CHƯƠNG
XV
NHỮNG
KHUÔN MẶT PHẬT TỬ KHÁC TRONG ÐỜI TRẦN
Như
ta đã thấy, những ghi chép về Phật Giáo đời Trần chỉ
chú trọng về các nhà vua Phật tử và ba vị tổ Trúc Lâm.
Những ghi chép này tuy vậy vẫn còn rất nhiều thiếu sót
và một số đã bị thất lạc. Chắc chắn đời Trần còn
có những cao tăng và Phật tử xuất sắc mà tên tuổi không
còn được ghi lại.
Sau
đây ta hãy ghi nhận tên tuổi của một số người đã được
nhắc qua trong những tài liệu Phật Giáo đời Trần, mong rằng
sau này có dịp tìm ra được những tài liệu khác nói thêm
về họ.
TRÍ
VIỄN THIỀN SƯ
Ðây
là một người bạn của Tuệ Trung. Trong Tuệ Trung Thượng
Sĩ Ngữ Lục, Tuệ Trung có làm một bài thơ trêu đùa Trí
Viễn thiền sư về việc rất chăm nghiên cứu kinh chú thích
kinh điển. Có thể Trí Viễn thiền sư để nhiều thì giờ
để dịch các kinh chữ Hán ra Nôm, bởi vì đầu đề của
bài thơ mà Tuệ Trung viết để trêu Trí Viễn là “Trêu Thiền
Sư Trí Viễn Ðọc Kinh Viết Nghĩa” (Hí Trí Viễn Thiền Sư
Khán Kinh Tả Nghĩa). Bài thơ ấy như sau :
Mực
thơm: mồi tốt; bút: cần câu
Thuyền
vượt phong ba biển học sâu
Thầy
Viễn buông câu xin cẩn trọng
Năm
lừa gặp động Ninh Long sầu!
(Mặc
vi hương nhĩ, bút vi can
Học
hải phong ba lý điếu thuyền
Trân
trọng Viễn Công tần hạ điếu
Hội
Ninh Long thượng thị lư niên).
THUẦN
NHẤT PHÁP SƯ
Ðây
là một vị cao tăng sống đồng thời với Tuệ Trung. Tuệ
Trung có hai bài thơ sau đây để tặng ông, chép trong Tuệ
Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục:
Pháp
thân tịch diệt, sắc thân còn
Ðêm
tĩnh canh khuya nhập mộng hồn
Dù
chưa rong chơi miền tổ vực
Lại
càng lui tới chốn thiền môn
Chưa
lên nẽo thánh vô sinh giới
Thì
bạn nhân thiên hữu lậu môn
Nếu
gặp người hay bàn diệu chỉ
Bên
trời đâu dậy lũ hồ tôn?
(Pháp
thân tịch diệt sắc thân tồn
Dạ
tịnh tam canh nhập mộng hồn
Túng
vị ưu du thiền tổ vực
Giã
tằng xuất nhập pháp vương môn
Lăn
đăng hiền thánh vô sinh lộ
Cam
kết nhân thiên hữu lậu căn
Nhược
ngộ tác gia đàm diệu chỉ
Thiên
tân hà xứ khởi hồ tôn?
TĂNG
ÐIỀN ÐẠI SƯ
Ðây
cũng là một vị cao tăng sống đồng thời với Tuệ Trung.
Tuệ Trung đã đặt với ông ta một câu hỏi về Thiền học
trong hình thức bài thơ sau đây, nhan đề Vấn Tăng Ðiền
đại sư:
Dầu
ở cung môn hoặc núi rừng
Rốt
cùng vẫn chẳng thấy an tâm
Non
xa sáng tỏ muôn hình dáng
Ai
nghe vượn hú chốn rừng thâm?
(Bất
yếu châu môn bất yếu lâm
Ðáo
đầu hà xứ bất an tâm
Nhân
nhàn tận kiến thiên sơn hiểu
Thùy
thính cô viên đề xứ thâm?)
BẢO
PHÁC QUỐC SƯ
Ðây
là một vị đệ tử của Trúc Lâm được vua Anh Tông tặng
phong danh hiệu quốc sư sau khi Trúc Lâm qua đời. Trong thời
gian Trúc Lâm còn sống, ông thường tùy tùng để tham học
và tiếp tay Trúc Lâm trong việc xây dựng giáo hội mới. Sau
ông về tu tại núi Vũ Ninh. Năm 1322 ông được Pháp Loa vời
về mở lớp dạy Tứ Phần Luật cho tăng sĩ ở chùa Báo Ân
và các chùa khác thuộc giáo hội Trúc Lâm. Ông có làm bài
kệ sau đây để tán thán Tuệ Trung, được chép vào sách
Thượng Sĩ Ngữ Lục.
Tay
níu tai Linh Sơn
Miệng
nhai tủy Ðạt Ma
Ăn
no, mớm con cháu
Chồn
cáo hóa sư tử
Tự
do nói hay im
Muốn
biết muối bao mặn
Trở
thành chuột già kia
(Linh
Sơn thân đề nhĩ
Tước
đắc ngốc Hồ tủy
Bão
hậu bô nhi ton
Hồ
li biến sư tử
Phùng
trường ngữ mặc nhàn
Nguyệt
tiếu thu giang thủy
Yếu
thức diêm vị toàn
Hoàn
tha lão thử nhĩ).
TÔNG
CẢNH QUỐC SƯ
Ðây
là một vị đệ tử của Tuệ Trung, và cũng được vua Anh
Tông tặng phong danh hiệu quốc sư sau khi Trúc Lâm qua đời.
Ông cư trú ở Tiên Du, và cũng đã thể theo lời mời của
Pháp Loa để về giảng Tứ Phần Luật cho tăng sĩ năm 1322.
Ông cũng có để lại một bài kệ tán tụng đạo đức của
Tuệ Trung, được giữ lại trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ
Lục.
Thiền
đạo thầy ta: con Quỳ (77)một cẳng
Buông
thả giữa vời tâm vẫn như như
Trên
đầu sào cao đẽo một ngọn chùy
Lừa
ba chân kia bỗng dưng cưỡi ngược
Năm
xưa tặng ta con trâu đất rống
Ngày
nay trả người ngựa gỗ hí vang
Trâu
sắt đầu nhỏ hai sừng mọc ngược
Ðêm
về húc ngã núi lớn Tu Di
Ninh
Long hang ấy nhảy vào ngang dọc
Ðoạt
được san hô quý nhất cành kia
Ðội
thần biển lên, đất trời tỏ rạng
Na
Tra giận dữ, mất hết quyền uy
A ha
ha!
Rất
diệu kỳ!
Mùa
xuân tuyết bay, có chẳng mấy thuở
Bước
nước cuối cùng ai hiểu được đây?
Án
tô rô tô rô, tất rị!
(Ngô
sư thiền đạo độc túc Quỳ
Huyền
nhai tán thủ tâm như như
Sát
can đầu thượng tiễn chùy tử
Mạch
nhiên đảo kị tam cước lư
Tích
niên tặng ngã nê ngưu hống
Kim
nhật hoàn tha mộc mã tê
Thiển
thủ thiết ngưu quai giác thâm
Dạ
lai xúc phá đại Tu Di
Ðẳng
nhàn khiêu nhập Ninh Long quật
Ðoạt
đắc san hộ đệ nhất chi
Hải
thần kình xuất chiếu thiên địa
Phẫn
nộ Na Tra thất khước uy
Ha
ha ha!
Giã
đại kỳ!
Dương
xuân bạch tuyết hòa giả hi
Mạc
hậu nhất trước như hà hội?
Án
tô rô tô rô, tất rị!)
PHÁP
CỔ THIỀN SƯ
Pháp
Cổ thiền sư là đệ tử của Trúc Lâm. Ông cũng có lưu lại
một bài kệ tán dương Tuệ Trung, có trích trong chương 11
nói về Tuệ Trung. Ta không biết ông cư trú tại đâu.
HUỆ
NGHIÊM THIỀN SƯ
Cũng
là đệ tử của Trúc Lâm và cũng đã để lại một kệ tán
dương Tuệ Trung, được giữ nhờ sách Tuệ Trung Thượng Sĩ
Ngữ Lục:
Tuyết
trên hỏa lò hồng
Sen
nở giữa mùa đông
Không
bút nào viết ra
Không
lời nào nói xiết
Lửa
nháng khi đá chọi
Chớp
lòe khi điện qua
Chẳng
cách gì đuổi kịp
Chẳng
hướng nào tìm được
Về
bậc Thượng Sĩ ấy
Khôn
dò được cơ huyền
Hòa
cùng ánh sáng ấy
Lẫn
cùng bụi bặm kia
Tì
Gia nắm lấy tay
Hoàng
Dương kết lông mày
Vòng
vàng bị thâu mất
Cỏ
gai bị nuốt sạch
Trâu
nước cùng vượn hồ
Rừng
thiền rọi phép kia
Niềng
đầu loại mãnh hổ
Con
Quỳ nơi Pháp Uyển
Miệng
trống một lần truyền
Cành
vàng xuân về đến
Cổ
chùy ơi
Cổ
chùy ơi!
(Hồng
lô chí tuyết
Lạp
nguyệt chi liên
Phi
bút khả bút
Phi
ngôn khả ngôn
Kích
thạch chi hỏa
Thiểm
điện chi quang
Phi
truy khả truy
Phi
phương khả phương
Bỉ
chi Thượng Sĩ
Mạc
trắc kỳ cơ
Tì
Gia bả thủ
Hoành
Dương kết mi
Kim
khuyên lập cúc
Thôn
chi thâu chi
Thủy
cổ hồ tôn
Thiên
chi thiền lâm
Niết
chi ninh hổ
Pháp
uyển thần Quỳ
Nhất
truyền cổ khẩu
Xuân
nhập kim chi
Cổ
chùy, Cổ chùy!)
BẢO
SÁT THIỀN SƯ
Bảo
Sát thiền sư là đệ tử đầu tiên của Trúc Lâm. Tháng bảy
năm 1308, trước khi Trúc Lâm cho tất cả đệ tử hạ sơn
hành đạo và ở lại núi Yên Tử, thì chỉ có Bảo Sát ở
lại bên mình. Tháng chín, Trúc Lâm cùng Bảo Sát đi du hành
khắp miền núi Yên Tử. Có lẽ Bảo Sát là đệ tử yêu mến
nhất của Trúc Lâm. Ngày Trúc Lâm sắp viên tịch ông đã
cho mời Bảo Sát về. Khi Bảo Sát tới, Trúc Lâm cười và
hỏi Bảo Sát có còn điều gì muốn hỏi về đạo pháp nữa
không? Cuộc đàm đạo cuối cùng giữa Trúc Lâm và Bảo Sát
được chép trong Tam Tổ Thực Lục. Tại sao Trúc Lâm không
ủy Bảo Sát làm tổ thứ hai Trúc Lâm thay vì Pháp Loa, trong
khi Bảo Sát là đệ tử đầu và được ông yêu mến nhất?
Có lẽ Bảo Sát không thuộc hạng người có khả năng và
tổ chức lãnh đạo giáo hội như Pháp Loa(Về cuộc đàm luận
cuối cùng giữa Trúc Lâm và Bảo Sát, xin xem Chương XII nói
về Trúc Lâm). Bảo Sát là người có công lớn trong việc
coi sóc ấn hành Ðại Tạng Kinh triều trần. Năm 1311, chính
ông đã được Pháp Loa ủy nhiệm quản đốc việc tục san
Ðại Tạng Kinh. Ðứng về thứ bực pháp tử, ông là Pháp
huynh của Pháp Loa, bởi ông là đệ tử đầu của Trúc Lâm.
Nhưng đứng về phương diện lãnh đạo giáo hội, trách nhiệm
của Pháp Loa lại lớn hơn ông.
VIÊN
THIỀN SƯ
Ta
không biết chữ đầu của pháp danh Viên thiền sư là chữ
gì, vì khi Minh Tông nhắc tới tên vị cao tăng này, vua chỉ
gọi là Viên công. Theo Minh Tông trong bài thơ Ðông Sơn Tự
thì Viên thiền sư là một vị lão tăng đạo cao đức trọng
thế gian ít có. Viên thiền sư ở tại chùa Ðông Sơn. Bài
thơ sau đây Minh Tông trong lúc viếng thăm Ðông Sơn Tự lúc
vị cao tăng đã tịch, được giữ lại trong Toàn Việt Thi
Lục:
Mây
dáng non xanh, núi dáng mây
Núi
mây thân cận lão tăng hoài
Từ
độ Viên công lìa cõi thế
Khắp
nơi Phật tử chẳng còn ai.
(Vân
tự thanh sơn, sơn tự vân
Vân
sơn trường dữ lão tăng thân
Tự
tòng Viên công khứ thế hậu
Thiên
hạ thích tử không vô nhân).
Ðông
Sơn không biết có phải là núi Ðông Cứu gần Yên Tử Sơn
hay không. Vua Nghệ tông cũng đã từng đi thăm am Liễu Xá
trên núi Ðông Sơn và khi về có làm một bài thơ đầu đề
là “Vọng Về Am Liễu Xá Trên Ðông Sơn” (Vọng Ðông Sơn
Liễu Xá Am). Có thể Viên thiền sư ngày xưa ở tại am Liễu
Xá này. Theo vua Anh Tông, chùa Ðông Sơn rất đẹp, không thua
gì Ngũ Ðài Sơn. Vua có làm bài thơ Ðông Sơn Tự như sau,
có chép trong Toàn Việt Thi Lục:
Tiếng
thu theo gió qua cành lá
Ðêm
lạnh trăng trong lọt tịnh bình
Mơ
tới Ngũ Ðài chi nữa nhỉ?
Ðông
Sơn cảnh đẹp xứ nào tranh?
(Phong
dao giải hổ thu thiền quá
Nguyệt
tả Quân Trì dạ nhuận hàn
Hưu
hướng Ngũ Ðài lao mộng mị
Khán
lai thiên hạ kỷ Ðông Sơn?)
TRÍ
THÔNG THIỀN SƯ
Trí
Thông thiền sư là thiền sư trú trì chùa Siêu Loại từ thời
Nhân Tông chưa xuất gia. Ngày Nhân Tông xuất gia, thiền sư
đốt cánh tay mình, cháy từ bàn tay đến khủy tay, sắc mặt
vẫn an nhiên không thay đổi. Nghe nói, Nhân Tông có đến chùa
Siêu Loại để nhìn tận mắt. Trí Thông sai dọn chỗ ngồi
mời vua xuất gia ngồi và nói: “Ðó là thần tăng đốt đèn
{cúng dường} mà thôi. Ðốt đèn xong, rồi về thiền viện
ngủ kỹ, thức dậy vết thương lại khỏi”. Sau khi Trúc
Lâm tịch, xá lợi an trí tại bảo tháp núi Yên Tử, Trí Thông
liền lên Yên Tử để gần gũi bảo tháp. Thiền sư tự thiêu
dười thời vua Minh Tông (1314-1329) không biết là năm nào.
Chuyện thiền sư Trí Không có được chép trong sách Ðại
Việt Sử Ký Toàn Thư. Ta có thể nói rằng thiền sư Trí Không
đã hiến chùa Siêu Loại để Trúc Lâm làm một trong những
trụ sở lớn của giáo hội Trúc Lâm. Sau này Trúc Lâm trao
lại chức trú trì Siêu Loại cho Pháp Loa.
VÔ
SƠN ÔNG
Vô
Sơn Ông tức hiệu của Tư đồ Văn Huệ Vương Trần Quang
Triều. Không biết đây là bút hiệu hay pháp hiệu của ông
bởi vì ông cũng đã xuất gia. Ông là con của Hưng Nhượng
Vương Trần Quốc Tuấn, tước Văn Huệ Vương là do vua Anh
Tông ban. Ông lấy công chúa Thượng Trân, và sau khi công chúa
mất thì ông xuất gia học đạo. Hồi chưa xuất gia ông từng
xây một thảo am tên Bích Ðộng tại núi Quỳnh Lâm; văn nghệ
sĩ thường hay lui tới ngâm vịnh. Ông lấy bút hiệu Cúc Ðường.
Ông là một thi sĩ có tài, nổi tiếng một thời. Vua Anh Tông
đã từng chỉ định ông làm nhập nội tư đồ phụ chính.
Ông xuất gia dưới sự hướng dẫn của thiền sư Pháp Loa.
Sách
Tam Tổ Thực Lục cho biết ông xuất gia năm Nhâm tuất (1322).
Trong năm 1322 trước khi xuất gia, ông đã cúng dường hỗ
trợ việc đúc 1.000 tượng Phật do Pháp Loa chủ trương. Ông
lại đã mời Pháp Loa tới chùa An Long giảng kinh Lăng Nghiêm,
sau đó lại nhờ Pháp Loa duyệt lại sách Tứ Phần Luật rồi
thêm những lời chú thích, rồi sau đó cúng tiền in ra 5.000
bản để cúng dường tăng sĩ học tập. Sách Ðại Việt Sử
Ký Toàn Thư cho biết ông mất năm 1325, thọ 39 tuổi. Như vậy
ông xuất gia hồi 36 tuổi.
Sách
Tam Tổ Thực Lục nói sau khi xuất gia, ông “thờ Pháp Loa
thiền sư theo lễ đệ tử”. Năm 1323, ông cùng Uy Huệ Vương
thỉnh Pháp Loa tới chùa Siêu Loại để trao Bồ Ðề Giới
cho hai người và làm pháp quán đỉnh. Sau đó ông lại cùng
Bảo Từ hoàng thái hậu thỉnh Pháp Loa đến Quỳnh Lâm viện
để giảng kinh Pháp Hoa. Ông được nhiều bạn văn sĩ và
thi sĩ luyến mộ, trong đó có Nguyễn Xưởng, Nguyễn Ức,
những người đã từng xướng họa với ông và đã làm những
bài thơ khóc ông khi nghe tin ông mất.
Trần
Quang Triều có để lại Cúc Ðường Di Tập mà Phan Huy Chú
cho là “thanh thoát khá khen”. Ðây là một vài bài của ông,
có thể viết sau khi ông xuất gia, được giữ lại trong Toàn
Việt Thi Lục:
Chùa
Gia Lâm:
Tro
lòng tàn mộng nhỏ
Chân
dạo tới thiền đường
Cuối
xuân sắc hoa nhạt
Rừng
vẳng tiếng ve suông
Mưa
tạnh rời bích ngọc
Hồ
lặng lộ khuôn trăng
Khách
về, tăng chẳng nói
Hoa
thông rụng ngát vườn.
(Tâm
khôi oa giác mộng
Lý
bộ đáo thiền đường
Xuân
văn hoa dung bạc
Lâm
u thiền vận trường
Vũ
thâu thiên nhất bích
Trì
tĩnh nguyệt phân lương
Khách
khứ, tăng vô ngữ
Tùng
hoa mãn địa hương).
Ngôi
chùa hoang ở Mai Thôn:
Chùa
hoang đầy cỏ dại
Gió
thổi bãi chiến trường
Mưa
chiều chìm bia mộ
Tượng
cổ ánh tà dương
Thạch
thất tàng y hậu
Ðài
hoa tỏa dạ hương
Ðừng
trụ vào đâu cả
Ðể
cùng đời hưng vong.
(Hoang
thảo tiền triều tự
Thu
phong cựu chiến trường
Tàn
bi trầm mộ vũ
Cổ
Phật quải tà dương
Thạch
thất tàng vân nạp
Hoa
đài cúng dạ hương
Ứng
thân vô xứ sở
Dữ
thế cộng hưng vong).
MINH
ÐỨC CHÂN NHÂN
Minh
Ðức chân nhân trú trì chùa Tiên Lữ, cũng gọi là chùa Quãng
Nghiêm hay là chùa So ở huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Ðông.
Ông tên Nguyễn Bình An, người sáng lập ra chùa này vào thế
kỷ thứ mười ba. Tại chùa này có khán thờ Minh Ðức đại
sư, vốn người làng Bối Khê, đã từng được vua Nhân Tông
vời đến tiếp kiến tại triều đình. Chính danh hiệu Minh
Ðức chân nhân đã được vua Nhân Tông ban tặng cho ông. Nguyễn
Bá Lăng trong Kiến Trúc Phật Giáo Việt Nam có nói về chùa
Tiên Lữ như sau: “Chùa nổi tiếng vì phong cảnh đẹp, bên
trong có những tấm tranh Thập Bát La Hán và Thập Ðiện Diêm
Vương khắc trên gỗ và phủ sơn mài nhiều màu. Chùa còn
có tên nữa là chùa Trăm Gian vì đây là một quy mô kiến
trúc rộng lớn gồm nhiều lớp nhà ngang dãy dọc. Chùa đã
được hai quan triều Lê (hiện còn tượng thờ trong chùa)
đại trùng tu khoảng thế kỷ thứ mười bảy và mười tám.
Nhưng xét về quy mô cơ cấu ta có thể thấy ở đây phần
nào đường nét kiến trúc Phật Giáo đời Trần.
ÐỨC
SƠN THIỀN SƯ
Ðức
Sơn thiền sư trú trì am Thanh Phong. Vua Trần Thái Tông từng
lên ở lại am Thanh Phong với ông. Vua có làm một bài thơ
“Gửi Ðức Sơn Ở Am Thanh Phong” (Ký Thanh Phong Am Tăng Ðức
Sơn - xem Chương X về Trần Thái Tông).
VƯƠNG
NHƯ PHÁP
Ðây
là một vị cư sĩ, đệ tử của Tuệ Trung. Ông cũng được
gọi là Thiên Nhiên cư sĩ. Ông có làm một bài kệ tán thán
Tuệ Trung, còn giữ trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục:
Kỳ
diệu thật! Kỳ diệu thật!
Trâu
đất rống trăng không nghẹn nấc!
Viết
nên sáu bảy trí tuệ môn
Không
cần bút núi và biển mực!
(Giã
kỳ đặc! Giã kỳ đặc!
Nê
ngưu hống nguyệt vô quan đắc
Tả
khải lục thất trú tuệ môn
Mạc
đạo bút sơn kiêm hải mặc).
TRẦN
THÁNH TÔNG
Hoàng
hậu của Thánh Tông là em gái Tuệ Trung thượng sĩ. Thánh
Tông rất tôn kính Tuệ Trung gọi Tuệ Trung là sư huynh và
giao con mình là Nhân Tông cho Tuệ Trung dạy dỗ. Bài kệ mà
Thánh Tông làm để đáp lại bài kệ Trình Kiến Giải của
Tuệ Trung cho thấy sức học Phật khá uyên thâm của vua(xem
Chương XI về Tuệ Trung thượng sĩ). Tuệ trung có làm một
bài thơ ca tụng đạo học của Thánh Tông như sau:
Thánh
học cao minh tột cổ kim
Quán
thông Long tạng thấu vào tim
Phật
tâm thấy quả lòng tay mở
Ý
tổ nhìn kim đáy biển chìm
Trí
vượt cửa Thiền và Thiếu Thất
Tĩ
siêu biển Giáo đến Uy- Âm
Nhân
gian chỉ thấy ngàn non đẹp
Ai
nghe vượn hú chốn rừng thâm?
(Thánh
học cao minh đạt cổ câm
Thiết
nhiên long tạng quán hoa tâm
Thích
phong ký đắc khai quyền bảo
Tổ
ý tương vô thấu thủy châm
Trí
bạt thiền quan thông Thiếu Thất
Tình
siêu Giáo hải khóa Uy Âm
Nhân
gian chỉ kiến thiên sơn tú
Thùy
thính viên đề thâm xứ thâm).
TRẦN
MINH TÔNG
Trần
Minh Tông là con thứ tư của vua Anh Tông, ngồi trên ngôi vua
15 năm. Vua học Phật, ăn chay, đọc Kinh Dịch khuyến khích
Nho học. Nho thần xuất hiện rất nhiều trong thời gian vua
tại vị. Vua thường lui tới ủng hộ công việc Phật sự
của Pháp Loa thiền sư. Sau đây là một bài thơ theo lối cổ
thể gọi là Giới Am Ngâm trong đó vua quán tưởng thân thể
con người làm một chiếc am nhỏ đủ để con người cư trú
trong an lạc. Chữ “giới am” có nghĩa là “am hạt cải”.
Bài ngâm được chép trong sách Toàn Việt Thi Lục:
Nửa
gian Giới Am vừa duỗi gối
Không
gian đủ sống qua tháng ngày
Chim
chóc chẳng lại, vẫn còn xuân
Bốn
vách trống trơn không một vật
Vật
đã là không vách cũng không
Làm
sao hạt cải tìm đến được?
Có
ai muốn phá Giới Am này
Lạc
đường khiên cả ma trời khóc
Ðói
lòng ăn một bát cơm thôi
Nước
lạnh đầy bình đỡ cơn khát
Giường
mây gối gỗ giấc nghỉ trưa
Ðó
chính là giờ rất khoái hoạt
Kinh
cũng không đọc Phật không thờ
Mắt
nhặm chẳng biết gì tốt xấu
Khách
vào có hỏi gốc tích ta
Ðáp:
hiểu theo xưa sai lạc mất(78)
Thôi
đừng nhọc công tìm kiếm ngoài
Xưa
nay cùng chung một mũi thở
Giới
Am nào phải vật gì lạ
Mũi
dọc mày ngang, ta đó thôi!
(Giới
Am bán gian khả dung tất
Ngột
ngột đằng đằng tự độ nhậtư
Bách
điểu bất lai xuân trú nhàn
Du
nhiên tứ bích chân vô vật
Vật
nhược vô trần, bích bất lập
Mê
lư giới tử tòng hà nhập?
Thùy
nhân khuy phá giới am trung
Thất
lộ tiện sử thiên ma khấp!
Cơ
lai cơ nghiết phạn nhất bát
Thanh
thủy mãn bình khả tiêu khát
Ðằng
sàng chẩm thượng trác ngọ nhãn
Chính
thị ngọ trung chân khóai hoạt
Kinh
giả bất khán, Phật bất lễ
Ế
nhãn hà vi toàn tiết quý
Khách
lai vấn cập bản lai nhân
“Nhận
trước y tiền hoàn bất thị”
Hưu
hưu ngoại mịch nhược chinh công
Phất
phất tị, khổng cổ kim đồng
Giới
Am tất cánh vô kỳ vật
Chỉ
thị mi hoành tỷ trực ông!)
BÍCH
PHONG TRƯỞNG LÃO
Vị
này sống đồng với Pháp Loa. Sách Tam Tổ Thực Lục chép
năm 1330, khi Pháp Loa sức yếu không thể tiếp tục khóa giảng
về Kinh Hoa Nghiêm tại An Lạc Tàng Viện được, Bích Phong
trưởng lão đã được ông ủy thác giảng tọa để tiếp
tục giảng khóa. Như vậy Bích Phong trưởng lão phải là một
vị cao tăng sức học rất vững vàng về Phật Giáo và hệ
thống Hoa Nghiêm.
SA
MÔN THU TỬ
Không
biế Sa Môn Thu Tử là đệ tử của ai và thuộc về pháp hệ
nào. Sách Tam Tổ Thực Lục cho biết ông trú trì chùa Hiển
Linh Diên Quang. Ông có mời Pháp Loa tới đây để giảng phẩm
Thập Ðịa Kinh Hoa Nghiêm. Pháp Loa đã hai lần ủy ông làm
chủ lễ cầu mưa cho triều đình tổ chức năm 1319 và năm
1326. Cả hai lần đều hiệu nghiệm.
LÃM
SƠN QUỐC SƯ
Lãm
Sơn Quốc Sư sống vào thời vua Duệ Tông (1372 -1377). Trong
các bản danh sách các vị tổ sư chùa Vân Yên không có tên
ông, vì vậy ta biết vị quốc sư n ày không cư trú ở Yên
Tử. Thi sĩ Phạm Nhân Khanh, hiệu Cổ Nhân, có làm một bài
thơ tiễn quốc sư về núi, nhan đè là Tống Lãm Sơn Quốc
Sư Hoàn Sơn, nhờ đó mà ta biết được sự có mặt của
vị cao tăng này trong hạ bán thế kỷ thứ mười bốn. Bài
thơ như sau:
Xuống
núi vài hôm, lại trở lên
Sơn
cư quen nếp sống thần tiên
Trà
đun thơm ngát hương Tùng Viện
Bát
rửa trong veo nước Hạc Tuyền
Buông
mở Thiền Phong cao mấy độ
Phát
biểu Thi danh sáng một miền
Về
hướng đỉnh cao mây phủ kín
Tưới
thầm mưa pháp lợi nhân thiên
(Xuất
sơn kỷ nhật cánh hoàn sơn
Vị
ái sơn cư ý tự nhàn
Tùng
Viện chữ trà hương mạc mạc
Hạc
Tuyền tẩy bát thủy sàn sàn
Phong
khai thiền giá cao thiên cổ
Phát
lộ thi danh chính nhất bàn
Quy
hướng lĩnh vân thâm xứ ngọa
Ám
thi pháp vũ sái nhân gian).
Bài
thơ cho biết Lãm Sơn quốc sư là một ẩn sĩ, có thiền phong
cao, và lại có tài thi văn, không biết ông cư trú ở đâu.
Chỉ biết tác giả bài thơ trên, Phạm Nhân Khanh, đã từng
làm quan và dự vao việc tu chính quốc sử, lại từng làm
an phủ ở lộ Lương Sơn. Có lẽ chính lúc ông cư trú ở
Lương Sơn, nghe đạo phong và thi tài của quốc sư nên đã
thỉnh cầu quốc sư hạ sơn mấy ngày để thù tiếp. Có lẽ
Lãm Sơn là tên một ngôi chùa ở làng Lãm Sơn, huyện Quế
Dương tỉnh Bắc Ninh ngày nay, được xây dựng từ năm 1086;
và có lẽ vị quốc sư này đã từng làm tọa chủ ở đây
nên đã mang danh là Lãm Sơn quốc sư. Danh hiệu quốc sư có
lẽ đã được vua Nghệ Tông ban tặng.
THẠCH
ÐẦU VÀ MẬT TẠNG
Thạch
Ðầu là một vị thiền sư đệ tử của thiền sư Tiêu Dao(*)
và đồng sư với Tuệ Trung. Mật Tạng là đệ tử của Trúc
Lâm, đồng thế hệ với Pháp Loa. Huệ Nguyên, trong bài “Lược
Dẫn Thiền Phái Ðồ” in ở đầu sách Tuệ Trung Thượng
Sĩ Ngữ Lục có ghi là hai vị này đều tự thiêu sau khi đắc
pháp. Như vậy, ta biết trong đời Trần có ít ra là ba vị
tăng sĩ tự thiêu: Thạch Ðầu, Mật Tạng và Trí Thông. Trí
Thông vốn là trú trì chùa Siêu Loại, người đã cúng chùa
cho Trúc Lâm đê hoằng dương giáo pháp.
TUYÊN
CHÂN CÔNG CHÚA VÀ LỆ BẢO CÔNG CHÚA
Hai
vị này xuất gia năm 1329 dưới sự chứng minh của Pháp Loa.
Tuyên Chân công chúa là con của quốc phụ thượng tể Quốc
Chẩn, và Lệ Bảo công chúa là con của Chiêu Huân Vương.
Ta không biết pháp danh của hai người này, và cũng không biết
họ trú trì ở chùa nào. Năm 1330, chính Lệ Bảo công chúa
đã cùng với một thiền sư tên là Kiên Ðức tổ chức mời
Pháp Loa giảng kinh Hoa Nghiêm tại An Lạc Tàng Viện
NHỮNG
VỊ ÐỆ TỬ
Huệ
Nguyên, trong bài “Lược Dẫn Thiền Phái Ðồ”, có kể tên
một số đệ tử của Ứng Thuận, Tiêu Dao, còn có Chân Giám,
Ðạo Sĩ, Quốc Nhất và Quế Sâm. Sách Thuyền Uyển Tập Anh
cho biết các vị Nhất Tông, Giới Minh và Giới Viên cũng là
đệ tử của Ứng Thuận.
Theo
Huệ Nguyên, thì ngoài Tuệ Trung, Tiêu Dao còn có các đệ tử
sau đây: Thôn Tăng, Thạch Lâu, Lại Toản, Thần Tán, Thạch
Ðầu, Vị Hải, Ðạo Tiềm, Thủ Nhân, Ngu Ông và Vô Sở.
Nhưng Huệ Nguyên không nhắc tới thiền sư Huệ Tuệ, người
kế thế của Tiêu Dao làm tổ Yên Tử thứ năm chùa Vân Yên.
Theo
Huệ Nguyên, ngoài Trúc Lâm,Tuệ Trung còn có những đệ tử
sau đây: An Nhiên, Thiên Nhiên, Thạch Kính, Thoại Bà. Cuối
sách Tuệ Trung Thượng Sĩ ta còn thấy có quốc sư Tông Cảnh
và cư sĩ Thiên Nhiên (Vương Như Pháp) là đệ tử của Tuệ
Trung.
Theo
Huệ Nguyên, ngoài Pháp Loa, Trúc Lâm còn có những đệ tử
sau đây: Pháp Tràng, Hương Tràng, Hương Sơn, Mật Tạng và
Pháp Cổ. Sách Tam Tổ Thực Lục cho biết những vị sau đây
là đệ tử của Trúc Lâm: Bảo Sát, Bão Phác, Pháp Không và
Huệ Nghiêm.
Huệ
Nguyên cũng cho biết tên hai vị đệ tử của Pháp Loa là Cảnh
Huy và Quế Ðường. Tam Tổ Thực Lục có chép tên một số
đệ tử xuất sắc khác của Pháp Loa: Tuệ Nhiên, Tuệ Chúc,
Hải Ấn, Hoàng Tế, Huyền Giác, Cảnh Nguy, Cảnh Trưng và
Tuệ Quán.
TRUYỀN
THỐNG YÊN TỬ
Sau
đây là 23 vị tổ truyền thừa chùa Yên Tử từ Hiện Quang
tổ sư đến Vô Phiền đại sư, thấy trong sách Ðại Nam Thiền
Uyển Truyền Ðăng Tập Lục quyển hai của Phúc Ðiền hòa
thượng đính bản:
1)
Hiện Quang Tổ Sư
2)
Viên Chứng Quốc Sư
3)
Ðại Ðăng Quốc Sư
4)
Tiêu Dao Tổ Sư
5)
Huệ Tuệ Tổ Sư
6)
Nhân Tông Tổ Sư
7)
Pháp Loa Tổ Sư
8)
Huyền Quang Tổ Sư An Tâm Quốc Sư
9)
An Tâm Quốc Sư
10)
Phù Vân (hiệu Tĩnh Lự) Quốc Sư
11)
Vô Trước Quốc Sư
12)
Quốc Nhất Quốc Sư
13)
Viên Minh Tổ Sư
14)
Ðạo Huệ Tổ Sư
15)
Viên Ngộ Tổ Sư
16)
Tổng Trì Tổ Sư
17)
Khuê Thám Quốc Sư
18)
Sơn Ðẳng Quốc Sư
19)
Hương Sơn Ðại Sư
20)
Trí Dung Ðại Sư
21)
Tuệ Quang Tổ Sư
22)
Chân Trú Tổ Sư
23)
Vô Phiền Ðại Sư
(77)
Quỳ: tên một loại thú ở núi, chỉ đi một chân
(78)
Lập lại câu “Nhân trước y tiền hoàn bất thị” (chấp
theo lối cũ là sai lạc) mà Trúc Lâm thường dùng để đáp
nhiều câu hỏi của thiền giả đặt ra.
(*)
Ở các chương trên, tác giả phiên âm là Tiêu Diêu, cũng chỉ
là một người (N.H.C.)