CHƯƠNG
VI
THIỀN
PHÁI VÔ NGÔN THÔNG
VÔ
NGÔN THÔNG VÀ TRUYỀN THỪA
Năm
820, thiền sư Vô Ngôn Thông từ Trung Hoa sang Việt Nam. từ
đó một thiền phái khác được thành lập mang tên thiền
phái Vô Ngôn Thông.
Vô
Ngôn Thông người Quảng Châu, họ Trịnh, xuất gia tu học
tại chùa Song Lâm ở Vũ Châu. Tính tình trầm lặng, ít nói,
nhưng lại thông minh, cái gì cũng mau biểu biết cho nên thời
nhân đã tặng hiệu là Vô Ngôn Thông. Sách Cao Tăng Truyền
Ðăng Lục (Tam Tập) của Thông Tuệ đời Tống gọi ông là
Thông thiền sư.
Một
hôm ông vừa làm lễ Phật xong, có vị thiền sư tới hỏi:
“Ông vừa làm lễ gì đó?” Ông đáp: “Lễ Phật”. Vị
thiền sư chỉ vào tượng Phật nói: “Phật là cái này đấy
hả?” Ông không đáp. Ðêm ấy, ông mặc y áo chỉnh tề,
tìm đến phòng vị thiền giả làm lễ hỏi: “Hồi sáng ngài
có hỏi một câu, tôi chưa biết được tôn ý thế nào”.
Vị thiền giả nói: “Ông xuất gia tu được bao nhiêu mùa
kết hạ [1]rồi?” Ông đáp: “Mười mùa”. Vị thiền giả
hỏi: “Vậy thì ông đã xuất gia chưa?” Câu hỏi làm ông
hoang mang. Vị thiền giả nói: “Có vậymà cũng không hiểu
thì có tu đến một trăm mùa kế hạ cũng vô ích”. Vị thiền
giả liền đưa ông đi Giang Tây để tham yết thiền sư Mã
Tổ Ðạo Nhất. Không may thiền sư Mã Tổ đã tịch rồi,
ông liền đưa Vô Ngôn Thông đi tham yết thiền sư Bách Trượng
Hoài Hải tức là đệ tử đắc pháp của Mã Tổ. Lúc bấy
giờ có một vị tăng đến hỏi Bách Trượng: “Con đường
giác ngộ cấp thời của Ðại Thừa là gì?” Bách Trượng
trả lời: “Mặt đất của tâm nếu không bị ngăn che thì
mặt trời trí tuệ tự nhiên rọi đến” (tâm địa nhược
thông, tuệ nhật tự chiếu). Nghe câu nói này Vô Ngôn Thông
bổng nhiên đại ngộ. Sau đó một thời gian, Vô Ngôn Thông
về lại Quảng Châu, ở tại chùa Hòa An.
Sách
Cao Tăng Truyện (Tam Tập) của Thông Tuệ nói rằng ông cũng
có một thời gian trú trì chùa Hoa Nam ở Thiều Châu, nơi đây
ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng đã từng cư ngụ. Trong thời gian
ở chùa Hoa Nam, ông có dạy thiền sư Ngưỡng Sơn học. Thiền
sư Ngưỡng Sơn hồi đó mới xuất gia, mười bảy tuổi. Sách
Thuyền Uyển Tập Anh chép rằng một hôm Vô Ngôn Thông bảo
Ngưỡng Sơn: “Chú khiêng cái ghế kia qua đây cho tôi một
chút”. Khi Ngưỡng Sơn khiêng ghế tới, ông nói: “Chú khiêng
giúp trở lại chỗ cũ”. Ngưỡng Sơn khiêng lại chỗ cũ.
Ông hỏi Ngưỡng Sơn: “Bên này có gì không?” Sơn nói: “Không
có gì”. Ông lại hỏi: “Còn bên kia có gì không?” Sơn
nói: “Không có gì”. Ông gọi: “Chú ơi”. Sơn đáp: “Dạ”.
Ông bèn nói: “Thôi, chú đi đi”. Những câu đối đáp kia
chính là những thí nghiệm mà Vô Ngôn Thông đã làm để thử
trình độ của Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn sau này còn đi học
với Ðàm Nguyên, Ứng Chân và Quy Sơn. Sau này Ngưỡng Sơn
thành lập một trong năm thiền phái nổi tiếng ở Trung Hoa
là thiền phái Quy Ngưỡng.
Một
hôm tại chùa Hòa An, có người hỏi Vô Ngôn Thông: “Ngài
có phải là một vị thiền sư không?” Vô Ngôn Thông đáp:”Tôi
chừa từng học về Thiền”. Một lúc lâu ông gọi tên người
kia. Người kia đáp: “Dạ”. Vô Ngôn Thông liền chi tay ra
một gốc cây thoan lư (gỗ gụ) ngoài sân mà không nói gì[2]
.
Niên
hiệu Nguyên Hòa thứ 15 đường Ðường (năm 820) Vô Ngôn Thông
từ Quảng Châu qua Việt Nam, ở lại chùa Kiến Sơ, làng Phù
Ðổng, huyện Tiên Du (Bắc Ninh). Ðây là một ngôi chùa mới
được thành lập, ở đó có một vị tăng tên là Ðức Lập
trú trì.
Vô
Ngôn Thông cư trú chùa Kiến Sơ, ngoài hai bữa cơm cháo thì
dành hết thì giờ vào việc thiền tọa, xây mặt vào vách,
không nói năng gì. Nhiều năm trôi qua như thế, ít ai để
ý đến ông: duy chỉ có Lập Ðức thấy phong thái đặc biệt
của ông hết lòng chăm sóc. Do sự gần gũi này mà Lập Ðức
tiếp nhận được tông chỉ màu nhiệm của Vô Ngôn Thông,
đường ông đổi tên cho là Cảm thành vào truyền cho tâm
pháp. Ông tịch vào năm 826; thời gian cư trú tại chùa Kiến
Sơ chỉ có sáu năm.
Trước
khi thị tịch, ông gọi Cảm Thành vào và dặn: “Ngày xưa
đức Thế Tôn vì lý do lớn [3] mà xuất hiện ở đời.
Việc hóa độ hoàn tất, ngài thị hiện niết bàn. Cái diệu
tâm [4] gọi là Chính Pháp Nhãn Tạng [5] là Thực
Tướng Vô Tướng [6] là Pháp Môn Tam Muội [7], ngài đem
phú chú cho đệ tử là Ma Ha Ca Diếp - tổ thứ nhất. Thế
rồi đời đời truyền nối, từ Ðề Ðạt Ma từ Ấn Ðộ
sang, vượt bao nguy hiễm để truyền pháp này, qua Lục Tổ
ở Tào Khê, người đã từng đạt được chính pháp mà Ðật
Ma truyền đến ngũ tổ Hoàng Nhẫn. Trong thời gian đó vì
người đời còn thiếu hiểu biết và đức tin cho nên phải
truyền y bát để chứng tro sự đắc pháp. Nay thì đức tin
đã thuần thục nên không cần truyền y truyền bát nữa mà
chỉ lấy tâm truyền tâm mà thôi. Lúc đó tổ Nam Nhạc Hoài
Nhượng đắc thọ tâm truyền trước, liền truyền cho Mã
Tổ Ðạo Nhất, Mã Tổ Ðạo Nhất truyền lại cho Bách Trượng
Hoài Hải. Ta được tâm pháp của Bách Trượng đã từng ở
lâu phương Bắc tìm người có căn cơ đại thừa nhưng chưa
gặp, nên đã đi về phương nam để tìm bậc thiện tri thức.
Nay gặp ông ở đây thật là có duyên đời trước, vậy hãy
nghe bài kệ truyền pháp này:
Bốn
phương lồng lộng
Mặc
sức huyên thuyên
Rằng
thủy tổ ra
Gốc
ở Tây Thiên
Truyền
kho pháp nhãn
Ðược
gọi là “Thiền”
Bông
hoa năm cánh
Hạt
giống lâu bền
Ngàn
lời mật ngữ
Vạn
câu bản nguyên
Tự
nhận làm tông
Tự
cho là thiền
Tây
Thiên là đây!
Ðây
là Tây Thiên!
Xưa
nay cùng một
Nhật
nguỵêt xuyên sơn
Vướng
vào là mắc
Phật
tổ mang oan
Sai
một hào ly
Lạc
tới trăm nghìn
Nên
quan sát lại
Chớ
lừa hậu côn
Ðừng
hỏi ta nữa
Ta
vốn “Vô Ngôn”
(Chư
phương hạo hạo
võng
tự huyên truyền
Vị
ngô thủy tổ
Thân
tự Tây Thiên
Truyền
pháp nhãn tạng
Viết
vị chỉ “thiền”
Nhất
hoa ngũ diệp
Chủng
tử miên miên
Tiềm
phù mật ngữ
Thiên
phạn hữu duyên
Hàm
vị tâm tông
Thanh
tịnh bản nhiên
Tây
Thiên thử độ
Thử
độ Tây Thiên
Cổ
kim nhật nguyệt
Cổ
kim sơn xuyên
Xúc
đồ thành trệ
Phật
tổ thành oan
Sai
chỉ hào ly
Thất
chi bách thiên
Nhữ
thiện quan sát
Mạc
khiểm nhi tôn
Trực
nhiêu vấn ngã
Ngã
bản vô ngôn)
Sau
đây là bảng liệt kê mười bảy thế hệ của thiền phái
Vô Ngôn Thông:
Thế
hệ 1: Vô Ngôn Thông (mất 826)
Thế
hệ 2: Cảm Thành (mất 860)
Thế
hệ 3: Thiện Hội (mất 900)
Thế
hệ 4: Vân Phong (mất 959)
Thế
hệ 5: Khuôn Việt Chân Lưu (mất 1011) và một người khuyết
lục.
Thế
hệ 6: Ða Bảo (mất ?) vàmột người khuyết lục.
Thế
hệ 7: Ðịnh Hương (mất 1051), thiền lão (mất ?) và một
người khuyết lục
Thế
hệ 8: Viên Chiếu (mất 1090), Cứu Chỉ (mất 1067), Bảo Tính
(mất 1034), Quảng trí mất 1090), Lý Thái Tông (mất 1028), và
một người khuyết lục.
Thế
hệ 9: Thông Biện (mất 1134), Mãn Giác (mất 1096), Ngô ấn
(mất 1088) và ba người khuyết lục.
Thế
hệ 10: Ðạo Huệ (mất 1172), Biện Tài (mất ?), Bảo Giám
(mất 1173), Khuông lộ (mất 1141), Bản Tịnh (mất 1177) và
ba người khuyết lục.
BỐI
CẢNH THIỀN HỌC VÔ NGÔN THÔNG
Ðiều
nên nói trước tiên là Vô Ngôn Thông, từng tu học trong
tu viện của Bách Trượng, đã đem thanh quy của thiền viện
do Bách Trượng sáng tác áp dụng vào sinh hoạt thiền viện
Việt Nam.
Bách
Trượng Thiền sư (779-803) là tác giả bộ quy chế nổi tiếng
về sinh hoạt thiền viện được gọi là Bách Trượng Thanh
Quy, được áp dụng trong rất nhiều tu viện thiền tại Trung
Hoa và Việt Nam thời ấy. Trước Bách Trượng, các thiền
sư chưa có thiền viện riêng, do đó vẫn sống chung trong
các Luật viện [8a]. Ðến khi đã có thanh quy của thiền môn
rồi, Thiền mới bắt đầu tách ra khỏi Luật viện và trở
nên một truyền thống hoàn toàn độc lập.
Ta
không biết các tu viện Pháp Vân và Chúng Thiện của thiền
phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi được tổ chức cách nào, dù ta biết
ảnh hưởng Ấn Ðộ trong cách tổ chức thiền viện ở đây
rất quan trọng. Hiện giờ, thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã
dứt đoạn, những di tích về kiến trúc còn lại của các
tổ đường thiền phái này không đủ để cho ta có một khái
niệm về cách tổ chức tu viện thời ấy. Còn về thiền
phái Vô Ngôn Thông dù sự truyền thừa đã chấm dứt vào
đầu thế kỷ thứ mười ba nhưng ta có thể biết được
sơ lược cách thức tổ chức các tu viện của thiền phái
này, bởi vì trong những thế kỷ gần đây, tại Trung Hoa,
Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên, nhiều tu viện còn sinh
hoạt theo một quy chế phỏng theo bản quy chế của Bách Trượng
do Ðức Huy thiền sư đời Nguyên biên tập, bản này gọi
là Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy gồm có tám cuốn. Còn bản
của Bách Trượng đã mất từ lâu.
Hiện
nay các chùa và tu viện lớn có đồ chúng tu học tại Việt
Nam vẫn còn theo Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy.
TRUYỀN
THUYẾT NAM TÔNG VỀ LỊCH SỬ THIỀN
Ðọc
tiểu sử Vô Ngôn Thông, ta biết rằng thiền phái này chấp
nhận lối giải thích của thiền phái Nam Tông bên Trung Hoa
về lịch sử của thiền học. Theo giải thích này, tâm truyền
của ngũ tổ Hoàng Nhẫn đã được trao truyền cho lục tổ
Huệ Năng, còn thiền sư Thần Tú ở Bắc Tông không đại
diện được cho truyền thống thiền học Bồ Ðề Ðạt Ma
Thiền
phái của thiền Thần Tú (606-706) thực ra hồi ấy cũng hưng
thịnh ở miền Bắc Trung Hoa và được giới trí thức tư
sản cùng giới chính trị nâng đỡ. Thiền phái của thiền
sư Huệ Năng (658-713) ở miền Nam có khunh hướng thần bí,
ít thiên trọng trí thức hơn, và được quần chúng đặc
biệt ủng hộ. Nhưng truyền thừa Bắc Tông ngắn ngũi quá,
chỉ trong mấy thế hệ đã bị mai một. Trong khi đó truyền
thừa Nam Tông đã phát triển mạnh. Thiền sư Thần Hội, đệ
tử của Huệ Năng, thấy Thiền Tông trở nên một tông phái
lớn có nhiều uy tín, mới bắt đầu dựng lại lịch sử
của Thiền. Ông đã sắp xếp 28 thế hệ thiền ở Ấn Ðộ,
bắt đầu từ Ma Ha Ca Diếp cho đến Bồ Ðề Ðạt Ma, Bồ
Ðề Ðạt Ma được xem như là vị là tổ thứ 28 của Thiền
Tông Ấn Ðộ, và sơ tổ của thiền tông Trung Hoa. Bồ Ðề
Ðạt Ma truyền y bát cho Huệ Khả tuyền cho Tăng Xán, Tăng
Xán truyền cho Ðạo Tín. Ðạo tín truyền cho Hoàng Nhẫn và
Hoàng Nhẫn truyền cho Huệ Năng (mà không phải cho Thần Tú).
Thần Hội đệ tử Huệ Năng, cố nhiên là người thừa kế
tâm ấn! Vào thời Thần Tú và Huệ Năng thì chưa có phân
biệt Nam Bắc và chưa có sự phê phán lẫn nhau, tuy Bắc Tông
được triều đình công nhận là chính thống trong khi Nam Tông
được quần chúng ủng hộ. Mãi đến thời Thần Hội mới
có sự kỳ thị phân biệt; chính Thần Hội đã mở đầu
sự tranh chấp bằng cách chỉ trích lập trường tiệm giáo
của Bắc Tông. Lập trường này, cho rằng sự giác ngộ phải
được thực hiện hiện từ từ và tuần tự, thực ra đã
gần với giáo lý của Bồ Ðề Ðạt Ma hơn. Nam Tông đã xướng
xuất lập trường đốn giáo, theo đó sự giác ngộ có thể
thực hiện đột ngột mau chóng.
Trong
lời Vô Ngôn Thông căn dặn Cảm Thành trước khi tịch, ta
thấy thiền sư đã lập lại truyền thuyết về lịch sử
Thiền Tông của Thần Hội, nghĩa là của Nam Tông. Trong thiền
phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, mãi đến thế hệ thứ mười ab mới
thấy thiền sư Bản Tịch (mất 1140) nêu lên vấn đề đốn
và tiệm, và chủ trương dung hòa hai quan niệm này. Ðây hẳn
là do ảnh hưởng của thiền phái Vô Ngôn Thông vậy.
ÐỐN
NGỘ VÀ TÂM ÐỊA
Thiền
phái Vô Ngôn Thông nhấn mạnh thuyết đốn ngộ chủ trương
con người có thể, trong một giây lát, đạt được quả vị
giác ngộ, khỏi cần đi qua nhiều giai đoạn tiệm tiến. Vô
Ngôn Thông, ngay từ buổi đầu tại pháp hội của Bách Trượng,
đã nghe một câu hỏi về vấn đề đốn ngộ do một vị
thiền giả hỏi Bách Trượng: “Pháp môn đại thừa nào có
thể giúp ta đạt được giác ngộ tức khắc” (như hà thị
đại thừa đốn ngộ pháp môn?). Chính câu trả lời của
Bách Trượng đã làm cho Vô Ngôn Thông bừng tỉnh: “Mặt
đất của tâm nếu không bị ngăn che thì mặt trời trí tuệ
tự nhiên chiếu đến”.
Thiền
sư Cảm Thành (mất 860, đệ tử Vô Ngôn Thông) giải thích
rất rõ cho đệ tử là Thiện Hội vào thiền thất của Cảm
Thành và hỏi: “Kinh nói Ðức Thích Ca phải tu hành trong ba
a-tăng-kỳ-kiếp [8] mới thành tựu được quả Phật
Như Lai; nay thầy lại dạy thuyết “tức tâm tức Phật”,
đệ tử không hiểu, xin thầy chỉ giáo”. Ðó chỉ là một
câu chất vấn về thuyết đốn ngộ. Cảm Thành hỏi lại:
“Chú nói trong kinh nói, vậy đó là ai nói? Nếu là Phật
nói, tại sao kinh Văn Thuø lại nói: Như Lai ở đời trong 49
năm chưa từng nói một tiếng nào với ai? Với lại Cổ Ðức
đã nói: tìm tòi sự chứng ngộ trong kinh văn chỉ thêm sự
u trệ, cầu thành Phật bằng khổ hạnh thì là mê lầm, bỏ
tâm mà cầu Phật là ngoại đạo, nắm lấy tâm Phật mà cầu
Phật là ma quân”. Thiền Hội hỏi: “Nếu nói vậy thì trong
tâm này cái gì là Phật, cái gì không phải là Phật?” Cảm
Thành nói: “Ngày xưa, có người hỏi Mã Tổ Ðạo Nhất:
nếu “tức tâm tức Phật” thì trong tâm ấy cái gì là Phật?
Ðạo Nhất trả lời: ông nghĩ trong tâm ấy cái gì không phải
là Phật thì chỉ cho tôi xem nào? Người ấy không nói. Mã
Tổ lại nói: Khi đạt ngộ thì cái gì cũng là Phật, khi chưa
đạt ngộ thì, cái gì cũng vĩnh viễn sai lầm[9]. Câu thoại
đầu đó chú có hiểu không?”
Sau
sự giải thích đó, Thiện Hội đã hiểu thế nào là đốn
ngộ
Kinh
Viên Giác mà nhiều thiền sư trong thiền phái Vô Ngôn Thông
(như Viên Chiếu, Tín Học, Tịnh Lực,...) rất chuyên trì được
mô tả là một kinh dạy về phương pháp đốn ngộ. Kinh này
có câu “Thiện nam tử, kinh này gọi là giáo lýđốn ngộ
của đại thừa, những chúng sinh có đốn căn ở đây tức
là có khả năng lớn về trí tuệ và hành đạo. Ðối lại
với đốn căn là tiệm căn, tức là căn trí của những kẻ
phải đi từng bước một, trải qua nhiều kiếp tu hành mới
dần dần chứng nhập được Phật quả. Kinh Viên Giác là
một thiền định đại thừa. Sách Thuyền Uyển Tập Anh nói
rằng các thiền sư Viên Chiếu (mất 1090) và Ngộ Ấn (mất
1090) rất am tường phép Tam Quán của Viên Giác, và các thiền
sư Tín Học (mất 1190) và Tịnh lực (mất 1173) đều đắc
ngộ Viên Giác Tam Quán. Tam Quán trong kinh Viên Giác là Xa Ma
Tha (Samatha), Tam Ma Bạt Ðể (Samapatli) và Thiền Na (Dhytha),
tất cả đều là những phương pháp thiền định tu chứng.
Thuyến
đốn ngộ được căn cứ trên quan niệm tâm địa mà Vô Ngôn
Thông được nhắc tới. Chữ địa ở đây có nghĩa là đất.
Kinh Tâm Ðịa Quán nói: “Các pháp thiện, ác, ngũ thú, hữu
học, vô học, độc giác, bồ tát và Như Lai đều từ nơi
tâm sinh khởi, cũng như các loại ngũ cốc và ngũ quả từ
đất mọc lên, cho nên nói là tâm địa”. Tâm địa là bản
nguyên của vạn pháp (Kinh Lăng Nghiêm nói là tâm địa bản
nguyên”) thì một khi khai thông được tâm địa, trí tuệ
giác ngộ tự nhiên giác ngộ tự nhiên xuất hiện. Ðó là
ý của Bách Trượng trong câu nói “ tâm địa nhược thông,
tuệ nhật tự chiếu”. Vô Ngôn Thông trước khi tịch đã
nhắc lại lời của thiền sư Nam Nhạc (677-744) cho Cảm Thành
nghe: “ Tất cả các pháp từ tâm sinh, nếu tâm không sinh
thì làm sao pháp đứng vững được. Nếu đạt được tâm
địa thì hoàn toàn tự do [10]. Ðó là căn bản lời tuyên
bố “tức tâm tức Phật”. Nếu đạt ngộ thì tâm là Phật,
pháp là Phật, tất cả những gì từ tâm địa phát sinh đều
là Phật, còn nếu không đạt ngộ thì tức là ngoảnh lưng
lại với tất cả mọi thực tại giác ngộ. Sự giác ngộ
bản tâm là căn bản mọi biến cải. Từ thế kỷ thứ ba,
Tăng Hội đã nêu lên tính cách thiết yếu của Tâm học và
của sự giác ngộ tự tâm như đường lối duy nhất để
chứng đạo. Ðể thực hiện sự chứng ngộ này, thiền phái
Vô Ngôn Thông nhấn mạnh đến nguyên tắc thiền định vô
đắc.
NGUYÊN
TẮC VÔ ÐẮC
Vô
đắc là không có đối tượng của sự giác ngộ. Trước
hết, nó có nghĩa là sự giác ngộ không thể do một ai khác
trao truyền cho mình, mà mình phải thực hiện lấy. Thiền
sư Nguyện Học (mất 1174) thuộc thế hệ thứ 11 của thiền
phái Vô Ngôn Thông đã nói rất rõ về vấn đề này:
“Ðạo
koc có hình tượng
Nhưng
nó ở ngay trước mát ta, không gì làm xa cách
Phải
trở về với tự tâm mà thực hiện
Chứ
không thể đi tìm nơi kẻ khác”
Thiền
sư nói tiếp: “Nếu thấy mình có đắc đạo do sự truyền
thừa của kẻ khác thì sự đắc đạo đó không chân thật”.
Và ông kết luận: “Sự trao truyền tâm ấn của Phật và
của tổ phải được hiểu như vậy” [11]
Chính
Vô Ngôn Thông trong bài kệ thị tịch để lại cho đời sau
cũng nhấn mạnh đến nguyên tắc vô đắc. Ông nói rằng câu
chuyện truyền thừa từ Phật sang Tổ phải được hiểu theo
nghĩa phương tiện: “Thiên hạ huyên truyền từ bốn phương
rằng thủy tổ của ta ở gốc Tây Thiên, có truyền lại chính
pháp nhãn tạng, gọi là Thiền; rằng như một đóa hoa có
năm cánh, Thiền tông sinh trưởng ở Ðông Ðộ và gieo hạt
giống thiền mãi mãi bất diệt về sau: rằng những mật ngữ
có đến hàng ngàn hàng vạn lời kia đều thuộc về truyền
thống thiền. Nhưng ta tự hỏi: Tây Thiên là đâu? Tây Thiên
chính là đây chứ không ở đâu khác; mặt trời mặt trăng
năm xưa chính là mặt trời mặt trăng mà ta đang thấy đây;
hễ vưỡng mắc một từ ngữ là liệt b ị kẹt và làm oan
cho chính Phật và Tổ. Sai một li đi một dặm. Các vị nên
chiem nghiệm kỹ, để cho thế hệ tương lai trách móc vì bị
đánh lạc đường”. Vô Ngôn Thông đã muốn nói rằng sự
kiện trao trruyền tâm ấn phải được hiểu như một sự
trao truyền không-trao-truyền, không có người trao truyền,
không có người tiếp nhận sự trao truyền, không có đối
tượng trao và nhận. Sự giác ngộ phải do tự mình thực
hiện chứ không thể tiếp nhận ở một người khác, dù người
đó là Phật hay là Tổ. Thiền sư Ðạo Huệ (mất 1172) một
hôm bảo thiền sư Tịnh Lực: “Tâm ấn của chư Phật chính
ông đã có rồi, khỏi đi theo ai mà tìm cầu nữa”.
Vô
đắc cũng là phương pháp thiền quán trong đó người hành
giả không chạy theo một đối tượng gọi là sự giác ngộ.
Ở đây thiền quán, không có người trao truyền và kẻ được
trao truyền. Nhưng ở đây cũng không có chủ thể thiền quán
và đối tượng thiền quán. Chủ thể và đối tượng là
một: giác ngộ cũng giống như một khả năng chiếu rọi sẵn
có trong một bức gương; không cần phải đi tìm ngoài tự
tâm mình. Nếu có sự tìm đuổi tứac là còn bị giam hãm
trong thế giới nhị nguyên. Bản chất của giác ngộ là không
có cá tính độc lập (không), không có hình thể để nhận
biết (vô tướng), không thể theo đuổi và nắm bắt (vô tác).
Không, vô tướng và vô tác được gọi là ba cánh cửa giải
thoát trong đạo Phật (tam giải thoát môn).
Thiền
sư Nguyện Học diễn đạt ý này một cách rất đầy đủ
trong bài kệ sau đây:
Giác
ngộ chân tâm và mở được con mắt trí tuệ ra rồi
Thì
thật tướng của vũ trụ hiện diện thông suốt trước mắt
Dù
khi đi, đứng, nằm hay ngồi như thường ngày
Thì
cũng thấy mình có mặt mọi nơi một cách mầu nhiệm
Tuy
rằng thực tướng ấy đầy dẫy cả vũ trụ và hư không
Nhưng
nhìn lại thì thực tướng ấy không có hình tướng
Ở
thế gian không có gì có thể đem ra so sánh với thực tướng
ấy
Vì
tự thân nó chiếu sáng vĩnh viễn cho vạn vật
Người
ta có thể diễn thuyết bất tuyệt về thực tướng huyền
diệu này
Nhưng
không lời diễn thuyết nào sánh được với hai chữ vô đắc
[12]
SỰ
SỬ DỤNG THOẠI ÐẦU
Sau
khi Cảm Thành nhắc lại cho Thiện Hội nghe câu nói của Mã
Tổ Ðạo Nhất “Khi đạt ngộ thì cái gì cũng là Phật,
không không đạt ngộ thì cái gì cũng vĩnh viễn là sai lầm”
(đạt thời biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ). Cảm
Thành hỏi Thiện Hội: “Câu thoại đầu đó chú có hiểu
không?” Danh từ thoại đầu, như thế, đã được sử dụng
tại Việt Nam hồi thế kỷ thứ chín.
Thoại
đầu là một câu hay một mẫu đối thoại có tác dụng thúc
đẩy hay làm phát khởi sự đạt ngộ nơi tâm tư người thiền
giả. Thoại đầu có thể là một câu trích trong kinh điển
lời Phật nói, một lời gợi ý của một vị tổ sư hay lời
đáp của một vị thiền sư. Phương pháp sử dụng thoại
đầu bắt đầu từ giữa thế kỷ thứ chín: Quy Sơn (771-853)
ở Trung Hoa và Vô Ngôn Thông (mất 826) ở Việt Nam, cả hai
đều là học trò của Bách Trượng, đều là những người
đầu tiên sử dụng phương pháp thoại đầu này. Ta không
thấy ghi chép trường hợp Vô Ngôn Thông (mất 826) ở Việt
Nam, cả hai đều là học trò của Bách Trượng, đều là những
người đầu tiên sử dụng phương pháp thoại đầu này. Ta
không thấy ghi chép trường hợp Vô Ngôn Thông sử dụng thoại
đầu để dạy đệ tử, nhưng ta được biết Cảm Thành,
đệ tử ông, đã biết sử dụng phương pháp ấy[13] . Ðây
là một cuộc vấn đáp giữa Ngộ Ấn (mất 1090) và một vị
tăng:
Vị
tăng: Thế nào là đại đạo?
Ngộ
Ấn: Ðường lớn
Vị
tăng: Kẻ học nhân này hỏi về đại đạo, hòa thượng lại
nói về đường lớn; như vậy ngày nào kẻ học nhân này
mới đạt được đại đạo?
Ngộ
Ấn: Mèo con chưa biết bắt chuột đâu.
Vị
tăng: Mèo con có Phật tính không?
Ngộ
ấn: Không
Vị
tăng: Tất cả các loại hàm linh, loại nào cũng có Phật tính
cả, tại sao hòa thượng lại không có Phật tính?
Ngộ
Ấn: Ta không phải hàm linh.
Vị
tăng: Nếu không là hàm linh thì hòa thượng là Phật chăng?
Ngộ
Ấn: Ta không phải Phật cũng không phải hàm linh.
Mẫu
đối thoại trên đây cho thấy sự cố gắng của cả thiền
sư lẫn đệ tử trong việc khai mở trí huệ của người đệ
tử. Bắt đầu ta thấy vị tăng đưa ra câu hỏi về “đại
đạo” đối tượng của giác ngộ, và muốn nghe lời giải
thích của Ngộ Ấn về đối tượng và sự chứng đắc này.
Ngộ Ấn thấy rằng đưa cho vị tăng một mớ ý tượng về
đại đạo thì chẳng ích lợi gì cho ông ta cả, nên chi nói
đường lớn. Câu trả lời này làm thất vọng vị tăng, bởi
ông này đang chờ đợi những giải thích có tính cách khái
niệm và trừu tượng. Ðường lớn là một hình ảnh cụ
thể, là sự sống hiện thực mà không phải là những khái
niệm triết học trừu tượng. Vào trường hợp của một
căn cơ bén nhạy hình ảnh này có thể gây xúc chạm để
gợi ý chứng ngộ. Nhưng ở đây, vi tăng chỉ tỏ vẽ thất
vọng suông: mũi tên thứ nhất không bắn trúng đích. Ngộ
Ấn liền nói: “mèo con chưa bắt được chuột đâu” mục
đích để cho vị tăng chiêm nghiệm thêm về thoại đầu “con
đường lớn”. Nhưng vị tăng lại nghĩ rằng vị thiền sư
chê mình không đủ khả năng để hiểu những lời giải thích
về đại đạo nên đã không chịu giải thích. Ông ta liền
đem giáo lý đại thừa ra để chặn thiền sư : “Mèo con
có Phật tính không?” Ngộ Ấn là người giác ngộ, đâu
còn bị ràng buộc bởi kinh điển giáo lý nữa, ông nói “Không”.
Vị tăng bắt đầu nghĩ rằng Ngộ Ấn đi lệch khỏi giáo
lý nhà Phật, bèn gạn hỏi lại, lần này một cách thiếu
cung kính: “Kinh nói tất cả hàm linh đều có Phật tính,
tại sao hòa thượng nói hoàn toàn (thay vì con mèo) lại không
có Phật tính?” Thiền sư Ngộ Ấn vẫn còn kiên nhẫn: “Ta
không phải hàm linh” và sau câu hỏi “Thế ngài là Phật
chăng” ông còn cố gắng lần chót: “Ta không phải là Phật
cũng không phải là hàm linh”.
Ta
thấy ngay sự khác nhau giữa hai đàng: một đàng thì muốn
nghe những tư tưởng về đại đạo, một người muốn kéo
người đối thoại về thế giới sinh hoạt thực tại. Một
người thì đi tìm định nghĩa căn cứ trên sự phân biệt,
một người thì cố gắng đập gãy lề lối thói phân biệt
để hiển lộ thực tại vốn thoát ly danh từ và sự phân
biệt. Thoại đầu không cần phải dài dòng bởi thoại đàu
là dụng cù tháo gỡ sự đạt ngộ mà kinh phải là những
giải thích về đốn ngộ. Vân Phong (mất 956) hỏi Thiện Hội
(mất 950): Làm sao tránh khỏi sinh tử?
Thiện
hội: Ði vào chỗ vô sinh tử
Vân
Phong: Chỗ vô sinh tử là chỗ nào?
Thiện
Hội: Nó nằm ngay trong chỗ sinh tử.
Vân
Phong: Làm sao hiểu được?
Thiện
Hội: Ði đi, mai sẽ tới gặp lại.
Thiện
hội đưa cho Vân Phong một chìa khóa “Vô sinh tử nằm ngay
sinh tử”. Vân Phong không hiểu được, đòi Thiện Hội giải
thích. Nhưng làm thế nào để giải thích một chiếc chìa
khóa? Làm thế nào để giải thích một thoại đầu? Nếu
Vân Phong có thể hiểu, là ông đã hiểu ngay khi đó; nếu
ông không hiểu, đó là vì tâm trí của ông chưa chìm, dù
có nói thêm hai ba chục câu nữa ông cũng không hiểu. Thà
rằng ông về phòng còn hơn. Sáng mai, qua một đêm thiền quán,
có lẽ ông sẽ có thể bừng tỉnh được nhờ câu thoại
đầu ấy.
Tu
viện không phải là một Phật Hcọ Viện: người hành giả
phải sống điều mình học và sống bằng thiền quán. Nếu
định lực đã mạnh, nếu căn cơ đã thuần thục, thì phải
trở về với đời sống thiền quán. Một mũi tên bắn ra
một là trúng đích, hai là trật đích” nên hành giả không
đạt ngộ ngay lúc đó, là thoại đầu không có hiệu lực
dù có giải thích cũng vô ích.
Một
hôm thiền sư Ðịnh Hương (mất 1051) hỏi đệ tử là Cứu
Chỉ (mất 1067) “Nghĩa cứu cánh” [14]là gì, ngươi
có biết không?”Cứu Chỉ trả lời “Không”. Ðịnh Hương
nói: “Nghĩa cứu cánh là cái mà ta vừa mới trao cho người
đó”. Cứu Chỉ còn đang nghĩ ngợi thì Ðịnh Hương nói:
“Người đã bước trượt qua mất rồi!”.
Thoại
đầu là thế; thoại đầu như một con sào do thiền sư đưa
ra để người đệ tử nắm bắt, có khi bắt được, có khi
không bắt được. Mỗi khi “bước trượt qua” là người
đệ tử người đệ tử phải quay về với đời sống thường
nhật để gia tăng công phu.
THIỀN
NGỮ VÀ HÌNH ẢNH THI CA
Thiền
sư thường dùng những hình ảnh cụ thể làm phượng tiện
đưa người hành giảđến sự đạt ngộ. Khi Vô Ngôn Thông
được người ta hỏi về thiền và thiền sư, ông đãim lặng
lấy tay chỉ vào gôc một gốc cây thoan lư. Thiền và Thiền
sư trong lĩnh vực đàm luận chỉ có thể là những khái niệm
trừu tượng; gốc cây thoan lư là một hình ảnh cụ thể
của thực tại; nếu nhìn thấy gốc cây thoan lư trong chính
thực tại của nó là đã thâm nhập thế giới Thiền và trở
thành thiền sư. Các thiền sư bao giờ cũng muốn đưa học
trò của mình vào thế giới suy luận trừu tượng. Khi Nam
Tuyền hỏi Triệu Châu (hai vị thiền sư Trung Hoa thuộc thế
kỷ thứ chín) về chủ ý của Bồ Ðề Ðạt Ma khi qua Trung
Hoa, Triệu Châu cũng chỉ ra ngoài sân và nói: “Nhìn cây tùng
ở ngoài sân”. Thiền học, vì vậy rất gần với thi ca ở
chỗ chú trọng tới hình ảnh mà xem thường những khái niệm
trừu tượng. Thi ca không có hình ảnh thì không còn thi ca
nữa, cũng như đi vào suy luận siêu hình thì thiền không còn
có gì là thiền. Cho nên ta không lấy làm lạ khi thấy có
những thiền sư dùng những câu thơ làm lời thiền ngữ. Một
thiền sư có tâm hồn thi sĩ tự khắc diễn tả thực chứng
bằng thi ca và hướng dẫn thiền giả bằng những hình ảnh
thi ca.
Thiền
sư Tuyết Ðậu (980-1052) ở Trung Hoa là một thi sĩ bậc lớn
trong thiền môn. Ông là người đã dựng nen truyền thống
lấy hình ảnh thi ca làm thiền ngữ. Sự xuất hiện tại Việt
Nam năm 1969 của thiền sư Thảo Ðường, đệ tử thiền sư
Tuyết Ðậu, đã khiến cho khuynh hướng thiền ngữ thi ca ảnh
hưởng sâu đậm đến thiền học Việt Nam, đặc biệt là
trong thiền phái Vô Ngôn Thông. Thảo Ðường, đệ tử của
thiền sư Tuyết Ðậu, đã khiến cho khuynh hướng thiền ngữ
thi ca ảnh hưởng sâu đậm đến thiền học Việt Nam, đặc
biệt là trong thiền phái Vô Ngôn Thông. Thảo Ðường đã
mang qua Việt Nam các tác phẩm của Tuyết Ðậu vốn đã thấm
nhuằn tính chất thi ca, vì trong thiền phái Vô Ngôn Thông,
nhiều thiền sư như Minh Trí (mất 1190) và Quảng Nghiêm (mất
1190) rất hâm mộ Tuyết Ðậu Ngữ Lục. Tuy nhiên, trước
mắt thiền sư Thảo Ðường, tại Việt Nam có thiền sư Thiền
Lão cũng đã dùng hình ảnh thi ca làm thiền ngữ. Thiền sư
Thiền Lão (mất 1073) ở chùa Trùng Minh, núi Thiên Phúc, huyện
Tiên Du, về sau có về núi Từ Sơn dạy học, học chúng quy
tụ có hơn một ngàn người. Vua Lý Thái Tông có vào núi thăm
thiền sư. Sau đây là cuộc đối thoại giữa hai người:
Vua:
Ngài ở đây bao lâu rồi?
Thiền
Lão:
Sống
trong giờ hiện tại
Ai
hay năm tháng xưa?
Ðãn
tri kim nhật nguyệt
Hà
thức cựu xuân thu)
Vua:
Ngài làm gì hàng ngày ở đây?
Thiền
lão:
Trúc
biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh
Bạch
vân minh nguyệt hiện toàn chân)
(Thúy
trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
bạch
vân minh nguyệt hiện toàn chân)
Vua:
Như vậy ý chỉ là gì, xin ngài cho biết?
Thiền
lão: Nói nhiều lời, sợ sau này bất lợi.
Những
câu thơ mà Thiền Lão đọc ở đây không phải chỉ là những
câu thơ, mà còn là những câu thoại đầu, những lời thiền
sư nhằm đánh thức sự tỉnh ngộ thiền giả. Vua Lý Thái
Tông, sau hai câu thiền ngữ, không hiểu được chủ ý của
thiền sư và đã hỏi lại. Chính vì tính chất thoại đầu
của các câu thơ mà thiền sư đã đáp: chừng đó lời đã
quá đủ, nhà vua chỉ cần tham cứu cho kỹ, nói thêm thì câu
sau chỉ bất lợi (từ đa vô hậu ích).
Vị
thiền sư thi sĩ tài ba nhất của thiền phái Vô Ngôn Thông
là thiền sư Viên Chiếu (998-1090). Ông họ Mai, tên là Trực,
con anh bà Linh Cảm Thái Hậu. Ông rất am tường về pháp tam
quán của kinh Viên Giác. Sách Thuyền Uyển Tập Anh nói ông
thâm đắc “ngôn ngữ tam muội”; các thiền ngữ của ông
xuất phát từ thực chứng sâu xa về thiền. Ông là tác giả
những cuốn:
Tán
Viên Giác Kinh
Thập
Nhị Bồ Tát Hạnh Tu Chứng Ðạo Trường
Tham
Ðồ Hiển Quyết
Dược
Sư Thập Nhị Nguyện Văn
Cuốn
Dược sư Thập nhị nguyện văn được vua Lý Nhân Tông sai
sứ thần đem sang tặng vua Triết Tông nhà Tống. Vua Tống
giao sách này cho các thiền sư chùa Tướng Quốc xem và bảo
có chỗ nào đáng sửa chữa thì sửa chữa lại. Các vị này
xem xong thì tâu vua: “Ðây là đấng hóa thân đại sĩ ra đời
ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi
không dám thêm bớt gì nữa”. Vua Tống liền cho sao một bản,
còn bản chính thì trả lại Lý Nhân Tông với những lời
khen ngợi. Sau đây là một số thiền ngữ có tính thi ca còn
được chép lại trong Thuyền Uyển Tập Anh, có lẽ là những
gì còn lại trong tập Tham đồ Hiển Quyết, một tác phẩm
ghi lại những đề án thiền học. Một vài câu vấn đáp:
Hỏi:
Phật và Thánh khác nhau chỗ nào
Ðáp:
Cúc trùng dương dưới dậu
Oanh
thục khí đầu cành
(Ly
hạ trùng dương cúc
Chi
đầu thục khí oanh)
Hỏi:
Kẻ học nhân chưa hiểu xin thầy dạy lại
Ðáp:
Ngày quạ vàng chiếu sáng
Ðêm
thỏ ngọc sáng soi
(Trú
tắc kim vô chiếu
Dạ
lai ngọc thố minh)
Hỏi:
Ðã nhận được yếu chỉ
Nhưng
huyền cơ ra sao
Ðáp:
Nước đã đầy bình vạc, chân vô ý
Vấp
ngã một lần hối được sao?
(Bất
thận hủy bàn kinh mãn xứ
Nhất
tao sa điệt hối hà chi?)
Và
Muốn
dìm cho sóng chết
Ai
hay thân tự trầm
(Mạc
quán giang ba nịch
Thân
lai khước tự trầm)
Hỏi:
Bồ Ðề Ðạt Ma ở núi Thiếu Thất hành đạo đạt đến
chỗ huyền diệu sâu thẳm: từ xưa đến nay ai là kẻ thừa
kế xứng đáng nhất?
Ðáp:
Trời tối sáng soi nhờ nhật nguyệt
Ðất
hiểm phân ranh có núi sông
(U
minh càn tượng nhân ô, thố
khuất
khúc khôn duy vị nhạc, hoài)
Hỏi:
Thế nào là con đường đưa đến căn nguyên của đại đạo?
Ðáp:
Cỏ mạch đứng bờ cao gió dữ
Nước
nhà thời loạn biết trung lương
Hỏi:
Tất cả mọi chúng sinh từ đâu tới và sẽ đi về đâu.
Ðáp:
Rùa mù xuyên vách đá
Rùa
què leo núi cao
(Manh
quy xuyên thạch bích
Bì
miết thướng cao sơn)
Hỏi:
Người ta nói: khóm trúc xanh xanh kia là chân như. Vậy công
dụng của chân như là gì?
Ðáp:
Ðưa người xa ngàn dặm
Cười
tặng một bình trà
(Tặng
quân thiên lý viễn
Tiểu
bá nhất bình trà)
Thiền
sư Trí Bảo (mất 1190), một thiền sư sống khổ hạnh có
đức khiêm nhượng lớn, mỗi khi có người trêu chọc thường
chắp hai tay lại, cũng là một thiền sư hay dùng thiền ngữ
thi ca. Ông thường ra tay bắc cầu sửa đường mỗi khi gặp
đường hư đường lở. Trong khi đàm luận với thầy là Ðạo
Huệ, ông đã dùng những câu sau đây:
Không
nhờ gió cuốn mây trôi hết
Màu
xanh sao tỏ một trời thu?
(Bất
nhân phong quyện phù vân tận
tranh
kiến thanh thiên vạn lý thu)
và:
Quen
biết đầy thiên hạ
Tri
âm được mấy người?
(Tương
thức mãn thiên hạ
Tri
âm năng kỳ nhân?)
Thiền
sư Tịnh Không (mất 1170) chuyên tu hạnh đầu đà, mỗi lần
nhập định lâu tới năm bảy ngày. Có một lần kẻ trộm
tới, ông chỉ vào thùng phước sương cho kẻ kia lấy tiền.
Ðây cũng là một thiền sư thi sĩ. Người ta hỏi Phật là
gì, ông đáp:
Nhật
nguyệt trời cao soi mọi cõi
Ai
hay mây khói phủ non sông
(Nhật
nguyệt lệ tam thiên hàm trân sát
Thùy
tri vân tụ lạc sơn hà?)
Người
kia hỏi: “Làm thế nào mà hiểu?”
Ông
đáp: Mục đồng ngủ mãi lưng trâu nọ
Câu chuyện anh hùng biết được sao?
(Mục đồng kỳ quán ngọ ngưu bối
Sĩ hữu anh hùng khoa đắc y)
Hỏi:
Ý chỉ của Tổ truyền khác với ý chỉ của giáo lý ở chỗ
nào?
Ðáp:
Chư hầu vạn nẽo đều xuôi khuyết
(Vạn
lý thê hàng giai triều khuyết)
Hỏi:
Hòa thượng có sở đắc đặc biệt tại sao không nói cho
chúng con nghe?
Ðáp:
Ông thổi lửa, tôi vo gạo.
Ông
khất thực tôi mang bình
Ai
có phụ ai đâu
Một
hôm ông họp chúng lại đọc một bài thơ sau đây:
Trên
không manh ngói che
Dưới
không đất cắm dùi
Kẻ
mặc áo lạ tới
Người
xách gậy tìm lại
Khi
hành động xúc tiếp
Như
rồng nhảy đớp mồi
(Thượng
vô phiến ngõa già
Hạ
vô trác chùy địa
Hoặc
dị phục trực nghệ
Hoặc
sách trượng nhi chí
Ðộng
chuyển xúc xử gian
Tự
long được thị thôn
Có
một vị tăng bước ra hỏi: “Ngài có cái gì thế?”
Ông
cười:
Ngày
ngày đi hái củi
Kho
lúa vẫn còn rồng
(Nhật
nhật khứ hoặch hòa
Thời
thời không thương lẫm!)
Thiền
phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi cũng chịu an lối dùng thiền ngữ thi
ca, nhưng ít hơn thiền phái Vô Ngôn Thông. Thiền sư Chân Không
(mất 1100) giỏi về sử học, cũng đã từng cư trú núi Từ
Sơn nơi Thiền Lão dạy học. Những thiền ngữ của ông chứa
đầy thi vị. Một hôm có vị tăng hỏi: “Diệu đạo là
gì?” Ông nói: “Giác rồi mới biết”. Người kia nói: “Học
nhân chưa hiểu được, xin thầy dạy cho”. Ông nói:
Ðến
được động tiên sâu thẳm ấy
Linh
đơn đổi xác mới quay về
(Nhược
đáo tiên gia thâm động nội
Hoàn
đan hoán cốt đắc hoài quy)
Hỏi:
Linh đơn nào mới được chớ
Ðáp:
Vạn kiếp si mê không hiểu thấu
Sáng
nay bừng mở nẻo khai minh
(Kiếp
tịch ngu mông vô động hiểu
Kim
thần nhất ngộ đắc khai minh)
Hỏi:
Linh đơn nào mới được chứ?
Ðáp
Vạn kiếp si mê không hiểu thấu
Sáng
nay bừng nẽo khai minh
(Kiếp
tịch ngu mông vô động hiểu
Kim
thần nhất ngộ đắc khai minh)
Hỏi:
Nhưng khai minh thế nào?
Ðáp:
Khai minh thấy hết trần gian nọ
Muôn
loại sinh linh thảy một nhà
(Khai
minh chiếu triệt ta bà giới
Nhất
thiết chúng sinh cộng nhất gia)
Hỏi:
người ta nói: “Tuy không biện luận nhưng đâu đâu cũng
gặp người”. Người đây là ai?
Ðáp:
Lửa cháy tàn rồi, tan sạch hết
Non
xanh, mây trắng vẫn còn bay
(Kiếp
hào đồng nhiên hào mạt tịnh
Thanh
sơn y cựu bạch vân phi
Hỏi:
Sau khi chết xác thân tan rã rồi thì sao
Ðáp:
Xuân đi xuân đến ngờ xuân hết
Hoa
nở hoa tàn cũng lại xuân
(Xuân
lai Xuân khứ nghi xuân tận
Hoa
lạc hoa khai chỉ thị xuân
Người
kia đang suy nghĩ thì ông hét một tiếng và nói:
Bình
nguyên sau trận cháy
Cây
cỏ càng xanh thơm
(Bình
nguyên kinh hỏa hậu
Thực
vật các thù phương)
Người
kia bừng tỉnh bèn lạy xuống.
ẢNH
HƯỞNG MẬT GIÁO
Thiền
học Vô Ngôn Thông không có màu sắc Mật Giáo, nhưng ảnh
hưởng của Mật Giáo trong thiền phái đó do ông lập ra cũng
khá quan trọng. Ảnh hưởng ấy có thể thấy rõ ở các thiền
sư Không Lộ, Giác Hải và Nguyện Học.
Thiền
sư Không Lộ đã từng là bạn với các thiền sư Giác Hải
và Ðạo Hạnh. Ðã từng đi Ấn Ðộ học về Mật Giáo, và
đắc “lục trí thần thông”. Ông họ Nguyễn, tên là Chí
Thành, cũng có tên là Minh Không, và được sắc phong là quốc
sư sau khi dùng pháp thuật chữa lành bệnh cho vua Lý Thần
Tông. Năm lên 21 tuổi,vua này mắc phải một chứng bệnh kỳ
lạ: ngồi xổm và rống như mãnh hổ: triều đình hoảng sợ
không biết chạy thầy thuốc làm sao. Lúc ấy ngoài thành có
trẻ con bỗng hát bài hát đồng dao rằng:
Nước
có Lý Thần Tông
Triều
đinh vạn sự thông
Muốn
chữa lành bệnh Hoàng Ðế
Phải
tìm Nguyễn Minh Không
Người
ta cho đi tìm Không Lộ. Khi người của triều đình đến nơi,
ông hỏi: “Có phải là để cứu bệnh hóa cọp đó chăng?”
và lập tức cùng sứ giả trở lên kinh đô. Ông đi thẳng
đến điện, sai người đun sôi một vạc nước lớn, bỏ
một ít cây đinh vào đó, sau lấy nước cho vua tắm, lông
lá liền rụng và bệnh vua lành.
Tục
truyền là Không Lộ đã có công trong sự tạo thành bốn tác
phẩm nghệ thuật lơn thời Lý gọi là tứ đại khí: Tháp
chùa Báo Thiên, tượng Phật A Di Ðà chùa Quỳnh Lâm, đỉnh
chuông Phổ Minh và chuông chùa Phổ Lại. Bao nhiêu chuyện thần
kỳ đã được dựng ra quanh việc Không Lộ tạo dựng những
tác phẩm nghệ thuật này. Ví dụ chuyện Không Lộ đi qua
Tống xin đồng về đúc chuông, tượng và đỉnh. Với một
tay nải, ông đã bỏ vào gần hết kho đồng nhà Tống.
Thiền
sư Không Lộ mất vào năm 1141, hiện còn thờ ở đền Lý
Quốc Sư, huyện Thọ Xương, Hà Nội.
Thiền
sư Giác Hải lúc nhỏ làm nghề đánh cá, hai mươi lăm tuổi
xuất gia, đã từng cùng Không Lộ học với thiền sư Lôi
Hà Trạch. Ông cũng quen với một đạo sĩ tên là Thông Huyền,
và đã được một lần cùng với Thông Huyền được vua Lý
Nhân Tông mời vào cung. Cả hai, sau khi thực hiện phép niệm
chú (Thông Huyền) và chú mục ngưng thần (Giác Hải) để
làm rơi hai con cắc kè trên nóc điện, được vua Lý Nhân
Tông khen ngợi trong bài thơ sau:
Tâm
Giác Hải như hải
Ðạo
Thông Huyền thật huyền
Thần
thông và biến hóa
Bên
Phật bên là Tiên [15]
Sách
Thuyền Uyển Tập Anh kể: một hôm vua Nhân Tông hỏi Giác
Hải về thuật “ứng chân thần túc”, ông này liền biến
hiện tâm cách, nhảy lên trên không, cách mặt đất mấy trượng.
Vua và quần thần đều thán phục. Sau này vua Lý Thần Tông
có triệu thỉnh, nhưng ông cáo bệnh không vào. Ông mất năm
1138.
Thiền
sư Nguyễn Học (mất 1174) từng theo học với thiền sư Viên
Trí chùa Mật Nghiêm; sau khi đắc đạo liền về ở ẩn núi
Vệ Linh chuyên tu thiền quán trong 12 năm. Ông thường trì tụng
chú Hương Hải Ðại Bi trị bệnh và cầu mưa không khi nào
là không linh nghiệm. Vau Anh Tông thấy sự thần nghiệm, triệu
ông vào cung, để ông ra vào tự do, nhưng sau ông cáo bệnh
về chùa, dạy học hơn trăm người. Ông là người cực lực
chủ trương thuyết vô đắc.
Mật
Giáo thịnh hành tại Việt Nam từ những thế kỷ thứ bảy
và thứ tám: tuy thiền phái Vô Ngôn Thông cố sức tự bảo
vệ không để cho Mật Giáo thâm nhập (Thông Biện rất chống
Ðại Ðiên và Bát Nhã) nhưng vẫn không tránh khỏi ảnh hưởng
của giáo lý này. Sự kiện cho ta thấy tầm quan trọng của
Mật Giáo ở Việt Nam từ ngày Tỳ Ni Ða Lưu Chi đến Việt
Nam qua Ðinh, Tiền Lê cho đến cuối Lý.
ẢNH
HƯỞNG TỊNH ÐỘ GIÁO
Trong
câu chuyện về Không Lộ, ta nghẹ nói đến việc thiền sư
tạo nên tượng Phật A Di Ðà của chùa Quỳnh Lâm. Không Lộ
mất vào năm 1141 nhưng trước đó 100 năm, vào năm 1057, một
tượng Phật A Di Ðà bằng đá cao hai thước rưỡi tây đã
được lang tướng của vua Lý Thánh Tông thực hiện tại núi
Lạng Kha, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tượng Di Ðà này
vẫn còn ở chùa Phật Tích, Bắc Ninh. Bia đá chùa Phật tích
có nói về chuyện này. Vậy thì có sự có mặt của giáo
lý Tịnh Ðộ ở Việt Nam được đánh dấu chậm lắm vào
khoảng giữa thế kỷ thứ mười một.
Tịnh
Ðộ Giáo chủ trượng niệm Phật để đạt đến Nhất tâm
bất loạn và cũng để vãng sanh vào nước Cực Lạc của
Phật A Di Ðà. Giáo lý niệm Phật được Huệ Viễn khởi
xướng ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ năm, chú trọng vào phương
pháp quán niệm cũng rất gần gũi với thiền định. Trong
truyền thống thiền buổi đầu thỉnh thoảng đã thấy có
những người áp dụng phương pháp niệm Phật: Tuyên Thập,
đệ tử ngũ tổ Hoàng Nhẫn, đã thành lập nhóm: “ Nam Sơn
Niệm Phật Thiền”; Pháp Trí chùa Ngưu Ðầu Tông cũng là
một thiền giả chuyên niệm Phật. Nhưng từ Huệ Năng (thế
kỷ thứ bảy) người ta phải đợi đến thế kỷ thứ mười
mới có thiền sư Diên Thọ (904-975) sử dụng phương pháp
niệm Phật. Chịu ảnh hưởng của Mật Giáo còn lại của
đời Ðường, ông cũng thực hành phương pháp trì chú của
Mật Giáo nữa. Ta biết rằng thiền học Việt Nam đã từ
lâu thấm nhuần Mật Giáo; nhưng ta không biết được cách
nào mà giáo lý niệm Phật đã thâm nhập vào thiền phái Vô
Ngôn Thông. Ta chỉ có thể nói đây là do sự tiếp xúc giữa
các thiền sư phái này với thế hệ tăng sĩ Trung Hoa đệ
tử thiền sư Diên Thọ. Nguyên tắc của Diên Thọ là “cõi
Tịnh Ðộ ở ngay trong tâm, ngoài tâm không có Pháp” (Duy
tâm Tịnh Ðộ, tâm ngoại vô Pháp). Ông rất sở trường về
kinh Hoa Nghiêm: ông chủ trương “chân tâm duy nhất” và “lý
sự vô ngại”.
Sách
Thuyền Uyển Tập Anh, ngoài việc nhắc đến tượng đồng
A Di Ðà do Không Lộ thực hiện, còn có nói đến thiền sư
Tịnh Lực như một người đã đắc được pháp “niệm Phật
mà hoàn thành được thiền định. Ông dạy đệ tử là “không
nên cầu sự chứng ngộ bên ngoài” và “nếu muốn diệt
trừ các ác nghiệp thì nên áp dụng phương pháp niệm tụng
bằng cả tâm lẫn miệng”. Sự phối hợp giữa Thiền và
Tịnh Ðộ sau này sẽ trở nên quan trọng trong đạo Phật
tại Việt Nam.
TÓM
LƯỢC NHỮNG ÐẶC TÍNH CỦA THIỀN PHÁI VÔ NGÔN THÔNG
Thiền
phái Vô Ngôn Thông được truyền thừa trong thời gian bốn
thế kỷ (từ đầu thế kỷ thứ chín đến đầu thế kỷ
thứ mười ba), trong khi thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi có một
lịch sử truyền thừa dài sáu thế kỷ (từ thế kỷ thứ
sáu đến thế kỷ thứ mười ba). Thiền phái Vô Ngôn Thông
chịu ảnh hưởng Phật Giáo Trung Hoa sâu đậm hơn thiền phái
Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Ảnh hưởng nay được thấy trong lối trình
bày lịch sử Thiền, trong lối tổ chức tu viện, trong việc
sử dụng thoại đầu, và ở chỗ ảnh hưởng của Tịnh Ðộ
Giáo. Các thiền sư trong thiền phái này thay vì chỉ dùng các
kinh Bát Nhã, đã sử dụng rất nhiều các kinh điển khác
như kinh Viên Giác, Pháp Hoa, họ nhấn mạnh đến chủ trương
đốn ngộ và vô đắc vốn rất gần gũi với giáo lý thiền
phái Nam Phương ở Trung Hoa. Nhưng khác với thiền phái Trung
Hoa, thiền phái này, cũng như thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi,
đã rất gần gũi với đời sống xã hội, tham dự vào đời
sống nhập thế trong khi vẫn duy trì được sinh hoạt tâm
linh độc lập của mình.
[1]
27) Mùa kết hạ; Varsas, tức là ba tháng mùa mưa, trong thời
gian này chư tăng an cư tĩnh tu không ra khỏi tu viện.
[2]
28) Ý thiền sư Vô Ngôn Thông là thiền hay thiền sư không
phải làmột cái gì có thể định nghĩa được, như cây thoan
lư kia, nhìn thẳng vào đó thì thấy ngay, khỏi cần qua trung
gian ngôn ngữ và khái niệm. Thiền là sự tỉnh thức, sự
sinh hoạt trong thế giới thực tại chỉ có thể thể nghiệm
mà không thể đàm luận và giảng giải.
[3]
29) Nhất đại sự nhân duyên: Lý do lớn của sự xuất hiện
của Phật trên đời, tức là khai mở cho chúng sinh thấy,
hiểu, giác ngộ và thâm nhập tri kiến Phật (khai thị ngộ
nhập Phật tri kiến - Kinh Diệu Pháp Liên Hoa).
[4]
30) Diệu tâm: Tâm màu nhiệm.
[5]
31) Chính pháp nhãn tạng: Kho tàng của cải thấy về chính
pháp.
[6]
32) Thực tướng vô tướng: Chân lý không màu sắc.
[7]
33) Pháp môn tam muội: Phương pháp thiền định.
[8a]
34) Những tu viện của Luật Tông, lấy giới luật làm căn
bản cho giáo lý.
[8]
35) A tăng kỳ kiếp: Vô số kiếp
[9]
36) “Ðạt thời biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ”.
[10]
37) “Nhất thiết chư pháp giai tòng tâm sinh, tâm vô sở sinh,
pháp vô sở trú, nhược đạt tâm địa, sở vô tác ngại”.
[11]
38) Ðạo vô hình tượng
Xúc
mục phi dao
Tự
phản suy cầu
Mạc
cầu tha đắc
Túng
nhiêu cầu đắc
Ðắc
tức bất chân
(Lược)
Sở
dĩ tam thế chư Phật, lịch đại tổ sư
Ấn
thụ tâm truyền, diệc như thị thuyết
[12]
39) Liễu ngộ chân tâm khai tuệ nhãn
Biến
hóa linh thông hiện thực tướng
Hành
trú tọa ngọa độc trác nhiên
Ứng
hiện hóa thân bất khả lượng
Tuy
nhiên sung mãn biến hư không
Quán
lai bất biến như hữu tướng
Thế
gian vô vật khả tỷ huống
Trường
hiện linh quang minh lãng lãng
Thường
thời diễn thuyết bất tư nghị
Vô
đắc nhất ngôn dĩ vô đương
(Chú
thêm: trong thơ ca Nguyện học va một số thiền sư Việt Nam,
có sự lẫn lộn ít nhiều với thơ ca của các thiền sư Trung
Quốc. Xem Hà Văn Tấn: Vấn đề văn bản học các tác phẩm
văn học Phật Giáo Việt Nam. Tạp chí văn học, số 4-1992
- N.HC.)
[13]
40) Ðây là ví dụ thoại đầu mà Quy Sơn dùng cho Hương Nghiêm,
một đệ tử thông minh học rộng, nhưng chưa có chiều sâu
tu chứng: “Tôi không muốn hỏi về những kiến thức của
ông. Tôi chỉ muốn hỏi xem trong đời sống thường nhật
của ông, ông đã thấy được gì. Hãy tùy tiện nói ra một
câu xem? Ông hãy nói cho tôi xem trước khi được cha mẹ ông
sinh ra thì mặt mũi của ông như thế nào?” Hương Nghiêm
không trả lời được. Ông nói: “Xin thầy dạy con đi”.
Quy Sơn: “Nếu tôi nói kiến giải của tôi cho ông nghe thì
có lợi ích gì cho ông đâu?” Hương Nghiêm về đốt hết
sách vở, bắt đầu vào thực tế Thiền quán, sau này nhân
cuốc đất làm văng một hột sỏi vào thân tre [cốc] một
cái, liền hoắt nhiên khai ngộ. Quy Sơn đã dùng một thoại
đầu.
[14]
41) Nghĩa cứu cánh: Chân lý tuyệt đối
[15]
42) Giác hải tâm như hải
Thông
Huyền đạo hựu huyền
Thần
thông kiêm biến hóa
Nhất
Phật nhất thần tiên.