CHƯƠNG XIV
THIỀN SƯ HUYỀN QUANG (1254-1334)
VỀ SÁCH TỔ GIA THỰC LỤC
Phần ghi chép về thiền sư Huyền Quang vị tổ thứ ba
của Giáo hội Trúc Lâm, không mang tên tác giả và người hiệu khảo. Phần này
mang nhan đề là Tổ Gia Thực Lục, theo lời dẫn in ở cuối thì
vào khoảng những năm Tuyên Ðức nhà Minh (tức là vào cuối đời Hồ), một bản
Tổ Gia Thực Lục đã được thượng thư Hoàng Phúc người Minh lượm lấy
đem về Trung Hoa (hồi Minh thuộc, tướng Trương Phụ thu gom hết tất cả sách
vở tại Ðại Việt chở về Kim Lăng, ít sách đã còn có thể giữ lại). Hoàng
Phúc thường nằm mộng thấy Huyền Quang bảo phải gửi phải trả tập sách này
về Ðại Việt, nhưng chưa có dịp làm như thế. Thấy Huyền Quang linh ứng, ông
mới lập chùa thờ, đặt tên chùa là “An Nam Thiền Sư Huyền Quang Tự”. Ðến
khoảng năm Gia Tĩnh nhà Minh, Tô Xuyên Hầu nhà Hậu Lê đi sứ sang Trung Hoa
gặp được cháu bốn đời của Hoàng Phúc là Hoàng Thừa, mới nhận được tập sách
mang về nước. (Tô Xuyên Hầu tức là Lê Quang Bí, làm quan đến chức Binh bộ
thị lang, đậu hoàng giáp năm 1526). Khi về nước ông đã đưa tập truyện
Huyền Quang cho ông Nguyễn Bỉnh Khiêm xem, từ đó sách lại được phổ biến.
Lời dẫn nói rằng Hoàng Thừa, cháu của Hoàng Phúc, cũng nằm mộng thấy Huyền
Quang nhiều lần nhắn gửi tập sách về Ðại Việt, cho nên khi Tô Xuyên Hầu
qua, ông ta đã tìm gặp để gửi sách.
Trong sách Vũ Trung Tùy Bút, tác giả Phạm Ðình Hổ cũng có nói
chuyện thiền sư Huyền Quang và có ghi rằng ông có thấy chuyện này trong
sách Trúc Lâm Truyền Ðăng Lục. Ta chưa từng thấy mặt mũi sách
Trúc Lâm Truyền Ðăng Lục này. Có thể đó là một bản in gồm có chuyện
của Trúc Lâm, Pháp Loa và Huyền Quang, nội dung tương tự hay đồng nhất với
nội dung sách Tam Tổ Thực Lục, ta chỉ có thể nói rằng Tổ Gia
Thực Lục đã tìm ra và ghép với hai phần trước (sách nói về Trúc Lâm và
Pháp Loa) để thành ra sách Tam Tổ Thực Lục và lưu hành rộng rãi vào
giữa thế kỷ thứ mười sáu.
Ai đã chép truyện Huyền Quang? Theo tài liệu của Phúc Ðường hòa thượng
trong sách Ðại Nam Thuyền Uyển Truyền Ðăng Lục (quyển hạ) thì người
truyền đăng của Huyền Quang là An Tâm quốc sư. Có thể An Tâm đã chép
truyện Huyền Quang chăng? Tại sao trong Tổ Gia Thực Lục không thấy
có ghi chép những thiền ngữ và những bài kệ tụng của Huyền Quang? Cả đến
bài kệ Thị Tịch của Huyền Quang cũng không thấy ghi lại. Ðứng về
phương diện biên chép ngữ lục, đây là một khuyết điểm lớn: người kế thế
của Huyền Quang không thể có khuyết điểm như vậy được. Tổ Gia Thực Lục,
cũng như lời dẫn nằm ở cuối sách, nói nhiều tới tính cách linh ứng của
Huyền Quang. Ðời của vị thiền sư bị phủ trong một bức màn thần dị linh
thiêng; người thờ phụng đã chỉ chú ý tới mặt này màko để ý tới mặt tư
tưởng và giáo lý của thiền sư: phải chăng điều này phản chiếu trạng thái
suy đồi của Phật Giáo cuối thế kỷ thứ mười bốn và trong suốt thế kỷ thứ
mười lăm vào thời Hậu Lê? Lịch sử Phật Giáo Trúc Lâm sau Huyền Quang đã
không còn lại những ghi chép nào đáng kể có lẽ cũng vì lý do đó: quần
chúng Phật tử chỉ biết thờ cúng cầu nguyện mà không chịu học hỏi về lịch
sử và giáo lý đạo Phật. Ông đã để lại tập thơ Ngọc Tiên. Hai mươi
ba bài thơ trong Ngọc Tiên Tập, Toàn Việt Thi Lục và
Hoàng Việt Thi Tuyển, có lẽ nhờ tính cách nhẹ về danh từ Phật Giáo của
chúng. Ngoài 23 bài thơ bằng chữ Hán ấy, ta còn tìm lại được bài phú bằng
chữ Nôm vịnh chùa Hoa Yên, gọi là Vịnh Hoa Yên Tự Phú cùng một bài
kệ bằng chữ Nôm theo sau bài phú nói trên.
CUỘC ÐỜI CỦA HUYỀN QUANG
Tổ Gia Thực Lục có ghi nhiều chi tiết về những sự kiện liên hệ tới
Huyền Quang, ví dụ như tên họ của tổ tiên ông từ đời Lý Thần Tông, khiến
ta có thể tin rằng sách đã viết trên những căn cứ xác thực. Tuy nhiên vì
tác giả dựa trên những điều thuật lại mà không căn cứ vào thư tịch có
trước, cho nên sách cũng có một số chi tiết không phù hợp hoàn toàn với sự
thật. So với hai phần trước trong sách Tam Tổ Thực Lục, giá trị
lịch sử của phần này hẳn là kém hơn một bực. Quê của Huyền Quang là ở làng
Vạn Tải, lộ Bắc Giang (đời Lê đổi lại là làng Vạn Tư, huyện Gia Ðịnh). Nhà
ông ở phía đông nam chùa Ngọc Hoàng. Ông sinh năm 1254, lớn hơn Pháp Loa
tới 30 tuổi. “Ông thể mạo kỳ dị, mà có chí khí của bậc dị nhân. Cha mẹ ông
rất yêu quý, dạy cho học văn chương. Ông nghe một biết mười, có tài của
Nhan Hồi Á Thánh, do đó ông được cha mẹ đặt tên là Tái Ðạo. Năm 20 tuổi
ông thi Hương đậu. Năm sau đậu luôn thủ khoa kỳ thi Hội”.
Cha mẹ định cưới vợ cho ông nhưng ông chưa chịu đám nào. Vua định gã công
chúa Liễu Nữ, cháu của An Sinh Vương cho ông, ông từ chối. Làm quan trong
triều, ông đã từng phụng mệnh tiếp sứ giả phương Bắc, bởi vì ông thông
thạo thư tịch, trích dẫn kinh nghĩa và ứng đối mau lẹ như nước chảy. Ông
làm quan vào khoảng 20 năm. Ðến năm 51 tuổi (1305) ông xuất gia theo học
với thiền sư Bão Phác. Tổ Gia Thực Lục nói ông từng tháp tùng vua
Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Pháp Loa thuyết pháp, nhân đó có ý muốn
xuất gia. Sau đó ông dâng biểu ba lần xin từ chức và xuất gia, thụ giáo
với quốc sư Pháp Loa. Chi tiết này không đúng, bởi người chép truyện nghĩ
rằng Huyền Quang, người kế vị Pháp Loa, phải được xuất gia theo học với
Pháp Loa. Thực ra năm ông xuất gia với thiền sư Bão Phác, thì Pháp Loa mới
xuất gia được một năm. Thiền sư Bão Pháp hồi đó ở núi Vũ Ninh, chưa được
suy tôn quốc sư. Có lẽ Huyền Quang đã thụ giới sa di tại chùa Vũ Ninh do
Bão Phác trú trì. Năm 1306, khi Pháp Loa được lập làm giảng sư chùa Siêu
Loại, Bão Phác có đem Huyền Quang về dự lễ này. Trúc Lâm lại gặp Huyền
Quang trong hình thái tăng sĩ, rất mừng biết Huyền Quang là một văn tài,
liền đề nghị Bão Phác để Huyền Quang lại phụ tá với mình. Từ đó Huyền
Quang tùy tùng Trúc Lâm trong cuộc sống hành đạo. Huyền Quang chỉ được
theo học đạo với Trúc Lâm và phụ tá cho Trúc Lâm trong hai năm, bởi vì
cuối năm 1308 thì Trúc Lâm tịch. Trong hai năm đó, Trúc Lâm đã nhờ Huyền
Quang soạn những sách thực dụng sau đây đê lưu hành trong giáo hội Trúc
Lâm:
1) Chư Phẩm Kinh: tuyển tập những phẩm kinh thiết yếu và thực dụng.
2) Thích khoa giáo: tập sách giáo khoa về đạo Phật.
Tổ Gia Thực Lục chép rằng Trúc Lâm rất bằng lòng với công việc sáng
tác của Huyền Quang; khi đọc xong bản thảo Thích Khoa Giáo, vua ngự
bút phê như sau: “Phàm sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn hiệu khảo rồi
thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa”. Trúc Lâm liền bảo thợ cho
khắc in những sách ấy. Các sách này hẵn đã được đưa vào Ðại Tạng
đời Trần. Huyền Quang cũng đã được Trúc Lâm cho đi vân du khắp nước thăm
các danh lam và thỉnh thoảng cũng đăng đàn thuyết pháp. Có lần Huyền Quang
được Trúc Lâm cho ngồi trên pháp tòa làm bằng trầm hương của mình để giảng
kinh. Sau đó ông được lập làm trú trì chùa Vân Yên núi Yên Tử. Mến phục
sức học quảng bác của ông, tăng ni theo về học đạo có đến khoảng 1.000
người. Chính trong thời gian này Huyền Quang đã sáng tác bài phú Vịnh
Vân Yên Tự.
Năm 1313 (Quý sửu, Tổ Gia Thực Lục chép lầm là Quý mão - Quý mão là
năm 1303, hồi Huyền Quang chưa xuất gia), ngày rằm tháng giêng âm lịch,
ông về quê làng Vạn Tải thăm cha mẹ. Hồi đó ông 60 tuổi cha mẹ ông đã già
yếu. Muốn gần gũi hai vị đó trong một thời gian, ông liền lập ngôi chùa
ngay trong làng, sát mé tây của nhà cha mẹ, đặt tên là chùa Ðại Bi. Nghe
ông lập chùa, nhiều người ở kinh đô về ủng hộ. Ngày khánh thành chùa, ông
mở pháp hội lớn, mời chư tăng bốn phương về tham dự. Hàng vạn người dự hội
tổ chức trong bảy đêm bảy ngày. Những phẩm vật và tiền bạc dâng cúng ông
đem ra cúng dương chư Tăng và tặng phát cho người nghèo khổ. Có lẽ pháp
hội được tổ chức trong dịp Vu Lan rằm tháng bảy, mùa báo hiếu cha mẹ. Sau
khi đại hội chấm dứt, ông có tổ chức một bữa tiệc nhỏ mời họ hàng thân
thích và láng giềng trong làng Vạn Tải đến để dự gây thêm tình thân mật.
Chiều hôm đó ông khởi hành về chùa Vân Yên núi Yên Tử nơi ông chịu trách
nhiệm trú trì. Như vậy là ông rời nhiệm sở chưa đầy một năm.
CÂU CHUYỆN THỊ BÍCH
Sách Tổ Gia Thực Lục đã dành nhiều trang để kể về chuyện hàm oan
của Huyền Quang dính líu tới một người cung nữ tên là Bích. Sự việc này
xảy ra hồi ông trú trì chùa Vân Yên, có lẽ dưới triều Minh Tông. Một hôm
vua Minh Tông tỏ vẻ thán phục cuộc đời đạo đức trong sạch của thiền sư
Huyền Quang với các quan trong triều. Nho thần Mạc Ðĩnh chi nói: “Vẽ cọp
thì vẽ da, làm sao vẽ tới xương được, biết người thì chỉ biết về bề ngoài
chứ làm sao biết được trong tâm. Xin bệ hạ cho thí nghiệm”. Vua Minh Tông
liền sai cung nhân Ðiểm Bích hiệu là Tam Nương đi chinh phục Huyền Quang.
Người cung nữ này nhan sắc chim sa cá lặn, lại thông bác kinh sử. Vua nói:
“Vị tăng kia vốn giới hạnh cao nghiêm, chưa từng có ý sắc dục. Nhà người
có nhan sắc, biết kinh sử, hãy đến tìm hiểu cho trẫm. Nếu quả vị ấy còn
quyến luyến sắc dục thì ngươi hãy dụ xin cho được kim tử bằng vàng đem về
cho ta. Nếu mang trá thì bị tội”. Kim tử này là một vật báu vua tặng cho
thiền sư ngày xưa. Thị Bích liền đem theo một tiểu tỳ. Ðến chùa Vân Yên
gặp một ni sư già, Bích nói là muốn xuất gia học đạo. Vị ni sư này chấp
nhận cho ở lại tập sự và cho sai bảo trà nước sớm khuya. Một hôm thiền sư
thấy dung mạo Thị Bích, biết không phải là người có chủ tâm đi học đạo bèn
gọi vị ni sư lên quở. Thị Bích thấy thiền sư giới hạnh nghiêm mật; khó
dùng sắc đẹp để chinh phục, liền nẩy sinh một kế: đêm ấy Bích khóc với vị
ni sư, nói rằng mình là con nhà lễ khoa bảng, vì cha thâu thuế xong bị kẻ
cướp cướp mất không có đủ tiền để đền nên sẽ bị triều đình làm tội. Nếu
đến kỳ hạn mà không chạy ra đủ số tiền thì không những ông ta bị tội mà cả
vợ con cũng sẽ bị liên lụy và điền sản tịch thâu. Ni sư đem câu chuyện nói
lại và trong đại chúng ai cũng cảm thương. Huyền Quang hứa sẽ về kinh sư
điều trần xin tội tha cho cha Thị Bích, nhưng có một chú tiểu nói: “Pháp
luật là pháp luật, để mất của công thì chịu tội, ta không nên vì tình
riêng mà can thiệp, như vậy pháp luật còn có nghĩa gì. Tốt hơn nên quyên
tiền giúp họ”. Huyền Quang cho là phải, liền lấy kim tử vua ban cho Thị
Bích. Trong chúng, ai có tiền thì cũng đều đem cho. Ðược kim tử, Bích trở
về cung kể chuyện như sau cho vua nghe: “Thiếp đến Vân Yên Tự, giả làm
người xin xuất gia, vị ni sư già cho thiếp bưng trà thang hầu thiền sư.
Một tháng trôi qua mà sư chưa từng hỏi tới thiếp. Một đêm kia, sư lên
chính điện tụng kinh. Ðến canh ba, sư và đại chúng mỗi người trở về tăng
phòng của mình để nghỉ ngơi, thiếp mới tìm tới bên cạnh tăng phòng của sư
để nghe động tịnh, thì nghe sư ngâm bài thơ nôm như sau:
Vằng vặc trăng mai ánh nước
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh
Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ
Màu Thích Ca nào thử hữu tình!.
Sư ngâm bài ấy tới ba lần. Thiếp mới vào tăng phòng của sư mà tạ từ xin về
nhà thăm cha mẹ, nói rằng năm tới sẽ xin lên học đạo. Sư lưu thiếp lại một
đêm, tặng thiếp kim tử”. Vua nghe nói mặt rồng không vui, than rằng: “Việc
này nếu quả thực có thì chính ta là người thả lưới bắt chim; còn nếu không
thì cũng không khỏi gieo sự nghi hoặc”. Vua liền mở đại hội Vô Già, thỉnh
Huyền Quang đến chủ lễ. Trên bàn cúng bày biện đủ loại, lục phẩm, ngũ
cúng, cà sa, pháp y và cả những tạp vật như vàng bạc châu ngọc... Huyền
Quang biết mình bị hàm oan, liền “ngữa mặt lên trời thổi một hơi, lên đàn
ba lượt, xuống đàn ba lượt, vọng bái thánh hiền mười phương, tay trái cầm
bình bạch ngọc, tay phải cầm nhánh dương xanh, mật niệm thần chú rưới khắp
trên dưới pháp điện. Bỗng thấy một đám mây đen hiện lên, bụi bay đầy trời
mù mịt. Một lúc trời sáng thì mọi tạp vật trên pháp điện đều bị cuốn bay
hết chỉ còn lại hương đăng và lục cúng. Ai ai cũng đều thất sắc kinh
hoàng. Vua thấy hạnh pháp của sư thấu cả thiên địa, liền rời chỗ ngồi, lạy
xuống để tạ lỗi... từ đó càng thêm tôn kính, xưng ngài là “Tự Pháp”.
NHỮNG NĂM CUỐI CỦA HUYỀN QUANG
Tổ Gia Thực Lục chép sau đó Huyền Quang về ở Thanh Mai tròn sáu
năm, rồi về trú trì chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, soạn in lại Chư Phẩm Kinh
để lưu lại hậu thế. Ông mất ngày 23 tháng giêng năm Giáp tuất (1334)
thọ 81 tuổi. Câu chuyện Thị Bích có thể không có thật, nhưng nhờ đó mà ta
biết rằng tín ngưỡng về ấn quyết và trì chú trong thời đại này rất quan
trọng. Chi tiết phù hợp với những điều ta biết về ảnh hưởng Mật Giáo trong
Thiền đạo vào các triều đại Anh Tông và Minh Tông.
Người nối tiếp Huyền Quang là trú trì chùa Vân Yên là An Tâm quốc sư.
Huyền Quang sau khi giao phận sự cho An Tâm đã về núi Thanh Mai và Côn
Sơn. tại các núi này năm 1329 (cũng trong vùng Hải Dương), Pháp Loa đã lập
cơ sở hoằng đạo cho giáo hội Trúc Lâm. Ở Thanh Mai sáu năm. Ông dời sang
Côn Sơn, ở chùa Tư Phúc. Chùa này tục gọi là chùa Hun, được lập ra từ đời
Lý, và đã được Pháp Loa mở mang. Huyền Quang đến đây tiếp tục mở mang cơ
sở. Ông có xây một tòa tháp có thể xoay được, gọi là Cữu Phẩm Liên Hoa.
Huyền Quang mất ở Côn Sơn năm 1334, nhưng ta không biết ông đã lưu trú bao
nhiêu năm tại đây. Vì vậy ta không biết ông rời chùa Vân Yên năm nào, và
câu chuyện Thị Bích xảy ra năm nào. Ông mất ngày 23 tháng giêng năm Giáp
tuất, nhưng tin ông mất về tới làng Vạn Tải ngày 24. Vì vậy dân làng Vạn
Tải còn lấy ngày 24 tháng giêng làm ngày kỵ tổ. Vua Minh Tông ban hiệu cho
Huyền Quang là “Trúc Lâm Ðệ Tam Ðại Tự Pháp Huyền Quang Tôn Giả”. Sách
Bắc Ninh Phong Thổ Tạp Ký nói rằng Huyền Quang đã đi thăm nhiều chùa,
trong đó có chùa Ninh Phúc ở Bút Tháp; tại đây ông cũng đã dựng một đài
“Cửu phẩm liên hoa” và cho khắc in nhiều kinh điển. “Tòa Cửu Phẩm” ở chùa
Ninh Phúc là một cái tháp có thể xoay tròn được. Trong những ngày lễ lớn,
tín đồ tới chùa tay xoay đài, miệng trì chú hay niệm Phật. Tháp xoay có
chín từng và tám mặt. Mỗi mặt của tầng dưới hết chạm nổi hình ảnh sự tích
Phật, trong dó có hình cực lạc thế giới và đức Phật A Di Ðà. Tòa Cửu Phẩm
tại chùa Côn Sơn chắc cũng tương tự như vậy.
Hình ảnh chiếc tháp xoay này cho ta thấy, một lần nữa, ảnh hưởng của Mật
Giáo - Mật Giáo từ Tây Tạng truyền đến.
Vua Minh tông cúng dường mười lạng vàng để xây tháp cho Huyền Quang phía
sau chùa Côn Sơn. Vua cũng ban ruộng cho chùa để tổ chức kỵ giỗ hàng năm
cho ông, kể cả các nơi cúng dường là 150 mẫu năm sào.
HUYỀN QUANG VÀ PHÁP LOA
Năm 1309, Pháp Loa tổ chức đàn chay Vu Lan cầu nguyện cho Trúc Lâm vào
ngày rằm tháng bảy. Huyền Quang có mặt tại đó, Pháp Loa gọi Huyền Quang
lại nói: “Những điều mà Trúc Lâm điều ngự nói, nhà ngươi quên hết cả rồi
sao?” Huyền Quang nghe nói thế từ đó theo sát bên mình Pháp Loa để tham
học. Trúc Lâm đã nói gì với Huyền Quang? Có lẽ vua đã dăn dò Huyền Quang
phải lo tu học thêm để phụ lực với Pháp Loa mà hoằng dương Phật pháp, xây
dựng giáo hội Trúc Lâm. Nhưng Huyền Quang đi với Pháp Loa cũng không lâu
vì phải về Vân Yên để duy trì cơ sở tu học trên ấy. Huyền Quang mở trường
tăng học trên chùa Vân Yên, có đến chừng 1.000 tăng sĩ đã lên thụ huấn.
Năm Pháp Loa mất tại An Lạc Tàng Viện, Huyền Quang đến săn sóc một bên. Ðó
là năm 1330, Pháp Loa 47 tuổi mà Huyền Quang đã 77. Huyền Quang bấy giờ đã
qua 25 năm tu học, và với vốn liếng tri thức sẵn có trước khi xuất gia, đã
trở nên một vị hòa thượng đạo cao đức trọng, so với Pháp Loa không những
hơn về tuổi tác mà còn có thể hơn về sự chứng nhập đạo pháp nữa. Ta hãy
nghe cuộc đàm đạo giữa hai người sau đây thì biết:
Ngày mồng ba tháng hai năm Canh ngọ (1330), Pháp Loa trở lại An Lạc Tàng
Viện, thỉnh Bích Phong trưởng lão thay mình giảng kinh Hoa Nghiêm.
Ngày mồng năm sư lâm bệnh, hai ngày kế tiếp, bệnh nặng. Nữa đêm ngày 11
Huyền Quang đến thăm bệnh, Pháp Loa đang trong giấc ngủ, rên hừ hừ một
tiếng. Huyền Quang hỏi:
- Thức với ngũ đã là một chưa?
Pháp Loa đáp:
- Thức với ngũ là một, cũng như khi không có bệnh.
Huyền Quang hỏi:
- Vậy thì bệnh với không bệnh đã là một chưa?
Pháp Loa nói:
- Bệnh cũng chẳng can gì đến kẻ khác, không bệnh cũng không can gì đến kẻ
khác.
Huyền Quang hỏi:
- Vậy thì tiếng nói nhắm vào cái gì?
Pháp Loa nói:
- Thì gió thổi trong cây cứ mặc nó chứ.
Huyền Quang nói:
- Tiếng gió thổi trong cây không làm cho người ta mê hoặc, nhưng lời nói
mê trong giấc ngủ lại có thể làm mê hoặc lòng người.
Pháp Loa nói:
- Kẻ si mê cũng có thể bị tiếng gió trong cây làm mê hoặc lắm chứ.
Huyền Quang nói:
- Chỉ một cái tật đó mà đến chết cũng không chừa.
Pháp Loa liền lấy chân đạp Huyền Quang một cái.
Huyền Quang bỏ ra. Từ đó bệnh thuyên giảm dần. Ðến ngày 13, người ta dời
Pháp Loa về Quỳnh Lâm Viện để nằm trong phương trượng...
Mồng ba tháng ba, lúc nữa đêm Huyền Quang vào thăm bệnh thì bệnh đã nguy
kịch. Huyền Quang nói:
- Xưa nay các bậc đạt ngộ khi giờ phút đến, muốn ở lại thì ở, muốn đi thì
đi.
Pháp Loa nói:
- Ði hay ở cũng đều không can hệ chi tới ai.
Huyền Quang hỏi:
- Vậy thì tại sao?
Pháp Loa trả lời:
- Thì tùy xứ tát-bà-ha.
Tiếp đến môn đệ xin bài kệ thị tịch, Pháp Loa viết xong bài kệ bốn câu,
buông bút rồi tịch.
Những cuộc vấn đáp giữa Huyền Quang và Pháp Loa cho ta thấy rằng chính
Huyền Quang có ý giúp Pháp Loa trong giờ phút cuối của cuộc đời. Câu trả
lời: tùy xứ tát-bà-ha” và bài kệ thị tịch có lẽ đã là một khích lệ cho
Huyền Quang. Những câu hỏi đầu của Huyền Quang hình như có mục đích để tìm
xem Pháp Loa đã sẵn sàng trước cái chết chưa. “Thức và ngủ đã là một
chưa?” và “Bệnh với không bệnh đã là một chưa?” đã khiến cho Pháp Loa giật
mình thấy đạo nghiệp của mình chưa thật sự chín muồi, và mình vẫn chưa
thực sẵn sàng để đón nhận giờ phút quan trọng. Phản ứng của Pháp Loa biểu
lộ một chút giận hờn có tính cách trẻ thơ. Tuy ông đưa chân đạp nhẹ Huyền
Quang một cái nhưng ông đã nhờ các câu hỏi của Huyền Quang mà nhận ra mình
phải sống thêm đã hoàn thành cái mà mình tưởng là đã chín ở nơi mình. Vì
vậy sau cuộc viếng thăm đầu của Huyền Quang, bệnh tình ông thuyên giảm rất
mau chóng. Ông sống thêm tới 20 ngày nữa, và chắc chắn trong thời gian nằm
tại phương trượng Quỳnh Lâm Viện ấy ông đã đạt tới trình độ siêu việt sinh
tử. Khi trở lại thăm ông, Huyền Quang chưa biết tới sự thay đổi đó nên đã
nói một câu để thăm dò xem Pháp Loa đã đạt tới chỗ Liễu sinh thoát tử
chưa. Ông nói: “các bậc đạt ngộ xưa nay, khi giờ phút đến muốn ở lại thì
ở, muốn đi thì đi.” Ðây thực là một câu hỏi để thăm dò, nhưng không đặt
trong hình thức của một câu hỏi. Câu trả lời đầu của Pháp Loa có tính cách
đùa Huyền Quang “đi hay ở thì cũng không can hệ chi tới ai,” nhưng câu trả
lời thứ hai quả đã làm Huyền Quang hả dạ: “tùy xứ tát-bà-ha.” Tùy xứ
tát-bà-ha là gì. Ðó là sự tự do. Ðó là giải thoát. Huyền Quang quả đã
giúp nhiều cho đạo nghiệp của Pháp Loa trong những giờ phút cuối cùng của
đời Pháp Loa. Liên hệ giữa Pháp Loa và Huyền Quang không phải là liên hệ
thầy trò mà chỉ là liên hệ bạn hữu, dù Huyền Quang là người thừa kế của
Pháp Loa.
Huyền Quang hồi đó đã không còn trú trì Vân Yên nữa mà đang tu ở chùa Côn
Sơn. Ông không phải là một mẫu người thuộc hành động như Trúc Lâm và Pháp
Loa. Ông là một nhà văn, một thi sĩ có tài và cũng là một giáo sư Phật học
giỏi. Ông ít đi giảng diễn trong quần chúng mà chỉ dạy trong các tu viện
cho giới tăng sĩ. Ông có mở mang các chùa Vân Yên, Ninh Phúc, Thanh Mai và
Côn Sơn, nhưng ông không xây dựng hàng trăm chùa tháp như Pháp Loa. Ông để
thời giờ dạy giáo lý, biên tập kinh điển và làm thơ. Ông ít giao du với
những người trong triều, có lẽ ông đã làm quan trên 20 năm trong triều, đã
chán ngán giới quyền quý nơi cửa khuyết. Chuyện Thị Bích xảy ra ở chùa Vân
Yên có thể là một sự bày đặt gây nên do sự ganh ghét. Vân Yên là đầu não
của môn phái, chức vị trú trì ở đây có lẽ có người thèm muốn. Vì vậy ông
về Thanh Mai và Côn Sơn để tìm chỗ thanh vắng thực sự. Ðây cũng là một bài
thi ông làm trong những năm ửo Côn Sơn, lúc ông đã trên 77 tuổi.
Ðức bạc thẹn mình nối Tổ Ðăng
Học theo Hàn Thập(75) dứt đa
đoan
Hãy đi với bạn về non vắng
Rừng núi bao quanh mấy vạn từng
(Ðức bạc thường tàm kế tổ đăng
Không giao Hàn Thập khởi oan tăng
Tranh như trục bạc quy sơn khứ
Ðiệp chướng trùng loan vạn vạn tằng
Chính
năm 77 tuổi ông mới phải mang tước hiệu “nối tổ đăng” lãnh đạo giáo hội
Yên Tử thay Pháp Loa. Nhưng ông không rời Côn Sơn để trở về chốn đô hội
nơi trụ sở trung ương của Quỳnh Lâm hay Báo Ân. Ở nơi Côn Sơn thật thanh
vắng ông thấy khỏe khoắn hơn, ít phiền não hơn. Côn Sơn có nhiều hoa mai.
Ông viết:
Ngửa mặt trời xanh hỏi lý do
Hiên ngang trong núi mọc thành hoa
Bẻ về, không để chưng vừa mắt
Chỉ mượn mầu xuân đỡ bệnh già
(Dục hướng thương thương vấn sở tùng
Lẫm nhiên cô trị tuyết sơn trung
Chiết lai bất vị già thanh nhãn
Nguyên tá xuân tư ủy bệnh ông).
NHÀ
THI SĨ
Trong
núi có khi ông ở am vắng với một tiểu đồng. Là tăng sĩ, nhưng ông cũng là
nghệ sĩ. Ông có một ống sáo. Ngâm thơ, làm thơ, thổi sáo, tụng kinh, tham
thiền, dạy chú tiểu học. Vị tăng thống lãnh đạo giáo hội chỉ có thể thổi
sáo được trong rừng núi, ngoài chú tiểu ra chẳng có ai biết mà cười.
Củi hết, lò còn vương khói nhẹ
Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh
Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo
Thiên hạ cười ta, cứ mặc tình
(Ổi dư cốt đốt độc hoàng hương
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương
Thủ bả suy thương hòa mộc đạc
Tùng giao nhân tiếu lão tăng mang).
Huyền
Quang rất yêu hoa cúc. Khi tuổi đã già, lòng đã khô héo, chỉ có hoa cúc
mới làm êm dịu được lòng ông. Trúc với mai đối với ông không thể nào so
với cúc được. Trong vườn đây đó ông trồng toàn hoa cúc. Ngồi thiền xong,
ông ngồi ngắm cúc cho tới khi người ngắm hoa và hoa, hai thứ hồn nhiên là
một. Kết quả là cái thấy về thực tại của ông nở sáng như một đóa hoa:
Người ở trên lầu, hoa dưới sân
Vô ưu ngồi ngắm, khói trầm xông
Hồn nhiên người với hoa vô biệt
Một đóa hoa vàng chợt nở tung
Bài
thơ hoa cúc của ông có nhiều tình tiết cảm động, bình dị mà siêu thoát. Ta
hãy đọc toàn bài để thưởng thức sự rung cảm của một người trên 70 tuổi,
một người xem như hoa cỏ cả thân mạng và cuộc đời nhưng hễ thấy hoa cúc là
tâm tình rộn ràng như một người trai trẻ thấy bóng người yêu:
Ðường nhà Tưởng Hủ tre reo gió
Vườn cảnh Tây Hồ đẹp nét mai(76)
Nghĩa khí chẳng đồng, tình chẳng hợp
Cúc hoa nở sáng khắp vườn ai.
Ngàn sông không đủ thắm lòng già
Bách vịnh hoa mai kém vẫn xa
Ðầu bạc ngâm hoài vần chưa ổn
Thấy hoa cúc nở rộn lòng ta.
Quên thân quên thế thảy đều quên
Thiền tọa giờ lâu lạnh thấm giường
Trong núi năm tàn không có lịch
Thấy hoa cúc nở: tiết trùng dương.
Năm tháng nở đúng tiết thu qua
Gió dịu trăng thanh ý mặn mà
Cười kẻ không hay hoa huyền diệu
Khi về, mái tóc giắt đầy hoa
Người ở trên lầu, hoa dưới sân
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông
Hồn nhiên người với hoa vô biệt
Một đóa hoa vàng chợt nở tung.
Phương phi xuân sắc, trắng hay vàng
Thời tiết tùy loại hợp sắc hương
Khi mọi loài hoa rơi chật đất
Dậu Ðông hoa cúc vẫn chưa tàn.
(Tùng Thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp
Cố viên xứ xứ thổ hoàng hoa
Thiên giang vô mộng cán khô trường
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang
Lão khứ sầu ngâm hồn vị ổn
Thi biều thực vị cúc hoa mang
Vương thân vương thế dĩ đô vương
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương
Niên niên hòa lộ hướng đương khai
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai
Hoa tại trung đình nhân tại lâu
Phần hương độc tọa tự vong âu
Chủ nhân nhữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
Xuân lai hoàng bạch các phương phi
Ái diễm liên hương diệc tự thì
Biên giới phồn hoa toàn trụy địa
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly).
Huyền
Quang là một thi sĩ lớn. Ông có những vần thơ rất đẹp và rất bình dị. Ta
hãy đọc bài Ðầu Thu:
Hương đêm mát dịu, bình phong lạnh
Xào xạc thu sang lá động cành
Trúc đường thong thả, hương vừa đốt
Cành cây giăng võng lọt trăng thanh.
(Dạ khí phân phương nhập họa bình
Tiêu diêu đình trụ báo thu thanh
Trúc đường vong thích hương sơ tẫn
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh).
Bài Ði Thuyền:
Mênh mông theo gió con thuyền nhỏ
Thu sáng ngời xanh bóng nước, cây
Tiếng sáo thôn chài, lau lách vọng
Trăng lặn lòng sông, sương trắng đầy.
(Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diểu mang
Sơn thanh thủy lục hựu thu quang
Sổ thanh ngư dịch lô hoa ngoại
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương).
và bài Ngủ Trưa.
Mưa tạnh, khe núi tĩnh
Ngủ mát dưới rừng phong
Nhìn lại cõi nhân thế
Mắt mở vẫn say nồng.
(Vũ quá sơn khê tĩnh
Phong lâm nhất mộng lương
Phản quan trần thế giới
Khai nhãn túy mang mang).
Huyền Quang giỏi Phật học nhưng thơ của ông bình dị, ít nặng nề danh từ
Phật Giáo. Tuy vậy tính cách đạt ngộ thanh thoát vẫn bàn bạc trong thơ
ông. Trong bài Hoa Cúc ta đã đọc những câu ông viết về chuyện ngắm hoa
tuyệt diệu, trong đó người với hoa hồn nhiên là một và hình ảnh kỳ diệu
của một bông cúc nở trong trạng thái ấy. Ông cười với tất cả lòng từ bi
khi nhìn thấy một thiếu nữ vì không thây được bản chất mầu nhiệm của cúc,
đã hái cúc cắm đầy đầu trước khi ra về:
Cười kẻ không hay hoa huyền diệu
Khi về, mái tóc giắt đầy hoa
Hãy
đọc những giòng sau đây để thấy lòng từ bi của ông khi ông trông thấy tù
nhân bị áp giải đi đầy ngang qua:
Biên thư bằng máu nhắn tin nhau
Cô đơn chiếc nhận vút mây đầu
Bao nhà nhìn nguyệt đêm nay nhỉ?
Hai chốn cùng chung một nỗi đau.
(Khô huyết thư thành dục ký âm
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm
Kỷ gia sầu đối thanh tiêu nguyệt?
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm).
TƯ TƯỞNG CỦA HUYỀN QUANG
Tiếc rằng ta không còn đọc được những sáng tác của ông về Phật học để được
biết qua tư tưởng Thiền học của ông. Trong bài thơ chùa Diên Hựu, Huyền
Quang có viết những câu sau đây có thể nói là tư duy của ông về vấn đề đạt
đạo:
Thành ngăn tục lụy trần không vướng
Cửa mở vô ưu mắt rộng tầm
Thấy được thị phi cùng một hướng
Ma cung, Phật quốc cũng ngồi chung
(Vạn duyên bất nhiễu, thành già tục
Bán điểm vô ưu, nhãn phóng khoan
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan).
Giới và Ðịnh là những bức thành để ngăn giữ không cho phiền não thâm nhập.
Giữ tâm hồn thanh thoát không lo lắng thì tầm mắt có thể nhìn xa thấy
rộng, khi tham khảo đạt được đến nền tảng chung của những cặp đối lập như
thị-phi, mê-ngộ, thì cái nhìn “nhị kiến’ không còn, lúc ấy không còn sự
đối lập “Ma-Phật” nữa,và cảnh nào cũng là cảnh Phật, Ma cung cũng trở
thành Phật quốc.
Trong bài kệ bằng chữ Nôm viết ở cuối bài Phú Vịnh Chùa Hoa Yên,
Huyền Quang có hai dòng sau đây:
Biết được tính ta nên Bụt thật
Ngại chi non nước cảnh đường xa.
Ông
muốn nói: nếu ý thức được tự tính giác ngộ sẵn có nơi mình thì sẽ không
còn thấy con đường tu trước mắt xa thẳm nữa. Thiết tưởng từng đó cũng cho
ta thấy được quan điểm Thiền học của Huyền Quang. Qua những câu trao đổi
giữa Huyền Quang và Pháp Loa bên giường bệnh của Pháp Loa, ta có thể thấy
những nét chính của tư tưởng Huyền Quang về vấn đề tu chứng:
1-
Sống và chết chẳng qua là hai phương diện cùng một thực tại, cái mà thiền
sư Lâm Tế gọi là chân nhân vô vị (con người thực không có vị trí trong
không gian và thời gian). Thực tại này không vì sinh mà có, không vì diệt
mà mất.
2-
Nếu ai thực chứng được thực tại bất sinh bất diệt ấy nơi bản thân thì
người ấy sẽ đạt đạo và thoát khỏi sinh tử, hoàn toàn tự do.
3-
Chưa thực chứng được những lời tuyên bố về thực tại chỉ có tác dụng làm
cho kẻ khác lầm lạc. Bản chất của Phật Giáo là sự thực chứng mà không phải
là kiến thức thu thập được từ giáo điển và thầy tổ.
VĂN NÔM CỦA HUYỀN QUANG
Văn
Nôm của Huyền Quang thế nào? Sau đây ta hãy đọc vài đoạn đầu trong bài phú
Vịnh Chùa Hoa Yên:
Buông niềm trần tục
Náu tới Hoa Yên
Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy
Gió tiên đưa đòi bước thần tiên
Bầu đủng đỉnh giang hòa thế giới
Giày thong thả dạo khắp sơn xuyên
Ðất phúc địa nhận xem luống kể - Kể bao nhiêu dư trăm phúc địa.
Trời thiền nhiên hiệp thâu thửa lạ - Lạ hơn ba mươi sáu thiền thiên
Thấy đây:
Ðất tựa vàng lên
Cảnh bằng ngọc đúc
Mây năm thức che phủ đền Nghiêu
Non nghìn tầng quanh co đường Thục
La đá tầng thê dốc, một hòn ôm vịn một hòn
Dòng nước chảy làn sâu, đòi khúc những dò đòi khúc
Cỏ chiều gió lướt dạm vui vui
Non tạnh mưa dầm màu thúc thúc
Ngàn cây phi Cánh Phượng, vườn thượng uyển đóa tốt rờn rờn
Hang nước tưới Hàm Rồng nhả li châu hột san mục mục
Nhựa đông hổ phách, sáng khắp rừng thông
Da điểm đồi mồi, đổng hỏa vườn trúc
Gác vẽ tiếng bồ lao thốc, gió vật đoành đoành
Ðiện ngọc phiến bối diệp che, mưa tuôn túc túc
Cảnh tốt hòa lành
Ðồ tựa vẽ tranh
Chỉn ấy Trời thiêng mở khéo
Nhèn chi vua Bụt tua hành
Hồ sen trương tán lục
Suối trúc bấm đàn tranh
Ngự sử mai hai hàng chầu rập
Trượng phu tùng mấy chạnh phò oanh
Phỉ thúy sắp hai hàng loan phượng
Tử vi bày liệt vị công khanh
Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng
Vượn bồng con kề cửa nghe kinh
Nương am vắng Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu mây nhè nhẹ
Kề song thưa thầy ngồi thiền định, trăng vằng vặc, núi xanh xanh...
THỜI KỲ HƯNG THỊNH CHẤM DỨT
Phật
Giáo Trúc Lâm, sau Huyền Quang, không còn hưng thịnh nữa. Ðây có phải lỗi
của Huyền Quang không? Nếu có, thì đó là lỗi gì? Phải chăng Huyền Quang đã
không tìm được người xứng đáng để kế vị gánh vác việc lãnh đạo giáo hội?
Tại sao không có ai nói tới đệ tứ tổ Trúc Lâm trong khi truyền thống Trúc
Lâm tiếp tục từ An Tâm xuống Phù Vân, từ Phù Vân xuống Vô Trước và cứ thế
truyền mãi tới về sau?
Một
điều ta có thể ghi nhận là Huyền Quang nhận trách vụ lãnh đạo giáo hội lúc
ông đã 77 tuổi. Ông đã chán việc ngoài đời, không ưa giao du liên lạc với
vua quan trong triều nữa. Ông ở yên trong núi Côn Sơn. Có lẽ ông đã ủy
thác mọi việc cho quốc sư An Tâm. An Tâm đã bất lực trong công việc lãnh
đạo giáo hội chăng? Ðiều này ta không thể trả lời được. Dù An Tâm có tài
có sức nhưng khó mà duy trì được sự hưng thịnh của Phật Giáo Trúc Lâm khi
mà xã hội bắt đầu phân hóa chia rẽ vì lý do tranh chấp ý thức hệ, khi mà
các nhà lãnh đạo quốc gia không có khả năng đoán đúng người, khi mà nho
thần nghĩ rằng chỉ có Nho Giáo mới lãnh đạo Thánh, còn Phật Giáo là tín
ngưỡng có hại cho quốc gia. Hơn nữa, một giáo hội dựa quá nhiều trên thế
lực triều đình để phát triển mà không biết quay về tìm thế đứng trong dân
gian, thì một khi sự ủng hộ triều đình không còn, giáo hội ấy hẵn nhiên sẽ
thiếu lưng tựa và hiện tượng suy đồi là chuyện hiển nhiên phải tới.
(75) Hàn Sơn và Thập Ðắc
là hai cao tăng ẩn sĩ
(76) Tưởng Hủ và Tây Hồ
là hai vị xử sĩ, một người ưa chơi trúc, một người ưa chơi mai.