CHƯƠNG
XII
TRẦN
NHÂN TÔNG VÀ THIỀN PHÁI TRÚC LÂM
MỘT
ÔNG VUA XUẤT GIA
Năm
1299, vua Nhân Tông xuất gia tại chùa Hoa Yên núi Yên Tử, lấy
hiệu là Hương Vân Ðầu Ðà (sau này vua đổi hiệu là Trúc
Lâm Ðầu Ðà). Vua được nhận là người truyền thừa chính
thức của phái Yên Tử, thế hệ thứ sáu, tiếp nối vị
tổ thứ năm là thiền sư Huệ Tuệ. Từ đó trở đi, phái
Yên Tử trở thành nổi tiếng, thế lực lan rộng trong triều
đình và giữa nhân gian. Một ông vua đã từng đánh bại cuộc
xâm lăng của nhà Nguyên, một ông vua đã đem hòa bình và
thịnh trị về cho dân, một ông vua như thế khi đi xuất gia
chắc chắn đã gây nên một tiếng vang lớn và khiến tất
cả mọi người trong nước hướng nhìn về ngọn núi Yên
Tử. đạo Phật trở thành yếu tố tâm lý liên kết toàn
dân lại trong mục đích xây dựng và bảo vệ quốc gia. Nhân
Tông và Anh Tông là những nhà chính trị giỏi, nhưng đồng
thời cũng là những Phật tử thật sự. Nhà phê bình lịch
sử có thể nói họ lợi dụng đạo Phật cho chính trị nhưng
nhà phê bình văn hóa cũng có thể nói họ là những người
Phật tử sùng đạo.
Phong
trào Phật Giáo nhập thế gọi là Trúc Lâm Yên Tử chỉ hưng
thịnh cho đến giữa khoảng thế kỷ thứ mười bốn. Sau
đó, phong trào yếu dần. Từ đây thiếu sự nâng đỡ của
những ông vua Phật tử, đạo Phật rút lui về căn cứ của
mình ở chùa trên núi và nơi thôn quê. Các chùa ở thủ đô
Thăng Long thôi đóng vai trò quan trọng về chính trị.
Một
thời gian sau ngày xuất gia, vua Nhân Tông đổi pháp hiệu là
Trúc Lâm. Ta biết rằng vị tổ thứ hai của thiền phái Yên
Tử, thiền sư Ðạo Viên (hay Viên Chứng) ngày xưa đã được
ban hiệu là Trúc Lâm quốc sư. Nhân Tông đã xuất gia và đã
trở nên một vị cao tăng, tổ thứ sáu của phái Yên Tử
và là tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm: ta gọi vua bằng pháp
hiệu Trúc Lâm của vua, trong khi không quên rằng Trúc Lâm quốc
sư Ðạo Viên là vị tiền bối của vua.
Trúc
Lâm Ðầu Ðà tên tục là Trần Khâm, con của vua Trần Thánh
Tông, sinh năm 1258, lê ngôi vua năm 20 tuổi, xuất gia năm 41
tuổi và tịch năm 1308 vào lúc 51 tuổi. Tác giả Sách Ðại
Việt Sử Ký Toàn Thư viết: “Vua được tinh anh của thánh
nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn
toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là
Kim Tiên Ðồng Tử [1] ; ở vai bên tả có nốt ruồi đen,
cho nên có thể cáng đáng được việc lớn; ở ngôi 14 năm,
nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng hà ở
am Ngọa Vân núi Yên Tử. Hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp
phục hưng làm vẻ vang đời trước, thực là vua hiền đời
Trần. Song vui lòng ở kinh Phật, tuy bảo là đến siêu thoát,
nhưng không phải là đạo trung dung của thánh nhân”. Sử
thần Ngô Sĩ Liên còn nói: “Nhân Tông trên thờ Từ Cung tỏ
rõ đạo hiếu, dười dùng người hiền lập nên võ công,
nếu không phải là bậc nhân minh anh vũ thì làm sao được
như thế? Duy có việc xuất gia là không hợp với đạo trung
dung”. Ðó là những lời phê bình về vua Nhân Tông của các
sử thần theo Nho Giáo.
Hồi
còn nhỏ tuổi, Trúc Lâm đã có ý không mu;ón làm vua. Và muốn
nhường địa vị đông cung thái tử cho em. Sách Tam Tổ Thực
Lục nói: “Một đêm vào giờ Tý, vua vượt thành mà đi,
muốn vào núi Yên Tử. đến chùa ở núi Ðông Cứu thì trời
sáng, liền vào ẩn trong tháp. Vị tăng trụ trì thấy tướng
mạo dị thường liền đem thức ăn khoản đãi. Hôm ấy thái
hậu và vua Thánh Tông sai quần thần tìm tứ tán, bất đắc
dĩ vua phải về. Khi lên ngôi, tuy ngồi lên chín bệ vinh quang
nhưng sinh hoạt rất thanh tịnh. Một hôm ngủ trưa tại chùa
Tư Phúc trong đại nội vua mộng thấy trên rốn mình nở ra
một hoa sen lớn như bánh xe, trên đó có một đức Phật vàng.
Bên cạnh, có người chỉ vào vua mà hỏi: Biết đức Phật
này không? Ðó là đức Biến Chiếu Tôn đấy! Vua tỉnh thức,
đem giấc mộng nói lại cho Thánh Tông nghe, ai cũng lấy làm
lạ. Từ đó thường ăn chay tránh thịt cá, long nhan gầy mòn.
Thánh Tông thấy thế làm lạ, hỏi. Ðiều Ngự (tức Nhân
Tông) cứ thực trình bày. Thánh Tông khóc nói: Ta đã già,
cậy vào một mình ngươi, nếu người như thế làm sao nối
được thịnh nghiệp của tổ tông? Ðiều Ngự cũng khóc.
Ðiều Ngự thánh tính thông minh, hiếu học, nhiều tài, đọc
khắp các loại sách thông suốt cả đến nội điển, thường
mời các vị thiền khách tới cùng giảng cứu Thiền học.
Ðiều Ngự cũng tìm tới tham khảo với Tuệ Trung thượng
sĩ, và do đó thâm nhập được cốt tủy của Thiền học,
cho nên thường lấy tư cách đệ tử để đối đãi với
Tuệ Trung.
Ðã
đành Trúc Lâm thờ Tuệ Trung làm thầy, nhưng khi xuất gia
thọ 250 giới của một vị tỳ khưu vì Tuệ Trung vốn là
cư sĩ, không thể truyền giới cho vua được. Ai là hòa thượng
trao truyền giới pháp cho Trúc Lâm, và vua thọ giới ở đâu?
Hẳn người làm hòa thượng đường đầu truyền giới là
thiền sư Huệ Tuệ, lúc ấy đang lãnh đạo sơn môn Yên Tử,
tổ sư thứ 5 của thiền phái. Và lễ thọ giới xuất gia
của Trúc Lâm chắc chắn được tổ chức trên núi Yên Tử.
Trúc
Lâm tuy học với Tuệ Trung nhưng khác với Tuệ Trung ở chỗ
vua rất chú trọng về mặt hình tướng của sự việc. Trúc
Lâm xứng đáng là vị sáng tổ của một tông phái, người
lãnh đạo của một giáo hội. Vua có ý định xuất gia rất
sớm, nhưng ý định này chỉ được thực hiện vào năm 1299.
Trước đó vua đã ăn chay học Phật một cách kính cẩn[2]
.Năm gần đi xuất gia, vua mời Văn Túc Vương Ðạo Tái (con
của Trần Quang Khải) đến chơi ăn cơm. Vốn rất yêu mến
Văn Túc Vương Ðạo Tái, vua mời Ðạo Tái vào chơi ở Dưỡng
Ðức điện trong cung Thánh Từ và sai người làm các thức
hải vị mời Ðạo Tái. Vua vốn đã ăn chay rồi, nên chỉ
ngồi nhìn Ðạo Tái ăn. Vua có làm bài thơ như sau:
Món
quy cước đỏ thắm
Món
mã yên vàng thơm
Sơn
tăng giữ tịnh giới
Cùng
ngồi không cùng ăn [3]
Chưa
đi xuất gia nhưng tự xem mình như một vị “sơn tăng” rồi,
thì biết vua đã chuẩn bị kỹ lưỡng biết bao cho việc xuất
gia của mình! Tháng Bảy năm 1299, vua xây một thiền am trên
núi Yên Tử gọi là Ngự Dược Am. Xây dựng chỉ sơ sài thôi,
bởi vì sang tháng Tám vua đã đi xuất gia. Vốn rất cẩn thận
về mặt thể thức, vua không thể không tổ chức lễ này
cho long trọng. Chỉ tiếc sử sách không ghi chép lại những
chi tiết của ngày xuất gia ấy. Ta cũng không biết 10 vị
trong hội đồng truyền giới là những vị nào. Ðể đánh
dấu ngày xuất gia của vua, trong toàn quốc đã phát hành cuốn
Phật Giáo Pháp Sự Ðạo Tràng Công Văn Cách Thức, một cuốn
sách nói về thể thức và các bài văn sớ, tấu, điệp, dùng
trong các nghi lễ thọ giới, chẩn tế, cầu an, cầu siêu,
khánh thành, v.v... Cuốn sách này nhắm đến việc thống nhất
các hình thức nghi lễ của Phật Giáo đương thời. Nó được
chính quyền ấn hành khắp nước thay vì được một chùa
ấn hành trong phạm vi một khu vực.
Ý
NGUYỆN XÂY DỰNG MỘT NỀN HÒA BÌNH CHIÊM - VIỆT LÂU DÀI
Tháng
Ba năm 1301, Trúc Lâm đi Chiêm Thành để quan sát Phật Giáo
tại đây. Vua đi với tư cách một du tăng, có một số tăng
sĩ tùy tùng. Vua đã lưu lại đây cho đến tháng mười một
mới về. Trong thời gian lưu trú tại Chiêm Thành, vua đã đàm
đạo với vua nước Chiêm Thành là Chế Mân. Cuộc tiếp xúc
này chắc hẵn là một cuộc tiếp xúc rất thân mật; vua Chế
Mân tiếp một vị du tăng Việt Nam nhưng đồng thời cũng
tiếp một người có thế lực tinh thần rất lớn trong triều
đình và ngoài dân chúng. Trong mục đích xây dựng tình hòa
hữu giữa hai nước làm nền tảng cho hòa binh lâu dài, Trúc
Lâm đã hứa sẽ gã công chúa Huyền Trân cho vua Chàm. Tháng
hai năm 1305, tức là bốn năm sau đó, Chế Mân sai Chế Bồ
Ðài và bộ đảng hơn 100 người đem vàng bạc, hương trầm
và các bảo vật sang để cầu hôn. Lúc này Trúc Lâm đang
tu ở Kỳ Lâm viện và đang bận làm lễ thọ giới tỳ khưu
và Bồ Tát cho vị đệ tử là Pháp Loa. Các quan trong triều
nhiều người khuyên vua Anh Tông nên từ chối. Nhưng Văn Trúc
Vương Ðạo Tái và thượng tướng Trần Khắc Chung bàn với
vua nên làm theo lời hứa gã của Thượng Hoàng. Vua Anh Tông
liền nhận lễ. Tháng sau năm sau 1306, công chúa Huyền Trân
về nhà chồng. Vua Chiêm Thành dâng hai châu Ô và Lý làm sính
lễ. Ðến năm 1307 hai châu này được đổi tên là Thuận
và Hóa. Ta không rõ sự dâng đất này xuất từ thâm ý của
vua Chiêm Thành hay là điều kiện của do vua Anh Tông đặt
ra. Chỉ biết là khi đất hai châu trở thành đất Việt Nam
thì cư dân các thôn La Thủy, Tác Hồng và Ðà Bồng không
chịu theo về quốc tịch Việt. Vua Anh Tông phải sai Ðoàn
Nhữ Hài, một người tâm phúc của vua, đến các thôn này
tuyên dụ đức ý của triều đình, chọn người bản xứ
bổ làm quan, cấp đất cho dân, miễn thuế trong ba năm để
vỗ về họ.
Cuộc
tình duyên giữa vua Chiêm Thành và công chúa Huyền Trân tiếc
thay lại rất ngắn ngũi. Bà về với vua Chiêm Thành tháng
sáu năm 1306 đến tháng năm năm 1307 vua Chiêm mất. Theo tục
lệ Chiêm Thành, hễ vua băng hà thì hoàng hậu phải lên đàn
thiêu chết theo. Vua Anh Tông sợ công chúa bị hại, liền sai
Trần Khắc Chung sang, lấy cớ làm lễ viếng rồi tìm cách
cứu công chúa về. Trần Khắc Chung qua Chiêm Thành vào tháng
mười mà mãi đến tháng tám năm sau mới đưa được công
chúa Huyền Trân về tới kinh đô. Trúc Lâm nghe tin con về
mừng rỡ xuống núi đón. Sợ triều đinh Chiêm giận, Trúc
Lâm liền bảo trại chủ Châu Hóa lấy thuyền đưa 300 người
Chiêm lưu vong về nước, mong chuộc lỗi Trần Khắc Chung đã
đánh lừa Chiêm để đem công chúa ve[4]à. Chủ ý của Trúc
Lâm xây dựng tình huynh đệ giữa hai nước Chiêm Việt để
bảo vệ hòa bình đã không được triều đinh đeo đuổi thực
hiện. Tháng chạp năm 1311, nghĩa là đúng ba năm sau ngày Trúc
Lâm mất, vua Anh Tông đi đánh Chiêm Thành. Sách Ðại Việt
Sử Ký Toàn Thư nói rằng sở dĩ có cuộc chinh phạt Chiêm
Thành như thế là vì “vua nước ấy là Chế Chí phản trắc”.
Vua
nước ấy phản trắc như thế nào? Sách không hề nói. Ta
chỉ biết rằng vua Chế chí sai trại chủ Câu Chiêm sang triều
cống nước ta. Ðoàn Nhữ Hài liền mật ước với người
này hẹn nếu đánh thắng được Chiêm Thành thì sẽ hậu
đãi. Quân Việt chia làm ba đạo: Huệ Võ Vương Quốc Chẩn
tiến tới đường núi, Nhân Huệ Vương Khánh Dư tiến vào
bằng đường biển, vua Anh Tông cầm quân đi đường bộ.
Cuộc xâm lăng này có sự đồng tình của trại chủ Câu Chiêm.
Khi quân đội do vua Anh Tông đến đất Câu Chiêm, Ðoàn Nhữ
Hài sai người đến trại chủ cho biết ý vua Việt Nam muốn
dụ vua Chiêm ra đầu hàng. Trại chủ báo tin cho vua Chế Chí,
vua này nghe theo liền đem gia thuộc đi bằng hải đạo ra hàng.
Ðó là vào tháng năm: vua Chế Chí bị bắt đem về, em vua
là Chế Ðà A Bà Niêm được đưa lên trấn giữ đất Chiêm
Thành. Sau này mối thù Chiêm Việt bùng nổ; chiến tranh giữa
hai nước kéo dài và cuộc chiến đã làm suy yếu cả cơ nghiệp
nhà Trần. Ý kiến và sự sắp đặt của Ðoàn Nhữ Hài trong
cuộc chiến tranh xâm lăng Chiêm Thành đã là một yếu tố
rất quan trọng.
XÂY
DỰNG MỘT GIÁO HỘI MỚI
Cuộc
đời xuất gia của Trúc Lâm là một cuộc đời hoạt động
tích cực. Ngoài những mùa kết hạ (ba tháng tĩnh tu) tại
các am Tử Tiêu, Ngọa Vân, Thạch Thất, Tri Kiến hay tại các
chùa Vĩnh Nghiêm và Siêu Loại, Trúc Lâm thường đi vân du
hoằng đạo đây đó. sách Tam Tổ Thực Lục nói nanm 1304,
“Ðiều Ngự (tức Trúc Lâm) đi khắp mọi nẽo thôn quê,
khuyên dân phá bỏ các dâm từ và thực hành giáo lý Thập
Thiện”. Hồi đó trong dân gian còn có những nơi thờ tự
những tượng thần lõa thể và sinh thực khí, những đền
thờ này chính là những dâm từ nói tới trong Tam Tổ Thực
Lục. Cố nhiên một vị thiền sư như Trúc Lâm đến đâu
cũng được dân chúng ái mộ, khâm phục, và lời khuyên của
vua có tác dụng rất lớn. Thập Thiện chính là giáo lý nhập
thế căn bản của đạo Phật; lấy giáo lý Thập Thiện làm
cơ bản cho đạo đức xã hội, Trúc Lâm đã có ý muốn xây
dựng một xã hội trên nền tảng luân lý đạo Phật. Một
ông vua còn ngồi trên ngôi ủng hộ Phật Giáo, một ông vua
cha làm thiền sư chu du trong quần chúng: sự kiện này thật
đặc biệt chưa từng có. Dù có ý thức hay không, Trúc Lâm
cũng đã góp phần vào việc củng cố triều đại chế độ
bằng những công tác hành đạo tích cực trong dân gian.
Cuối
năm 1304, vua Anh Tông thỉnh Trúc Lâm vào Ðại Nội và xin thọ
Tại Gia Bồ Tát Tâm Giới. Những bậc quốc vương thọ giới
Bồ Tát Tại Gia là những người phát nguyện dùng khả năng
và quyền hạn của ngôi vị mình để phục vụ cho nhân sinh
của Bồ tát. Ngày Trúc Lâm vào thành, vương công bách quan
đều theo vua đi đón. Thấy vua phát nguyện thọ giới Bồ
tát, mọi người cũng xin phát nguyện thọ tam quy ngũ giới.
Trên phương diện hình thức, ta thấy cả một triều đình
trở thành Phật tử, nhưng đứng về phía nội dung mà xét,
ta phải biết chắc có nhiều người thọ giới chỉ vì thấy
vua thọ giới và không muốn làm mất ân sủng triều đình.
Những người theo chủ nghĩa cơ hội thời nào cũng có.
Phật
Trúc Lâm là một nền Phật Giáo nhập thế, liên hệ mất
thiết tới chính trị, phong hóa của xã hội. Con người của
Trúc Lâm rất thích hợp với một phong trào như thế và đó
là lý do chính khiến thiền phái này được thành lập. Truyền
thống Phật Giáo Yên Tử đến đời của Trúc Lâm đã mang
nặng tích cách xã hội nhập thế cho nên việc dùng một danh
từ mới cho tông phái cũng là một việc đưong nhiên hợp
lý.
Trúc
Lâm có phong độ của một người lãnh đạo giáo hội, một
vị tăng thống, và điều này cố nhiên là vang bóng của sự
nghiệp làm vua trước kia. Vua rất thao thức muốn tìm một
pháp tử, tức là một người nối tiếp được sự nghiệp
hoằng đạo nhập thế của mình. Trong thời gian du hành trong
nhân gian, Trúc Lâm cũng có ý định tìm một người như thế.
Ðến năm 1304 đến thôn Nam Sách, Trúc Lâm gặp một người
trai trẻ, tuổi hai mươi mốt, muốn xuất gia, tên là Ðồng
Kiên Cương. Thấy dung mạo khác thường, Trúc Lâm tự bảo:
“Người trai trẻ này có đạo nhãn, sau này chắc sẽ trở
thành pháp khí”. Vui vì sự gặp gỡ này, Trúc Lâm đặt tên
cho chàng là Thiện Lai, cho thọ giới Sa Di, và gửi đi tham
học với Tính Giác Hòa thượng. Thiện Lại sau này là Pháp
Loa, vị tổ thứ hai của thiền phái Trúc Lâm. Pháp Loa chỉ
làm sa di được trên một năm; sang năm 1305, thì Trúc Lâm đã
cho ông thọ giới Tỳ Khưu và Bồ tát. Sang năm 1306 thì ông
đã được lập làm giảng sư ở chùa Siêu Loại. Cố nhiên,
một người có căn trí linh lợi như Pháp Loa có thể đi những
bước nhanh như thế, nhưng trong truyền thống thiền viện,
ít ai vội vã đưa một người mới xuất gia lên địa vị
giảng chủ của một thiền viện khi ông này chưa đầy ba
tuổi tu. Ta cũng hiểu rằng Trúc Lâm tự biết không còn sống
được nhiều năm nữa nên đã chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy,
như đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc xuất gia của mình.
Vua tự mình dạy Phật Pháp cho Pháp Loa: các bộ Truyền Ðăng
Lục, Ðại Tuệ Ngữ Lục đều chính do vua dạy riêng cho Pháp
Loa học. Năm 1307, hồi Pháp Loa mới lên 24 tuổi; Trúc Lâm
đã viết tâm kệ và lấy y bát truyền cho Pháp Loa ngày mồng
một tết năm Mậu Thân (1308) - Trúc Lâm sẽ tịch vào tháng
mười một năm này - Trúc Lâm chính thức ủy Pháp Loa kế
thế trụ trì chùa Siêu Loại, làm tổ thứ hai của Thiền
phái Trúc Lâm. Việc này xảy ra trong sự chứng giám của vua
Anh Tông. Ta đã đọc đoạn nói về việc này trong sách Tam
Tổ Thực Lục.
“Năm
Mậu thân, niên hiệu Hưng Long thứ 16, vào ngày mồng một
tháng giêng, Pháp Loa phụng mệnh làm người nối pháp trù
trì chùa Siêu Loại ở giảng đường Cam Lộ. Bắt đầu buổi
lễ, mọi người làm lễ ở tổ đường; đại nhạc được
tấu lên, các loại danh hương được xông đốt... Ðiều Ngự
đưa Pháp Loa vào lạy ở tổ đường xong, cùng xuống thực
đường để ăn cháo sáng. Sau buổi triêu thực. Nhạc tấu
lên, trống lớn nổi dậy, đại chúng chư tăng được triệu
tập cùng lên pháp đường; lúc đó vua Anh Tông đã ngự giá
tới chùa; ngôi chủ khách đã phân xong, mọi người cùng ngồi.
Anh Tông lúc đó đóng vai một vị đàn việt lớn của Phật
Pháp, ngồi vào ghế khách của pháp đường, quốc phụ thượng
tể [5] cùng với các quan cùng đứng dưới sân. Ðiều
ngự thăng đường thuyết pháp. Thuyết pháp xong điều ngự
rời pháp tòa, dắt Pháp Loa cho ngồi trên pháp tòa ấy, rồi
đứng đối diện Pháp Loa làm lễ thăm hỏi. Sau đó Pháp Loa
đáp bái lại. Ðiều ngự trao pháp y cho Pháp Loa khoác vào.
Bấy giờ Ðiều Ngự ngồi xuống ghế khúc lục một bên để
nghe Pháp Loa thuyết pháp. Xong rồi, Ðiều ngự đem Sơn Môn
(Giáo Hội) Yên Tử và chùa Siêu Loại ủy cho Pháp Loa kế
thế trụ trì, làm tổ thứ hai phái Trúc Lâm”.
Trúc
Lâm đã sắp đặt mọi việc rất vén khéo và đúng lúc. Cả
triều đình có mặt tại buổi lễ hôm đó cùng với vua Anh
Tông đều chứng kiến sự kiện truyền y pháp giữa thầy
trò Trúc Lâm và Pháp Loa, sau này không ai có thể phủ nhận
giá trị lãnh đạo của Pháp Loa nữa. Tất cả những điều
này cho ta thấy chủ ý của Trúc Lâm muốn đặt cơ sở vững
chãi cho một nền Phật Giáo thống nhất và nhập thế tại
Việt Nam. Pháp Loa sau này đã thi hành được dễ dàng nhiệm
vụ lãnh đạo giáo hội của mình, và Anh Tông cung kính vâng
theo di chúc của Trúc Lâm, đối với Pháp Loa luôn xưng là
đệ tử, hết lòng ủng hộ việc hành đạo của Pháp Loa.
Phong
trào phát triển nhập thế do Trúc Lâm xây dựng đã được
đông đảo quần chúng tham dự. Ngày mười sáu tháng chín
năm Canh tuất (1310) triều đình làm lễ rước linh cữu đựng
tro xương Trúc Lâm về chôn ở lăng Quy Ðức phủ Long Hưng.
Một ít tro xương này thì được an trí tại bảo tháp ở
am Ngọa Vân trên núi Yên Tử (*). Linh cửu, trước khi rước
về lăn Quy Ðức, được tạm quàn ở điện Diên Hiền trong
thành. Sắp đến giờ phát dẫn linh cữu rồi mà quan liêu
và dân chúng đứng đầy khắp cung điện, trong ngoài như nêm,
không có cách gì mà rước linh cữu ra cho được. Binh lính
cầm roi xua đuổi dân chúng cũng không giải tán được. Rốt
cuộc vua Anh Tông phải cho gọi chi hậu chánh chưởng là Trịnh
Trọng Tử tới vấn kế. Trọng Tử liền tổ chức quân đội
dưới quyền mình, bày ra đây đó những nhóm hát điệu long
ngâm, trên thềm, ngoài sân. Quần chúng thấy lạ, bèn kéo
nhau ra vây quanh những nhóm trình diễn này, nhờ đó mà cung
điện mới giảm người, đám rước mới thực hiện được.
Chi tiết này trong sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư cho ta thấy
lòng ái mộ của dân chúng đối với Trúc Lâm, và cũng cho
ta thấy không khí thân mật, đơn giản, đượm sắc thái hòa
bình của thời đại.
(*)
Am Ngọa Vân thực ra ở trên một ngọn thuộc về dãy Yên
Sinh, phía tây dãy Yên Tử và thấp hơn Yên Tử, nhưng đường
lên có phần khó khăn hơn. Ở đó, ngoài Ngọa Vân Am còn có
Phật Hoàng bảo tháp song đã bị phá phách nghiêm trọng vì
sự lơ là của người có trách nhiệm từ sau 1945 (N.H.C.).
TƯ
TƯỞNG THIỀN HỌC
Trúc
Lâm đã để lại những tác phẩm sau đây, mà hiện chúng
ta chỉ còn những đoạn trích in lại trong sách Tam Tổ Thực
Lục và Thánh Ðăng Lục:
1)
Thiền Lâm Thuyết Chủy Ngữ Lục
2)
Trúc Lâm Hậu Lục
3)
Thạch Thất Mỵ Ngữ
4)
Ðại Hương Hải Ấn Thi Tập
5)
Tăng Già Toái Sự
Ba
tác phẩm đầu, Thiền Lâm Thuyết Chủy Ngữ Lục, Trúc Lâm
Hậu Lục và Thạch Thất Mỵ Ngữ là những sách tập hợp
các bài kệ tụng, những lời thiền ngữ và những đoạn
vấn đáp giữa Trúc Lâm và môn đệ. Ðại Hương Hải Ấn
Thi Tập tập hợp những bài thơ của Trúc Lâm, một số bài
còn được giữ lại trong các tuyển tập như Việt Âm Thi
Tập, và Toàn Việt Thi Lục nhờ tính cách ít từ ngữ Phật
Giáo của chúng. Tăng Già Soái Sự chắc là một tập văn xuôi
có tính cách thực dụng trong giới thiền giả.
Ngoài
những tác phẩm chữ Hán kể trên, Trúc Lâm còn sáng tác bằng
chữ Nôm nữa. Hiện chúng ta còn được một bài phú và một
bài ca của Trúc Lâm viết bằng chữ Nôm(Cư Trần Lạc Ðạo
Phú và Ðắc Phú Lâm Tuyền Thành Ðạo Ca). Hai bài này được
giữ lại trong tác phẩm An Tử Sơn Trần Triều Trúc Lâm Thiền
Tông Bản Hạnh của hòa thượng Chân Nguyên Ðăng, ấn hành
năm 1745.
Ngoài
ra, Trúc Lâm còn viết bài Thượng Sĩ Hành Trạng nói về cuộc
đời của Tuệ Trung và những kỷ niệm của vua đối với
Tuệ Trung. Bài này in ở cuối sách Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ
Lục.
Về
phương diện tư tưởng, Trúc Lâm chịu ảnh hưởng sâu xa
của Tuệ Trung, nhưng nếu so sánh lối diễn đạt, ta sẽ thấy
Tuệ Trung trực tiếp hơn, đơn giản hơn, hiện thực hơn,
trong khi Trúc Lâm thiên trọng hơn về phương diện văn chương
và hình ảnh. Về hình thái, Trúc Lâm chững chạc hơn, nhưng
ta ít thấy nói vua với sức sống tâm linh mãnh liệt toát
ra từ những lời thiền ngữ như trong trường hợp Tuệ Trung.
Trúc
Lâm được sống nhiều năm trong thiền viện và đã sinh hoạt
theo thể thức và quy chế thiền viện. Vua đã nhiều lần
kết hạ an cư, đăng đàn thuyết pháp và chủ tọa những
buổi đại tham, tức là những cuộc tham vấn về thiền trong
đó toàn thể đại chúng trong thiền viện được tham dự.
Những buổi tham vấn nhỏ thì được gọi là tiểu tham. Trúc
Lâm thường bắt đầu buổi đại tham bằng lễ niệm hương.
Kế tiếp, vua nói một vài lời mở đầu, và sau đó trả
lời những câu hỏi. Sau đây ta hãy đọc một đoạn kể lại
một buổi đại tham như thế do thiền sư Pháp Loa chép lại
trong cuốn Thiền Ðạo Yếu Học;
“Ngày
mồng chín tháng giêng năm Bính ngọ (1306) tại Kỳ Lân Viện,
Trúc Lâm Ðại Tôn Giả khai mạc buổi vấn đạo ở thiền
đường. Sư chỉ vào pháp tọa mà nói:
- Pháp
tọa này là chiếc ghế giây khúc lục [6] là kim nghê
bảo tọa, ngồi thì như ngồi trên đầu lưỡi của Phật
Tổ, ai là người dám ngồi?
Sư
niệm hương như sau:
- Một
nén hương này, khói lành thơm phức, hơi lành bay khắp, ngưng
tụ được cả pháp thân ngũ phận, phổ biến được phép
cúng dường mầu nhiệm tận mười phương đốt ở trong bình,
khiến cho mười phương gia hộ, chí miếu ứng linh, ngọc lịch
miên trường, hoàng đồ củng cố; một nén hương này, xông
cũng không nóng, đốt cũng không tan, đập cũng không nát,
lăn cũng không thành: nhìn vào thì con người khô héo, ngửi
phải thì não cân tê liệt, đốt ở trong bình, dâng lên bậc
vô nhị thượng nhân là Tuệ Trung Ðại Sĩ, xin cho mưa pháp
tưới ơn, cháu con thấm nhuần.
Thăng
đường, vị thượng thủ bạch chùy, sư nói:
- Này
đại chúng, nếu nói tới đệ nhất nghĩa đế [7] thì
vừa động niệm nhất đã sai, vừa há miệng đã lầm. Như
thế làm sao tỏ bày chân lý, làm sao giảng bày phép quán?
Hôm nay ta thử bắt đầu từ phía bên kia (đệ nhị đầu)
xem thử có được hay không?
Nói
lời ấy xong, nhìn hai bên tả hữu, rồi tiếp:
-Trong
chúng có bậc đại tuệ nhãn hay không? Nếu có thì chỉ xin
hai cặp lông mi dương lên một chút. Nếu không, bần đạo
không phải ba hoa mở miệng đem những lời hủ nát trình bày.
Chỉ vì quý vị mà đưa ra môt món đồ xưa thôi vậy. Lắng
nghe, lắng nghe: Ðạo lớn bao la, làm sao ràng buộc bằng ý
tưởng, thể tính lặng yên, không thiện không ác, hễ phân
biệt thì sẽ xuất hiện nhiều mối phức tạp; hể khởi
ra một mảy may quan niệm thì tức khắc sẽ tan biến. Phàm
và Thánh cùng chung một mối, thị và phi đâu phải hai đường;
cho nên hãy biết rằng trong tự tính thì tội phúc vốn không,
nhân quả chẳng thật, ai ai cũng có đủ thể tính ấy, người
người đều đã viên thành. Phật tính và pháp thân như hình
như bóng, tùy lúc chìm tùy lúc hiện, không phải một cũng
không phải hai, ở ngay dưới mũi ta, trước mặt ta vậy mà
dương mắt nhìn không dễ gì trông thấy; bởi vì có ý đi
tìm thì sẽ không bao giờ thấy đạo. Ba ngàn pháp môn đều
ở trong gang tấc, hằng sa diệu dụng đều có sẵn ở nguồn
tâm. Cái gọi là giới môn, định môn, tuệ môn, các vị không
ai là không có đủ. Nên trở về quan sát nơi tự tâm: khi
nghe âm thanh, khi thấy hình sắc, khi tay cầm, chân bước, thì
đó là công dụng của thể tính nào? Tính ấy thuộc tâm nào?
Tâm và tính cùng rõ ràng thì cái gì phải cái gì không phải?
Pháp tức là tính, Phật tức là tâm, vậy tính nào không phải
pháp, Tâm nào không phải Phật. Phật cũng là Tâm; Pháp cũng
là Tâm; nhưng vì Pháp vốn là không-Pháp, cho nên khi nói tới
pháp là tâm thì cũng như nói tâm là không - tâm; tâm đã là
không tâm thì khi nói tâm là Phật cũng như khi nói tâm là
không Phật! Này quý vị, thời gian đi qua mau chóng, mạng sống
con người trôi chảy không ngừng, tại sao hàng ngày biết
ăn cháo ăn cơm mà không tham khảo ngay vấn đề cái chén cái
thìa như vậy.
Lúc
bấy giờ có một vị lão tăng đứng dậy hỏi:
- Áo
cơm những chuyện tầm thường nọ.
Cần
chi phải tạo chuyện nghi nan?
Vị
sư làm lễ xong đứng dậy hỏi: “Ở cảnh giới thiền thì
không có ước muốn, không cần đến hỏi; ở cảnh giới
ước muốn thì không có thiền, hỏi là hỏi gì?, xin cho biết?
“Sư lấy tay chỉ vào trong khoảng không. Vị sư nói: “Dùng
thứ đàm giãi do cổ nhân khạc nhổ ra thì có ích lợi gì?”
Sư đáp: “Mỗi lần cầm đến là một lần đổi mới”
(Thiền Ðạo Yếu Học).
Trong
lời mở đầu của Trúc Lâm, ta thấy vua nói đến thể tính
giác ngộ sẵn có nơi mọi người và đến nguyên tắc tự
mình trở vế thực hiện lấy tự tính giác ngộ ấy bằng
phương pháp không-truy-tầm tức là không đối tượng hóa
tự tính giác ngộ ấy để chạy theo đuổi bắt (“có ý
đi tìm đạo thì không bao giờ thấy đạo”). Ðây là những
điều mà Trúc Lâm tâm đắc từ Tuệ Trung. Cuối bài phú Cư
Trần Lạc Ðạo, Trúc Lâm có viết một bài kệ nhắc lại
nguyên tắc không-truy-tầm này:
Cư
trần lạc đạo hãy tùy duyên
Hễ
đói thì ăn, mệt nghĩ liền
Châu
báu đầy nhà đừng chạy kiếm
Vô
tâm đối cảnh, hỏi chi thiền?
(Cư
trần lạc đạo thả tùy duyên
Cưo
tắc xan hề, khốn tắc miên
Gia
trung hữu bảo hưu tầm mịch
Ðối
cảnh vô tâm mạc vấn thiền).
Trúc
Lâm cũng như Trần Thái Tông, rất ý thức về tính cách vô
thường của cuộc sống và thao thức thực hiện sự giải
thoát đạt đạo. Vua đã biết dùng thì giờ trong mọi hành
động cử chỉ nhỏ nhặt để tham quán thiền đạo. “Này
quý vị, thời gian qua đi mau chóng, mạng sống con người trôi
chảy không ngừng, tại sao hàng ngày biết ăn cháo ăn cơm
mà lại không biết tham khảo ngay vấn đề cái chén cái thìa?”
Vấn đề cái chén cái thìa, theo vị sư đối thoại với Trúc
Lâm là những vấn đề “tầm thường” không cần đặt
ra; nhưng chính thiền sư mà chứng ngộ được là do ở sự
tham quán thường trực về những chuyện “tầm thường”
như vậy. Sự giác ngộ đạt đạo, theo Trúc Lâm phải được
thực hiện ngay trong kiếp này. Thân mạng và cuộc đời vô
thường, đời người như một mùa xuân sẽ qua. Mùa xuân này
không thể để cho nó trôi qua một cách vô ích; tiếng kêu
thiết tha rơi máu của con chim đỗ quyên nhắc ta điều đó.
Trúc Lâm đã mở đầu một buổi đại tham tại chùa Sùng
Nghiêm bằng một bài kệ:
Thân
như hơi thở qua buồng phổi
Kiếp
tựa mây luồn đỉnh núi xa
Chim
khuyên kêu rã bao ngày tháng
Ðâu
phải mùa xuân dễ luống qua
(Thư
hư hô hấp tỵ trung khí
Thế
tự phong hành lĩnh ngoại vân
Ðỗ
quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất
thị tầm thường không quá xuân)
Ðể
thấy tư tưởng thiền của Trúc Lâm, ta hãy đọc vài đoạn
vấn đáp sau đây trong buổi đại tham chùa Sùng Nghiêm:
“Sư
đánh một tiếng chùy nữa mà nói:
- Chẳng
có ai cả sao? Hãy trình diện ra! Hãy trình diện ra!
Một
vị tăng bước ra hỏi:
- Thế
nào là Phật?
Sư
đáp:
- Chấp
y lối cũ là sai lạc.
Lại
nói tiếp:
- Thế
nào là pháp?
Sư
đáp:
- Chấp
y lối cũ là sai lạc.
Lại
hỏi:
- Rốt
cuộc là thế nào
Sư
đáp:
- Tám
chữ tháo tung trao bạn hết [8]
Còn
chi đâu nữa để trình bày?
Hỏi
tiếp:
- Thế
nào là tăng?
Sư
đáp:
- Chấp
y lối cũ là sai lạc.
Hỏi
tiếp:
- Rốt
cục thế nào?
Sư
đáp:
- Tám
chữ tháo tung trao bạn hết
Còn
chi đâu nữa để trình bày?
Hỏi
tiếp:
- Thế
nào là một việc {con đường }hướng thượng ?
Sư
đáp:
- Khiên
nhật nguyệt trên đầu gậy.
Hỏi
tiếp:
- Dùng
công án cũ mà làm gì?
Sư
đáp:
- Mỗi
khi dùng đến, lại thành mới tinh.
Hỏi
tiếp:
- Thế
nào là sự trao truyền ngoài giáo điển?
Sư
đáp:
- Con
ểnh ương không nhảy ra khỏi rổ được đâu.
Hỏi
tiếp:
- Nhưng
sau khi nhảy ra rồi thì sao?
Sư
đáp:
- Theo
chân ếch nhái, cát bùn vấy thêm.
Hỏi
tiếp:
- Vì
vậy mà nhảy không khỏi phải không?
Ðiều
Ngự lớn tiếng:
- Anh
chàng mù kia, có thấy cái gì {đây} không?
Hỏi
tiếp:
- Tôn
đức lừa gạt người ta làm gì?
Ðiều
Ngự suỵt; vị tăng đang suy nghĩ thì bị Ðiều Ngự đánh.
Vị tăng định mở miệng hỏi, Ðiều Ngự liền hét. Vị
tăng cũng hét. Ðiều Ngự nói:
- Lão
tăng nghe ngươi hét một tiếng. Nhưng đồng thời lã tăng
cũng hét một tiếng, thế là hai tiếng. Vậy người hiểu
về hai tiếng hét đó thế nào? Nói mau! Nói mau!
Vị
tăng đang suy nghĩ thì Ðiều Ngự lại hét một tiếng khác
và nói:
- Hồn
con chồn hoang kia, bây giờ ở tại đâu, hãy mau mau tỉnh dậy!
Vị
tăng làm lễ và rút lui.
**
*
Một
vị tăng khác tiến lên hỏi:
- Gia
phong của các đức Phật quá khứ thì thế nào?
Sư
đáp:
- Vườn
rừng vắng mặt người chăm sóc
Lý
trắng đào hồng tự nở hoa.
Hỏi
tiếp:
- Gia
phong của các đức Phật hiện tại thì thế nào?
Sư
đáp:
- Bãi
biễn đợi triều, mây nhớ nguyệt
Thôn
chài nghe sáo, khách trông nhà.
Lại
hỏi tiếp:
- Còn
gia phong các đức Phật vị lai?
Sư
đáp:
- Bãi
biển đợi triều, mây nhớ nguyệt
Thôn
chài nghe sáo, khách trông nhà.
Lại
hỏi:
- Còn
gia phong của hòa thượng thì sao?
Sư
đáp:
- Áo
rách đùm mây đun cháo sớm
Binh
xưa đựng nguyệt nấu trà khuya.
Hỏi
tiếp:
- Ngày
xưa, khi Linh Vân thấy hoa đào nở mà chứng ngộ thì thế
nào?
Sư
đáp:
- Hoa
nở hoa tàn tùy tiết nọ
Gió
đông đâu biết, hỏi mà chi?
Hỏi
tiếp:
- Giết
người mà không nhíu mắt thì sao?
Sư
đáp:
- Thì
can đảm lắm chứ sao!
Hỏi
tiếp:
- Bậc
tu hành lớn còn có thể rơi vào vòng tròn nhân quả nữa không?
Sư
đáp:
- Miệng
tựa huyết hồng phun Phật Tổ.
Răng
như gươm bén đồn thiền lâm
Sáng
kia chết xuống a tỳ ngục
Vội
niệm “Nam Mô Quan Thế Âm!”
Hỏi
tiếp:
- Cò
trắng xuống đồng ngàn điểm tuyết
Ngô
đồng oanh đậu, một cành hoa.
ý
thế nào?
Sư
đáp:
- Câu
ấy vốn không phải như thế.
Hỏi:
- Vậy
câu ấy vốn thế nào?
Ðáp:
- Cò
trắng xuống đồng, ngàn điểm tuyết
Ngô
đồng oanh đậu, một cành hoa.
Hỏi
tiếp:
- Ðó
là chuyện của ai vậy?
Sư
đáp:
- Nên
biết lò tiên nhiều kỹ thuật
Nhân
đơn vốn cũng tử chu sa.
Hỏi
tiếp:
- Pháp
thân thanh tịnh là gì?
Ðáp:
- Ðục
vàng rơi đống phân sư tử
Chim
cô trên đỉnh Thiết Côn về.
Hỏi:
- Kẻ
học nhân này không hiểu?
Ðáp:
- Giá
vốn đã hay, hàng bán khó
Khổ
khi buôn bán phải lừa nhau.
Hỏi
tiếp:
- Viên
mãn báo thân là gì?
Sư
đáp:
- Cánh
bằng liệng cao, sức gió mạnh
Lẽ
Châu linh hoạt, sóng thần xanh
Vị
tăng lễ bái. Ðiều Ngự nói tiếp:
- Nguyên
lai đầy đủ muôn công dụng
Vì
ngươi nghiêng lệch mới không thành.
Hỏi:
- Còn
thế nào là thiên bách ức hóa thân?
Ðáp:
- Hô
phong hoán vũ chi cho lắm
Mực
nước hiên nhà vẫn giữ nguyên
Vị
tăng:
- Ðúng
như vậy.
Ðiều
Ngự:
- Hảo
hán nhóm mây trên đỉnh núi
Bốn
bên địa ngục vẫn chờ trông!
Vị
tăng lễ bái rồi lui”.
Ta
thấy gì trong hai cuộc tham khảo trên? Trong cuộc tham khảo
thứ nhất, Trúc Lâm tránh né không để cho người đối thoại
tạo tác những ý niệm về Phật, Pháp, và Tăng. Chủ đích
đồng với chủ đích của Tuệ Trung, nhưng phương pháp không
trực tiếp và mạnh bạo như của Tuệ Trung. Dù Trúc Lâm có
dùng gậy đánh (Tuệ Trung không bao giờ dùng đến gậy) và
tiếng hét, nhưng lối diễn tả của vua bao giờ cũng có tánh
ước lệ bình thường hơn lối diễn tả của Tuệ Trung. Trong
cuộc tham khảo thứ hai, Trúc Lâm dùng rất nhiều hình ảnh
thi ca để nói về tam thân (pháp thân, báo thân và ứng thân),
và khuyên người đối thoại đừng vói theo những khái niệm
giáo lý: nhóm mây trên đỉnh núi không làm tiêu tan được
cảnh nuốt viên đồng đỏ cháy dưới địa ngục!
Có
lẽ tác phẩm hay nhất của Trúc Lâm là tám bài kệ về vấn
đề có không:
Có
có không không
Giây
khô cây ngã
Thầy
tu áo vá
Ðau
não điên đầu
Có
có không không
Thể
lộ gió thu
Hằng
hà sa số
Gươm
nhọn va nhằm
Ðao
bén chạm phải
Có
có không không
Lập
tông lập chi
Ðập
ngói, xoi rùa
Leo
núi, lội sông
Có
có không không
Chẳng
có chẳng không
Ghi
dấu mạn thuyền
Sau
này tìm kiếm
Xách
theo họa đồ
Ði
lùng ngựa đẹp
Có
có không không
Hoặc
có giữ gìn
Hoặc
không giữ gìn
Tuyết
trên nón lá
Hoa
trên hài nhung
Ôm
cây đợi thỏ
Có
có không không
Từ
xưa tới nay
Chấp
vào ngón tay
Quên
mất mặt trăng
Ðất
bằng chìm xuống
Có
có không không
Như
thế như thế
Tám
chữ tháo tung
Không
nơi bám víu
Có
có không không
Nhìn
trái nhìn phải
Tra
tra xét xét
Phố
chợ ồn ào
Có
có không không
Lo
lắng xót thương
Cắt
đứt sắn bìm
Bên
đó bên đây
Thảy
đều khoái hoạt
(Hữu
cú vô cú
Ðằng
khô thụ đảo
Kỷ
cá nạp tăng
Chàng
đầu ký não
Hữu
cú vô cú
Thể
lộ kim phong
Canh
già sa số
Phạm
nhẫn tương phong
Hữu
cú vô cú
Lập
tông lập chỉ
Ðả
ngõa toàn quy
Ðăng
sơn thiệp thủy
Hữu
cú vô cú
Phi
hữu phi vô
Khắc
châu cầu kiếm
Sách
ký án đồ
Hữu
cú vô cú
Hộ
bất hồi lộ
Lạp
tuyết hài hoa
Thủ
châu đãi thố
Hữu
cú vô cú
Tự
cổ tự kim
Chấp
chỉ vọng nguyệt
Bình
địa lục trầm
Hữu
cú vô cú
Như
thị như thị
Bát
tự đả khai
Toàn
vô ba tỵ
Hữu
cú vô cú
Cố
tả cố hữu
A thích
thích địa
Náo
quát quát địa
Hữu
cú vô cú
Ðiêu
điêu đát đát
Tài
đoạn cát đằng
Bỉ
thử khoái hoạt).
Bí
quyết của Trúc Lâm là làm cho tâm hồn không vướng bận.
Lòng không vướng bận nghĩa là không bị ràng buộc bởi thành
bại đắc thất và bởi sự dồn chứa kiến thức. Ðạt tới
được tâm trạng tự do ấy là đạt tới sự an ổn thật
sự; nhân ngã và tham sân không còn lay chuyển được tự thân,
và thức tính Kim Cương bắt đầu hiển lộ. Cõi Cực Lạc
không nên đi tìm tận phương Tây mà chỉ cần tìm ở sự
gạn lọc tự tâm. Chính ngay trên chỗ đứng này mà ta phải
thực hiện tự tính rạng rỡ của tâm, bởi vì tự tính ấy
không khác gì với đức Phật A Di Ðà. Trong bài phú chữ Nôm
Cư Sĩ Trần Lạc Ðạo, Trúc Lâm gọi tâm hồn không vướng
bận này là “lòng rỗi”
Miễn
được lòng rỗi
Chẳng
còn phép khác
Rèn
tính lặng tính mới hầu an
Dứt
niệm vọng niệm đình chẳng thác
Tột
trừ nhân ngã, thì ra tướng thực kim cương
Ðình
hết tham sân, mới lão lòng mầu viên giác.
Tịnh
độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương.
Di
Ðà là tính lặng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc
Xét
thân tâm, luyện tính thức, há rằng mong quả báu phô khoa
Cầm
giới hạn, địch vô thường, nào có sá câu danh bản giác?
“Miễn
được lòng rỗi, chẳng còn phép khác”, chủ trương của
Trúc Lâm là chủ trương đình chỉ phiền não trước tiên,
phù hợp với truyền thống “ngũ đình tâm quán” của thiền
học nguyên thủy. Giáo lý Tịnh Ðộ lúc bấy giờ đã khá
phổ thông, nhưng đối với Trúc Lâm cũng chỉ là một phương
cách diễn tả chân lý và phương pháp Thiền học, vốn căn
cứ trên nhận thức về chân như và bát nhã của giáo lý
đại thừa. Người thực hành Thiền học không cần đi tìm
Phật ở Tây Phương, cũng không cần tìm học kinh điển các
tông phái.
Biết
chân như, tin bát nhã, chớ còn tìm Phật tổ Tây phương;
Chứng
thực tướng, ngộ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc.
Nếu
bài văn tế cá sấu của Nguyễn Thuyên ngày nay không còn,
thì bài Cư Trần Lạc Ðạo Phú và bài Ðắc Thú Lâm Tuyền
Thành Ðạo Ca của Trúc Lâm là hai bài văn biền ngẫu xưa
nhất mà ta hiện có. Ðể có thêm chút ý niệm về văn Nôm
của Trúc Lâm, ta hãy đọc thêm đoạn chót của bài Cư Trần
Lạc Ðạo:
Cốc
một chân không
Dụng
đòi căn khí
Nhân
lòng ta vướng chặt khôn thông
Há
cơ tổ nay còn chỗ bí
Chúng
tiểu thừa cốc hay chớ đến
Bụt
xá ngăn bảo sở hóa thành
Ðấng
thượng sĩ chứng thực mà nên
Ai
cậy có sơn lâm thành thị?
Núi
hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao
Chiều
vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí
Ngựa
cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang
Gác
ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quý?
Tranh
công danh, lồng nhân ngã, thực ấy phàm ngu
Xây
đạo đức, dời thâm tâm, định nên thánh trí
Mày
ngang mũi dọc, tướng tuy lạ xem ắt bằng nhau
Mặt
thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vàn vàn thiên lý.
Trừ
Ðại Hương Hải Ấn Thi Tập, một số ít bài thơ của Trúc
Lâm còn được để lại, phần lớn làm trước khi xuất gia.
Thơ văn Trúc Lâm lời đẹp và ý siêu thoát. Sau đây là bài
văn vua làm trước khi xuất gia.
Bài
Lên Núi Bảo Ðài:
Cảnh
vắng đài thêm cổ
Xuân
sang mầu chửa hồng
Rợp
bóng nẻo hoa trồng
Vạn
sự nước xuôi nước
Trăm
năm lòng ngỏ lòng
Tựa
lan, nâng sáo thổi
Trăng
sáng đầy cõi tâm.
(Ðịa
tịch đài du cổ
Thời
lai xuân vị thâm
Vân
sơn tương viễn cận
Hoa
kính bản tình âm
Vạn
sự thủy lưu thủy
Bách
niên tâm ngữ tâm
Ỷ
lan hoành ngọc địch
Minh
nguyệt mãn hung khâm)
Bài
Cảnh Xuân:
Liễu
rũ hoa hồng chim hát ca
Mây
chiều in bóng trước hiên nhà
Khách
vào, thế sự không cần hỏi
Chỉ
tựa lan can ngắm cỏ hoa.
(Dương
liễu hoa thâm điểu ngữ trị
Họa
đường thiển ảnh mộ vân phi
Khách
lai bất vấn nhân gian sự
Chỉ
bạng lan can khán thủy vi)
Bài
Thu Muộn Ở Vũ Lâm (làm trong thời gian vua tập sự xuất gia
ở đây, khi hành cung Vũ Lâm đã biến thành chùa Vũ Lâm)
Bóng
cầu đảo ngược lòng khe suối
Một
ánh tà dương gợn nước hồ
Núi
lặng nghe rơi tờ lá đỏ
Khói
sương dìu dặt tiếng chuông đưa.
(Họa
kiều đảo ảnh trám khê hoành
Nhất
mạc tà dương thủy ngoại minh
Tịch
tịch thiên sơn, hồng diệp lạc
Thấp
vấn hòa lộ tống chung thanh).
Bài
Cuối Xuân (viết sau khi đã xuất gia, ngồi trên bồ đoàn
nhìn mùa xuân qua với tâm trạng bình thản và thanh thoát).
Niên
thiếu chưa từng hiểu sắc, không
Xuân
sang hoa sắc vướng tơ lòng
Diện
mục xuân nay từng khám phá
Thiền
tọa an nhiên ngắm rụng hồng
(Niên
thiếu hà tằng liễu sắc, không
Nhất
xuân tâm sự bách hoa trung
Như
kim khám phá Ðông Hoàng diện
Thiền
bản bồ đoàn khán trụy hồng).
NHỮNG
NGÀY CUỐI
Như
ta đã biết, Trúc Lâm là một nhà lãnh đạo giáo hội hơn
là một tư tưởng gia. Nhưng vua đã học Phật thấu đáo.
Ý thức được rằng mình còn phải học nhiều nơi các “bậc
tuệ nhãn”, Trúc Lâm dù ngồi trên ghế chủ tọa của các
buổi đại tham vẫn thường giữ thái độ khiêm nhượng.
Thạch Thất Mỹ Ngữ là tập ghi chép những lời thiền ngự
nói ở am Thạch Thất, những lời gọi là nói trong lúc ngủ
(mỵ, ngữ). Ðứng về phương diện gtc và lãnh đạo giáo
hội, Trúc Lâm đã dấn thân một cách tích cực và đã không
từ chối bất cứ một cố gắng nào để xây dựng cho Phật
Giáo Trúc Lâm một nền tảng vững chãi. Năm 1308 là năm sống
cuối cùng của Trúc Lâm. Ðó là năm Mậu thân:
Ngày
tết: Ủy Pháp Loa trú trì chùa Báo ân
Tháng
tư: Kết hạ ba tháng tại chùa Vĩnh Nghiêm, ủy Pháp Loa làm
trú trì luôn cả chùa này. Giảng Truyền Ðăng Lục cho đại
chúng. Thỉnh quốc sư Ðạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa.
Tháng
bảy: Lên núi Yên Tử, ở am Tử Tiêu, giảng Truyền Ðăng
Lục riêng cho Pháp Loa.
Tháng
tám; Các thị giả xuống núi hết, chỉ còn lại đệ tử
lớn nhất là Bảo Sát ở lại.
Tháng
chín: đi du hành mọi nơi trên núi Yên Tử, có Bảo Sát đi
theo.
Tháng
mười: Chị là Thiên Thụy công chúa bệnh nặng, gia đồng
lên núi thưa rằng công chúa muốn thấy mặt em trước khi
nhắm mắt. Trúc Lâm chống gậy xuống núi, chỉ có một thị
giả theo hầu. Ði từ mồng năm tới mồng mười mới tới
kinh đô. Thăm chị xong, ngày rằm lên đường về núi. Trên
đường ghé nghỉ đêm tại chùa Siêu Loại. Sáng mai lại lên
đường, đi ngang qua chùa làng Cổ Châu (chắc là chùa Pháp
Vân) ghé lại chơi, có đề một bài thơ như sau lên vách.
Số
đời một hơi thở
Tỉnh
đời hai biển trăng
Cung
ma đâu sá kể?
Nước
Phật một trời xuân!
(Thế
số nhất tức mặc
thời
tình lưỡng hải ngân
Ma
cung hồn quản thậm
Phật
quốc bất thăng xuân).
Ngày
17 nghỉ đêm tại chùa Sùng Nghiêm. Tuyên Từ hoàng thái hậu
thỉnh về am Bình Dương thọ trai. Trúc Lâm vui và nói: “có
lẽ đây là buổi cúng dường cuối cùng”.
Tam
Tổ Thực Lục chép về những ngày cuối cùng của Trúc Lâm
như sau:
“Ngày
18 lại lên đường. Tới chùa Tú Lâm ở ngọn An Sinh thấy
nhức đầu mới bảo hai vị tỷ khưu là Tử Dinh và Hoàng
Trung rằng: “Tôi muốn lên đỉnh Ngọa Vân mà sức chân yếu
quá, không thể đi được, bây giờ làm sao?” Hai vị nói:
“Hai chúng tôi xin đỡ ngài đi”. Lên tới đỉnh Ngọa Vân,
Ðiều Ngự cảm ơn hai vị và nói: Qúy vị xuống núi nhớ
lo tu hành, đừng xem chuyện sinh tử là nhàn hạ”. Ngày 19
bảo thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu núi Yên Tử gọi
Bảo Sát đến gấp... Ngày 21 Bảo Sát đến nơi. Ðiều Ngự
trông thấy, cười mà nói: “Ngươi sao đến muộn thế? Ta
sắp đi rồi. Trong Phật Pháp có điều gì chưa hiểu thì mau
hỏi đi”. Bảo Sát nói: “Khi Mã Tổ Ðại sư bệnh, vị
viện chủ hỏi: gần đây tôn vị thế nào? Mã Tổ đáp: Ngày
đối diện Phật, đêm đối diện Phật. Ý ấy thế nào? “Ðiều
Ngự lớn tiếng: Ngũ Ðế và Tam Hoàng là vật gì?” Bảo
Sát tiếp: “Hoa nở rộ phô mầu gấm, tre phương Nam gỗ phương
Bắc, phải hiểu thế nào?” Ðiều Ngự nói: “Mù mắt ngươi
đi”. Bảo Sát liền thôi...
Ngày
1 tháng mười một, đúng nữa đêm, sao sáng đầy trời, Ðiều
Ngự hỏi: bây giờ là giờ gì? Bảo Sát thưa: giờ Tý. Ðiều
Ngự đưa tay ra hiệu mở cửa sổ để nhìn ra ngoài. Nói:
“Ðến giờ ta đi rồi vậy” Bảo Sát hỏi: “Tôn đức
đi đâu bây giờ?” Ðiều Ngự nói:
Mọi
pháp đều không sinh
Mọi
pháp đều không diệt
Nếu
hiểu được như thế
Chư
Phật thường hiện tiền
Chẳng
đi cũng chẳng lại
(Nhất
thiết pháp bất sinh
Nhất
thiết pháp bất diệt
Nhược
năng như thị giải
Chư
Phật thường hiện tiền
Hà
khứ lai chi hữu?).
Bảo
Sát hỏi thêm: “Còn khi bất sinh bất diệt thì sao? “Ðiều
ngự khua tay nói: “Thôi đừng nói mê nữa”. Rồi ngồi theo
kiểu sư tử tọa mà hóa...
Xá
lợi của Ðiều Ngự được phân làm hai phần... Một phần
để vào bảo tháp nơi Ðức Lăng, một phần để ở kim tháp
chùa Vân Yên núi Yên Tử.
Sách
Tam Tổ Thực Lục, trong các phần nói về Trúc Lâm và
Pháp Loa, đã có những đoạn nói tỷ mỹ về các sự kiện
lịch sử có ghi ngày tháng và các chi tiết nhỏ nhặt như
trong đoạn văn trên. Những tài liệu này rất qúy giá và
đáng tin cậy hơn những tài liệu trong các bộ sử, bở vì
các sách như Tam Tổ Thực Lục được bảo tồn trong các chùa
chiền, trừ những sai lầm trong khi biên chép ít ai dám sửa
chữa một chữ. Trái lại các bộ sử thường đã được
các sử quan biên tập theo quan điểm mình đô khi vì thành
kiến chính trị và ý thức hệ mà thêm bớt khiến cho nhiều
chi tiết bị mất mát hoặc sai lạc.
Trúc
Lâm không biết đã có được bao nhiêu đề tử xuất gia đắc
pháp. Ta biết Bảo Sát là đệ tử đầu tay rất gần gũi,
nhưng Bảo Sát lại không được phó thác nhiệm vụ tổ thứ
hai của Trúc Lâm. Có lẽ Bảo Sát không có khiếu như Pháp
Loa về mặt duy trì tổ chức giáo hội. Ngoài Bảo Sát và
Pháp Loa, ta còn thấy các vị Bảo Phác, Pháp Không, Pháp cổ
và Huệ Nghiêm cũng là đệ tử của Trúc Lâm. Ngoài ra, theo
Ðồ Biểu của Huệ Nghiêm trong sách Tuệ Trung Thượng Sĩ
Ngữ Lục, trong số các đệ tử của Trúc Lâm còn các vị
Pháp Tràng, Hương Tràng, Hương Sơn và Mật Tạng
[1]
(65) Sách Tam Tổ Thực Lục gọi là “Kim Phật”
[2]
(66) Sau khi những trận đánh ở biên giới Lào Việt kết thúc
vào mùa hè năm 1295, Trúc Lâm đã từng đi thực tập xuất
gia ở chùa Vũ Lâm (ở làng Vũ Lâm đã từng đi thực tập,
phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình). Mãi đến năm 1299 vua mới
chính thức xuất gia tại núi Yên Tử. tại Vũ Lâm có sẵn
một hành cung của Nhân Tông vì Nhân Tông tập sự xuất gia
tại đó nên hành cung được biến thành chùa Vũ Lâm.
[3]
(67)
Hồng
thấp bác quy cước
Hoàng
hương chích mã yên
Sơn
tăng trì tịnh giới
Ðồng
tọa bất đồng xan
[4]
(68) Khắc Chung nói với người Chiêm Thành rằng trước khi
công chúa lên hỏa đàn chết theo vua Chiêm thì nên để công
chúa ra ngòai bờ biển để làm lễ chiêu hồn ở ven trời,
đốn linh hồn vua Chiêm cùng về hỏa đàn. Người Chiêm nghe
theo; Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem
về. Lênh đênh loanh quanh mãi ở đường biển, mười tháng
sau mới về đến kinh sư. Theo sách Ðại Nam Nhất Thống Chí,
công chúa Huyền Trân sau khi về nước đã xuất gia tu học
tại chùa Nộn Sơn, xã Hổ Sơn, huyện Thiên Bản tỉnh Nam
Ðịnh.
[5]
(69) Huệ Võ Ðại Vương Quốc Chẩn.
[6]
(70) Khúc lục thằng sàng: ghế này dùng trong thiền viện
[7]
(71) Ðệ nhất nghĩa đế: chân lý tuyệt đối.
[8]
(72) Tám chữ tháo tung: Tám chữ là “sinh diệt diệt dĩ, tịch
diệc vi lạc” (sinh và diệt sau khi đã diệt rồi, thì đó
là niềm vui niết bàn). Kinh Niết Bàn, phẩm Thánh Hạnh, kể
chuyện Bồ Tát Tuyết Sơn hy sinh cho quỷ La sát ăn thịt để
được nghe nửa sau của bài kệ, gồm có tám chữ. Toàn bài
kệ như sau:
“Chư
hạnh vô thường
Thị
sinh diệt pháp
Sinh
diệt diệt dĩ
Tịch
diệt vi lạc”.