CHƯƠNG
IV
SÁCH
THIỀN UYỂN TẬP ANH
VÀ
CÁC TÀI LIỆU VỀ ÐẠO PHẬT VIỆT NAM ÐỜI ÐƯỜNG
(thế
kỷ thứ bảy và thứ tám)
SÁCH
THIỀN UYỂN TẬP ANH NGỮ LỤC
Sách
Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, là một tập sách nói về các
vị thiền sư Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ sáu đến thế
kỷ thứ mười ba. Ðây là tài liệu lịch sử cổ nhất của
đạo Phật Việt Nam mà chúng ta hiện có. Sách này bắt đầu
được biên tập vào khoảng trước năm 1134 cho đến đầu
thế kỷ thứ mười ba thì hoàn tất. Năm 1134 là năm qua đời
của thiền sư Thông Biện, thuộc phái thiền Vô Ngôn Thông,
một người có nhiều sở trường về sử học.
Bản
in cũ nhất còn là bản in năm 1715. Sách có 62 tờ, mỗi tờ
có 12 dòng. Ðầu sách có một bài tựa viết năm 1715 trong
dịp khắc bản. Bài tựa này không mang tên tác giả, nhưng
có mang ngày tháng: “khắc lại vào một ngày tháng Tư niên
hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 triều Lê”. Ðó là năm 1715. Sau bài
tựa có danh sách 14 người đệ tử của thiền sư Như Trí
(Như Trí có lẽ là người đứng ra lo việc trùng khắc): mười
bốn người này chắc hẳn đã góp công và của vào việc
ấn loát. Tiếp theo bài tựa và bản danh sách, là tiểu sử
38 vị thiền sư thuộc phái Vô Ngôn Thông. Tiếp theo nữa là
tiểu sử 28 vị thiền sư thuộc phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi. Và
cuối cùng là tiểu sử (đúng hơn là danh sách) của 19 người
thuộc thiền phái Thảo Ðường.
Ngoài
bản in 1715, chúng ta còn có một bản in khác do hòa thượng
Phúc Ðiền thực hiện, mang tên là Trùng Khắc Ðại Nam Thiền
Uyển Truyền Ðăng Tập Lục, có lời chua: quyển thượng,
thất tập nhân danh, cựu bản Tiêu Sơn Tự (quyển thứ nhất,
mất tên tác giả, in theo bản củ của chùa Tiêu Sơn). Bản
cũ của chùa Tiêu Sơn có thể là bản in năm 1715 vừa kể
trên. trong bản này của Phúc Ðiền hòa thượng, ta không thấy
đề ngày tháng; nhưng chỉ thấy đề Liên Tông Tự đạo điệp
Lâm Tế Phúc Ðiền hòa thượng đính tử (chùa Liên Tông,
phía Lâm Tế, hòa thượng Phúc Ðiền với Giới đao và độ
điệp đính tử). Giới đao và độ điệp ngày xưa thay cho
chứng thư và thông hành của tăng sĩ, do vua ban. ta không thấy
có đề ngày tháng của kỳ in này, nhưng ta biết được đó
là năm 1859 nhưng có một bài tựa của Phúc Ðiền hòa thượng
viết không thấy ở quyển thượng này mà lại in ở đầu
một bản in của “quyển hạ” của Thiền Uyển Tập Anh
Ngữ Lục[1]. Cả ông Trần Văn Giáp trong sách Le Bouddhisme En
Annam Des Origines Au XIIIè Siècle và ông Gaspardone trong Bibliographie
Annamite đã không chú ý nhiều tới bài tựa này trong đó Phúc
Ðiền hòa thượng nói về lai lịch bản in của ông. Theo Phúc
Ðiền hòa thượng, khi ông đọc Thiền Uyển Tập Anh Ngữ
Lục, ông thấy có nhiều chỗ sai lầm bất nhất nên ông đã
ra công hiệu đính trước khi ấn hành lại[2]. Nhưng thay
vì phải in lại cuốn này, ông lại in luôn cả hai cuốn khác
cũng nói về Thiền học Việt Nam và đặt tên chung cho cả
ba cuốn là Ðại Nam Thiền UyểnTruyền Ðăng Tập Lục. Hai
tập mà ông đã in chung với Thiền Uyển Tập Anh là:
1)
Tam tổ thực lục, nói về ba vị tổ Trúc Lâm đời Trần
2)
Ngự Chế Thiền Ðiển Thống Yếu Kế Ðăng Lục, tác giả
là Như Sơn thiền sư, chùa Hồng Phúc, ấn hành năm 1734.
Hai
cuốn sách này, Phúc Ðiền hòa thượng cho in thành “quyển
hạ” của Ðại Nam Thiền UyểnTruyền Ðăng Tập Lục. Nhưng
trước khi in, ông đã cho viết thêm tiểu sử của năm vị
thiền sư gần ông nhất vào tác phẩm của Như Sơn, đồng
thời cũng ghi chép thêm những điều ông nghe về truyền thừa
chùa Hoa Yên núi Yên Tử.
Bài
tựa này cho chúng ta biết lý do tại sao bản in Thiền Uyển
Tập Anh của Phúc Ðiền lại mang một cái tên khác là Ðại
Nam Thiền UyểnTruyền Ðăng Tập Lục, và tại sao lại có
chữ “quyển thượng”. Cuối bài tựa này ta thấy có đề
như sau;: Năm Tự Ðức thứ 12, ngày rằm tháng Giêng năm Kỷ
mùi (1859), Hòa thượng Phúc Ðiền ở Bồ Sơn với giới đao
và độ điệp soạn.
VỀ
TÁC GIẢ THIỀN UYỂN TẬP ANH
Tác
giả Thiền Uyển Tập Anh là ai? Lê Quý Ðôn (Ðại Việt Thông
Sử) cũng như Phan Huy Chú (Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí)
nói là do một tác giả đời Trần. Trần Văn Giáp cũng nói
là sách do một tác giả đời Trần, sống vào thượng bán
thế kỷ thứ mười ba đồng thời với thiền sư Hiện Quang,
vị thiền sư cuối cùng của phải Vô Ngôn Thông “cho đến
nay, vào năm Ðinh Sửu, niên hiệu Khai Hựu”, ông kết luận
là năm Ðinh Sửu (1337) là năm soạn thảo sách Thiền Uyển
Tập Anh.
Xét
kỷ nội dung Thiền Uyển Tập Anh, ta thấy rằng sách này không
phải do một người biên tập mà do nhiều người biên tập.
Có nhiều dữ liệu cho ta nghĩ rằng chính thiền sư Thông Biện
(mất năm 1134) là người bắt đầu việc ghi chép biên tập.
Ông thuộc về thiền phái Vô Ngô Thông, và những người nối
tiếp theo công việc của ông cũng là những thiền sư thuộc
cùng một thiền phái.
Trước
hết ta nhận thấy Thiền Uyển Tập Anh, phái Vô Ngôn Thông
được đặt lên đầu sách, dù phái này đã được thành
lập sau phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi đến hai trăm bốn mươi năm
(thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi qua Việt Nam năm 580, trong khi thiền
sư Vô Ngôn Thông qua Việt Nam năm 820). Theo thứ tự thời gian,
đáng lý phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi phải được đặt lên đầu
sách. Nhưng đây thì không phải như vậy. Ðiều này chứng
tỏ chính các thiền sư Vô Ngôn Thông đã làm công việc biên
tập sách Thiền Uyển Tập Anh. Ngoài lý do trên ta còn có một
lý do khác nữa: tài liệu về phái Vô Ngôn Thông so sánh với
tài liệu phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi thì phong phú hơn nhiều. Sự
ghi chép về sáu bảy thế hệ đầu của phái Tỳ Ni Ða Lưu
Chi rất thiếu sót. Thiền phái Vô Ngôn Thông, so với thiền
phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, chịu ảnh hưởng Trung Hoa đậm đà
hơn, nên có ý thức nhiều hơn về sự ghi chép truyền thừa
[3]. Các thiền sư phái Vô Ngôn Thông đã có liên lạc với
thiền sư phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, có vị đã cư trú hẳn trong
một ngôi chùa tổ đình của Tỳ Ni Ða Lưu Chi (như các thiền
sư Thường Chiếu và Thần Nghi của phái Vô Ngôn Thông đã
cư trú trong chùa Lục Tổ, một tổ đình rất xưa của phái
Tỳ Ni Ða Lưu Chi) và do đó đã thu thập tài liệu lịch sử
của phái này để ghi chép trong sách.
Ðọc
sự tích thiền sư Thông Biện, ta thấy thiền sư này rất
giỏi về sự hcọ và chú tâm nhiều về lịch sử truyền
bá Phật giáo ở Việt Nam. Trả lời hoàng hậu Phù Thánh Cảm
Linh Nhân, thiền sư đã nói về lai lịch của phái Tỳ Ni Ða
Lưu Chi một cách khá rõ rệt.
Nói
về thiền sư Thần Nghi, Thiền Uyển Tập Anh có đoạn sau
đây khá quan trọng: “Thiền sư Thần Nghi thưa {với thiền
sư Thường Chiếu}: “Con theo phụng sự hòa thượng đã lâu
nhưng chưa rõ những nhân vật nào đã truyền thừa đạo này
đầu tiên, xin hòa thượng chỉ bày cho con những thế hệ
đã truyền thừa khiến cho học giả biết được nguyên lưu
của mình”. Thường Chiếu thấy thái độ khẩn thiết ấy
đưa cho Thần Nghi xem một tài liệu của Thông Biện trong đó
có ghi chép về các tông phái và sự truyền thừa của các
thế hệ. Thần Nghi đọc xong hỏi: “Tại sao hai hệ phái
Nguyễn Ðại Ðiên và hệ phái Nguyễn Bát Nhã [4] không
được chép vào đây?” Thường Chiếu trả lời: “Thông
Biện đã suy nghĩ kỹ rồi mới không chép hai hệ phái ấy”.
Năm Kiến Giả thứ sáu ngày mười tám tháng Hai năm Bính tý
(1216), thiền sư Thần Nghi lấy tập sách mà Thường Chiếu
đã truyền lại cho đệ tử là Ẩn Không và nói: “Ðời
tao loạn, nhưng người nên giữ sách này đừng để cho binh
lữa hủy hoại, như thế lịch sử truyền thừa của tổ phong
ta mới không bị tán mất. Nói xong thì tịch”.
Căn
cứ vào đoạn văn trên ta có thể quả quyết rằng chính thiền
sư Thông Biện là người bắt đầu biên tập Thiền Uyển
Tập Anh. Tập tài liệu này truyền đến Thường Chiếu (mật
năm 1203) qua sự truyền thừa của Ðạo Huệ (mất năm 1172),
Minh Trí (mất 1190), Thường Chiếu (mất 1203) đã truyền lại
cho Thần Nghi (mắt 1216) và Thần Nghi truyền lại cho Ẩn Không
vào năm đó. Chắc hẳn là mỗi vị khi nhận được sách đã
ghi chép về những gì mình nghe thấy về đạo Phật trong thời
đại mình. Vậy ta có thể kết luận là tác giả Thiền Uyển
Tập Anh gồm nhiều người trong đó những vị sau đây là
quan trọng nhất:
1)
Thông Biện
2)
Thường Chiếu
3)
Thần Nghi
4)
Ẩn Không
Ẩn
Không có thể là người ghi chép sự tích các thiền sư thuộc
những thế hệ chót của phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông
và Thảo Ðường. Sau phần tiểu sử của thiền sư Thần Nghi,
ta thấy một câu chú thích về thiền sư Ẩn Không, in bằng
chữ nhỏ, chắc hẳn là đã được thêm vào sau này: “Ẩn
Không xưa ở tại Lương Châu huyện Na Ngạn, lúc bấy giờ
được người đời gọi là Na Ngạn đại sư”.
Trong
bốn tác giả trên, Thường Chiếu và Thần Nghi đã trú trì
tại chùa Lục Tổ, ngôi chùa rất xưa của phái Tỳ Ni Ða
Lưu Chi; ta có thể nói hai người này đã đóng góp nhiều
vào sự ghi chép sự tích các thiền sư phái Tỳ Ni Ða Lưu
Chi. Riêng Thường Chiếu đã soạn thảo thêm một cuốn sách
đặc biệt về sự truyền thừa của Phật giáo Việt Nam,
tên sách là Nam Thông Tự Tháp Ðồ. Tiếc thay tác phẩm này
hiện chưa tìm lại được. Thiền Uyển Tập Anh, trong khi nói
về thiền sư Ðịnh Giác phái Thảo Ðường, có nhắc đến
tên tác phẩm này.
Thiền
Uyển Tập Anh ghi chép tiểu sử các thiền sư tử cuối thế
kỷ thứ sáu đến đầu thế kỷ thứ mười ba, nghĩa là trong
khoảng trên sáu trăm năm. Nhưng những ghi chép được giới
hạn trong các thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và
Thảo Ðường. Các truyền thống Phật giáo khác ngoài các
thiền phái ấy không được ghi chép. Tiếp theo, là sự ghi
chép về ba thiền phái kể trên cũng rất thiếu sót. Về thiền
phái Vô Ngôn Thông, các thế hệ thứ 11, 12, 13, 14 và 15 được
ghi chép rất sơ sài. Thế hệ thứ 11 gồm chín vị thiền
sư mà chỉ có một vị được ghi chép tiểu sử. Thế hệ
thứ 12 gồm bảy vị thiền sư mà cũng chỉ có một vị được
ghi chép. Ta không hiểu vì sao các vị Thường Chiếu (thếhệ
thứ 12), Thần Nghi (thếhệ thứ 13) và Ẩn Không (thếhệ
thứ 14) có bản thảo sách Thiền Uyển trong tay lại không
ghi chép về những người thuộc thế hệ của họ. Trái lại
tiểu sử những thiền sư thuộc phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi sống
cùng thời đại với họ lại được ghi chép trong sách Thiền
Uyển. Phải chăng đó là các vị Thường Chiếu và Thần Nghi
đã dời về chùa Lục Tổ, một tổ đình xưa có trên 400
năm của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi và do đó họ đã am
tường tình trạng phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi hơn là tình trạng
bản phái?
MỘT
SỐ CÁC VỊ TĂNG SĨ KHÔNG ÐƯỢC THIỀN UYỂN TẬP ANH NHẮC
TỚI
Trước
khi xem xét về các thiền phái được ghi chép trong Thiền Uyển
Tập Anh, ta hãy nhắc đến một số các vị tăng sĩ Việt
Nam đã không được sách này nói tới. Ta biết tên những
vị này là nhờ sách Ðại Ðường Cầu Pháp Cao Tăng Truyện
của Nghĩa Tịnh, các sách Loại Hàm và Anh Hoa mà Lê Quý Ðôn
đã kiến dẫn trong Kiến Văn Tiểu Lục, và sách An Nam Chí
[Nguyên] của Cao Hùng Trưng. Ðại khái, các vị tăng sĩ này
sống trong khoảng các thế kỷ thứ bảy và thứ tám, tương
đương với thời đại nhà Ðường.
Trước
hết ta hãy nói đến những vị mà Lê Quý Ðôn đã trích dẫn
trong các sách Loại Hàm và Anh Hoa: đó là thiền sư Vô Ngại,
pháp sư Duy Giám và một vị khác không biết tên mà thi sĩ
Trương Tịch nhà Ðường gọi là Nhật Nam Tăng. Hai vị pháp
sư Duy Giám và Phụng Ðình là những tăng sĩ rất giỏi về
kinh luận và đã được vua Ðường mời sang giảng kinh trong
cung điện. Thi sĩ Dương Cự Nguyên cuối thế kỷ thứ bảy
có một bài thơ tiễn pháp sư Phụng Ðình về nước như sau;:
Cố
hương Nam Việt ấy
Ngàn
dặm mây trắng bay
Cửa
trời vắng kinh kệ
Biển
rộng hương hoa đầy [5]
Bóng
có in sóng bạc
Thành
quách lung linh xây
Trường
An lòng tưởng nhớ
Giao
Châu chuông canh chầy...
(Cố
hương Nam Việt ngoại
Vạn
lý bách văn phong
Kinh
luận từ thiên khứ
Hương
hoa nhập hải phùng
Lộ
đào thanh phạm triệt
Thận
các hóa thành trùng
Tâm
đáo Trường An mạch
Giao
Châu hậu dạ chung...)
Khi
pháp sư Duy Giám giảng kinh xong sắp về nước, thi sĩ Giả
Ðảo cũng làm một bài thơ tiễn ông như sau:
Giảng
kinh nơi cung điện
Vườn
ngự hoa xuân bay
Xa
quê từ mấy độ
Núi
cũ về từ nay
Mưa
sa dầm áo bạc
Gió
táp ấn hương phai [6]
Biển
vắng như thế đó
Tin
tức làm sao hay [7]
(Giảng
kinh xuân điện lý
Hoa
nhiễu ngự sàng phi
Nam
hải kỷ hồi hóa?
Cựu
sơn lâm lão quy!
Xúc
phong hương tổn ấn
Lộ
vũ khánh sinh y
Không
thủy ký như bỉ
Vãng
lai tiêu tức hy)
Thi
sĩ Thẩm Thuyên Kỳ đầu thế kỷ thứ tám có qua Việt Nam
chơi và đến thiền sư Vô Ngại tại chùa Sơn Tĩnh, quận
Cữu Chân. Ông tôn xưng Vô Ngại là thượng sĩ, và có làm
một bài thơ như sau, khen người làmột hóa thân của Phật,
tự xưng là đệ tử của người và tỏ ý tiếc là chưa học
Phật thâm sâu để đàm đạo [8]
Phật
xưa sinh Thiên Trúc
Nay
hóa thân Nhật Nam
Vòng
não phiền ra khỏi
Dưới
núi dựng già lam
Khe
suối thơm là cảnh
Ðá
non là cao am
Chim
xanh tập thiền định
Vượn
trắng nghe giảng đàn
Vách
đá giây mây quấn
Mặt
đầm hoa leo thang
Theo
suối vào bóng mát
Giặt
áo phơi rừng hương
Ðệ
tử hận mình dở
Phật
pháp chưa am tường [9]
Qua
khe Hổ nhìn lại [10]
Dưới
cây sương khói lam
(Ðại
sĩ sinh Thiên Trúc
Phân
thân hóa Nhật Nam
Nhân
trung xuất phiền não
Sơn
hạ tức già lam
Tiểu
giản hương vị sát
Nguy
phong thạch tác am
Hầu
thiền thanh cốc nhú
Khuy
giảng bạch viên tham
Ðằng
ái vân gian bích
Hoa
thuê thạch dạ đàm
Tuyền
hành u cung bảo
Lâm
quải dục y kham
Ðệ
tử ai vô thức
Y vương
tích vị đàm
Siêu
nhiên Hổ Khê tịch
Chích
thọ hạ hư am)
Thi
sĩ Trương Tịch cũng có làm một bài thơ tặng một vị sư
người quận Nhật Nam đang tu ở trong núi, không biết núi
nào:
Ở
mãi mấy ngọn núi
Hai
cánh cửa thông gài
Viết
kinh lên lá chuối
Treo
áo rụng hoa mây
Ðục
đá khơi giếng mới
Xuyên
rừng trồng cây đay
Nếu
gặp người Nam Hải
Líu
lưỡi hỏi nhà ai?
(Ðộc
hướng song phong lão
Tùng
môn bế lưỡng nha
Phiên
kinh thượng tiêu diệp
Quái
nạp lạc đằng hoa
Thứu
thạch tán khai tỉnh
Xuyên
lâm tự chúng ma
Thời
phùng Nam Hải khách
Man
ngữ vấn thùy gia?)
Chính
nhờ những bài thơ của Trương Tịch, Thẩm Thuyên Kỳ, Giả
Ðào và Dương Cự Nguyên mà ta biết được sự có mặt của
bốn vị cao tăng Việt Nam đời Ðường để thuyết kinh và
giảng pháp. Cũng may là bốn nhà thơ trên đều là những người
nổi tiếng nên các bài thơ kia mới còn được truyền lại.
Ông
Lê Quý Ðôn đã có lý khi nói: “Các bậc cao tăng nước ta
không phải ít; trong khoảng thuộc Tấn thuộc Ðường, tất
nhiên có nhiều điều đáng ghi chép, nhưng ghi chép thiếu sót”
(Kiến Văn Tiểu Lục).
Sách
Ðại Ðường Cầu Pháp Cao Tăng Truyện của Nghĩa Tịnh (682
- 727), người đã đi Ấn Ðộ và về bằng đường thủy,
cũng có chép tiểu sử của sáu vị tăng sĩ Việt Nam đã từng
qua du học Ấn Ðộ vào cuối thế kỷ thứ bảy và đầu thế
kỷ thứ tám. Ðó là các vị: pháp sư Vận Kyø, pháp sư Giải
Thoát Thiên, pháp sư Khuy Xung, pháp sư Huệ Diệm, pháp sư Trí
Hành, thiền sư Ðại Thừa Ðăng.
Pháp
sư Vận Kỳ từng đi vân du với thiền sư Ðàm Nhuận người
Trung Hoa. Ðàm Nhuận cũng đã lưu lại Giao Châu một thời
gian: Vận Kỳ giỏi Phạn ngữ và Hán ngữ. Ông thọ giới
cụ túc (tỳ khưu) với Jnanaphadra (Trí Hiền) ở đảo Java.
Tại đây thiền sư Hội Ninh người Trung Hoa đang dịch với
thầy ông là Jnanaphadra cuốn Ðại Niết Bàn của hệ phái
đại thừa. Kinh này dịch xong, hai người nhờ Vận Kỳ đem
về dâng cho vua Ðường. Vận Kỳ ghé qua Giao Châu trước khi
qua Ðường trao kinh, rồi lại trở lại Giao Châu thuyết pháp
cho cả hai giới tăng và tục. Sau đó, Vận Kỳ trở lại Java.
Ông gặp thầy là Jnanaphadra, nhưng không gặp Hội Ninh, vì
ông này đã đi Ấn Ðộ, Nghĩa tịnh cho biết rằng chính ông
đã gặp Vận Kỳ ở Ấn Ðộ lúc ông còn khoảng 30 tuổi.
Pháp
sư Giải Thoát Thiên đã từng qua Ấn Ðộ bằng đường thủy,
từng tham bái Bồ Ðề Ðạo Tràng (Ðại Giác Tự) và các
thánh tich quanh đó. Tên Phạn ngữ của ông là Mộc Xoa Ðề
Bà (Moksadeva). Ông mất khoảng 25 tuổi.
Pháp
sư Khuy Xung, tên Phạn ngữ là Chất Ðát La Ðề Bà (Citradeva),
cùng một vị thiền sư Trung Hoa tên là Minh Viễn đi thuyền
qua Tích Lan rồi lên Ấn Ðộ. Minh Viễn chuyên về Thiền học,
đã gặp Khuy Xung ở Giao Châu. Họ đi đến đâu thì thu thập
kinh điển thêm đến đó. Họ có đến Bồ Ðề Ðạo Tràng
và thành Vương Xá. Ðến khi tới được rừng Trúc Lâm thì
Khuy Xung ngã bệnh và mất tại đây.
Pháp
sư Huệ Diệm là đệ tử của thiền sư Vô Hành người Trung
Hoa. Ông họ Hứa, đã cùng du hành đi Tích Lan và ở luôn tu
học tại đây.
Pháp
sư Trí Hành người Ái Châu (Thanh hóa), tên Phạn ngữ là Bát
Nhã Ðề Bà (Prajnadeva). Ông đi Ấn Ðộ bằng thuyền và chiêm
bái đủ các Phật tích. Ông đi lên miền bắc vùng sông Hằng
và ở tại đó tu chùa Tín Giả. Ông viên tịch ở đây lúc
50 tuổi.
Thiền
sư Ðại Thừa Ðăng, tên Phạn ngữ là Ma Ha Dạ Na Bát Ðịa
Dĩ Ba (Mahayanapradipa). Ông xuất gia ở Dvararati, Ấn Ðộ; sau
đó ông theo sứ thần nhà Ðường là Diệm Tự về Trường
An. Tới chùa Từ AÂn ông gặp pháp sư Huyền Trang và xin thọ
giới tỳ kheo với ông này. Sau một thời gian tu học, ông
trở về Giao Châu rồi lại đi Tích Lan bằng đường biển.
Sau đó ông tói Nam Ấn Ðộ, rồi đi thẳng lên miền Ðông.
Ông ở lại đây 12 năm, học thông Phạn ngữ. Ông đã chú
giải tác phẩm Duyên Sinh Luận (Nidana-sastra) và một số kinh
điển khác. Khi Ngiã Tịnh sang tới Ðông Ấn Ðộ thì gặp
ông ở đây. Nghĩa Tịnh rủ ông cùng đi về miền Trung, trước
là tới học viện Na Lan Ðà, rồi Vajrasana rồi Vaisali, và
Kusinara nơi đức Phật nhập diệt. Ông ở lại đay tu học,
thỉnh thoảng lại đi vân du, và cuối cùng mất ở đây, tại
chùa Prinirvana lúc tuổi chừng quá 60.
Sách
Ðại Ðường Câu Pháp Cao Tăng Truyện cũng có ghi chép tiểu
sử một số thiền sư Trung Hoa trên đường đi Ấn Ðộ đã
từng ghé lại Giao Châu. Ðó là các vị Minh Viễn, Huệ Mạng,
Vô Hành, Ðàm Nhuận, và Trí Hoằng. Ngoài ra còn có một vị
thiền sư người Khương Cư tên Samghavarma (Tăng Già Bạt Ma)
đã từ Trung Hoa sang Giao Châu mục đích để đi hái thuốc
cho vua đường. Ông qua Giao Châu vào llúc nạn đói đang hoành
hành, người và vật chết như rạ. Ông phân phát thực phẩm
và y dược ngay giữa đường cho những người đói và bệnh.
Xúc động về cảnh khổ, ông thường vừa lo việc cứu trợ
vừa khóc, khiến người bấy giờ thường gọi ông là “vị
Bồ Tát hay khóc”. Ông bị nhọt ở chân và chết lúc 60 tuổi.
Sách
An Nam Chí {Nguyên} của Cao Hùng Trưng viết vào đời Minh cũng
có ghi chép về vài ba vị tăng sĩ không thấy Thiền Uyển
Tập Anh nhắc đến:
Thiền
sư Tam Mạch, người châu Tam Ðới, triều Lý, xuất gia tại
chùa Gián AÂn, tu hành đăc đạo, có thể bay lên trời giữa
ban ngày.
Thiền
sư Vô Châu, người huyện PHi Lộc, cao lớn, tướng mạo dị
kỳ, râu dài, lập am trên núi Sư Tử Phong, tu chúng Vân Hoa
Tam Muội (chắc là Pháp Hoa Tam Muội), mỗi khi giảng kinh thì
hào quang phóng xạ. Ông mất lúc 83 tuổi.
Pháp
sư Ma Ni, người huyện Lê Bình, tu ở Ðại Tiên Thánh Nhan,
bảy năm thành đạo, hàng long phục hổ và cầu mưa cầu tạnh
không gì không linh nghiệm.
Tứ
Quán Huệ Thông là một vị ni sư, quê huyện Chí Linh, xuất
giahồi 12 tuổi, thị tịch lúc 84 tuổi.
Thiền
sư Trí Nhan, người huyên An Lương, có thể phục hổ.
Sách
An Nam Chí {Nguyên} cũng có ghi chép một vài vị thiền sư có
tên trong Thiền Uyển Tập Anh; những ghi chép này cũng khá
phù hợp với sách Thiền Uyển. Sau đây là tên hai vị thiền
sư đời Trần mà ta thấy có chép trong Sách An Nam Chí {Nguyên}:
Thiền
sư Giới Châu, giới hạnh tinh nghiêm cầu mưa rất ứng nghiệm,
vua Trần Thái Tông mời vào cho ở trong dinh.
Thiền
sư Nghĩa Tồn, người huyện Thanh Uy, ở chùa Tiên Lữ Sơn,
đắc đạo, chan than còn giữ lại.
Ðọc
những tài liệu trên, ta thấy rằng trong các thế kỷ thứ
bảy và thứ tám, trong giới thiền sư Việt Nam có nhiều người
học rộng. Nhiều người thông hiểu cả Phạn ngữ lẫn Hán
ngữ. Thiền sư Ðại Thừa Ðăng giỏi Phạn ngữ đến trình
độ đã chú giải những tác phẩm Phạn ngữ bằng Phạn ngữ.
Phụng Ðình và Duy Giám được mời qua cung Ðường giảng
kinh. Thi sĩ Thẩm Thuyên Kỳ vào tận trong rúi để bái yết
Vô Ngại. Thi sĩ Trương Tịch cũng vào tận trong núi để bái
yết Nhật Nam tăng. Nhiều người như Vận Kỳ và Ðại Thừa
Ðăng đã vân du cả hai xứ Trung Hoa và Ấn Ðộ để mở rộng
kiến thức và hành đạo. Tuy sự cai trị của nhà Ðường
đối với Giao Châu khắc nghiệt hưon bất cứ ở triều đại
nào khác, và tuy chính quyền đô hộ tìm mọi cách để ngăn
chặn sự tiến triển của học thuật và văn hóa Giao Châu,
giới thiền sư Việt Nam hồi đó đã có phương tiện để
theo đuổi sự tu học và hành đạo của mình. Có lẽ lý do
là tại nhà Ðường bề ngoài đã tỏ ra tôn sùng đạo Phật.
Vì chính sách ngu dân của chính quyền đô hộ mà trí thức
và sĩ phu ngoài đời trở nên hiếm hoi. Cho nên ý thức về
độc lập quốc gia đã được nhen nhúm trong thiền môn, và
khi cơ hội đến, chính các thiền sư là những người đầu
tiên đứng ra ủng hộ cho việc tranh đấu giành chủ quyền
và xây dựng một nên văn hóa quốc gia độc lập. Ðiều này
ta sẽ thấy rõ ở các thời Ðinh, Tiền Lê và Lý.
[1]
Bài tựa này có thể đọc trong ấn bản Thiền Uyển Kế Ðăng
Lục do hội Phật Giáo Bắc Kỳ thực hiện năm 1943 tại Hà
Nội với sự bảo trợ của trường Viễn Ðông Bác Cổ. Trong
sách này, bài tựa có đề là “San khắc Truyền Ðăng Thủ
Trần Gia Bản”.
[2]
Bài tựa ấn bản 1715 do một ông đồ nho viết (“sau buổi
dạy học tại Chiền Ðường, một vị thiền tăng đã đến
đàm luận rất lâu với tôi về kinh Phật. Những chuyện.
Những chuyện bàn luận các vấn đề Phật giáo như lông rùa,
sừng thỏ... Vị tăng liền lấy trong tay áo một quyển Lục
tên là Tập Anh nhờ tôi sửa chữa chổ sai để in lại”).
Ông đồ này có thể là giỏi về Hán học nhưng lời văn
chứng tỏ sức học Phật kém, ưa dùng từ ngữ Phật mà dùng
không được chính. IIng ta nói rằn ông đã làm công việc
hiệu đính này trong 10 ngày. Ta không biết tình trạng trong
bản văn mà vị thiền tăng (có lẽ là Thích Như Trí) đem
tới nhờ ông ta sửa chữa ra sao, nhưng ta rất nghi có lẽ
vì sức học Phật non yếu mà ông đồ này đã làm hại đến
bản văn kia không ít. Bản in 1715 cũng còn đầy dẫy những
sai lầm; chỉ những người quen thuộc lắm với loịa ngữ
lục Thiền học mới có thể tự hiệu đính được những
đoạn đã trở nên vô nghĩa vì tam sao thất bổn. Thích Như
Trí có lẽ không đủ tự tin về Hán học nhưng giao bản thảo
kia cho một nhà nho ngôn ngữ Phật giáo còn bập bẹ thì qsủa
là một chuyện đáng làm cho ta ngạc nhiên vậy.
[3]
Truyền thống Ấn Ðộ thường ít có khuynh hướng ghi chép
lịch sử tông môn hơn truyền thống Trung Hoa.
[4]
Hai vị thiền sư triều Lý có khuynh hướng thần bí ma thuật.
[5]
Tại cung điện vua Ðường từ nay sẽ vắng tiếng giảng kinh
của Ngài, trong khi đó lênh đênh ngoài biển cả, đạo đức
của Ngài làm hương hoa nổi khắp mặt biển.
[6]
Trên con đường vè, mưa làm thấm dập chiếc áo vải thô
và gió làm phai lạt bớt mùi hương của chiếc ấn ngài mang
theo - áo và ấn đây là tùy thân của thiền sư đắc truyền.
[7]
Biển vắng không thuyền bè đi lại, làm sao tôi nhận được
tin tức của ngài sau này.
[8]
Sách Thiền Uyển Tập Anh trong đoạn nói về thiền sư Sùng
Phạm có nhắc đến tên Vô Ngại, một vị thiền sư ngụ
ở chùa Pháp Vân và dạy Thiền học vào thế kỷ thứ mười.
Nhưng đây không phải là Vô Ngại thượng nhân mà Thẩm Thuyên
kỳ nói tới.
[9]
Y Vương Tích Vị Ðàm: Phật được gọi là Y vương, vua của
các thầy thuốc, chữa được mọi tâm bệnh. Y vương ở đây
có nghĩa là Phật pháp.
[10]
Hổ Khê: pháp sư Huệ Viễn ít khi đưa khách qua khỏi con khe
chảy ngang trước núi. Pháp sư một lần cùng khách đàm luận
về Ðạo Phật vì vui câu chuyên nên đã đi qua khe, có một
con hổ rống lên vì lấy làm lạ.