trực tiếp viện trợ
cho Việt Nam, mà không còn qua trung gian người Pháp. Dựa vào sự quyết
tâm ủng hộ miền Nam của Hoa Kỳ và trước sự thất thế của Pháp, ông Diệm
có điều kiện để tỏ ra chống thực dân Pháp. Sự chống đối này không khó
khăn gì và không gặp trở lực nào, nhưng đã đem lại cho chính quyền ông
nhiều cảm tình, vì quần chúng từ lâu đã thù ghét quân đội viễn chinh
Pháp. Từ tháng Chín năm 1954, các cơ sở như Tòa Án Hỗn Hợp Pháp-Việt,
Công an Liên Bang, Viện Phát Hành Đông Dương và Viện Hối Đoái Đông Dương
đều được bãi bỏ. Hiệp định 29.12.1954 công nhận Việt Nam có quyền ấn
định chính sách ngoại thương. Việt Nam nắm lấy quyền quản lý đại học.
Hiệp định ngày ngày 30.3.1956 quy định việc rút hết quân đội viễn chinh
Pháp ra khỏi miền Nam. Đơn vị cuối cùng của đạo quân viễn chinh này rời
khỏi đất nước người Việt vào những ngày cuối thắng Tư năm 1956.
CON ĐƯỜNG ĐỘC LẬP ĐỐI VỚI CÁC THẾ LỰC CHÍNH TRỊ TRANH CHẤP
Ta
biết rằng Đại Hội Phật Giáo Toàn Quốc kỳ II được triệu tập tại Sài Gòn
ngày 1 tháng Tư năm 1956, và sau đó là trụ sở của Tổng Hội được dời từ
chùa Từ Đàm về chùa Ấn Quang. Đại hội này đánh dấu giai đoạn mà Phật
Giáo Việt Nam xác định một con đường độc lập và một lập trường độc lập
với các thế lực chính trị tranh chấp.
Con
đường ấy cũng như lập trường ấy không phải một sớm một chiều mà người
phật tử Việt Nam đã tìm thấy. Trái lại, dó là kết quả của bao nhiều kinh
nghiệm và nhận định đúc kết lại trong hơn 10 năm sống trong hoàn cảnh
chiến tranh và tranh chấp. Như ta đã thấy trong chương trước, tập san
Phật Giáo Việt Nam, cơ quan chính thức của Tổng Hội đã phản chiếu được
khá rõ ràng con đường đó, dù tờ báo nằm trong khuôn khổ của chế độ kiểm
duyệt.
Lập
trường của Phật Giáo Việt Nam lúc ấy có thể được trình bày qua nhận
định của người phật tử thời đại về tương lai của đạo Phật, của dân tộc
và của hòa binh.
Tương
lai của đạo Phật. Thiết tha với nền độc lập quốc gia và khao khát xây
dựng hòa bình, người phật tử Việt Nam cũng đồng thời rất bận tâm về
những vấn đề tương lai của tôn giáo mình. Đứng trước sự đe dọa và sự tàn
ác của quân đội viễn chinh Pháp, người phật tử Việt Nam đã không ngằn
ngại đừng về phía các lực lượng kháng chiến. Những ai không tham dự trực
tiếp hoặc gián tiếp vào kháng chiến thì ít ra cũng đừng về phe trung
lập, nhất định không làm tay sai cho lực lượng chống kháng chiến. Lập
trường dân tộc của họ rất rõ ràng, dù cho trong hàng ngũ kháng chiến họ
đã bị {…} chèn ép và hạn chế nhiều mặt trong sinh hoạt tôn giáo của
mình. Sau khi hiệp định Genève được ký kết, phật tử sống ở hai miền được
gặp gỡ nhau và{…} cuộc hội ngộ đã góp phần đưa người phật tử tới một
nhận định mới. Cùng với sự rút lui của quân đội viễn chinh Pháp ra khỏi
lãnh thổ Việt Nam, cuộc kháng chiến chống Pháp được kết liễu, cuộc vận
động thống nhất đất nước được bắt đầu. Chính từ lúc này người phật tử
Việt Nam bắt đầu thấy mình có thể có một con đường độc lập để phụng sự
cho hòa bình và cho dân tộc. Phật tử miền Bắc ao ước rằng, sau khi tiếp
thu trọn lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 trở đi, sẽ có một đường lối chính trị
cởi mở đối với Phật giáo, sẽ xây dựng miền Bắc cho phồn thịnh để hiệp
thương với miền Nam về vấn đề thống nhất lãnh thổ. Vì niềm hy vọng này
mà các cây trụ lớn nhất của Phật giáo miền Bắc như các thiền sư Tuệ
Tạng, Tố Liên, Trí Hải và Thái Hòa đều ở lại miền Bắc cùng quần chúng
phật tử mà lâu nay họ đã lãnh đạo. So với số người đồng bào Công giáo
của mình, số phật tử di cư vào Nam chỉ bằng một phần sáu, trong đó có
chừng bốn mươi tăng sĩ {…}.
Phật
tử miền Nam, trong lúc đó, cũng ao ước có thể duy trì các cơ sở Phật
giáo đã xây dựng được trong quá khứ, đóng góp vào sự xây dựng một miền
Nam trù phú, có no ấm và tự do, để thực hiện thống nhất với miền Bắc
trong một thế đứng mạnh, có thể bảo đảm được quyền tự do tôn giáo lâu
nay thường bị hạn chế và vi phạm {…}.
Sự
thực xẩy ra là {…} tại miền Nam, mà từ đây được gọi là Việt Nam Cộng
Hòa, tổng thống Ngô Đình Diệm đã dựa trên lực lượng của người Công giáo
để chống Cộng và để xây dựng miền Nam, đặt miền Nam vào thế tiền đồn
chống Cộng theo ước muốn của khối tư bản chống Cộng. Thế đứng của Việt
Nam Cộng Hòa cũng như thế đứng của Nam Hàn hoặc Tây Đức, và sự dựa lưng
vào khối Tư Bản là chuyện đương nhiên. Cả đến việc chủ nghĩa nhân vị duy
linh rút cảm hứng từ giáo lý Ky Tô giáo và việc củng cố các lực lượng
Công giáo trong mục tiêu chống cộng cũng là chuyện đương nhiên, khi
người ta biết tổng thống Ngô Đình Diệm và những người thân tín nhất của
ông cố vấn Ngô Đình Nhu là những người theo Công giáo. Nhưng chế độ miền
Nam còn muốn đi xa hơn thế: chính quyền miền nam đã đè nén Phật giáo để
đưa giáo hội Công giáo lên địa vị độc tôn, đến nỗi những ai muốn có
chân đứng trong chính quyền hoặc trong số những thành phần ưu đãi của xã
hội đều phải theo Công giáo. Điều này ta sẽ thấy rõ trong chương tới.
Sự chèn ép này đã được người phật tử nhận thấy từ những năm đầu của
chính quyền Ngô Đình Diệm. Thiền sư Trí Quang trong tạp chí Phật Giáo
Việt Nam, đã than thở rằng chỉ ở những nước trung lập không liên kết thì
Phật giáo mới được dễ thở, còn ở những nước như Việt Nam thì Phật giáo
“không khỏi có vẻ lúng túng và vật chất(150). Ý của ông là ở miền Bắc
thì đạo Phật bị hạn chế, còn ở miền Nam thì bị người Công giáo đè nén.
Trong
bài Hướng Đi Của Người Phật Tử Việt Nam, Dã Thảo xác định con đường của
phật tử là con đường trung đạo, chú trọng tới sự giác ngộ tự tánh hơn
là sự giác ngộ quyền lợi, đặt niềm tin nơi con người chứ không đặt niềm
tin ở những thế lực ngoài con người(151). Nói như thế, ông đã khước từ
một lượt chủ nghĩa duy vật ở miền Bắc và chủ nghĩa duy thần (hoặc duy
Linh) ở miền Nam.
Ý
thức về tình trạng và vị thế của mình, phật tử ở cả hai miền Nam Bắc đều
nỗ lực để bảo vệ chỗ đứng của mình giữa các gọng kềm ý thức hệ.
Ước
vọng về hòa bình. Mười năm sau chiến tranh đã đem lại bao nhiêu đổ vỡ
tang tóc trên đầu người dân Việt. Nhận thức đó, cũng như bản chất từ bi
sẵn có của đạo Phật đã đưa người phật tử Việt Nam tới thái độ cương
quyết từ khước chiến tranh và bạo động, dù là để đi tới thống nhất đất
nước. Nhận định rằng trong thế tranh chấp của hai khối quốc tế, hai miền
Nam Bắc Việt Nam có thể trở thành tuyến đầu của một cuộc chiến tranh
thử sức của các cường quốc, phật tử Việt Nam ngay từ đầu đã đặt hòa bình
làm mục tiêu lớn nhất của mình.
Hòa
bình, theo họ, không phải chỉ là kết quả của một thế quân bình lực
lượng. Hòa bình chân thực, theo họ phải: 1) phát xuất từ tâm niệm tôn
trọng sự sống; 1) lấy tình thương làm động lực hành động; 3) vượt thắng
tham vọng hận thù trong tự tâm; và 4) không cố chấp cuồng tín ở một ý
thức hệ (152). Hòa bình, theo họ “phải có tính cách thiêng liêng như là
một tôn giáo thứ hai của mình”(153).
Ước
vọng thầm kín của người phật tử miền Nam là gì? Ước vọng ấy là phát
triển cơ sở Phật giáo, đoàn kết thành một lực lượng dân tộc lớn để có
thể đóng góp vào việc xây dựng một miền Nam phồn thịnh, giàu mạnh, có
thể đứng vững vàng, để hiệp thương với miền Bắc mà đi đến sự thực hiện
một nước Việt Nam thống nhất, trung lập, thoát ra ngoài hai khối tranh
chấp lớn và gia nhập vào khối các quốc gia trung lập không liên kết,
trong đó có Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, tóm lại những nước mà trong đó
Phật giáo được tự do phát triển. Ước vọng này hoàn toàn phù hợp với ước
vọng của giới phật tử ở các nước trong đó Phật giáo đã từng là viên đá
nền tảng cho sự lập quốc. Bác sĩ Malalasekera, chủ tịch hội Thế Giới
Phật Giáo Liên Hữu (World Fellowship of Buddhists) trong đại hội đồng
của hội năm 1950 tại Tích Lan, đã tuyên bố như sau: “Các nước Đông
phương chúng ta đã tranh đấu để thoát khỏi ách nô lệ chính trị ngoại
bang. Chúng ta phải ngăn chặn làn sóng duy vật bằng cách phục hưng nên
tôn giáo cổ truyền của chúng ta. Hai ý thức hệ đang tranh chấp nhau trên
thế giới ngày nay, đều được xây dựng trên hận thù. Các nước Phật giáo
có nhiệm vụ tranh đấu để đem lại hòa bình và an lạc tại những địa phương
mà các thế lực khác đã chứng tỏ sự thất bại. Chúng ta phải lấy hòa bình
làm mục tiêu, và đưa nhân loại về với tinh thần bao dung của đức
Phật”(154). Ta có thể cho rằng ước vọng của phật tử Việt Nam hơi xa vời,
nhưng sự thực, đó là ước vọng chân thực nhất của họ.
Để
thực hiện ước vọng này, công việc đầu tiên của họ là xây đắp đạo Phật
cho bền vững. Bài ca dao “tay bưng đĩa muối chấm gừng” của Tâm Kiên, hai
miền Nam Bắc phải thương yêu lẫn nhau, tìm giải pháp hòa bình mà thống
nhất, bởi vì “gà cùng một mẹ” không thể cùng đá đáp lẫn nhau(155).
Lập
trường dân tộc. Hai miền Nam Bắc đều tự cho mình có lập trường dân tộc.
Đối với người phật tử, lập trường dân tộc không thể tách rời khỏi văn
hóa dân tộc. Một chủ nghĩa ngoại lai chủ trương lật ngược hết mọi truyền
thống văn hóa dân tộc không thể là chân dung đích thực cho một lập
trường dân tộc. Khắp nơi, người phật tử nói tới sự liên hệ giữa đạo pháp
và dân tộc, nhu yếu thu góp lại vốn cũ của văn hóa dân tộc để làm nền
tảng cho sự tiếp thu giá trị mới, để cho tinh thần Việt Nam không bao
giờ mất gốc. Tạp chí Phật Giáo Việt Nam thường nhắc đến vai trò xây dựng
văn hóa dân tộc từ các thời đại Đinh, Lê, Lý và Trần. Tạp chí này cũng
nhấn mạnh đến thái độ cởi mở cần có của các đoàn thể tôn giáo và văn hóa
trong nước để có thể dung hợp nhau mà xây dựng đất nước.
Tại
miền Bắc {…} phật tử Việt Nam đã làm hết sức mình, nhưng đã không đạt
được những thành tích nào đáng kể. Trái lại cơ sở của Phật giáo càng
ngày càng bị tiêu mòn. Tại miền Nam, tuy có sự chèn ép của chính quyền,
phật tử Việt Nam đã thực hiện được nhiều sự nghiệp đáng kể. Đó cũng là
vì miền Nam thuộc khối Tư Bản tự do, biên giới cởi mở, sự đè nén và đàn
áp không thể thực hiện công khai trước mắt những người quan sát viên
quốc tế.
Ta
sẽ lật tới một trang sử có thể gọi là kỳ diệu nhất của Phật Giáo Việt
Nam: Cuộc Vận Động Bất Bạo Động để lật đổ chính quyền độc tài của ông
Ngô Đình Diệm.
--------------------------------------------------------------------------------
(149) Thông điệp của tổng thống Ngô Đình Diệm gửi Quốc Hội ngày 17.4.1956
(150)
“Phật giáo chưa có thời đại nào sống trong hòan cảnh phức tạp như ngày
nay. Cho dầu Phật giáo không tự động mà cũng không ai có thể dùng Phật
giáo và lực lượng chiến tranh lạnh hay chiến tranh nóng, nhưng do bản
chất hòa bình thực sự mà trong thế giới ngày nay, ở các quốc gia thuộc
khối trung lập thì Phật giáo có vẻ đắc địa, nhưng ỏ những xứ như nước
chúng ta thì không khỏi có vẻ lúng túng và vật chất” (Trí Quang: Tư
Tưởng Hệ Phật Giáo Việt Nam số 1, năm Bính thân, 1956).
(151) Phật Giáo Việt Nam số 1,năm Bính thân, 1956)
(152) da Và nền Hòa Bình Thế Giới. Phật Giáo Việt Nam số 28, tháng 4, năm Kỷ hợi, 1959.
(153) Bài báo vừa dẫn.
(154) Hé lè ne Tournaise:Livre Jaune Du Việt nam. Perrin, 1965, trang 283
(155) Phật Giáo Việt Nam số 2, năm Bính thân, 1956. Đã được trích dẫn trong chương trước.