CHƯƠNG
XI
TUỆ
TRUNG THƯỢNG SĨ
DIỆN
MỤC TUỆ TRUNG
Sách
Hoàng Việt Văn Tuyển nói Tuệ Trung thượng sĩ là Hưng Ninh
Vương Trần Quốc Tảng, con lớn của Trần Hưng Ðạo. Sự
thực thì tuy Tuệ Trung thượng sĩ có tước hiệu là Hưng
Ninh Vương, nhưng ông không phải tên là Trần Quốc Tảng,
cũng không phải là Trần Hưng Ðạo, và tên ông là Trần Quốc
Tung[1] . Trần Nhân Tông, người khảo đính sách Tuệ Trung
thượng sĩ Ngữ Lục, trong bài Thượng Sĩ Hành Trạng in ở
cuối sách [2]có nói rõ “Tuệ Trung thượng sĩ là con
đầu của Khâm Minh Từ Thiện Ðại Vương và là anh cả của
Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Ðại Vương mất,
hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa phong cho thượng sĩ tước
Hưng Ninh Vương”.
Khâm
Minh Từ Thiện Ðại Vương là tước hiệu Trần Thái Tông
ban cho anh ruột là Yên Sinh Vương Trần Liễu khi ông này mất.
Ðó là vào cuối năm 1251, cũng vào năm ấy Tuệ Trung thượng
sĩ được 21 tuổi, và được phong tước Hưng Ninh Vương,
Hoàng thái hậu Thiên Thánh Thiên Cảm là con thứ năm của
Yên Sinh Vương Trần Liễu, tên là Thiều, là vợ của vua Trần
Thánh Tông. Trần Hưng Ðạo có một người con gái là Trần
Quốc Tảng, nhưng tước hiệu là Hưng Nhượng Vương, chứ
không phải là Hưng Ninh Vương. Theo Trần Nhân Tông, Tuệ Trung
là một con người có khí lượng thâm trầm, phong thần nhàn
nhã. Từ lúc nhỏ, ông đã tỏ ra có bẩm chất cao sáng, thuần
hậu, và yêu mến đạo Phật. Lớn lên, Tuệ Trung được cử
trấn đất Hồng Lộ, tức là Hải Dương bây giờ. Ông có
công hai lần trong việc ngăn giặc Bắc xâm lăng. Sau được
thăng chuyển giữ chức tiết độ sứ trấn giữ hải đạo
Thái Bình. Sau ông lui về ấp Tịnh Bang (nay là huyện Vĩnh
Lại, làng Yên Quảng) và đổi tên là Vạn Niên, tự hiệu
là Tuệ Trung. Tại thực ấp của ông, ông có dựng lên Dưỡng
Chân Trang làm nơi tọa thiền và tu niệm.
Là
anh vợ của vua Trần Nhân Tông, ông cũng là người bạn thân
thiết của vua. Vua Thánh Tông ksy thắc con là Trần Nhân Tông
cho ông dạy dỗ. Ông được Thánh Tông xưng là sư huynh. Tháng
hai năm 1278 hoàng hậu Thiên Cảm qua đời, vua Thánh Tông cúng
chay ở trong cung, bảo con là Nhân Tông đi mời Tuệ Trung đến
dự. Có mặt trong lễ khai đường là nhiều vị tôn túc, trưởng
lão của thiền môn. Thánh Tông thỉnh mỗi vị làm một bài
kệ ngắn để tỏ bày kiến giải về Phật pháp của mình.
Trong lúc tư tưởng các vị còn như “nước đọng vũng bùn”
chưa được khai thông thì vua mang giấy bút tới trước mặt
Tuệ Trung. Ông viết liền bài kệ sau đây:
Viết
kệ trình kiến giải
Như
dụi mắt thấy quái
Dụi
mắt thấy quái xong
Lại
rỡ ràng tự tại.
Vua
Thánh Tông đọc xong phê tiếp như sau:
Rỡ
ràng và tự tại
Cũng
một thứ thấy quái
Thấy
quái mà không quái
Thìa
quái ấy tự hoại
Tuệ
Trung đọc, rất bằng lòng. Thánh Tông rất khâm phục đạo
học của Tuệ Trung, chính vua là người đầu tiên gọi ông
là Thượng Sĩ [3]. Thượng Sĩ cũng có nghĩa tương đương
với bồ tát. Hồi em gái Tuệ Trung hoàng hậu Thiên Cảm còn
sống, một hôm ông bà mời vào cung ăn tiệc. Trên bàn có
những món mặn và món chay, ông đã gắp thức ăn một cách
không phân biệt. Hoàng hậu hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt
cá thì làm sao mà thành Phật được?” Ông cười đáp: “Phật
là Phật, anh là anh; anh không cần thành Phật. Phật không
cần thành anh. Em chẳng nghe cổ đức nói “Văn Thù là Vưn
Thù, giải thoát là giải thoát “đó sao?” Vua Nhân Tông hồi
đó cũng có mặt trong bữa tiệc, và vua không quên câu chuyện
này, định một ngtày kia sẽ hỏi Tuệ Trung cho ra lẽ. Năm
vua 29 tuổi, mẹ mất. Vua Thánh Tông đang bối rối về cái
chết của Hoàng hậu lại còn bận tâm đối phó với một
cuộc xâm lăng của quân Nguyên do Áo Lỗ Xích Ô Mã Nhi và
Phàn Tiếp chỉ huy, mới sai Nhân Tông đi đón Tuệ Trung, trước
khi lên đường về cung, Tuệ Trung trao cho Nhân Tông, lúc ấy
đã lên ngôi gần 9 năm, hai bộ ngữ lục Tuyết Ðậu và Dã
Hiên, để đem về cung học tập những lúc rỗi rảnh. Vua
nhớ lại chuyện ăn thịt cá và tính cách “hòa lẫn thế
tục” của Tuệ Trung, liền làm bộ ngây thơ hỏi một cách
gián tiếp:
“Bạch
thượng sĩ, chúng sinh quen cái nghiệp ăn thịt uống rựu thì
làm thế nào mà thoát khỏi tội báo?”
Tuệ
Trung đã trả lời như sau về vấn đề tội báo:
“Nếu
có người đang đứng xây lưng lại, thình lình vua đi qua sau
lưng, người ấy không biết, cầm một vật gì ném nhằm vua.
Thử hỏi: người ấy có sợ không, ông vua có giận không?
Nên biết hai việc ấy không dính líu gì với nhau vậy.”
Rồi
ông đọc hai bài kệ sau đây cho vua nghe:
Vạn
pháp vô thường cả
Tâm
ngờ tội liền sinh
Xưa
nay không một vật:
Chẳng
hạt, chẳng mầm xanh.
Hàng
ngày, khi đối cảnh
Cảnh
đều do tâm sinh
Tâm,
cảnh đều không tịch
Khắp
chốn tự viên thành [4].
Nhân
Tông thưa với Tuệ Trung rằng ông đã hiểu lời dạy về
tội phúc. Nhưng Tuệ Trung biết là Nhân Tông còn thắc mắc.
Ông đọc tiếp bài kệ sau đây:
Có
loài thì ăn cỏ
Có
loài thì ăn thịt
Xuân
về thảo mộc sinh
Tìm
đâu thấy tội phúc? (60)
Nhân
Tông liền hỏi câu hỏi ông đã dành sẳn trong tâm tư lâu
nay: “Như vậy thì công phu giữ giới trong sạch không chút
xao lãng là để làm gì?” Tuệ Trung cười không đáp. Vua
cố nài. Tuệ Trung đọc hai bài kệ sau đây:
Trì
giới và nhẫn nhục
Thêm
tội chẳng được phúc
Muốn
siêu việt tội phúc
Ðừng
trì giới, nhẫn nhục.
Như
người khi leo cây
Ðương
yên tự chuốc nguy
Nếu
đừng leo cây nữa
Trăng
gió làm được gì? [5]
Và
dặn kỹ Nhân Tông “đừng bảo cho người không ra gì biết”.
Ta nên nhớ rằng lúc bấy giờ Tuệ Trung đã 57 tuổi, và tư
tưởng thiền của ông đã đến giai đoạn chín chắn siêu
việt. Ông mất năm 62 tuổi, vào năm 1291.
Vua
Nhân Tông một hôm hỏi về tông chỉ thiền phái của Tuệ
Trung. Ý của Nhân Tông là muốn tìm hiểu bí quyết giác ngộ
mà Tuệ Trung đã được thiền sư Tiêu Diêu trao truyền, Tuệ
Trung nói:
“Hãy
quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy, không thể đạt
được từ ai khác”.
Lời
nói ấy khiến Nhân Tông thấy được ánh sáng của thiền
đạo. Ngày thị tịch, Tuệ Trung không nằm trong phòng riêng
mà cho kê giường nằm ở Dưỡng Chân Trang, giữa thiền đường
lớn. Ông nằm xuối theo kiểu cát tường, mắt nhắm. Những
người hầu hạ và thê thiếp khóc rống lên Ông mở mắt
ngồi dậy, bảo lấy nước rửa tay súc miệng rồi quở nhẹ
rằng: “Sống chết là lẽ thường nhiên, sao lại buồn thảm
luyến tiếc để cho chân tính ta náo động?” Nói xong thì
tịch một cách êm ái. Ðó là vào ngày mồng một tháng tư
năm Tân mão (1291).
HÒA
QUANG ÐỒNG TRẦN
Vua
Nhân Tông viết: “ Thượng sĩ sống giữa lòng thế tục,
hòa ánh sáng mình trong cuộc đời bụi bặm; trong mọi cuộc
tiếp xúc thượng sĩ luôn luôn giữ thái độ hòa ái nên chưa
bao giờ gặp phải những trường phiền ngịch. Do đó, ngài
có thể làm tiếp nối được hạt giống chánh pháp, dìu dắt
được những kẻ mới học. Ai đến tham cứu tìm học với
ngài cũng được ngài chỉ dẫn sơ lược cho thấy phần cương
yếu của đạo pháp khiến tâm họ có chỗ nương tựa. Thượng
sĩ không bì ràng buộc bởi hình thức; khi thì ẩn tàng, khi
thì lộ diện, ngài không chấp vào hình thức và danh từ”.
Hòa
quan đồng trần là danh từ của Lão Giáo mà giới Phật tử
đã dùng để diễn tả thái độ dấn thân và hòa mình của
các vị bồ tát trong cuộc đời để phụng sự. Ðối với
một nhân cách như Tuệ Trung, những hình thức xuất gia và
tại gia đã trở thành không quan trọng. Dù không được Tuệ
Trung trao truyền y bát. Nhân Tông cũng nhận Tuệ Trung là bậc
thầy đã khai sáng cho tâm linh mình. Dù không phải là một
vị xuất gia, Tuệ Trung vẫn được gọi là “thầy” (sư)
một cách cung kính trong sách Thượng Sĩ Ngữ Lục [6]
Ðọc
những đoạn đối thoại giữa Tuệ Trung vàhoàng hậu Thiên
Cảm với vua Nhân Tông về chuyện ăn chay, thành Phật và quả
báo, ta thấy được ngay là những bề ngoài hình thức không
còn quan trọng với ông nữa.
Nhưng
Tuệ Trung không phải là vị “Thiền sư tại gia” đầu tiên
trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, Tuệ Trung là đệ tử của
thiền sư Tiêu Diêu, mà thiền sư Tiêu Diêu lại là học trò
đắc pháp với một vị thiền sư cư sĩ khác rất nổi tiếng
ở kinh đô Thăng Long, đó là Ứng Thuận, ta thấy còn có quốc
sư Nhất Tông, thiền sư Giới Ninh và thiền sư Giới Viên,
mà uy thế tâm linh cũng ngang hàng với thiền sư Tiêu Diêu
vậy.
Truyền
thống hòa quang đồng trần có lẽ có thể tìm thấy từ thiền
sư Thường Chiếu ở chùa Lục Tổ, người làm gạch nối
giữa Phật Giáo ba-tông-phái đời Lý và Phật Giáo một-tông-phái
đời Trần. Thường Chiếu đã truyền dạy cho các đệ tử
mình nguyên tắc “tùy tục” nghĩa là làm giống như cuộc
đời. Hồi Thường Chiếu sắp viên tịch, ông đã giảng dạy
cho Thần nghi về nguyên tắc này. Thần Nghi là đệ tử lớn
của Thường Chiếu và là người có sở đắc tâm linh sâu
sắc nhất trong số các đệ tử của Thường Chiếu. Ông tu
phạm hạnh, giữ giới luật nghiêm minh. Nhưng không cạo đầu
mà lại để tóc dài.
Nhân
cách của Tuệ Trung ta có thể nhận ra được phần nào trong
thái độ của ông đối với cuộc đời, và trong những lời
nói và những câu thơ ghi lại trong sách Thượng Sĩ Ngữ lục.
Thiền sư Pháp Loa (1284 -1330) đã viết một bài kệ ngắn có
tên sau đây có thể là nói lên được tính chất của con
người Tuệ Trung:
Á!
Gang
ròng nhồi lại
Sắt
sống đúc thành
Thước
trời, tất đất
Gió
mát, trăng thanh
Ối!
(Trúc
Thiên dịch)
(Á!
Thần
cương đả tựu
Sinh
thiết chú thành
Xích
thiên thốn địa
Nguyệt
bạch phong thanh
Ðốt!)
Một
thiền sư khác tên Pháp Cổ, đồng thời với Pháp Loa, đã
làm bài kệ sau đây để nói về đạo nghiệp của Tuệ Trung:
Xưa
quốc sư
Nay
thượng sĩ
Một
thể trượng phu mà hai vị
Dưới
gió, Tỳ gia đứng thế cao
Một
trái cà xưa nhà Bàng Uẩn
Khí
giới tam huyền phá ngục tù
Trên
mắt lông nheo ngừng tư tưởng
Mí
mắt khép lấy núi Tu Di
Há
miệng uống liền hết biển cả
Xâu
ngọc ly dưới cằm Ninh Long
Liệng
sợi tơ Sen trói mãnh hổ.
Pháp
vương hay vương pháp, tùy cơ
Nắm
tay cùng về quên bỉ thử
Khi
nhân độc tấu đàn không giấy
Tình
tang ca vũ rền thôn xóm
Tính
tình tang
Tang
tính tình
Ðâu
cần theo giốc, chủy, cung, thương
Thầy
ta nối khúc Ôn Như Cũ
Cách
điệu phi thường hoa mỹ thêm
Tử
Kỳ đi rồi, tri âm thiếu
Mênh
mông trời nước cũ còn đâu
Người
sau tiếp nối húc hư truyền
Bắt
chước như xưa sai lạc hết
Cổ
quốc sư
Kim
thượng sĩ
Nhất
cá trượng phu phân bỉ thử
Tỳ
gia tác giả lập hạ phong
Ngốc
lão Bàng Công thậm gia tử
Tam
huyền qua giáp phá lao quan
Trát
thượng mi mao hưu nghĩ nghĩ
Nhãn
bì cái khước Tu Di lô
Khẫu
lý hoành thôn đại hải thủy
Ninh
Long hàm hạ xuyên ly châu
Phóng
xuất ngũ ti phược Hổ nhi
Pháp
vương vương pháp nhậm hoành hành
Ba
thủ đồng đồ vong nhữ nhĩ
Ðẳng
nhàn hí lộng một huyền cầm
Xã
vũ thôn ca thả ra rị
Rị
ra ra
Ra
rị rị
Bất
thuộc cung thương giốc vũ chủy
Ngô
sư thanh Ôn Như điệu
Cách
tương thù thường hựu tăng mỹ
Tứ
kỳ dĩ hỹ tri âm hy
Kỷ
cá dương dương tịa hồ nhĩ
Hậu
nhân tiếp hưởng thừa kù hư
Nhận
thức y tiền hoàn bất thị
Ý!)
Tùy
tục hay không tùy tục, trộn lẫn với đời hay không trộn
lẫn với đời, hành tung của Tuệ Trung chỉ có thể là hành
tung của Tuệ Trung, chẳng ai có thể bắt chước mà trở nên
Tuệ Trung được.
ÐẬP
VỠ THÁI ÐỘ BÁM VÍU VÀO KHÁI NIỆM
Trong
lúc giáo hóa môn đệ, Tuệ Trung đã sử dụng những đòn
mãnh liệt nhằm giải phóng người đối thoại khỏi những
ngục tù của khái niệm về giáo lý tìm thấy trong kinh điển
và trong các lời dạy của các vị cổ đức. Phương pháp
của Tuệ Trung thường làm cho người đối thoại cảm thấy
hoàn toàn lạc hướng và do đó mà thoát ly khỏi ngục tù
của khái niệm. Ðây ta thử nghe một vài đối thoại:
Một
vị tăng hỏi: Thế nào là pháp thân trong sạch?
Tuệ
Trung:
Ra
vào đống phân ngựa
Nghiên
tầm vũng nước trâu
Vị
tăng; Làm sao mà chứng nhập được?
Tuệ
Trung: Bỏ được những khái niệm về dơ bẩn thì tự khắc
đó chính là pháp thân trong sạch. Hãy nghe bài kệ sau đây:
Dơ,
sạch là tên suông
Xưa
nay chưa hề có
Pháp
thân không giới hạn
Có
dơ sạch bao giờ?
(Bản
lai vô cấu tịnh
Cấu
tịnh tổng hư danh
Pháp
thân vô quái ngại
Hà
trọc phục hà thanh?)
Trong
trường hợp trên người đối thoại đã bị ám ảnh bởi
khái niệm “pháp thân thanh tịnh” (pháp thân trong sạch).
Tuệ Trung đã dùng những hình ảnh phân ngựa và vũng nước
trâu để giải độc và đưa người đối thoại đi tới pháp
thân như một thực tại vượt mọi khái niệm trong đó có
khái niệm thanh tịnh và khái niệm ô nhiễm.
Ai
cũng biết trong kinh Bát Nhã, mệnh đề “sắc tức thị không,
không tức thị sắc” là mấu chốt. Vấn đề là thâm nhập
thực tại vốn siêu việt các ý niệm sắc (hình chất) và
không (trống rỗng) chứ không phải là giải thích được
một công thức sắc = không. Người đối thoại của Tuệ
Trung đã đi tìm một công thức hơn là đi tìm một thực sự
chứng nhập. Ông ta hỏi:
- Trong
kinh có câu “sắc tức thị không, không tức thị sắc”,
ý là thế nào?
Tuệ
Trung không trả lời. Một lát sau, ông nhìn người kia, hỏi:
- Ông
có hiểu không?
Người
kia:
- Không
hiểu.
Tuệ
Trung:
- Ông
có sắc thân (hình thể) không?
Người
kia:
- Có
Tuệ
trung:
- Vậy
thì làm sao nói sắc là không?
Lại
hỏi:
- Ông
có thấy cái không (sự trống rỗng) có hình thể (sắc) không?
Người
kia:
- Không
thấy.
Tuệ
Trung:
- Vậy
thì sao nói không là sắc?
Người
kia:
- Như
vậy thì rốt cuộc như thế nào?
Tuệ
Trung:
Sắc
chẳng phải không
Không
chẳng phải sắc.
Vị
tăng lễ tạ.
Tuệ
Trung gọi lại và đọc cho nghe bài kệ sau đây:
“Sắc
tức thị không, không tức thị sắc”
Chư
Phật ba đời tạm thời bày đặt
Không
chẳng phải sắc, sắc chẳng phải không:
Thể
tính sáng trong, không hề còn mất.
(Sắc
tức thị không không tức thị sắc
Tam
thế Như Lai phương tiện lực
Không
bổn vô sắc sắc vô không:
Thể
tính minh minh phi thất đắc).
và
hét một tiếng
Tuệ
Trung, trong cuộc đối thoại này, đã nói ngược lại điều
trong kinh nói, nói ngược một điều mà ai cũng biết là cốt
tủy của kinh giáo. Kinh nói: “sắc là không, không là sắc”
thì Tuệ Trung nói “sắc chẳng phải không, không chẳng phải
sắc”. Người đối thoại hoặc có thể cho ông lạc ra ngoại
đạo, hoặc là kẻ vô cùng ngạo mạn, hoặc là một người
điên. Ở đây, có lẽ uy tín tinh thần của Tuệ Trung lớn
quá cho nên khi nghi Tuệ Trung lật ngược lời kinh, người
đối thoại của ông chỉ biết cúi đầu vâng lời. Tuệ Trung
biết là người kia chưa hiểu nên mới gọi lại đọc cho
một bài kệ. Bài kệ đó có tác dụng giải thích mà không
có tác dụng đập phá khơi mở như lời tuyên bố trước
đó. Chính Trần Nhân Tông cũng đã nhận của Tuệ Trung một
bài kệ thuộc loại đập phá khơi mở này, bài kệ có thể
làm sửng sốt hết những người mới tập tễnh vào thiền
đạo:
Trì
giới và nhẫn nhục
Thêm
tội chẳng được phước
Muốn
siêu việt tội phúc
Ðứng
trì giới nhẫn nhục.
(Trì
giới kiêm nhẫn nhục
Chiêu
tội bất chiêu phúc
Dục
tri vô tội phúc
Phi
trì giới nhẫn nhục).
Trong
thiền giới có nhiều người bắt đầu bằng sự tham cứu
về một khái niệm về thực tại, trong khi vấn đề là sống
với chính thực tại. Có một vị sư hỏi Tuệ Trung:
- Thế
nào là đạo?
Tuệ
Trung:
- Ðạo
không dính gì tới câu hỏi
Câu
hỏi không dính gì tới đạo
Lại
hỏi:
- Các
vị đại đức ngày xưa nói “vô tâm tức là đạo”. Có
phải vậy chăng?
Tuệ
Trung:
- Vô
tâm chẳng phải đạo
Vô
tâm là vô đạo.
Lại
nói:
- Nếu
nói vô tâm là đạo thì tất cả mọi loài thảo mộc kia đều
là đạo cả hay sao? Nếu nói vô tâm không phải là đạo thì
cần gì nói tới chuyện là và không là làm gì?
Hãy
nghe bài kệ sau đây:
Vô
tâm là vô đạo
Ðạo
không thể vô tâm
Tâm,
đạo đều mất dấu
Biết
đâu mà truy tầm?
(Bổn
vô tâm vô đạo
Hữu
đạo bất vô tâm
Tâm
đạo nguyên hư tịch
Hà
xứ cánh truy cầm?)
Vị
tăng bỗng lãnh hội ý chỉ, làm lễ mà lui ra.
Khái
niệm “đạo” sau câu nói của Tuệ Trung, biến thành khái
niệm “vô tâm”, bởi vì người xưa thường nói “đạo
là vô tâm”, có nghĩa rằng đạo không thể khái niệm. Chính
Tuệ Trung đã muốn nói rằng những câu hỏi, những câu trả
lời và những câu trả lời đều không dính líu tới đạo;
đạo phải được thực chứng bằng thiền định, bằng nếp
sống giới-định-tuệ. Nhưng người đối thoại đã bằng
lòng đánh đổi một khái niệm (đạo) để lấy một khái
niệm khác (vô tâm). Dĩ nhiên là Tuệ Trung phải đã phá triệt
để, ông nói ngược lại điều mọi vị cổ đức nói: vô
tâm không phải là đạo. Ông đã nói đúng, bởi vì vô tâm
là một khái niệm thì nó không phải là vô tâm nữa, do đó
không phải là đạo. Tuy nhiên, sau khi đưa ra lời tuyên bố
kinh thiên động địa, Tuệ Trung đã ôn tồn giải thích bằng
một bài kệ. Ông thật sự có lòng từ bi, và tuy ông dùng
biện pháp mạnh, ít khi ông sử dụng đến chiếc gậy của
phái Lâm Tế mà ông đã được tiếp nhận truyền thừa. Nhân
Tông đã nhận xét đúng khi nói về khả năng dìu dắt người
sơ cơ của Tuệ Trung vậy.
ÐẬP
PHÁ QUAN NIỆM LƯỠNG NGUYÊN
Phương
pháp của Tuệ Trung không phải chỉ là phá đổ khái niệm.
Tuệ Trung còn mời người đối thoại đi thẳng vào thế giới
thực chứng bằng cách tháo tung mọi bức tường phân biệt
vây quanh: đó là những bức tường mê ngộ và phàm thánh.
Ðây quả thực là phương pháp đốn ngộ của đại thừa:
nó hiến dâng cho người có thượng căn thượng trí cơ hội
giác ngộ đột ngột khỏi cần trải qua trung gian của hàng
chục năm tham khảo.
Khi
đặt ra vấn đề giải thoát, người ta đã dựng lên một
ranh giới ngăn cách giữa triền phược và giải thoát, giữa
mê và ngộ, giữa sinh tử và niết bàn, giữa phàm và thánh,
và như thế, đã chấp nhận một quan niệm lưỡng nguyên về
tình trạng thực tại. Nếu ta nhận thấy rằng ta đang ở
bên phía của triền phược, của mê, của sinh tử, của phàm,
thì tất nhiên ta có khuynh hướng từ bỏ vị trí của ta để
tìm sang vị trí của giải thoát, của ngộ, của niết bàn,
của thánh; và đối tượng tìm kiếm của ta tức khắc trở
thành một vật đứng ngoài ta, do đó ta mới phải đi tìm:
Tuệ
Trung nói rằng ranh giới phân biệt là nguồn gốc của mọi
sự ràng buộc, mê lầm: nó là giây buộc ta trong sinh tử và
khiến ta mãi mãi là kẻ phàm nhân. Tên gọi của sự phân
biệt ấy là “nhị kiến”, tức là nhận thức lưỡng nguyên
về thực tại ông nói:
Thân
từ vô tướng, vốn là không
Huyễn
hóa phân ra thành “nhị kiến”
Ta,
người như móc cũng như sương
Phàm,
thánh như sấm cũng như chớp..
(Lược)
Mày
ngang mũi dọc đều như nhau
Phật
cùng chúng sinh không ai khác
Ai
là phàm chừ, ai là thánh?
Muôn
kiêp sưu tầm mất căn tính
Không
tâm không thị cũng không phi
Không
kiến, chẳng tà cũng chẳng chính
(Thân
tòng vô tướng bổn lai không
Huyễn
hóa phân sai thành “nhị kiến”
Ngã
nhân tự lộ diệc tự sương
Phàm
thánh như lôi diệc như điện...
(lược)
Mi
mao tiêm hoành tị khổng thùy
Phật
dữ chúng sinh đô nhất diệnư
Thục
thị phàm hề thục thị thánh
Quảng
kiếp sưu tầm một căn tính
Phi
tâm vô thị diệc vô phi
Vô
kiến, phi tà giã phi chính...)
Nếu
ta phân tích dòng tư tưởng của Tuệ Trung, ta sẽ thấy ông
đi từ nguyên tắc vô tướng để đạt tới sự phá đổ
quan niệm nhị kiến.Vô tướng ở đây là không có một hình
thái quyết định, một bản chất độc lập, một đồng nhất
tính có thể xác nhận được. Thân là một thể hợp của
nhiều nhân duyên (điều kiện) và có liên hệ mật thiết
tới những hiện tượng kia không có thì nó cũng không có.
Vây vô tướng đây tức là vô ngã, “vốn là không” như
Tuệ Trung nói. Vì tồn tại trên liên hệ nhân quả chằng
chịt như thế nên khó có thể phân biệt được ranh giới
giữa tự và tha, giữa phàm và thánh: tự, tha, phàm, thánh
vốn hiện hữu trong ý niệm nhiều hơn nơi thực tại. Nếu
không có khái niệm thì sẽ không có thị phui, không có chính
tà.
Không
tâm, không thì cũng không phi
Không
kiến, chẳng tà cũng chẳng chính.
Chữ
tâm và chữ kiến trong hai câu trên đều có nghĩa là nhận
thức khái niệm và phân biệt sai lầm.
Long
Thọ (Nagarjuna) ở Ấn Ðộ vào khoảng thế kỷ thứ hai đã
phân tích và lý luận trên nguyên tắc nhân duyên sinh thực
tại vượt ra ngoài những phạm trù sinh, diệt, thường, đoạn,
đến, đi, nhất nguyên và đa nguyên (Trung Quán Luận). Ông
kết luận rằng những phạm trù kia chỉ là những tạo tắc
của khái niệm nhận thức - Ðem ra ngoài mà phân tích thì
chúng không phù hợp với thực tại. Ví dụ về sinh và diệt:
trên thực tế không có gì có thể từ không mà trở thành
có, không có gì đang có mà trở thành không; bởi vì mọi
hiện tượng tồn tại trên đà chuyển biến và trở thành.
Cái trứng gà là sự tiếp tục của con gà, cái trứng gà
không sinh. Nó đã tiềm tại trong con gà cho nên nó mới có
thể hình thành từ con gà. Một cái bàn không thể sinh ra trứng.
Bởi vì trứng không tiềm tàng trong cái bàn, nó không là sự
tiếp nối trở thành của cái bàn. Ðã không thực sự có
sinh thì không thực sự có diệt. Thế giới nhìn qua nhận
thức sinh diệt là thế giới phân biệt “nhị kiến” mà
không phải là thế giới thực tại trong đó vạn pháp tồn
tại trong một tương quan hòa điệu vi mật mà không thể cắt
xén bằng khái niệm. Thế giới bất sinh, bất diệt, bất
thường, bất đoạn, không tới, không đi, không nhất nguyên
và không đa nguyên ấy là niết bàn, là giải thoát, là giác
ngộ là cảnh giới của thánh trí. Người học đạo phải
đặt thân và sự sống mình trong thế giới “nhị kiến”
thì trọn đời bị giam hãm; suốt đời chạy theo một đối
tượng gọi là giải thoát, bồ đề, chứng ngộ mà không
bao giờ đạt được. Thái độ tìm đạo trên căn bản “nhị
kiến” này, tuệ trung gọi là thái độ bỏ bột mà tìm bánh
(tự mịch man đầu nhi khí miến). Bỏ bột thì làm sao có
bánh, cũng như bỏ mê thì không có ngộ, bỏ phàm thì không
có thánh, bỏ phiền não thì không có bồ đề. Thái độ khôn
ngoan nhất là thái độ không đuổi bắt một đối tượng
ngoài tự thân. Ðây là bài kệ Mê Ngộ Không Khác Nhau trong
đó Tuệ Trung nói lên ý ấy:
Khi
mê thấy không sắc
Khi
ngộ hết sắc, không
Sắc,
không và mê ngộ
Xưa
nay một lẽ đồng
Vọng
niệm tam đồ hiện
Chân
thông ngũ nhãn thông
Tâm
niết bàn tĩnh lặng
Biển
sinh tử ngàn trùng
Không
sinh cũng không diệt
Không
thủy cũng không chung
Thực
tại lộ hình dung
(Mê
khứ sinh không sắc
Ngộ
lai vô sắc không
Sắc
không mê ngộ giả
Nhất
lý cổ kim đồng
Vọng
khởi tam đồ khửoi
Chân
thông ngũ nhãn thông
Niết
bàn tâm tịch tịch
Sinh
tử hải trùng trùng
Bất
sinh hoàn bất diệt
Vô
thủy diệc vô chung
Ðãn
năng vong nhị kiến
Pháp
giới tận bao dung).
DIỆN
MỤC TUỆ TRUNG
Phá
vỡ vấn đề mà ta tự đặt cho mình kể cả vấn đề sinh
tử mà đạo Phật gọi là vấn đề lớn (sinh tử sự đại),
đều là những vấn đề giả tạo.mình tự đặt ra để ràng
buộc lấy mình. Những vấn đề này đều được đặt ra
trên căn bản nhận thức “nhị kiến”. Hồi Nhân Tông hỏi
Tuệ Trung tội báo có thể gây ra do sự ăn thịt uống rượu.
Tuệ Trung đã nói rằng vấn đề không phải là vấn đề
chọn lựa giữa tội và phúc mà là vấn đề siêu việt cả
tội lẫn phúc:
Trì
giới và nhẫn nhục
Thêm
tội chẳng thêm phúc
Muốn
siêu việt tội phúc
Ðừng
trì giới nhẫn nhục.
Ai
cũng thấy rõ ràng không phải Tuệ Trung khuyên người ta đừng
nên trì giới và nhẫn nhục. Trì giới và nhẫn nhục, đứng
trên phương diện luân lý đạo đức là chuyện phải làm.
Nhưng đứng trên phương diện giải thoát tà kiến, uốn đạt
được thực sự siêu việt mê ngộ và siêu việt phàm thánh
thì quan niệm phân biệt “tội-phúc”, trì giới-phá giới”,
“nhẫn nhục-sân nhuế” là một trở lực lớn. Trì giới
nhẫn nhục mà không kẹt vào ý niệm mình đang trì giới nhẫn
nhục, đây mới là điều Tuệ Trung nhắm tới: trên bình diện
giải thoát, điều này mới tránh khỏi việc “thêm tôi chẳng
thêm phúc”. Tuệ Trung nói rất rõ về tính cách vô phân biệt
“nhị kiến” nó khiến cho ta đặt dra những vấn đề hư
ngụy khiến ta mất đi cơ hội giác ngộ:
Như
người leo lên cây
Ðang
yên tự chuốc nguy
Nếu
đừng leo cây nữa
Trăng
gió làm được gì?
Hình
ảnh “nhị kiến” là hình ảnh một đứa bé ngồi trong
phòng một mình ban đêm thấy bóng mình chiếu lên tường và
tưởng đó là một ông ba bị đến dọa mình, đâm ra sợ
hãi và chạy trốn quanh phòng, nhưng chạy đến đâu cũng bị
chiếc bóng của mình theo đuổi. Nỗi khổ của đứa trẻ
là do chính nó tự tạo ra vì cái nhìn “nhị kiến” của
nó.
Vấn
đề sinh tử, một vấn đề thường được đề cập đến
trong đạo Phật như là vấn đề chính của kiếp người.
Tuệ Trung nói đây cũng là một vấn đề ngụy tạo.sinh và
tử, trong nhận thức ta là những thực thể chống đối nhau
tuyệt đối; nhưng sinh và tử trong thực tại liên hệ nhau
mật thiết đến nỗi ngoài sinh không có tử và ngoài tử
không có sinh: ông gọi sinh và tử là những chuyện giả tạo:
sinh là sinh giả tạo (vọng sinh), tử cũng là tử giả tạo
(vọng tử):
Khi
tâm sinh chừ, sinh tử sinh
Khi
tâm diệt chừ, sinh tử diệt
Sinh
tử xưa nay tính vốn không
Thân
huyễn hóa này cũng sẽ diệt.
Phiền
não bồ đề cũng tiêu vong
Ðịa
ngục thiên đường tự khô kiệt.
Nước
sôi lửa cháy mát mẻ ngay
Núi
kiếm rừng đao giã đổ hết
Thanh
văn ngồi thiền ta không ngồi
Ta
nói thực tại, không nói pháp.
Sinh
là vọng sinh, tử vọng tử
Tứ
đại vốn không, thiếu chỗ tựa
Chớ
như hươu khát đuổi bóng nước
Chạy
khắp Tây Ðông không ngừng nghỉ
Pháp
thân không tới cũng không đi
Chân
tính không phi cũng không thị
Ðến
nhà, còn hỏi đường là chi?
Thấy
trăng, thôi khỏi cần tay chỉ
Sợ
hãi tử sinh là người mê
Ðạt
ngộ ung dung là kẻ trí.
(Tâm
chi sinh hề, sinh tử sinh,
Tâm
chi diệt hề, sinh tử diệt.
Sinh
tử nguyên lại tự tính không
Thử
huyễn hóa thân diệc đương diệt
Phiền
não, bồ đề ám tiêu ma
Ðịa
ngục thiên đường tự khô kiệt
Hoặch
thang lô thán đốn thanh lương
Kiếm
thụ đao sơn lập tồi chiết
Thanh
văn tọa thiền ngã vô tọa
Bồ
tát thuyết pháp ngã thực thuyết
Sinh
tự vọng sinh, tử vọng tử
Tứ
đại bổn không tòng hà khởi
Mạc
vi khát lộc sấn dương diệm
Ðông
tẩu Tây trì vô tạm dĩ
Pháp
thân vô khứ diệc vô lai
Chân
tính vô phi diệc vô thị
Ðáo
gia tu trí bãi vấn trình
Kiến
nguyệt an năng khổ tầm chỉ
Ngu
nhân điên đảo bố sinh tử
Trí
giả đạt quan nhàn nhi dĩ).
Chữ
tâm dùng trong hai câu đầu của bài kệ cũng có nghĩa là nhận
thức “nhị kiến”. Bài kệ trên đây rất có tính cách
tiêu biểu cho tư tưởng thiền của Tuệ Trung. Ông nói ông
không ngồi thiền như Thanh Văn, không nói pháp như Bồ tát:
sống được đời sống như hằng ngày trong thiền thì cần
gì phải ngồi, nói pháp đâu có quan trọng bằng nói về sự
sống thực tại. Khi đã thực sự sống trong đời sống thực
tại giải thoát thì những cặp chống đối nhau như “sinh
tử - niết bàn”, “phiền não - bồ đề”, “địa ngục
- thiền đường”... không còn tồn tại nữa, bởi vì cái
nhìn “nhị kiến” đã bị phá bỏ. Trong một bài kệ khuyên
dạy môn đệ, Tuệ Trung đã khuyên họ nên vượt cả hai ý
niệm chân (chân llý) và vọng (tà ý) bởi vì cả hai đều
chỉ là khái niệm (trần):
Người
đời bỏ vọng để cầu chân [7]
Chân
vọng tâm kia vẫn pháp trần
Hãy
vượt lên cao lê bờ bến ấy
Tham
cùng đồng tử [8] đối tiền nhân
(Thế
gian nghi vọng bất nghi chân
Chân
vọng chi tâm diệc thị trần
Yếu
đắc nhất cao siêu bỉ ngạn
Hảo
tham đồng tử, diện tiền nhân
DIỆU
KHÚC BẢN LAI TU CỬ XƯỚNG
Thực
tại mầu nhiệm, ta phải sống trong lòng nó chứ không thể
chỉ đi xung quanh nó và đàm luận về nó. Cũng vì vậy mà
Tuệ Trung không để thì giờ luận thuyết về các đề tài
đạo Phật và chú giải các kinh điển Phật Giáo. Tuệ Trung
chủ trương rằng Phật tử không cần một lý thuyết: nguyên
tắc đơn giản của đạo Phật là hãy sống cuộc đời tự
tại của chính mình, không cần đi tìm đâu cả. Thể tính
của ta vẫn sáng trong, chưa từng bị mê hoặc, chỉ cần quay
về tự thân là ta có thể làm hiển lộ nó, khỏi cần đi
tìm Phật tìm Tổ. Tinh ba của đạo Phật là sự sống trong
lòng thực tại giác ngộ mà không phải là những triết thuyết,
cũng như tinh ba của một khúc nhạc là chỉ có thể thấy
được khi khúc nhạc được cử xướng lên. chỉ đàm luận
suông chung quanh một nhạc khúc thì không làm sao thấy được
cái huyền diệu của khúc nhạc ấy. Hãy sống cuộc đời
thức tỉnh và linh diệu của mình: khúc hát diệu huyền xưa
nay được hát lên thì sự sống mầu nhiệm mới hiển lộ:
Thôi
tìm Thiếu Thất với Tào Khê
Thể
sáng chưa từng bị lấp che
Gió
lộng không chia cao với thấp
Trăng
soi chẳng ngại chiếu trăm bề
Mầu
thu đậm nhạt tùy duyên sắc,
Bùn
sao vương được đóa sen hè
Diệu
khúc muôn đời nên cử sướng
Ðông
Tây Nam Bắc chạy tìm chi.
[1]
(56) Con cả của An Sinh Vương là Tung. Sách Ðại Việt Sử
Ký Toàn Thư trong phần nói về vua Trần Minh Tông, có ghi lời
bàn của Ngô Sĩ Liên nưh sau:
“Vua
vốn là người hậu với thân thuộc trong họ, đối với người
vài vế trên mà quý hiển lại càng tôn kính lắm. Phàm kẻ
thần hạ người nào có tên trung với những người ấy đều
đổi cho tên khác. Như người tên là Ðộ đổi thành Sư Mạnh
vì tên Ðộ trùng với tên Thượng Phụ (Trần Thủ Ðộ),
tên là Tung thì đổi thành tên Thúc Cao, vì tên Tung trùng với
tên Hưng Ninh Vương con trưởng của An Sinh Vương”. Có những
bản in lầm An Sinh Vương thành An Ninh Vương. Ta chưa từng
nghe ai có tước hiệu là An Ninh Vương bao giờ. Hưng Ninh Vương
là con của An Sinh Vương Trần Liễu. Chữ sinh trong An Sinh Vương
đã bị khắc lầm thành chữ Ninh chỉ vì trước đó đã có
chữ ninh trong Hưng Ninh Vương.
[2]
(57) Trúc Thiên tiên sinh, trong bản dịch Thượng Sĩ Ngữ Lục
(Ðại Học Vạn Hạnh xuất bản, 1969) nói rằng bài Thượng
Sĩ Hành Trạng là do Pháp Loa viết. Thực ra, chính Nhân Tông
đã tự tay viết tài liệu này trong đó vua gọi Trần Thánh
Tông là Dụ Lăng và hoàng hậu Thiên Cảm là mẫu hậu. Chính
vua lúc ấy 29 tuổi, đã tự mình đi thỉnh Thượng Sĩ (thầy
học của mình) đến dự tuần trai tăng cầu siêu cho mẹ.
Pháp Loa, hồi Tuệ Trung mất (1291) mới lên bảy tuổi. Pháp
Loa sau này chỉ làm công việc biên chép sách Thượng Sĩ Ngữ
Lục từ những tài liệu do Nhân Tông trao lại. Nhân Tông đã
hiệu khảo và viết về hành trạng Thượng Sĩ, bởi chính
vua là người gần gũi và sống với Thượng Sĩ nhiều năm
với tư cách là một người học trò thân yêu của Thượng
Sĩ.
[3]
(58) Tuệ Trung cũng rất khâm phục đức độ và đạo đức
của Thánh Tông. Sách Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục còn giữ
lại một bài thơ của Tuệ Trung để ca ngợi đạo học của
Thánh Tông.
[4]
(59) Vô thường chư pháp lành
Tâm
nghi tôi tiện sinh
Bản
lai vô nhất vật
Phi
chủng diệc phi manh
Nhật
nhật đối cảnh thì
Cảnh
cảnh tòng tâm xuất
Tâm
cảnh bản lai vô
Xứ
xứ ba la mật
Nghiết
thảo dữ nghiết nhục
Chúng
sinh các sở thuộc
Xuân
lai bách thảo sinh
Hà
xứ kiến tội phúc?
[5]
(61) Trì giới kiêm nhẫn nhục
Chiêu
tội bất chiêu phúc
Dục
tri vô tội phúc
Phi
trì giới nhẫn nhục
Như
nhân thượng thụ thời
An
Trung tự cầu nguy
Như
nhân bất thượng thụ
Phong
nguyệt hà sở vi?
[6]
(62) Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, Pháp Loa biên tập, Trần
Nhân Tông khảo đính, Trần Khắc Chung đề bạt. Tác phẩm
này được in nhiều lần đời Trần. Bản hiện có là bản
in năm 1943 do sa môn Thanh Cừ chùa Pháp Vũ viết vào năm ấy.
Các bản in này đều có mang một bài lược dẫn của Tỳ
Khưu Huệ Nguyên chùa Long Ðộng núi Yên Tử viết trong một
dịp trùng sang năm 1763. Sách gồm có bốn phần:
Phần
I: Ðối Cơ (tương đối từng căn cơ), gồm những mẫu đối
thoại giữa Tuệ Trung với môn đệ học giả.
Phần
II: Cử Công Án, gồm có 13 công án, mỗi công án có lời niêm
(nhận xét) và một bài kệ tụng của Tuệ Trung.
Phần
III: Thi Tụng, gồm có 49 bài vừa thơ vừa kệ của Tuệ Trung.
Phần
IV: Thượng Sĩ Hành Trạng (con người và sự nghiệp của Thượng
Sĩ), do Trần Nhân Tông viết. Sau bài của Trần Nhân Tông là
một số bài kệ ca tụng đạo học của Tuệ Trung do các vị
đệ tử nổi danh của Trần Nhân Tông viết.
Hiện
có một bản dịch quốc ngữ của Trúc Thiên, do Viện Ðại
Học Vạn Hạnh, Sài Gòn, xuất bản năm 1969.
[7]
(63) Chữ nghi trong câu “Thế gian nghi vọng bất nghi chân”
có lẽ vốn là chữ chép lầm
[8]
(64) Ðồng tử đây là Thiện Tài Ðồng Tử, nói đến trong
kinh Hoa Nghiêm (phẩm Nhập Pháp Giới). Thiện Tài đến với
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và phát tâm tu học, sau đó đi dần
về phương Nam tham vấn với 53 bậc thiện tri thức và nhờ
đó mà chứng nhận được pháp giới, tức là pháp giới,
tức là thế giới thực tại. Ở các thiền viện thường
thấy tượng đức Quán Âm Bồ tát bên cạnh có một đồng
tử chắp tay tham lễ: đó là cuộc tham vấn thứ 27 giữa Thiện
Tài và Bồ Tát Quan Âm.