Chương XXIX: Công cuộc chấn hưng ở Bắc Kỳ
BẮC KỲPHẬT GIÁO HỘI
Bắc
kỳ Phật Giáo Hội được thành lập năm 1934. Tuy thành lập muộn hơn các
hội ở Nam và Trung, Bắc kỳ Phật Giáo Hội phát triển rất chóng. Chỉ trong
vòng một năm mà các chi hội đã được thành lập khắp nơi trên đất Bắc.
Sau
khi thấy ở Nam và Trung làm được việc, các thiền sư Trí Hải, Tâm Ứng và
Tâm Bảo từ Hà Đông lên Hà Nội vận động thành lập một hội Phật giáo ở
đất Bắc. Cùng với nhà văn Sở Cuồng Lê Dư lúc ấy đang làm quản lý cho
chùa Quán Sứ, ba vị bàn luận việc triệu tập một buổi họp tại đây để đặt
nền tảng cho việc lập hội. Các ông Nguyễn Hữu Kha, Nguyễn Năng Quốc,
Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Cung Đình Bính, Trần Văn Giáp, Văn Quang Thùy,
Nguyễn Can Mộng, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Tố, Dương Bá Trạc, Nguyễn Văn
Ngọc, Nguyễn Văn Vĩnh v.v… đều được mời tới buổi họp này. Tất cả đều
đồng ý thành lập một tổ chức lấy lấy tên là Bắc kỳ Phật Giáo Hội và
thành lập một ban Quản Trị Tạm Thời để thảo bản điều lệ và quy tắc của
hội, đồng thời để vận động giấy phép cho hội. Buổi họp này được tổ chức
ngày 6.1.1934.
Ngày
18.11.1934, một đại hội đồng được triệu tập tại chùa Quán Sứ để bầu ban
Quản Trị Chính Thức. Tất cả những vị đã tham dự buổi họp đầu tiên đều
trở thành hội viên sáng lập của hội. Ban Quản Trị Chính Thức gồm có
Nguyễn Năng Quốc, hội trưởng, Nguyễn Văn Ngọc và Nguyễn Quốc Thanh, phó
hội trưởng, Lê Dư quản lý, Phạm Mạnh Xứng (tức Đông Phố), thủ quỹ, Trần
Văn Phúc, thư ký, Văn Quang Thùy và Nguyễn Văn Minh, phó thư ký, Lê Văn
Phúc, Cung Đình Bính, Trần Văn Giác và Trần Văn Giáp, giám thị.
Trong
suốt một buổi họp ngày 5.12.1934, ông Nguyễn Năng Quốc đề nghị mời hội
viên thống sứ Bắc Kỳ là Auguste Tholance làm hội trưởng danh dự của hội
này, như Hội An Nam Phật Học đã mời vua Bảo Đại làm hội trưởng danh dự
của hội này. Các nhà học giả có mặt lại đề nghị mời ông George Coedès,
giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ ( Ecole Francaise d’Extrême Orient) làm
hội viên danh dự. Mười ngày sau đó ban quản trị duyệt y bản nội quy của
hội và đồng ý thỉnh cầu thiền sư Thanh Hanh lên làm thiền gia pháp chủ,
các ban sau đây được thiết lập để tiến hành công việc của hội:
1. Ban Chứng minh Đạo Sư I: Ban này thay mặt thiền gia pháp chủ để chứng minh các buổi lễ.
2. Ban Chứng Minh Đạo Sư II: Ban này lo việc diễn giảng, giảng kinh, kiểm duyệt kinh điển sách báo Phật giáo.
3. Ban Cố Vấn thực thụ.
4. Ban Giáo Sư dạy tăng ni tại trường Phật học của hội,
5. Ban Giám Viện và Tri Tạng
6. Ban Duy Na
7. Ban Thư Ký phiên dịch các bài giảng của chư tăng từ chữ Nôm ra chữ quốc ngư.õ
8. Ban Đương Gia, lo về việc chi tiêu.
9. Ban Ứng Cúng Trợ Niệm.
10. Ban Hộ Giảng Sách Kinh cho Thiện Tín.
THIỀN SƯ THANH HANH
Ngày
23.12.1934, hội tổ chức đại lễ suy tôn thiền sư Thanh Hanh làm thiền
gia pháp chủ. Lễ này có sự tham dự của tất cả các sơn môn lớn ở Bắc Kỳ.
Nhiều viên chức của Nam Triều và Bảo Hộ tới dự. Trong dịp này Hội Bắc Kỳ
Phật Giáo làm lễ cúng Phật cuốn kinh Thiện Sinh mới được hội dịch và ấn
hành. Sau đây là vài đoạn trích trong các bài diễn văn suy tôn pháp
chủ:
“Đạo
Phật đã truyền sang nước ta từ đời Hán Đường, rồi trải qua những triều
như Đinh, Lê, Lý, Trần. Lê đến nay, kể có ngót hai nghìn năm. Biết bao
nhiêu những vị cao tăng đã xuất hiện. Xem trong lịch sử nước nhà, đời
Lý-Trần là các đời rất sùng đạo Phật mà người mình thuở ấy không có điều
gì tỏ ra là hèn yếu cả. Lại xem như Nhật Bản bây giờ, không mấy người
mà không theo đạo Phật, thế mà khí thế của họ mạnh mẽ biết dường nào!
Xem vậy thì biết đạo Phật đối với cuộc nhân sinh rất là có lợi…”
“Sư
tổ nhận ngôi Pháp Chủ, chứng lễ suy tôn, cho chư tăng có chỗ cậy trông,
để đồng hội có nơi nương tựa, mang chính giáo thu về một mối, mở từ tâm
khắp cả thập phương, rừng thiền cây cả bóng cao, chồi Hồng Lạc càng
thêm tươi tốt…”
Trong
lời đáp từ, thiền sư Thanh Hanh đã kêu gọi tăng sĩ theo nguyên tắc lục
hòa của Phật dạy mà “bỏ hết mọi sự hiềm khích của tông nọ phái kia” để
hết lòng chấn hưng Phật giáo.
Buổi lễ chấm dứt bằng bài giảng Thập Nhị Nhân Duyên của ông Trần Trọng Kim.
Buổi
lễ suy tôn pháp chủ ngày 23.12.1934 đánh dấu chính thức sự phát khởi
phong trào vận động chấn hưng Phật giáo ở đất Bắc. Đây là một cuộc lễ tổ
chức rất long trọng và quy tụ được đại diện của mọi tổ đình và tông
phái Phật giáo. Sự có mặt của các quan chức lớn và của các nhà học giả
cựu học cũng như tân học tại buổi lễ cũng đã góp phần gây ấn tượng sâu
đậm trong quần chúng.
Một điều ta cần chú ý là sự có mặt của nhiều thành phần nhà văn và học giả trong hội Bắc Kỳ Phật Giáo.
Trong
ban Khảo Cứu Phật Học thành lập 16.1. 1935 mà trưởng ban là Trần Trọng
Kim, ta thấy các tên tuổi sau đây: Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Văn Giáp, Lê
Dư, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Can Mộng, Dương Bá Trạc, Bùi Kỷ, Nguyễn
Trọng Thuật, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Văn Tố, Lê Toại,
Nguyễn Đỗ Mục, Trần Lê Nhân, Vũ Như Trác, và Nguyễn Huy Xương. Ông
Nguyễn Trọng Thuật đã đồng ý ở lại Hà Nội để làm việc thường trực cho
ban này với tư cách là thư ký của ban. Hội trả lương cho ông hai chục
đồng mỗi tháng!
Hà
Nội thời ấy là thủ đô văn hóa của đất nước. Sự tham dự của nhà văn và
các học giả vào hội Bắc Kỳ Phật Giáo không phải làmột chuyện tình cờ.
Các nhà làm văn hóa thường cảm thấy một cách tự nhiên rằng đạo Phật là
một viên đá nền tảng của nền văn hóa Việt Nam, cho nên sự tham dự của họ
vào công trình chấn hưng Phật giáo là một cái gì cũng tự nhiên như đói
thì ăn, khát thì uống. Xây dựng nền quốc học là hoài bão của rất nhiều
nhà trí thức Việt Nam thời ấy, cựu học cũng như tân học, cho nên quy tụ
của học dưới mái chùa chỉ là một sự việc quen thuộc và rất tự nhiên.
Đứng
về phương diện văn hóa dân tộc, hội Bắc Kỳ Phật Giáo và báo Đuốc Tuệ đã
đóng góp được nhiều hơn các hội khác ở Nam và Trung. Đây chính là nhờ
công trình quy tụ của những thành phần nói trên dưới mái chùa Quán Sứ
vậy.
Thiền
sư Thanh Hanh tên đời là Nguyễn Thanh Đàm sinh năm 1840 ở Hà Nội. Ông
xuất gia hòi còn mười tuổi tại chùa Hòa Giai và học với thiền sư trú trì
họ Nguyễn ở chùa ấy. Năm mười tám tuổi, ông được gửi về ở chùa Vĩnh
Nghiêm để tiếp tục học Phật dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Tâm Viên. Ông
tu học rất tinh tiến và trở thành một nhân vật rường cột của tổ đình
này.
Sau
khi sư huynh ông là thiền sư Thanh Tuyền viên tịch, ông đảm nhiệm trách
vụ trú trì Vĩnh Nghiêm. Có thể nói Vĩnh Nghiêm là tổ đình lớn nhất ở Hà
Nội. Mỗi năm, khoảng hai trăm tăng sĩ quy tụ về đây để kết hạ và học
hỏi giáo lý. Từ lúc trở thành vị lãnh tụ tối cao của tổ đình Vĩnh
Nghiêm, thiền sư Thanh Hanh thường được gọi là sư tổ Vĩnh Nghiêm.
Chùa
Vĩnh Nghiêm được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ 11 đời Lý Thái Tổ. Trong
hai thế kỷ thứ mười ba và mưòi bốn, chùa là một trong những cơ sở hành
đạo lớn nhất tại kinh sư và Giáo Hội Trúc Lâm đã đặt trụ sở tại đây. Vào
giữa thế kỷ thứ mười lăm, chùa được thiền sư Chí Tín trùng tu. Dưới
triều Lê Hiển Tông, vì loạn ly, chùa bị xiêu đổ; sau đó có Ni Sư Diệu
Minh đứng ra trùng tu lại.
Thiền
sư Thanh Hanh làm thiền gia pháp chủ được có hai năm thì tịch. Ông mất
ngày 11.1.1936 tại chùa Vĩnh Nghiêm, thọ chín mươi sáu tuổi.
Sơn Môn Bắc Kỳ suy tôn thiền sư Thanh Tường chùa Võ Thạch Hà Nội lên thay thế.
CHƯƠNG TRÌNH PHẬT HỌC
Trong
thời gian làm thiền gia pháp chủ của thiền sư Thanh Hanh, hội Bắc Kỳ
Phật Giáo đã mở được trường tăng học tại Quán Sứ và một trường khác tại
chùa Bồ Đề.
Những
trường Phật học này dành cho các học tăng đã có căn bản về Phật học và
có thể xem như những lớp trung học Phật giáo. Chùa Bồ Đề sau này được
lấy làm cơ sở cho một trường ni học trong khi ở Quán Sứ cấp trung học
tăng sinh vẫn tiếp tục được duy trì; Một lớp đại học được mở tại chùa
Bằng Sở(*) ở ấp Thái Hà, Hà Đông, và hai lớp tiểu học được duy trì tại
chùa Cao Phong ở Phúc Yên và chùa Côn Sơn ở Hải Dương. Phật học đường
Bằng Sở được chính thức khai giảng năm 1936, do thiền sư Trung Thứ đứng
làm đốc giáo. Công trình Phật học được áp dụng tại các trường tăng học ở
Bắc do hội Bắc Kỳ Phật Giáo chủ trì như sau:
Tiểu học (bốn năm):
Năm thứ nhất: - Luật Sa Di, Phật Tổ Tam Kinh - Phật Học Khóa Bản Tam Tự Kinh - Quốc Ngữ - Toán.
Năm thứ hai: - Địa Tạng - Thủy Sám - Báo Ân - Thích Giáo Tam Tự Kinh - Hộ Pháp Lục - Quốc Ngữ - Toán.
Năm thứ ba: - Hiền Ngu - Mục Liên - Di Đà Sớ Sao - Cảnh Sách Lục - Tịnh Độ Hoặc Vấn Lục - Trúc Song Lục - Quốc Ngữ - Toán.
Năm thứ tư: - Di Đà Đại Bản - Lương Hoàng Sám - Trường A Hàm - Bỏa Huấn Lục - Quốc Ngữ - Toán.
Trung học (ba năm):
Năm
thứ nhất: - Pháp Hoa - Tâm Kinh Chú Giáo - Trung A Hàm - Luật Tứ Phần -
Lục Truy Môn - Luật Khóa Hư - Luận Hiển Thức - Quốc Ngữ - Toán.
Năm
thứ hai: - Lăng Nghiêm Bạch Văn - Lăng Già Ký - Pháp Hoa Tri Âm - Thập
Lục Quán Kinh - Luật Chỉ Nam - Lục Quy Nguyên - Luận Trang Nghiêm - Quốc
Ngữ - Toán - Luận Ngữ.
Năm
thứ ba: - Duy Ma Cật - Thủ Lăng Nghiêm - Luật Trùng Trị - Luật Trung
Phong - Lục Lục Đạo - Lục Phụ Giáo Biên - Quốc Ngữ - Toán - Việt Sử -
Trung Học - Đại Học - Trung Dung.
Đại học (ba năm):
Năm
thứ nhất: - Bát Nhã Phóng Quang - Pháp Hoa Huyền Nghĩa - Di Đà Viên
Thông - Luật Huyền Ty - Lục Pháp Uyển Châu Lâm - Thiền Uyển Tập Anh -
Trúc Lâm Tam Tổ - Quốc Ngữ Diễn Văn - Đông Tây triết học - Kinh Thư -
Kinh Lễ.
Năm
thứ hai: - Niết Bàn chính văn - Pháp Hoa Ôn Lăng - Phạm Võng Lược Sớ
Luật - Đại Thừa Khởi Tín - Đại Trí Độ Luận - Vạn Thiện Đồng Quy - Nhân
Quả - Quốc Ngữ - Đông Tây Triết Học - Kinh Thư - Kinh Lễ.
Năm
thứ ba: - Viên Giác Kinh - Bảo Tích Kinh - Phạm Võng Lược Sớ Luật -
Phạm Võng Nghĩa Sớ - Tông Cảnh Lục - Vạn Thiện Quy Tâm - Đại Thừa Trang
Nghiêm Kinh - Luận Quốc Ngữ - Đông Tây Triết Học - Bắc Sử Quan Hành.
Sau
khi tốt nghiệp đại học, học tăng có thể ở lại nghiên cứu thêm năm năm.
Công trình này gọi là chương trình Bác Học Cao Đẳng gồm có những tác
phẩm như sau:
Hoa
Nghiêm Sớ, Niết Bàn Sớ, Lăng Nghiêm Tông Thông, Phật Tổ Thống Kỷ, Duy
Thức Thuật Ksy, Nhân Minh Đại Sớ, Đại Bát Nhã Kinh, Tam Luận Sớ, Đại
Thừa Nhất Thiết Luận, Đại Thừa Chỉ Quán, Đại Thừa Chỉ Quán Thiên Thai,
Chỉ Nguyệt Lục, Duy Tôn Luận Sớ, Thành Duy Thức Luận, Đại Thừa Trang
Nghiêm Mật Kinh, Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu, Kim Cương Lược Sớ
và Duy Thức Luận.
Chương
trình nói trên đòi hỏi học tăng muốn vào cấp tiểu học phải từ mười ba
tới hai mươi tuổi, thuộc lòng hai khóa tụng của thiền môn và các văn sám
nguyện khác. Những học tăng nào muốn thi vào trung học phải nằm trong
hạng tuổi từ 20 tới 30. Còn về đại học thì không có hạn tuổi tác.
Ta
nhận thấy chương trình có chú trọng đến những tác phẩm của Phật giáo
Việt Nam như Thiền Uyển Tập Anh, Trúc Lâm Tam Tổ Ngữ Lục và Khóa Hư Lục.
Chương
trình cũng chú trọng tới triết học Đông phương và Tây phương và các thư
tịch Nho giáo. Điều làm ta ngạc nhiên là tác phẩm Tu Tập Chỉ Quán Tọa
Thiền Pháp Yếu không được dạy ngay trong những năm đầu của cấp tiểu học
mà lại để vào chương trình cao đẳng bác học. Đây là một tác phẩm dạy về
thiền tọa cho người mới tu rất cần cho các lớp tiểu học.
NGUYỄN TRỌNG THUẬT VÀ CHỦ TRƯƠNG “NHÂN GIAN PHẬT GIÁO”
Tập
Kỷ Yếu số 1 của hội Bắc Kỳ Phật Giáo được xuất bản vào tháng Năm 1935.
Sau khi ra số 2 và 3, Tập Kỷ Yếu đình bản, nhường chỗ cho tạp chí Đuốc
Tuệ. Tạp chí này ra đời vào đầu tháng Chạp năm 1935, do ông Nguyễn Năng
Quốc làm chủ nhiệm. Đứng tên chủ bút là thiền sư Trung Thứ trú trì chùa
Bằng Sở. Phó chủ bút là thiền sư Trung Thứ trú trì chùa Bằng Sở. Phó chủ
bút là thiền sư Doãn Hài (Dương Văn Hiển), trú trì chùa Tế Cát. Quản lý
là ông Cung Đình Bính. Báo quán đặt tại chùa Quán Sứ, đường Richard Hà
Nội.
Hai
cây bút bền bỉ nhất của tạp chí Đuốc Tuệ là Đồ Nam Tử và Thiều Chửu.
Những cây bút khác là Thái Hòa, Thanh Đặc, Tố Liên, Đỗ Trần Bảo, Phạm
Văn Côn, Đinh Gia Thuyết, Đỗ Đình Nghiêm, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ v.v…
Trong
những số đầu, Đuốc Tuệ đăng nhiều bài có tính cách bênh vực cho phong
trào chấn hưng Phật giáo chủ trương rằng đạo Phật là một đạo vì cuộc đời
mà có chứ không phải trốn cuộc đời. Ngay số đầu, Đuốc Tuệ đăng bài Đạo
Phật Có Quan Thiết Với Sự Sống Của Đời Người của Phan Đình Hòe, trưởng
ban đại ký chi hội Nam Định. Đuốc Tuệ số 2 (ngày 17.12. 1935) nêu rõ xã
hội tính cần thiết của tôn giáo, tính cách Á đông và dân tộc của Phật
giáo và tinh thần tự do, bình đẳng và hiếu hòa của đạo Phật. Đồ Nam Tử
Những Trọng Thuật để cụ thể hóa tinh thần “đạo Phật trong cuộc đời”, đề
nghị con nhà Phật từ nay trở đi nên làm lễ kết hôn trước cửa Phật. Một
truyền thống từ trước đến nay chưa có ở Việt Nam. Ông đề nghị một nghi
thức kết hôn gồm có tấu văn và huấn từ của một vị tăng sĩ làm giới sư
hướng đạo cuộc lễ. Theo ông, trước Phật đài, giới sư phải nhắc nhở cặp
tân hôn phải nhớ đạo lý tứ ân của Phật dạy màđền đáp ơn cha mẹ, ơn đất
nước, ơn sư trưởng và ơn chúng sinh. Kinh Thiện Sinh là cơ bản cho sự
xây dựng gia đình, và lễ kết hôn trước cửa Phật được tiêu biểu hóa bằng
hai câu đối:
“Hiếu mẹ cha, ân đất nước, đạo Tứ ân đã dạy bảo đủ luân thường;
Chồng kính ai, vợ thuận tùng, lễ Lục Phương càng ân cần về gia đạo.”
Chủ
ý “đem đạo Phật vào cuộc sống hàng ngày” này được thể hiện trong những
loạt bài viết dưới tiêu đề Nhân Gian Phật Giáo trong đó tác giả đề cập
đến nhiều khía cạnh của đời sống nông thôn, cải tạo và hướng dẫn bằng
tinh thần đạo Phật.
Ông
Nguyễn Trọng Thuật đã viết một truyện dài rất có ý vị đăng nhiều kỳ
trong Đuốc Tuệ. Đó là truyện Cô Con Gái Phật Hái Dâu, kể lại cuộc đời Ỷ
Lan Phu Nhân, một cô gái thôn quê làm nghề hái dâu ở làng Thổ Lỗi (sau
này là làng Siêu Loại) được vua Lý Thánh Tông, đã đem tinh thần đạo Phật
mà dựng nước và cải tổ những bất công ở xã hội nông thôn. Đây là một
truyện dài viết rất có nghệ thuật, hơn hẳn tác phẩm Quả Dưa Đỏ của cùng
một tác giả(76).
Đuốc
Tuệ cũng đăng thiên biên khảo Việt Nam Thiền Tông Thế Hệ của ông trong
nhiều kỳ. Đây là một tác phẩm nói về hành trạng, thi văn và tư tưởng của
các thiền sư Việt Nam các phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Ông
Nguyễn Trọng Thuật đã căn cứ trên sách Thiền Uyển Tập Anh để viết thiên
biên khảo này. Ngoài tạp chí Đuốc Tuệ, Nguyễn Trọng Thuật còn viết về đề
tài Phật giáo trong tạp chí Nam Phong. Bài Phật Giáo Tân Luận của ông
được đăng trong cá số 208-209 trang 217-221 và 267-278 (năm 1934 và bài
Bình Luận về Sách “Khóa Hư” của ông được đăng trong số 189 trang 315-324
(năm 1933). Trong Nam Phong, ông có viết nhiều đề tài quan trọng như
Điều Đình Cái Án Quốc Học (số 167, năm 1931), Vấn Đề Cải Tạo Xã Hội (số
195, năm 1934) v.v…
CƯ SĨ THIỀU CHỬU
Bên
cạnh Nguyễn Trọng Thuật, ta thấy có một cây bút rất vững chải và sâu
sắc, đó là Thiều Chửu. Thiều Chửu tên đời là Nguyễn Hữu Kha, tên tự là
Lạc Khổ. Ông sống một cuộc đời rất giản dị, ăn chay trường mà mỗi ngày
chỉ ăn một bữa. Y phục của ông đơn giản như y phục của một người dân
quê. Thì giờ của ông, ông để dịch kinh, viết sách, tu học và chăm nom
các trẻ mồ côi. Căn bản Hán văn của ông rất vững chãi. Ông là tác giả bộ
Hán Việt Tự Điển được sử dụng rộng rãi trong nước. Bộ tự điển này, theo
ông, đã được soạn để làm một phương tiện cho người học Phật. Đuốc tuệ
đăng bản dịch Khóa Hư Lục của ông trong nhiều kỳ. Văn Khóa Hư là văn
biền ngẫu rất khó dịch. Nhưng bản dịch của ông là một bản dịch rất đặc
sắc, đọc rất êm tai, nghĩa lý khá rõ ràng. Ông lại chú giải mỗi khi có
danh từ khó và thỉnh thoảng lại thêm vào những lời “bàn góp”. Theo ý
ông, tác giả Khóa Hư Lục là Trần Nhân Tông chứ không phải Trần Thái
Tông. Thực ra Khóa Hư Lục là của Trân Thái Tông(77).
Ta hãy đọc một đoạn văn dịch của ông, trích trong bài Phổ Thuyết Sắc Thân:
“Cầu
cạnh đầu ruồi tai ếch, cam tâm danh lợi buộc ràng; ban ngày hết sức cầu
may, buổi tối hóa ra tưởng mộng. Chất chứa bốn nghiệp như giếng, biết
đâu mái tóc tựa sương. Một mai mắc bệnh nặng nề, trăm năm đều về mộng
lớn. Tim gan đau xót tựa nỗi oán thù, da thịt hao mòn khác chi ma đói.
Còn muốn cầu thân thọ mệnh nào hay đâu hại vật hại sinh! Những mong một
kiếp tựa thông già, chẳng hiểu tứ chi như nhà dột”.
Thiều
Chửu còn là tác giả các sách Sự Tích Phật Tổ Diễn Ca (1935), Cải Tà Quy
Chính, Bốn Mươi Tám Phép Niệm Phật v à dịch giả sách Vì Sao Tôn Tin
Phật Giáo của B. Brongthon và các kinh như Lễ Sáu Phương, Kinh Di Giáo,
Kinh Di Đà và Kinh Tứ Thập Nhị Chương.
CÔNG TÁC DUY TRÌ VÀ PHỔ BIẾN NỀN VĂN HỌC PHẬT GIÁO CỔ ĐIỂN
Ngoài
các văn bản Khóa Hư, Thiền Uyển Tập Anh, Đuốc Tuệ còn thường xuyên đăng
những bài văn Nôm do các thiền sư Việt Nam sáng tác hay phógn tác trên
các nguyên bản Hán Văn. Các thiền sư Thái Hòa, Thiền Phố thường làm công
việc ấy. Phần lớn những tác phẩm đều được phiên âm từ mục Hành Trì Tập
Yếu trong sách Chư Kinh Nhật Tụng của chùa Vĩnh Khánh (huyện Chi Linh),
hoặc của chùa Yên Minh (huyện Nam Sách) tỉnh Hải Dương khắc bản. Đó là
những stấc phẩm như Thiền Tịch Phú (Chân Nguyên), Sự lý Dung Thông
(Hương Hải), Thỉnh Âm Hồn Văn (Đắc Nhất), Ngũ Giới Diễn Ca (Như Như)
v.v… Những công việc này đều được hướng dẫn bởi ý niệm bảo tồn và phát
huy gia tài văn hóa Phật giáo và dân tộc.
Từ
năm 1940 trở đi hội Bắc Kỳ Phật Giáo lại khởi công khắc bản ấn hành
những thư tịch Phật giáo Việt Nam bằng chữ Hán văn. Bộ Việt Nam Phật
Điển Tùng San đã được hội khăc sbản và ấn hành vơi sự bảo trợ của trường
Viễn Đông Bác Cổ.
Năm 1943, những tác phẩm sau đây đã được ấn hành:
Chư Kinh Nhật Tụng (mọt bộ hai tập)
Thụ Giới Như Phạm (một bộ hai tập)
Thiền Uyển Kế Đăng Lục (một tập)
Pháp Hoa Đề Cương (một tập)
Bát Nhã Trực Giải (một tập)
Khóa Hư Lục (một tập)
Trần Triều Dật Tồn Điển Lục (một tập)
Lễ Tụng Hành Trì Tập Yếu (một tập)
Những
tác phẩm như Thiền Uyển Tập Anh, Thánh Đăng Lục, Trần Triều Thiền Tông
Bản Hạnh chưa kịp ấn hành thì thời thế biến chuyển và công việc bị đình
trệ.
Thiền
Uyển Kế Đăng Lục là tác phẩm của thiền sư Như Sơn, đã từng được thiền
sư Phúc Điền bổ túc phần cuối. Ông đem sách này để sau các sách Thượng
Sĩ Ngữ Lục cùng Tam Tổ Thực Lục và làm thành “quyển hạ” của bộ Đại Nam
Truyền Đăng Tập Lục do ông chủ trương khắc bản. “Quyển thượng” của bộ
này là Thiền Uyển Tập Anh. Điều này có nói rõ trong bài tựa trùng khắc.
Hội Bắc Kỳ Phật Giáo in lại bài tựa này ở các tác phẩm Thiền Uyển Kế
Đăng Lục.
Pháp
Hoa Đề Cương và Bát Nhã Trực Giải là hai tác phẩm của thiền sư Thanh
Đàm đầu thế kỷ thứ mười chín. Sách Khóa Hư mà hội Bắc Kỳ Phật Giáo khắc
in đã được căn cứ trên bản của chàu Quất Tụ năm 1850. Thiều Chửu, trong
Đuốc Tuệ, chỉ mới dịch được một phần tác phẩm. Nhiều mục như Phổ Thuyết
hướng Thượng Nhất Lộ, Ngữ Lục Đáp Môn Hạ, Niêm Tụng kệ v.v… chưa được
ông dịch đến. Trần Triều Dật Tồn Điển Lục gồm có: Tuệ Trung Thượng Sĩ
Ngữ Lục và Tam Tổ Thực Lục.
Sự
ra đời của bộ Việt Nam Phật Điển Tùng San là một trong những công trình
lớn nhất của hội Bắc Kỳ Phật Giáo. Nhiều thư viện trong nước và ngoài
nước nhờ sự có mặt của bộ này mà có được một số tác phẩm xưa của Phật
giáo Việt Nam. Có một điều lạ là tại thư viện trường Viễn Đông Bác Cổ
Paris không thấy có bộ này.
Nhờ
có Hội Bắc Kỳ Phật Giáo mà nhiều học giả tân cũng như cựu đã có cơ hội
nghiên cứu Phật học. Những người có cựu học, ngoài các kinh bản cổ điển
khó đọc còn được đọc các tân thư về Phật giáo như Hải Triều Âm Văn Khố,
các tác phẩm của Thái Hư, và các bài vở của những học giả như Lương Khải
Siêu, Khang Hữu Vi, Châu Tự Ca, Âu Dương Kiến Vô và Dương Nhân Sơn v.v…
Những tân thư này đọc dễ hiểu hơn cổ văn, do đó sự học Phật của giới
cựu học cũng trở nên dễ dàng hơn. Những nhân vật như Phan đình Hòe (tổng
đốc trí sĩ, hội trưởng chi hội Phật giáo Nam Định), Nguyễn Huy Xương
(bố chánh, Kiến An), Đỗ Đình Nghiêm (đốc học Bắc Ninh) đều đã thường
viết bài và đứng lên thuyết pháp tại chùa trụ sở của các chi hội. Ông
Phan Đình Hòe chẳng hạn, đã thuyết giảng về “sự quan thiết giữa đạo Phật
với sự sống” tại chùa Cả ở Nam Định ngày 13.8.1935 ngay khi hội còn
chưa xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Có thể nói rằng các ông Bùi Kỷ, Trần
Trọng Kim và Trần Văn Giáp đã nghiên cứu Phật giáo sử, đã viết nhiều bài
trong tập san trường Viễn Đông Bác Cổ (BEFEO). Thiên khải cứu Lw
Bouddhisme En Annam Des Origines Au 13è Sièle của ông có thể gọi là công
trình đầu tiên về Phật sử Việt Nam công bố trong giới học giả quốc
tế((78).
LỆ THẦN TRẦN TRỌNG KIM
Ông
Trần Trọng Kim, trưởng ban Nghiên Cứu Phật Học của Hội Bắc Kỳ Phật
Giáo, đã viết nhiều bài diễn thuyết rất vững chãi về Phật học. Bài diễn
thuyết đầu tiên của ông tại chùa Quán Sứ ngày 17.3.1935, có đầu đề là
“Phật giáo đối với cuộc nhân sinh” là một bài giới thiệu đại cương về
Giáo lý đạo Phật. Đây không phải chỉ là một bài diễn thuyết của một
người học giả, mà là một bài giảng diễn của một người đứng trên lập
trường chấn hưng Phật giáo. Ông nhấn mạnh đến tính chất tự cường tự lực
cần có của những người thực sự muốn tu hành theo đạo Phật. Ông nói:
“Theo
đạo Phật là tự cái tâm mình phấn chấn lên mà làm điều lành điều phải,
tự mình có sức mạnh để phá cho hết những cái nó trói buộc mình vào chỗ
khổ. Bởi thế người thật bụng theo đạo Phật là người có cái tâm lực tất
cương kiện lòng dạ vững bền như gang sắt. Cũng vì thế mà đạo Phật thường
hay dùng bốn chữ “dũng mãnh tinh tiến”. Dũng mãnh tinh tiến để giải
thoát, dũng mãnh tinh tiến để cứu người, dũng mãnh tinh tiến để phá cái
mê, trừ cái hại. Người ta đã có cái đức dũng mãnh tinh tiến thì không
bao giờ chịu đứng lùi lại mà chịu kém người, không bao giời lười biếng
trễ nãi, không bao giờ ham mê vật dục, có thể giam hãm mình vào những
nơi tối tăm dơ bẩn”.
Sau khi nói đến đại nguyện của đức Quan Thế Âm ông tiếp:
“Đạo
Phật về đường tinh thần thì mạnh mẽ như thế, về đường từ bi bác ái thì
rộng rãi bao la như thế. Giá ta hiểu được rõ và biết đúng ra thì rất có
lợi cho sự tiến thủ của người đời”.
Theo ông, đó là lý do chính khiến ông và các đồng bạn lập ra hội Bắc Kỳ Phật Giáo. Ông lại nói:
“Đạo
Phật là một tông giáo của người mình xưa nay vẫn tin theo rất nhiều, là
bởi đạo ấy có cái hình thức dễ khiến cho người ta tin được. Còn về đạo
lý của nhà Phật, thì có nhiều ý nghĩa sâu xa, hiện những nhà học thức
trong thiên hạ cũng đã kê cứu tường tận đều nhận là một đạo rất hay. Vậy
một tông giáo có phần rất cao thâm, rất phổ thông mà lại thấm thía vào
tủy não người mình đã bao nhiêu đời nay, người trong nước hầu khắp từ
Nam chí Bắc ai ai cũng tín ngưỡng sùng bái thì tất là có ảnh hưởng đến
sự làm ăn hàng ngày của ta. Một cái đạo có thế lực về đường tinh thần
sâu xa như thế thì sao ta không cố gắng làm cho nó sáng rõ ra khiến
những tín đồ biết rõ cái đạo của mình tin và biết cách ăn ở cho phải
đạo, để bớt được những khổ não trong đời. Chẳng hơn là cứ bo bo ở chỗ
vật chất, nông nổi, hẹp hòi, biến đỏi, vô thường nay thế này mai thế
khác, làm cho người ta bơ vơ không biết bám víu vào đâu, tựa như chiếc
thuyền lênh đênh giữa dòng, không biết đâu là bờ là bến hay sao?
“Bởi
những lẽ ấy cho nên chúng tôi rủ nhau đứng lên lập hội Phật giáo, chủ ý
là muốn là cho sáng cái đạo đã mờ, muốn trau chuốt cho bóng bẩy hơn
trước và lại thích hợp với nhu yếu là người đời”.
Những
dòng trên có thể được xem là một bản “tuyên ngôn: của phong trào chấn
hưng Phật học. Ta thấy trong những lời đơn sơ kia chủ ý phục hưng đạo
Phật (“làm cho sáng cái đạo đã mờ”), hiện đại hóa nó(“trau chuốt bóng
bảy hơn trước và lại thích hợp với nhu yếu của người đời”) để nó có thể
đóng vai trò văn hóa dân tộc (“một cái đạo có năng lực về đường tinh
thần sâu xa như thế thì sao không cố gắng làm cho nó sáng rõ ra khiến
những tín đồ biết rõ cái đạo của mình tin và biết cách ăn ở cho phải
đạo”) và làm nơi quy túc và hướng đi tinh thần cho người dân (“chẳng hơn
là cứ bo bo ở chỗ vật chất, nông nổi hẹp hò… tựa như chiếc thuyền lênh
đênh giữa dòng không biết đâu là bờ bến…”). Những bài khảo cứu của Trần
Trọng Kim cho ta biết là hồi còn làm trưởng ban nghiên cứu Phật học ông
đã đề ra rất nhiều thì giờ để khảo cứu và học hỏi về Phật giáo. Ông đã
nghiên cứu về các tông phái đại thừa và tiểu thừa, về thế giới quan và
nhân sinh quan của Phật giáo. Ông cũng đã phiên dịch Bát Nhã Tâm Kinh từ
hán văn ra quốc ngữ. Nhà xuất bản Tân Việt tại Sài Gòn đã ấn hành các
tác phẩm Phật Lục, Phật giáo Thở Xưa Và Phật Giáo Ngày Nay và Phật giáo
Trong ba Bài Diễn Thuyết của ông.
Phật
Lục là một tập sách phổ thông về Phật học nhằm tới giới độc giả bình
dân. Theo ông, sách này chỉ là “mấy cái đại ý về đạo cứu thế của nhà
Phật” chứ không phải là “sách nghiên cứu lý thuyết cao siêu”. Nội dung
sách này gồm có một Lời Mở Đầu nói đại cương về đạo Phật và năm chương
nói về: 1- Thích Ca Mâu Ni Phật; 2- Chư Phật; 3- Chư Bồ Tát; 4- Thế Gian
và Thế Giới; và 5- Sự thờ phụng và cách bài trí các tượng ở chùa. Nhiều
điển tích trong sách này đã được Nguyễn Trọng Thuật tra cứu giúp.
Phật
Giáo Thuở Xưa Và Phật Giáo Ngày Nay có ba chương: chương một nói về
“Phật giáo Tiểu Thặng và Phật giáo Đại Thặng”, chương hai nói về “Phật
giáo ở nước Tàu” và chương ba nói về “Phật giáo ở Việt Nam”. Lại có một
phần phụ lục dịch “Trì Danh Diệu. Hạnh Luận” và “Sơn Cư Bách Vịnh”.
Phật Giáo Trong Ba Bài Diễn Thuyết in lại những bài diễn thuyết về Phật học của ông.
Theo
Trần Trọng Kim, Phật giáo trước hết là một nền triết học và một nền
luân lý; hình thái tôn giáo chỉ là phần thứ yếu của đạo Phật. Trung tâm
của triết học của Phật giáo là đạo lý duyên sinh, và bản chất của luân
lý Phật giáo là một lòng từ bi hoàn toàn bình đẳng, vô ngã, nghĩa là
không có tính cách phân biệt kỳ thị. Ông viết:
“Đạo
Phật trước hết chỉ là đạo triết lý và luân lý mà thôi, cái triết lý của
Phật giáo là cái triết lý cao minh, lấy nhân quả mà suy luận, tìm thấy
nhân duyên của tạo hóa, phá tan cái màn mờ tối che lấp sự sáng tỏ, cắt
đứt cái lưỡi mộng ảo nó trói buộc người tga vào sinh tử khổ não mà đem
người ta vào chỗ thanh tịnh an vui”.
“Cái
luân lý của Phật giáo là luân lý chân chính phổ biến khắp n hân chứng
trong thiên hạ, lấy vô lượng từ bi mà yêu người thương vật, lấy lòng bác
ái mà tế độ chúng sinh, không phân biệt người với ta, không có giai cấp
sang hèn… Đối với thân mình thì trừ bỏ hết những điều điên đảo giả dối,
gian tà bạo ngược, lúc nào cũng lấy sự chân thật nhân hậu mà đối với
mình và đối với người… Nếu người đời biết theo cái luân lý ấy thì làm gì
có những cuộc chiến tranh và những cảnh tàn khốc, làm cho đời người đã
khổ lại khổ thêm.(79)
Trần
Trọng Kim nói rõ đạo Phật không nhận có một vị Thần tự tại làm chúa tể
vũ trụ và vì vậy đạo Phật không phải là một tôn giáo theo nghĩa những
tôn giáo hữu thần. Tôn giáo của đạo Phật chỉ là cái truyền thống sinh
hoạt theo nhận thức triết học và luân lý học do Phật khai sáng. “Cái
tông giáo ấy tuy nói có nhiều Phật và nhiều Bồ Tát, song Phật và Bồ Tát
chỉ là những bậc tối cao trong lý tưởng để tế độ chúng sinh mà thôi, chứ
không phải là giữ quyền chủ tể. Vì vậy ai theo cái tông giáo ấy thì
không có sự mê tín, cứ tự mình học tập tu luyện để hiểu rõ căn nguyên
của vạn tượng trong thế gian và trôngt thấy rõ chân lý”
Ông
thường kêu gọi Phật tử xa lìa mê tín và học lấy thái độ tự do tư tưởng
trong đạo Phật. Kết luận buổi giảng tại chùa Quán Sứ ngày 11.1.1936, ông
lên tiếng:
“Ai
đem sự mê tín mà theo đạo Phật là người làm điều trái hẳn với đạo Phật
là người có cái tâm rất sáng suốt, có cái tự do về đường tư tưởng và có
cái sức tự cường tự lập mà xử kỷ tiếp vật. Nếu người mình mà hiểu được
như thế và làm được như thế, thì sự tín ngưỡng đạo Phật… rất có lợi cho
sự tiến háo của nhân quần xã hội về đường đạo lý và đường tri thức.
Trần
Trọng Kim thấy cần phải phục hưng Thiền học thì Phật giáo ở Việt Nam
mới có thể hưng thịnh được. Tịnh Độ tông, nếu không đi đôi với thiền thi
theo ông không đủ sức làm cho tinh thần Việt Nam cường kiện. Ông viết:
“Phải biết rằng nếu những người xuất gia chỉ tu Tịnh mà không tu Thiền
thì g ở nước ta càng ngày càng thấp kém thêm, khó lòng mà hưng thịnh lên
được. Đó là cái yếu điểm trong sự chấn hưng Phật giáo ngày nay, ta rất
nên chú ý ỏ chỗ ấy thì cơ hồ mới có thể hành công được”(80).
Có
thể nói Trần Trọng Kim là người phát ngôn chính của phong trào chấn
hưng Phật học ở Bắc Kỳ vậy. Trần Trọng Kim đống gốp không những về phần
nghiên cứu và phổ biến Phật học mà còn về phần tổ chức của hội Bắc Kỳ
Phật Giáo nữa. Ông luôn luôn có mặt trong những buổi họp của ban Quản
Trị, góp ý kiến về sự soạn thảo nội quy điều lệ của hội và về việc tổ
chức huấn luyện là chỉnh lý tăng già. Chính ông đề nghị, trong buổi họp
ngày 14.12.1934 là ban chứng minh đạo sư phải thiết lập kỷ luật tăng già
cho nghiêm minh, và nếu có vị tăng nào phạm giới thì sơn môn phải tuyên
bố tẫn xuất, không công nhận họ là tăng sĩ nữa. Ông lại đi xa hơn và đề
nghị phải can thiệp với chính quyền để những vị tăng sĩ phạm giới kia
bị bắt buộc hồi tục.
ƯU THIÊN BÙI KỶ
Bên
cạnh Trần Trọng Kim ta thấy có Bùi Kỷ. Nhà học giả này cũng đứng về
phía phục hưng Phật giáo mà làm việc. Ông đã đăng nhiều thiên khảo cứu
của ông trên Đuốc Tuệ. Đặc sắc nhất là bài Nghĩa Chữ “Không” Trong Đạo
Phật. Trong bài này, ông đề cập tới nghĩa ngã không và pháp không trong
đạo Phật để đi tới quan niêm giả ngã và giả pháp, và cuối cùng kết luận
rằng đạo lý không có mục đích cởi bỏ những mối chấp trước của con người
chứ không phải là để nói rằng tất cả là không. Theo ông, chỉ khi nào phá
được chấp ngã và pháp chấp mới tìm được lối thoát đích thực cho kiếp
người, nếu không thì dù có hành động mấy đi nữa thì cũng còn là nằm
trong vòng kiềm tỏa của danh lợi. Ông viết:
“Đời
vốn chuộng học thuật, mà học thuật lại hóa ra diễn đàn của trò quỷ
quyệt, lợi khí của mối phân tranh có phải đó là cái lưu tệ ghê gớm của
ngã chấp và pháp chấp không? Xưa nay đã có biết bao nhiêu nhà hiền triết
từng tổn hao bao nhiêu gan óc, từng phí phạm bao nhiêu mồ hôi nước mắt
vì đời người mà hết lòng vun đắp, ra công dạy dỗ… song dầu giáo dục hoàn
bị thế nào thì cũng chỉ là những phương pháp tạm thôi, như gió chiều
nào che chiều ấy, chứ vẫn chưa có cách nào giải quyết rõ ràng được những
lý do của đời người mà tìm phương bổ cứu cho được lâu dìa. Ai là người
đã có lòng sốt sắng, con mắt cao xa, mà lại chẳng muốn lo tính cho đời?
Song cứu đời ở trong ngã chấp và pháp chấp khác nào như gọi người ở
trong hòm kín mà nắp hòm vẫn đóng, thì người vẫn không có lối ra. Phật
tổ biết rõ bệnh căn của đời là ở hai chỗ ấy, cho nên mới đem thuyết nhị
không để phá tan hai cái chấp, tức là mở nắp hòm cho người có lối thoát
ra vậy”(81).
Những
học giả trong ban Nghhiên Cứu Phật Học đã làm việc với hội Bắc Kỳ Phật
Giáo rất bền bỉ cho tới khi tình thế bắt đầu hết ổn định. Một số cũng đã
từng công bố thành quả của sự nghiên cứu của họ, như ông Nguyễn Văn
Ngọc với tập Thuyết Nghiệp Báo của ông, do nhà in Đuốc Tuệ xuất bản sau
này.
TĂNG SĨ VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
Cũng
như ở Nam và ở Trung, nữ giới đã góp nhiều trong phong trào chấn hưng
đạo Phật miền Bắc. Những bài diễn thuyết của các ni sư như Huệ Tâm (Hà
Đông) và các nữ cư sĩ như bà Đinh Chí Nghiêm (Ninh Bình) đã có ảnh hưởng
lớn trong quần chúng. Nhu cầu mở trường Phật học cho ni giới được phản
ảnh trong bài viết của ni cô Tâm Nguyệt(82).
Về
phương diện xã hội, tiếng nói của giới Phật tử miền Bắc cũng rất rõ
ràng. Ngoài những công tác nuôi dạy trẻ mồ côi, cứu trợ nạ nhân đói,
Phật tử có thể làm được gì? Nguyễn Văn Cảnh đề nghị tất cả các vị tăng
sĩ trú trì các tu viện sử dụng một hành lang ở chùa mình để làm ký nhi
viện, và động viên một số nữ Phật tử tình nguyện đến dạy dỗ, chăm sóc và
chữa bệnh đau mắt cho trẻ em. Những đứa nào suốt ngày đã la cà nơi xó
chợ sân đình đều nên đem về ký nhi viện “hành lang” ấy(83). Thiền sư
Thích Thanh Đặc nhận thấy tăng sĩ không nên sống trên sự cung dưỡng của
tín đồ mà phải chọn một “sinh nghiệp của xã hội” để tự nuôi sống mình và
hành đạo(84. Những nghề tăng sĩ có thể làm, theo ông, là dạy học, làm
thuốc, làm nhà in, nhà xuất bản, nhà dệt, nhà khâu, in kinh, cắt chữ
v.v… Thiền sư Thanh Đặc có thể nói là vị tăng sĩ đầu tiên xướng kế hoạch
kinh tế tự lực cho tăng sĩ bằng những sinh nghiệp mới(85). Lời kêu gọi
của Thanh Đặc bắt đầu từ năm 1950 mới thực sự có ảnh hưởng.
Về
phương diện thiếu nhi, hội Bắc Kỳ Phật Giáo đã tổ chức nhiều ban Đồng
Ấu, thể thức cũng giống như các ban Đồng Ấu ỏ Trung Kỳ. Nhiều tỉnh hội
đã thành lập ban Đồng Ấu, và nghi thức lễ Phật của các em đã được sáng
tác toàn bằng Việt ngữ. Cư sĩ Công Chân là người có công nhất trong sự
dạy dỗ và huấn luyện tuổi trẻ. Cá ban Đồng Niên và Đồng Nữ ở các chi hội
Khoái Châu và Hải Phòng là những ban hoạt động nhất.
Đuốc
Tuệ đình bản vào năm 1945. số chót là số 257-258, ra ngày 15.8.1945.
điều đáng ghi nhớ là từ số trước, danh xưng Bắc Kỳ Phật Giáo Hội đã được
thay thế bằng danh xưng Việt Nam Phật Giáo Hội.
Từ
năm 1934 đến 1945, hội Bắc Kỳ Phật Giáo đã lập được nhiều thành tích.
Sự có mặt đông đảo của giới trí thức đã tạo nhiều sinh sắc cho hội. Lúc
ban đầu, sự cộng tác của các sơn môn hãy còn lỏng lẻo vì có một ít điểm
dị đồng giữa các tổ đình và ông hội trưởng Nguyễn Năng Quốc, nhưng sau
đó thì hai bên lại bắt đầu cộng tác chặt chẽ. Các vị tăng hữu tâm và hữu
học của các tổ đình đã không ngần ngại tham dự vào việc hội. Các thiền
sư Tâm Băng, Tâm Lĩnh, Tâm Bác, Thọ Cầu, Tâm Bảo, Thanh Hoán, Thanh Hậu,
Tâm Tấn, Trí Hải, Tố Liên, Tuệ Chiếu v.v… đều là những người đã hoạt
động đắc lực cho Phật sự ở trung ương cũng như ở các chi hội.
SƠN MÔN LINH QUAN VÀ TẠP CHÍ TIẾNG CHUÔNG SỚM
Sự
bất đồng tình giữa các sơn môn và hội Bắc Kỳ Phật Giáo xảy ra rất sớm,
trước khi Đuốc Tuệ mới ra đời. Hội Bắc Kỳ Phật Giáo thành lập vào tháng
Mười một năm 1934, nhưng mãi đến tháng Chạp năm 1935 tạp chí Đuốc Tuệ
mới ra đời. Trong khi đó thì các sơn môn Linh Quang và Hồng Phúc đã đặt
cơ sở cho một tạp chí Phật học Tiếng Chuông Sớm từ cuối năm 1934. ngày
31.1.1935 thì có nghị định cho phép xuất bản Tiếng Chuông Sớm. Chủ nhiệm
sáng lập ra tạp chí này là thiền sư Đỗ Văn Hỷ, Tăng cương chùa Linh
Quang (Bà Đá), và quản lý là thiền sư Thanh Tường, trú trì chùa Trầm ở
Hà Đông và chùa Vũ Thạch ở Hà Nội. Một nhân vật thứ ba nữa làm nòng cốt
cho công việc này là thiền sư Đặng Văn Lợi, tăng trưởng chùa Trần
Quốc(86). Chủ bút của tờ báo là thiền sư Bảo Giám, trú trì chùa Đông Lâm
ở Bắc Ninh, và phó chủ bút là thiền sư Nguyễn Quang Độ trú trì chùa Bảo
Phúc ở Hà Đông. Số đầu của Tiếng Chuông Sớm ra ngày 15.6.1935.
Trong
bài Tình Hình Phật Giáo Trong Nước đăng ở số này, ký giả H.S. nhắc đến
công trình chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ và Trung Kỳ và sự thành lập hội
Bắc Kỳ Phật Giáo tại chùa Quán Sứ. “Hiện nay nhờ thế lực của các quan
đại thần và của các bậc thượng lưu, hội đã lan ra hầu khắp Bắc Kỳ, đâu
đâu cũng có chi bộ, lại được tổ Vĩnh Nghiêm, một vị trưởng lão trong
Tùng Lâm Bắc Kỳ chủ trương mọi việc ở Hội Chính. Tiếng Chuông Sớm này do
Cổ Sơn Môn HồngPhúc và Bà Đá cũng xin góp phần phục vụ…”
Chùa
Bà Đá là một cổ tự được xây dựng trễ nhất là vào đầu thế kỷ thứ mười
tám. Tục truyền rằng chùa được xây dựng từ đời Hậu Lê vào niên hiệu Hồng
Đức (1470-1497) sau khi dân làng đào thấy một tượng Phật Bà Quan Âm
bằng đá. Có lẽ vì vậy mà chùa được gọi là chùa Bà Đá. Nguyên danh của
chùa là Tự Pháp Linh Quang Tự, tọa lạc ở làng Tự Tháp, huyện Thọ Xương
(sau này là Hàng Trống). Năm Bính Ngọ (1786), khi Nguyễn Huệ đem quân từ
Phú Xuân ra Bắc Hà để dứt họ Trịnh, thì chùa bị binh lửa thiêu rụi. Dân
làng Tự Tháp thấy tượng Phật bằng đá vẫn còn nguyên vẹn liền hợp nhau
dựng chùa. Năm 1793, thiền sư Khoan Giai từ Hồng Phúc đến trú trì chùa
này. Đến năm 1821 khi ông tịch thì thiền sư Giác Vượng thay thế ông, và
trùng tu lại thành một ngôi chùa lớn. Thiền sư Phổ Sĩ kế vị Giác Vượng
và biến chùa Linh Quang thành một tùng lâm lớn có h àng trăm tăng sĩ tu
học. Sau thiền sư Phổ Sĩ là thiền sư Nguyễn Văn Hợp. Các thiền sư Đỗ Văn
Hỷ và Nguyễn Văn Khánh đều thuộc thế hệ kế tiếp. Chùa lại bhị cháy mất
một phần trong thời gian gần đây và thiền sư Đỗ Văn Hỷ đã có công trùng
tu lại những nơi ấy. Ông được chính phủ Nam Triều ban hiệu làm Tăng
Cương hòa thượng của chùa(87).
Để
ủng hộ cho Tiếng Chuông Sớm, thiền sư Thanh Tường đã mời một số các vị
tăng sĩ có uy tín vào làm cố vấn cho tạp chí: Thiền sư Thanh Phán (chùa
Triệu Khánh, Hà Đông), thiền sư Nguyễn Duy Trinh (chùa Hưng Khánh, Hà
Đông), thiền sư Ngô Công Bốn (chùa Hàm Long, Hà Nội), thiền sư Nguyễn
Văn Thi (chùa Hương Tuyết, Hà Đông), thiền sư Thạch Điều (chùa Đế Thích,
Hà Nội) và thiền sư Thanh Trọng (chùa Mễ Sơn, Hà Đông). Ông lại còn mời
các ông Mai Đăng Đệ, Trịnh Đình Rư, Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Tiến
Lãng vào ban biên tập. Nguyễn Tiến Lãng thì phụ trách phần tiếng Pháp và
Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà) thì phụ trách phần chữ Hán.
Số
ra mắt Tiếng Chuông Sớm gây ảnh hưởng khá lớn trong Phật học giới,
nhưng ông Nguyễn Năng Quốc hội trưởng Bắc Kỳ Phật Giáo không được hoan
hỷ, bởi vì ông nghĩ rằng một Phật sự như thế phải nằm trong phạm vi hoạt
động của hội. Ngày 25.6.1935 ông gửi một lá thư cho Tiếng Chuông Sớm
trách rằng chùa Bà Đá đã không chịu hợp tác với hội Bắc Kỳ Phật Giáo,
lại cho ra “báo riêng”. Một hành động như thế, theo ông, là một hành
động “đối lập”, trái với tinh thần lục hòa. Ban Quản Trị hội Bắc Kỳ Phật
Giáo trong một buổi họp ngày 23.6.1935, nghĩa là trước đó hai hôm, đã
quyết định “không đồng ý cổ động cho Tiếng Chuông Sớm, việc làm của hội
Bắc Kỳ Phật Giáo không được phù hợp với truyền thống Phật giáo ở nhiều
điểm:
1- Ban Trị Sự của hội chỉ toàn là cư sĩ. Thiền gia Pháp Chủ Thanh Hanh tuy ngồi đó nhưng chỉ có hư vị.
2-
Hội lập trường Phật học theo “lối mới” để đào tạo một thế hệ “sư mới”,
như vậy là phủ nhận truyền thống học tập trong mùa kết hạ của thiền môn.
Tiếng
Chuông Sớm ra điều kiện: nếu hội Bắc Kỳ Phật Giáo sửa chữa lại Điều Lệ,
bầu lên một Ban Trị Sự gồm toàn các thành phần tăng sĩ, với thiền sư
Thanh Hanh làm hội trưởng, đem trụ sở về chùa Hòa Giai hay là chùa Bà
Đá, thì Tiếng Chuông Sớm sẽ xin tự hiến mình làm cơ quan ngôn luận của
hội(88) .
Sự
bất đồng ý kiến kéo dài từ giữa năm 1935 cho đến cuối năm 1935. Trong
thời gian đó, các tổ đình Bà Đá, Hồng Phúc và Hòa Giai phối hợp với các
chùa chi nhánh tại Hà Nội và các tỉnh để tổ chức Bắc Kỳ Phật Giáo Cổ Sơn
Môn, đường lối là phát triển Phật giáo trong tinh thần duy trì truyền
thống sinh hoạt cổ điển của thiền môn.
Tuy
vậy, sơn môn Vĩnh Nghiêm đã không để cho sự chia rẽ trở nên trầm trọng.
Sau những cuộc thăm viếng liên tiếp giữa các tổ đình Vĩnh Nghiêm và
Linh Quang do thiền sư Thanh Hanh chủ trương, sự bất đồng ý kiến kia dần
dần nhường chỗ cho sự cộng tác. Đầu tháng Chạp năm 1935, Đuốc Tuệ ra
mắt Phật học giới. Tiếng Chuông Sớm số 14 ra ngày 26.12.1935 mở lời chào
mừng Đuốc Tuệ và đăng những bài có tinh thần hòa giải và cởi mở.
Tiếng
Chuông Sớm lại mời thêm một số nhà văn vào ban biên tập, như Nguyễn
Mạnh Bổng và Nguyễn Trung Như, nhưng đến cuối tháng Năm 1936 thì báo
đình bản vì lý do tài chính. Số chót của Tiếng Chuông Sớm là số 24, ra
ngày 21.5.1936. vào thời gian này, những dị biệt giữa Bắc Kỳ Phật Giáo
Cổ Sơn Môn và hội Bắc Kỳ Phật Giáo không còn nữa, cho nên sự suy tôn
thiền sư Thanh Tường lên ngôi thiền gia pháp chủ được thực hiện một cách
dễ dàng. Thiền sư Thanh Tường vốn là vị tôn túc cao niên nhất trong
pháp phái Lâm Tế lúc bấy giờ và được tất cả các tổ đình Linh Quang và
Hồng Phúc quy ngưỡng.
THIỀN SƯ THANH TƯỜNG
Thiền
sư Thanh Tường tên đời là Đinh Xuân Lạc, sinh năm 1958. Ông được 78
tuổi vào năm 1936 tức là năm ông được suy tôn làm Thiền Gia Pháp Chủ.
Ông thường được gọi là Tổ Võ vì ông trú trì chùa Võ Thạch ở đường Gia
Long Hà Nội. Ông cũng là trú trì chùa Huỳnh Cung ở phủ Thường Tín và
động Tiên Lữ chùa Tử Trầm Hà Đông. Ông đã tiếp thiền sư Thiện chiếu
trong chuyến ra Bắc của ông này và đã hứa giúp đỡ cho Thiện Chiếu trong
việc tiếp xúc với các nhân vật lãnh đạo Phật giáo của miền Bắc. Các
thiền sư Tâm Ứng, Tâm Lai và Tâm Bảo, những người có công nhiều trong
việc xúc tiến thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo đều có theo học với ông.
Từ
khi thiền sư Thanh Tường lên làm Thiền Gia Pháp chủ, sự hợp tác giữa
các sơn môn và hội Bắc Kỳ Phật Giáo trở thành chặt chẽ. Các thiền sư
Thanh Ất (chùa Trung Hậu, Phúc Yên), Trung Thứ (chùa Bằng Sở, Hà Đông),
Doãn Hài (chùa Tế Cát, Hà Nam), Quang Nghiễm (chùa Phú Ninh, Nam Định)
vàThanh Triệu (chùa Đồng Bắc, Ninh Bình) đều là những bậc tôn túc hỗ trợ
mạnh mẽ cho Phật sự. Trong số các thiền sư hữu tâm hữu học cộng tác với
hộ ta thấy có các vị Tâm Băng, Tâm Lĩnh, Tâm Bác, Thanh Hoán, Thông
Thỉnh, Tâm Tấn, Thanh Hậu, Tố Liên, Trí Hải, Giải Ngạn và Tuệ Chiếu.
Thuộc
về Sơn môn Kinh quang có khoảng 200 vị tăng sĩ hành đạo trong các chùa,
từ thành thị đến thôn quê, và cứ mỗi mùa hạ, đều trở về an cư và học
tập. Thiền sư Thanh Tường đích thân đứng ra giảng dạy cùng với thiền sư
Đỗ Văn Hỷ và những vị tôn túc khác có khả năng. Chùa Linh Quang đã từng
tổ chức khắc bản in kinh. Bộ Đại Bảo Tích cũng đã được chùa khắc bản.
Tổ đình Vĩnh Nghiêm là nơi quy tụ đông dảo nhất mỗi mùa kết hạ, có năm, số tăng sĩ về kết hạ lên tới 220 vị.
Tổ
đình Hồng Phúc là một tổ đình xưa nhất của Phái Tào Động, năm nào cũng
có tổ chức kết hạ, an cư theo truyền thông. Tổ đình này do thiền sư Pháp
Minh chủ trì.
TRUYỀN THỪA TẠO ĐỘNG THEO BIA CHÙA HỒNG PHÚC
Thiền
sư Pháp Minh tên đời là Dương Tâm Viên, hiệu là Thiền Lâm. Năm 1932,
ông đã dựng một tấm bia ở chùa Hồng Phúc liệt kê hành trạng các vị tổ sư
trú trì ngôi tổ đình n ày của phái Tào Động. Ông là đệ tử của thiền sư
Nhân Từ, tổ đời thứ 47 của tông Tào Động. Sách Kế Đăng Lục của thiền sư
Như Sơn(89) chỉ ghi được hai vị tổ Tào Động đầu tiên ở chùa Hồng Phúc:
đó là các thiền sư Thủy Nguyệt và Chân Dung. Bia của thiền sư Pháp Minh
ghi đủ pháp danh của những vị kế thế trú trì chùa Hồng Phúc, xin ghi ra
đây để bổ túc cho Chương XXIII của Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập II,
phần nói về Tào Động Ở Đàng ngoài (trang 127):
Tổ thứ nhất: thiền sư Thủy Nguyệt, đời thứ 36 Tào Động.
Tổ
thứ nhì: thiền sư Chân Dung, đời thứ 37 Tào Động. Đây là đoạn văn viết
về thiền sư Chân Dung trong bia: “Tổ thứ hai là Chân Dung, nối lửa pháp
đăng được một thời thì vào niên hiệu Vĩnh Trị(90) triều Lê bổng có lệnh
vua phế bỏ tăng lữ. Đệ nhị tổ của ta kiên trì tâm nguyện làm Phật, bảo
rằng: “Đạo Phật không theo đường thế gian mà có thịnh có suy, mà phép
Vua phải cùng phép Phật đùm bọc lấy nhau. Việc này chẳng qua là tâm của
vua chưa giác ngộ, chưa có người vén màn mây che lấp mặt trời cho nên
giáo lý của Phật mới khó tỏ tường; bây giờ có ai quét sạch sương mù che
lấp bầu trời cho được?” Bèn từ giã pháp tọa sư tử, thân hành đến thành
Thăng Long, lấy bút mực thảo biểu dâng lên, và được mời vào bệ kiến chốn
đan trì. Ngài đem pháp học mà xiển dương Phật pháp, dùng bối diệp mà
cởi mở tâm Vua, dựng lại tông phong, thêm sáng tuệ nhật. Được lệnh ở lại
chốn thần kinh, rộng mở đạo tràng mà thuyết pháp. Chốn phạm vũ lại được
trùng tu để làm địa vức tham thiền. Giúp nước hộ đạo, được vua sắc
phong, làm hưng thịnh những gì đã suy, nối tiếp lại những gì đã đứt”.
Tổ
thứ ba: thiền sư Tịnh giác; đời thứ 38 Tào Động. Ông được vua Lê(91)
ban hiệu là Tăng Thống Tịnh Giác Hòa Thượng. Pháp danh ông là Từ Sơn, tự
là hành nhất.
Có
nhiều lý do khiến cho ta nghĩ rằng Tịnh Giác chính là thiền sư Như Sơn
tấc giả sách Kế Đăng Lục. Trước hết, Kế Đăng Lục chỉ ghi tiểu sư hai vị
tổ Tào Động người Việt: hai người này là thủy Nguyệt và Chân Dung. Thiền
sư Chân Dung tịch năm 1709, ai là người thừa kế, nếu không phải là ông?
Lý do thứ hai: sách Kế Đăng Lục có ghi tên một vị sa di, đệ tử của ông,
tên là Tinh Chú, người đã giúp ông về việc thẩm duyệt tác phẩm. Theo
bia của thiền sư Pháp Minh thì Tính Chúc lại là tổ thứ tư của chùa Hồng
Phúc. Như vậy bổn sư của Tính Chúc là ông. Tại sao không phải là tổ thứ
ba? Nhưng pháp danh của tổ thứ ba là Từ Sơn, chứ không phải là Như Sơn.
Tại sao? Tác phẩm Kế Đăng Lục do Như Sơn viết năm 1734 lại có lời ca
tụng vua có lòng hộ đạo và những dòng chữ ở đầu sách “Hồng Phúc Tự Sa
Môn Như Sơn trước thuật”; những chi tiết này cho ta thấy Như Sơn tức là
Từ Sơn, trú trì chùa Hồng Phúc từ năm 1709, và đã truyền đăng cho đệ tử
ông là Tính Chúc, tổ thứ tư.
Tổ
thứ tư: thiền sư Tính Chúc, đời thứ 39 Tào Động. Ông được sắc phong là
Ban Lai Hòa Thượng. Pháp tự ông là Thiện Thuận, hiệu là Đạo Chu. Sau lại
được tặng phong là Phổ Hóa Độ Sinh Đại Bồ Tát. Ông đã giúp thiền sư Như
Sơn thẩm duyệt tác phẩm, Kế Đăng Lục.
Tổ
thứ năm: thiền sư Hải Điện, đời thứ 40 Tào động. Ông được sắc phong là
Viên Thông Tăng Thống Lại Nguyên Hòa Thượng. Pháp hiệu của ông là Mật
Đa. Đời thứ 40 còn có các vị sau đây:
* Thiền sư Hải Hoằng, pháp tự là Tịnh Đức, hiệu là Nhu Nhã.
* Thiền sư Khoan Nhân, pháp tự là Phổ Tế, hiệu là Thanh Từ.
Tổ
thứ sáu: thiền sư Đạo Nguyên, đời thứ 41 Tào Động, Ông pháp danh là
Khoan Dực, pháp tự là Phổ Chiếu được sắc phong là Tăng Thống Đạo Nguyên
Hòa Thượng. Pháp hiệu của ông là Thanh Lãng. Ông là thầy của thiền sư
Thanh Đàm (xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập II, trang 327).
Đời thứ 41 còn có các vị sau đây:
* Thiền sư Khoan Giáo, pháp tự là Nhu Hòa, pháp hiệu là Thiện Căn.
* Thiền sư Khoan Thông, pháp tự là Chính Trí, pháp hiệu là Thanh Quang.
*
Thiền sư Giác Bản, pháp tự là Minh Nam, pháp hiệu là Thanh Nguyên. Ông
là bạn với thiền sư Thanh Đàm và có làm bài kệ tán dương sách Pháp Hoa
Đề Cương(93) của bạn.
Tổ
thứ bảy: thiền sư Thanh Đàm, đời thứ 42 Tào Động. Ông pháp danh là Giác
Đạo, pháp tự là Minh Chính, pháp hiệu là Hoằng Quang. Ông được triều
đình ban giới đao và độ điệp(94). Ông là tác giả sách Pháp Hoa Đề Cương
và Bát Nhã Trực Giải (xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập II, trang
327).
Tổ thứ tám: thiền sư Giác Lâm, đời thứ 43 Tào Động. Ông pháp tự là Minh Liễu, pháp hiệu là Lục Hòa.
Tổ thứ chín: thiền sư Đạo Sinh, đời thứ 44 Tào Động. Ông pháp tự là Minh Đạt, pháp hiệu là Thanh Như.
Tổ
thứ mười: thiền sư Quang Lự, đời thứ 45 Tào Động. Ông pháp tự là Đường
Đường, pháp hiệu là Như Như, cũng gọi là Hồng Phúc Sa Môn.
Tổ
thứ mười một: thiền sư Chính Bỉnh, đời thứ 46 Tào Động. Ông pháp tự là
Bình Bình, pháp hiệu là Vô Tưởng. Lại có hiệu là Hòa Thái Sa Môn.
Tổ thứ mười hai: thiền sư Tâm Nghĩa, đời thứ 47 Tào Động. Ông pháp tự là Nhân Từ.
Theo
thiền sư Pháp Minh, tác giả bài bia “Danh Thùy Bất Hủ” ở chùa Hồng Phúc
thì chùa này đổ nát rất nhiều dưới thời vua Tự Đức và chính là các vị
tổ sư thứ chín (Đạo Sinh) và thứ mười (Quang Lư) đã trùng tu lại và làm
cho chùa trở thành một “danh lam thắng cảnh ở thành Thăng Long”.
Năm
1938, chùa Thiên Tích ở Hà Nội cho xuất bản một tờ nguyệt san lấy tên
là Quan Âm Tạp Chí. Chủ bút của tờ này là sa môn Võ Chiêm Khôi, trú trì
chùa Thiên Tích. Số đầu ra mắt ngày 24.10.1938. Quan Âm tạp chí ra được
đến tháng Hai năm 1943 thì đình bản, số chót là số 34. tạp chí này không
có gì đặc sắc và ảnh hưởng không được là bao trong Phật giới.
--------------------------------------------------------------------------------
(*) Nay là chùa Phúc Khánh, Nguyễn Tư Sở, Hà Nội (N.H.C.)
(76)
Tiểu thuyết Quả Dưa Đỏ được giải thưởng Hội Khai Trí Tiến Đức năm 1925
tức là mười năm trước đó. Quả Dưa Đỏ đã được hoan nghênh nhiệt liệt và
được nhiều tờ báo nhắc tới (Trung Bắc Tân Văn 20.2. 1926, Đông Pháp Thời
Báo 1927, v.v…)
(77) Xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập I, trang 278-279
((78) Bulletin de l’ Ecole Francaise d’Extrême Orient (B.E.F.E.O) Hanoi, 1932, T. XXXII, fasc. 1, trang 191-268
(79) Trần Trọng Kim: Phật Giáo Trong Ba Bài Diễn Thuyết. Tân Việt, Sài Gòn, 1950.
(80) Phật Giáo Thuở Xưa Và Phật Giáo Ngày Nay. Tân Việt, Sài Gòn, 1953
(81) Bùi Kỷ: Nghĩa Chữ “Không” trong đạo Phật. Đăng lại trong Nguyệt san Phật giáo Việt Nam, từ số 16 đến số 21, 1958.
(82) Đuốc Tuệ số 60 (1.5.1937)
(83) Đuốc Tuệ số 11 (25.2.1936)
(84) Đuốc Tuệ số 108 (15.5.1939)
(85)
Trong thiền viện truyền thống, tăng sĩ thường tự túc bàng cách canh
tác, bắt đầu từ nguyên tắc “bất tác bất thực” của thiền sư Bách Trượng.
(86)
Chùa Trấn Quốc đầu tiên được dựng ở đời Lý Nam Đế (544-548) gọi là chùa
Khai Quốc, tọa lạc tại bãi An Hoa giáp sông Hồng Hà. Năm 1615 bãi sông
bị lỡ, chùa được dời tới làng Yên Phụ cạnh Hồ Tây, dựng trên nền cũ cung
Thúy Hoa đời Lý (cũng là nền cũ điện Hàm Nguyên đời Trần). Theo bia
“Trần Quốc Tự Bi Ký” của thiền sư Đạo Khang dựng năm 1639 thì trong năm
đó chùa đã được trùng tu rất tráng lệ. “Quy mô lớn, sức lực nhiều, so
với người trước, công đức gấp trăm lần”, đó là lời trong bia. Trong cuộc
tấn công của vua Nguyễn Huệ ra Bắc, chùa bị binh lửa tàn phá. Thiền sư
Khoan Nhân huy động trùng tu lại chùa vào năm 1813. Đến năm 1815 thì
hoàn thành. Thiền sư Khoan Nhân, theo bia “Tái Tạo Trấn Bắc Tự Bi” là
người huyện Thụy Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam nay là tỉnh Thái Bình.
Năm
1844 vua Thiệu Trị đổi tên chùa là chùa Trấn Bắc nhưng dân chúng vẫn
tiếp tục gọi là chùa Trấn Quốc, chỉ có chữ Quốc trên bia bị đục bỏ để
chữa thành chữ Bắc mà thôi.
(87) Tiếng Chuông Sớm số 2 (1.7.1935)
(88) Tiếng Chuông Sớm số 2 (15.7.1935)
(89) Xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập II, trang 140.
(90) 1676-1680.
(91) Có thể là Lê Thuần Tông (1732-1735)
(93) Xem Việt Nam Phật Giáo Sử Luận. Tập II, trang 342.
(94)
Năm 1830 vua Minh Mạng cấp giới đao và độ điệp cho 53 vị cao tăng trong
nước sau khi bộ Lễ đã xét hạch học lực và đức hạnh của họ. Thiền sư
Phúc Điền, chùa Liên Tông ở Bạch Mai, người san khắc Đại Nam Thiền Uyển
Truyền Đăng Tập Lục cũng được ban giới đao và độ điệp vào năm này.