CHƯƠNG
X
TRẦN
THÁI TÔNG
TUỔI
TRẺ VÀ CHÍ NGUYỆN HỌC ÐẠO
Trần
Thái Tông lên ngôi vua hồi tám tuổi; từ đó về sau chỉ
cư trú trong cung điện. Bìa tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam cho
biết vua tự mình học Phật theo lời khuyên nhủ của Trúc
Lâm quốc sư. Nhưng sức học Phật của vua đã đạt tới
trình độ rất thâm uyên.
Những
đau khổ nội tâm mà vua đã chịu đựng trong thời trai trẻ
hẵn đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
vua quyêt tâm học Phật và tu tập thiền đạo.
Năm
Thái Tông lên 20 tuổi, hoàng hậu là Chiêu Thánh (Lý Chiêu
Hoàng) mới 19 tuổi. Vậy mà Trần Thủ Ðộ ép Thái Tông phải
bỏ Chiêu Thánh để cưới người chị của Chiêu Thánh là
Thuận Thiên, là bấy giờ là vợ của anh mình là Trần Liễu.
Thuận Thiên lại đang có mang. Sở dĩ Trần Thủ Ðộ làm như
vậy là vì trong lòng nôn nao muốn Thái Tông có con ngay để
đảm bảo sự liên tục của dòng dõi gia đình thống trị.
Thuận Thiên đã có mang, nếu Thái Tông lập Thuận Thiên làm
hoàng hậu thì chắc chắc trong vòng mấy tháng sẽ có được
một người con. Hẳn nhiên là Thái Tông phản đối kịch liệt
việc phải bỏ người yêu để cưới người vợ đã có mang
của anh ruột. Nhưng Trần Thủ Ðộ có nhiều uy quyền quá,
Thái Tông không có cách nào ngăn được ông ta. Chiêu Thánh
bị giáng xuống làm công chúa. Công chúa Thuận Thiên, vợ
của Trần Liễu, được lập làm hoàng hậu. Trần Liễu phẫn
uất, liền dấy binh nổi loạn. Việc xẩy ra vào tháng giêng
năm Bính thân (1236)[1].
Mang
nặng tâm tình khổ đau và đối phó với tình trạng căng
thẳng đó, người con trai hai mươi tuổi kia không thể nào
chịu đựng được nữa. Vào mười giờ đêm ngày mồng ba
tháng Tư năm ấy, vua bỏ ngai vàng ra đi, tìm lên đỉnh núi
Yên Tử. vua đem theo bảy tám người tùy tùng, đi bằng ngựa.
Vua nói rằng đi để nghe dự luận dân gian mà biết được
lòng dân để bề trị nước. Sang sông, đoàn người đi về
phía Ðông. Lúc ấy vua mới nói rõ ý định đi tu với mấy
người tùy tùng và bảo họ ra về. Mọi người đều ngạc
nhiên khóc lóc. Vào khoảng sáu giờ sáng hôm sau vua đến bến
đò Ðại Than ở núi Phả Lại. Trời đã sáng, sợ người
khác nhận ra, vua liền lấy vạt áo che mặt mà qua đò, rồi
theo đường tắt mà lên núi. Ðến tối vua vào nghỉ trong
chùa Giác Hạnh, đợi đến sáng lại đi. Chật vật trèo lội,
núi hiểm suối sâu, con ngựa đã yếu không thể lên núi nữa,
vua phải bỏ ngựa vịn vào tảng đá mà đi. Khoảng hai giờ
trưa mới đến chân núi Yên Tử. Sáng mai, vua lên thẳng núi
và vào tham kiến vị đại sa môn chùa Trúc lâm.
“Thấy
Trẫm, quốc sư mừng rỡ. Người ung dung bảo trẫm: “Lão
tăng ở chốn sơn dã đã lâu rồi, xương cứng, mặt gầy,
ăn
rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh rừng đã
quen, lòng nhẹ nhàng như đám mây nổi, cho nên mới theo gió
mà đến đây. Nay bệ hạ bỏ địa vị nhân chủ mà nghĩ
đến cảnh quê mùa rừng núi, hẳn là muốn tìm cầu gì ở
đây cho nên mới đến, phải không?” Trẫm nghe lời thầy
hỏi, hai hàng nước mắt ứa ra, liền thưa với thầy rằng:
“Trẫm còn thơ ấu, đã sớm mất mẹ cha, chơ vơ đứng trên
sĩ dân, không có nơi nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp
đế vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên trẫm
mới vào đây, chỉ muốn cầu thành Phật, chứ chẳng muốn
tìm gì khác”. Thầy đáp: “Trong núi vốn không có Phật.
Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng và trí tuệ xuất hiện,
đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy
thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm
cực khổ bên ngoài” (bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam).
Ngày
hôm sau, Trần Thủ Ðộ đem các quan lên núi Yên Tử đón vua
về kinh. Vua nói: “Trẫm còn trẻ tuổi chưa cáng đáng được
việc nặng nề, thì phụ hoàng đã vội lìa bỏ, sớm mất
chỗ trông cậy, Trẫm không dám ở ngôi vua nữa mà làm nhục
xã tắc”. Thủ Ðộ nài nĩ hai ba lần vua vẫn không nghe.
Thủ Ðộ liền bảo mọi người: “Vua ở đâu thì lập triều
ở đó”. Nói xong liền cắm nêu trong núi, nói rằng chỗ
này là điện Thiên An, chỗ kia là gác Ðoan Minh, và sai người
xây dựng. Thiền sư Trúc Lâm thấy thế mới tâu vua: “Xin
bệ hạ hãy gấp về kinh sư, chớ để làm hại đến núi
rừng của lão tăng”. Vua bèn về kinh (Ðại Việt Sử Ký
Toàn Thư).
Thái
Tông viết xong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam: “Thấy Trẫm,
Trần Công thống thiết nói: Tôi chịu lời ủy thác của tiên
quân, phụng sự nhà vua trong việc làm chủ thần dân. Nhân
dân đang mong bệ hạ như con đỏ trông đợi cha mẹ. Huống
chi ngày nay các vị cố lão trong triều đều là họ hàng thân
thích, sĩ thứ trong nước ai nấy đều vui vẽ phục tùng,
đến cả đứa trẻ lên bảy cũng biết nhà vua là cha mẹ
dân. Vả lại Thái Tổ [2]vừa mới bỏ tôi đi, hòn đất trên
nấm mồ chưa ráo, lời dặn dò bên tai còn văng vẳng, thế
mà bệ hạ đã lánh vào chốn núi rừng ẩn cư để cầu thỏa
lấy ý riêng của mình, mà làm vậy thì được, nhưng còn
quốc gia xã tắc ra sao? Nếu để lời khen suông cho đời sau
thì sao bằng lấy thân mình làm người dẫn đạo cho thên
hạ?” Hệ hạ nếu không nghĩ lại, quần thần chúng tôi
cùng thiên hạ sẽ xin cùng chết cả trong ngày hôm nay, quyết
không trở về”.
“Trẫm
nghe thái sư và các quần thần bô lão đều không chịu bỏ
trẫm, cho nên mới đem lời thái sư mà bạch lại với quốc
sư. Quốc sư cầm tay trẫm mà nói: Phàm làm đấng minh quân,
thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình,và
tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ
hạ không về sao được? Tuy nhiên sự nghiên cứu nội điển
xin bệ hạ đừng phút nào quên.
“Bởi
vậy trẫm với mọi người trong triều mới trở về kinh,
miễn cưỡng mà lại lên ngôi báu. Ròng rã trên 10 năm trời,
mỗi khi có cơ hội nước nhàn rỗi, trẫm lại tập họp các
bậc kỳ đức để học hỏi đạo thiền. Các kinh điển của
các hệ thống giáo lý chính, không kinh nào là trẫm không
nghiên cứu.
Như
vậy là Trần Thái Tông đã tự mình học Phật, tuy thỉnh
thoảng có nhờ đến sự chỉ giáo của các bậc kỳ dức
trong Phật học giới. Các bậc kỳ đức này là ai? Ngoài Trúc
Lâm quốc sư nhiều năm mới xuống núi thăm một lần, ta thấy
có các thiền sư Tức Lự, Ứng Thuận và Ðại Ðăng, những
người đang giảng dạy Phật Giáo tại kinh đô Thăng Long.
Ta thấy có thiền sư Thiên Phong người Trung Hoa, người mà
vua Thái Tông đã mời tới cùng các bậc kỳ đức trong nước
tại viện Tả Nhai để cùng tham vấn Thiền đạo.
Tuy
Ðại Ðăng là người được chính thức đắc pháp với Thiên
Phong nhưng chính Thái Tông cũng đã được học nhiều của
Thiên Phong. Thiên Phong là người thuộc thiền phái lâm tế.
Thiền học của Trần Thái Tông sau này thấm nhuần rất sâu
xâ tính chất thiền học Lâm Tế: điều này cho ta thấy ảnh
hưởng của Thiên Phong nơi Thái Tông. Thái Tông học Phật
có thầy và có bạn: những vị như Trúc Lâm, Tức Lự là
thuộc về bậc thầy, trong khi những vị như Ðại Ðăng, Ứng
Thuận và Thiên Phong là thuộc về hàng bạn. Sách Trần Triều
Thiền Tông Bản Hạnh viết:
Hội
thiện tri thức lại tham
Ích
minh tông chỉ càng thâm lòng thiền
Sư
trưởng là đại nhân duyên
Thiện
hữu hộ giáo hộ quyền nam mô
Trong
số đạo bạn của vua Thái Tông, có một vị thiền sư Trung
Hoa tên là Ðức Thành từ Trung Hoa sang. Vị thiền sư này nghe
nói đến thiền học của vua đã đến xin yết kiến. Sách
Khóa Hư đã ghi lại một cuộc đối thoại của vua và Ðức
Thành tại chùa Chân Giáo. Ðức Thành hỏi: “Thế Tôn chưa
rời khỏi cung Ðâu Suất đã giáng sinh trong vương cung, chưa
ra khỏi mẫu thai đã hoàn tất sự nghiệp độ sinh. Như thế
là nghĩa làm sao?” Vua đáp: “Khúc sông nào còn nước thì
khúc sông ấy có hình mặt trăng chiếu xuống: dặm hư không
nào không bị mây che thì dặm hư không ấy lộ màu xanh da
trời” (Thiên giang hữu thủy thêin giang nguyệt, vạn lý vô
vân vạn lý thiên).
HỌC
HỎI, TU TẬP SÁNG TÁC
Trong
bài tựa kinh Kim Cương Tam Muội được in lại trong sách Khóa
Hư, Trần Thái Tông có nói về sự học của mình như sau:
“Trẫm lo việc chăn dân, mỗi lúc gian nan thường lăn lóc
trong công việc, quên cả sớm chiều; công việc thì có hàng
vạn thứ mà thì giờ nhàn rỗi không có được ban lăm. Siêng
công việc, tiếc ngày giờ, trẫm cố học hành thêm chữ nghĩa
thì chưa biết được bao lăm cho nên ban đêm đến giờ khuya
vẫn còn phải thức để đọc sách; học sách Nho rồi học
kinh Phật”. Thái Tông đã học Như như một môn học chính
trị và xã hội cần thiết cho sự trị dân, và học Phật
như một đường hướng siêu thoát cho tâm linh và tình cảm.
Là nhà chính trị,vua có nhu yếu học Nho. Là người có chiều
sâu tâm linh, vua có nhu yếu học Phật. Khuynh hướng dung hợp
Phật Nho của thời tống sơ do thiền phái Vô Môn đề xướng
đã ảnh hưởng đến thái độ dung hợp tam giáo của vua.
Tư tưởng Phật và Thánh (tức Khổng Tử) phân công hợp tác
trong các lĩnh vực tâm linh mà Thái Tông đã diễn tả trong
bài tựa sách Thiền Tông Chi rNam là kết quả của thái độ
dung hợp ấy, mà cũng là kết quả của cái học uyên bác
của vua về cả hai hệ thống tư tưởng. Vài ba năm sau khi
từ Yên Tử trở về, tức là vào khoảng 23 tuổi, Trần Thái
Tông có lập viện Tả Nhai và rủ các vương hầu ra đó học
tập đạo Phật với mình. Những vị kỳ đức mà vua thỉnh
thoảng mời đến để tham vấn về Thiền học chắc hẵn
cũng đã được mời tới ở viện Tả Nhai này.
Tác
phẩm đầu tay của Thái Tông là cuốn Thiền Tông Chỉ Nam
mà bài tựa còn được giữ lại trong sách Khóa Hư. Có thể
một vài đoạn trong Thiền Tông Chỉ Nam cũng đã được trích
in trong Khóa Hư; ta sẽ có dịp bàn về vấn đề này. Sách
Thiền Tông Chỉ Nam được viết lúc vua còn trẻ, khoảng từ
ba mươi đến ba mươi lăm tuổi (1247-1252). Trong bài tựa, vua
viết: [Nghe lời quốc sư ]. Trẫm cùng với triều thần về
kinh đô, miễn cưỡng mà lên ngôi vua. Trong khoảng hơn 10 năm,
mỗi khi có cơ hội nhàn rỗi, lại triệu tập các bậc kỳ
đức để tham vấn đạo thiền. Các kinh điển của những
hệ thống giáo lý lớn, không kinh nào mà không nghiên cứu.
Trẫm thường đọc kinh Kim Cương, một hôm đọc đến câu
“ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, buông kinh xuống chiêm
nghiệm, bổng thoát nhiên tự ngộ. Bèn đem chỗ giác ngộ
ấy viết thành những lời ca sau đây đặt tên làThiền Tông
Chỉ Nam. cũng vào năm nay, quốc sư [Trúc Lâm} từ Yên Tử
về kinh sư, trẫm mời ở lại chùa Thắng Nghiêm để mở
đầu việc khắc bản bắt đầu in kinh điển. Trẫm đã đem
tác phẩm này cho thầy xem. Thầy xem xong và khen tới balần.
Ngài nói: Tâm của chư Phật ở cả trong này. Sao không khắc
in ra để chỉ bày cho kẻ hậu học? Trẫm nghe lời ấy, bèn
bảo thợ viết thành chữ Khải và truyền cho đêm in; ý trẫm
không chỉ để góp phần vào việc khai thị hậu thế mà còn
muốn tiếp tục làm cho sự nghiệp của thánh nhân đời trước
càng thêm rộng lớn. Do đó tự viết lời tựa này”.
Thái
Tông ở cương vị 32 năm, sau đó vua nhường chỗ cho con là
Trần Thánh Tông và làm thái thượng hoàng, ngự ở cung Thiên
Trường. Chắn hẵn là sau khi nhường ngôi, vua lại có thêm
nhiều thì giờ hơn để học Phật. Vua mất năm 60 tuổi, nghĩa
là làm Thái thượng hoàng tới 20 năm. Những tác phẩm viết
trong thời gian này còn chín chắn hơn Thiền Tông Chỉ Nam mà
hồi viết vua chỉ mới trên 30 tuổi. Sau đây ta hãy thử liệt
kê những tác phẩm của vua:
1)
Thiền Tông Chỉ Nam
2)
Kim Cương Tam Muội Kinh Chú Giải
3)
Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi
4)
Bình Ðẳng Lễ Sám Văn
5)
Khóa Hư Lục
6)
Thi Tập
Thiền
Tông Chỉ Nam - Tác phẩm này không còn, hoặc giả còn thì
chỉ còn một phần, không nguyên vẹn. Bài tựa của tác phẩm
còn được in lại trong sách Khóa Hư Lục. Theo bài tựa này,
tác phẩm là những lời ca (“bèn đem chỗ sở ngộ viết
thành những bài ca sau đây, đặt tên là Thiền Tông Chỉ Nam”).
Vậy thì thể tài của Thiền Tông Chỉ Nam có thể giống như
thể tài của Chứng Ðạo Ca, trong hình thái thi ca hoặc ít
nhất là trong văn biền ngẫu phối hợp với thi ca. Nội dung
quyết phải là Thiền, không thể là những bài như bài “Giới
sát sinh văn” trong sách Khóa Hư còn được giữ lại một
ít đoạn văn của Thiền Tông Chỉ Nam. Ta sẽ trở lại vấn
đề nội dung sách Thiền Tông chỉ Nam sau khi phân tích Khóa
hư Lục.
Kim
Cương Tam Muội Chú Giải - Tác phẩm này cũng không còn. Chỉ
có bài tựa còn được in lại trong sách Khóa Hư Lục. Trong
bài tựa này, vua nói mỗi lần đọc đến kinh Kim Cương Tam
Muội là trong lòng phát sinh trăm mối cảm hứng, do đó đã
“đem hết ruột gan để làm lời chú giải”.
Lục
Thì Sám Hối Khoa Nghi - Ðây là một nghi thức sám hối chia
làm sáu phần, mỗi phần dành cho một thời gian trong ngày,
mỗi ngày sáu thì. Toàn văn, kể cả bài tựa, còn giữ lại
nguyên vẹn trong sách Khóa Hư Lục.
Bình
Ðẳng Lễ Sám Văn - Ðây cũng là một nghi thức sám hối,
nhưng nghi thức này đã mất; duy bài tựa còn được giữ
lại trong sách Khóa Hư Lục. Theo đề tài của tác phẩm và
dựa trên bài tựa, ta biết rằng nghi thức này có nhiều triết
học thâm sâu hơn nghi thức Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi.
Thái
Tông Thi Tập - Tập thưo này cũng không còn. Chỉ có một vài
bài được giữ lại, như bài Tống Bắc Sứ Trương Hiển
Khanh và bài Gửi Vị Tăng Già Ðức Sơn Ở Am Thanh Phong.
Khóa
Hư Lục - Có hai người đã nghĩ rằng Khóa Hư Lục là của
Trần Nhân Tông mà không phải của Trần Nhân Tông. Ðó là
Thiều Chữu, người dịch Khóa Hư Lục đăng trong báo Ðuốc
Tuệ và Trần Văn Giáp, tác giả Lược Truyện Các Tác Gia
Việt Nam. Trần Văn Giáp không viện chứng cớ, còn Thiều
Chửu nói rằng chính vua Nhân Tông trốn lên Yên Tử (sử có
chép) và chính Trần Hưng Ðạo lên Yên Tử mời Nhân Tông
về. Thực ra Nhân Tông hồi 16 tuổi cũng từng trốn lên Yên
Tử, bởi muốn nhường cho em địa vị hoàng thái tử mà mình
không ưa thích. Nhưng sự việc vua Thái Tông lên bỏ Yên Tử
năm 1236 được ghi chép rõ ràng trong quốc sử, và người
lên Yên Tử triệu vua về là Trần Thủ Ðộ, chú của Thái
Tông (“thúc phụ Trần Công”). Có lẽ Thiều Chữu nghĩ rằng
chú của Trần Nhân Tông là Trần Hưng Ðạo, thì “thúc phụ
Trần Công” đây phải là Trần Hưng Ðạo. Ông quên rằng
Trần Thủ Ðộ cũng chính là chú của Thái Tông và Trần Thủ
Ðộ đều nhắc tới Thái Tổ tức là Trần Thừa. Có lẽ
Thiều Chữu nghĩ rằng Trần Thừa chưa bao giờ làm vua thì
không thể được gọi là Thái Tổ. Thực ra khi Thái Tông lên
ngôi, Trần Thừa đã được tôn làm thượng hoàng.
Dù
sao đi nữa việc Thái Tông bỏ lên Yên Tử và Trần Thủ Ðộ
lên núi triệu về đã được chép rõ ràng trong các sách như
Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám
Cương Mục Chính Biên và Việt Sử Tiêu Án. Chính trong bài
tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Thái Tông viết là vua lên núi Yên
Tử vào năm Bính Thân, tức là năm Thiên Ứng Chính Bình thứ
năm. Cũng tức là năm 1236.
Như
vậy không còn có lý do gì nữa để ta nghĩ rằng đây là
việc liên hệ đời Trần Nhân Tông.
KHÓA
HƯ LỤC
Sau
đây là nội dung của sách Khóa Hư Lục do Hội Phật Giáo
Bắc Kỳ ấn hành tại Hà Nội năm 1943 dưới sự bảo trợ
của trường Viễn Ðông Bác Cổ:
Quyền
Thượng:
Tứ
Sơn
Phổ
Thuyết Sắc Thân
Khuyến
Phát Tâm Văn
Giới
Sát Sinh Văn
Giới
Thâu Ðạo Văn
Giới
Sắc Văn
Giới
Vọng Ngữ Van
Giới
Tửu Văn
Giới
Ðịnh Tuệ Luận
Thụ
Giới Luận
Niệm
Phật Luận
Tọa
Thiền Luận
Tuệ
Giáo Giám Luận
Thiền
Tông Chỉ Nam Tự
Kim
Cương Tam Muội Kinh Tự
Lục
Thì Sám Hối Khoa Nghi Tự
Bình
Ðẳng Lễ Sám Văn Tự
Phổ
Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ
Ngữ
Lục Vấn Ðáp Môn Hạ
Niệm
Tụng Kệ
Quyền
hạ:
Lục
Thì Sám Hối Khoa Nghi
Chữ
Khóa (trong Khóa hư) có nghĩa là hành trì học tập. Chữ Hư
có nghĩa là với thái độ không cố chấp vào hình thức giáo
điều. Như yếu của Khóa là sự siêng năng thực tập thiền
học không để cho thời gian luống qua: nhu yếu của Hư là
thái độ phá chấp tự do không kẹt vào khái niệm và hình
thức. Hai nhu yếu tổng hợp lại thành tinh thần thực tiễn
và khai phóng của đạo Phật: thực hiện một cách tinh tiến
đạo lý giác ngộ trong tinh thần phá chấp tự do và vô niệm.
Ðiều này được thấy rõ trong đoạn văn sau đây trích từ
bài Phổ Thuyết Sắc Thân:
“Nếu
chưa đạt được tâm Phật và ý Tổ thì trước hết hãy
trì gới, niệm kinh. Ðến khi đạt tới trình độ Phật cũng
không mà Tổ cũng không thì còn giới nào cần trì, kinh nào
cần niệm? Lúc đó thì dù cư trú trong thế giới ảo sắc
mà thật ra đã là cư trú trong thế giới chân sắc, ở trong
phàm thân mà thực đã ở trong pháp thân”.
Trong
ý hướng dẫn đạo sự tu hành thực tiễn ấy, Thái Tông
thu góp một số bài vở mình đã viết liên hệ tới sự hướng
dẫn thực hành và đặt cho chúng cái tên là Khóa Hư. Trước
hết là hai bài Tứ Sơn và Phổ Thuyết Sắc Thân nhằm mục
đích diễn tả tính cách vô thường, khổ và vô ngã của
thực tại để gợi ý tỉnh thức. Tiếp đó là bài Khuyến
Phát Tâm Văn, đề nghị người đọc phát tâm quyết chí tu
tập đạo giải thoát. Rồi đến năm bài văn về sự giữ
gìn năm giới luật căn bản của người Phật tử; Không sát
sinh, không thâu đạo, không tà dâm, không vọng ngữ và không
say rượu. Ðây là khởi điểm thực tế của sự hành đạo,
không phải là lý thuyết suông. Tiếp đến là những bài nói
về phương pháp tu thiền.
Giới
Ðịnh Tuệ Luận: trình tự thực hiện tuệ giác.
Thụ
Giới Luận: sự cần thiết của sự nhận giữ giới luật
Niệm
Phật Luận: phương pháp giản dị nhất để khởi chính niệm
và diệt trừ tam nghiệp tham sân si.
Tọa
Thiền Luận: nguyên tắc ngồi thiền
Tuệ
Giáo Giám Luận: về liên hệ giữa định và tuệ.
Lục
Thì Sám Hối Khoa Nghi: sáu nghi thức sám hối áp dụng sáu
lần trong ngày nhằm mục đích thanh lọc tâm lý.
Phổ
Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ: lời gợi ý về một đề
tài thiền định trong sách Bàn Sơn Thùy Ngữ: “Một con đường
hướng thượng, ngàn thánh không truyền”.
Ngữ
Lục Vấn Ðáp Môn Hạ: những lời Thái Tông trao đổi với
các môn đệ, do môn đệ ghi chép lại.
Niêm
Tụng Kệ: 43 công án thiền, do Thái Tông nêu cử, gợi ý và
làm lời kệ tụng. Chính trong ba mục cuối vằ kể mà ta thấy
được trình độ đạt thiền của Trần Thái Tông.
Ngoài
ra sách Khóa Hư Lục còn in lại những bài tựa của ba cuốn
sách do Thái Tông viết: đó là bài tựa sách Thiền Tông Chỉ
Nam, bài tựa sách Kim Cương Tam muội Kinh Chú Giải, bài tựa
sách Bình Ðẳng Lễ Sám Văn. Những bài tựa này được in
trong Khóa Hư chung với các tiểu luận về thiền. Ðiều này
cũng dễ hiểu bởi nội dung bài này cũng liên hệ tới việc
hành thiền.
Trong
bản in của Hội Phật Giáo Bắc Kỳ năm 1943, có một lời
tiểu dẫn cho biết rằng trước kia có một ấn bản ở chùa
Ðống Cao tỉnh Bắc Ninh, nhưng bản này không có các mục
từ “Giới Sát Sinh Văn” đến “Niêm Tụng kệ”; sau đó
có một vị tăng ở chùa Quất Tụ, huyện Yên Thế, đã theo
bản in của thiền sư Thích Tuệ Hiền ở chùa Hoa Yên, núi
Yên Tử và tạo thành bản in năm Ðinh mão (1850, Tự Ðức
tam niên) (*), trong đó có cá bài từ “Giới Sát Sinh Văn”
đến “Niêm Tụng kệ”.
(*)
Thực ra đây chỉ là bản in năm Ðinh Mão, Tự Ðức năm thứ
21 (1867). Xin xem thêm Thơ văn Lý-Trần tập I, phần “Khảo
luận văn bản”; Nxb Kho học xã hội, Hà Nội, 1997; tr. 109
(N.H.C.)
Các
bản AB. 268, A. 1531, A. 1426 và AB. 367 của Thư Viện Khoa Học
Xã Hội ở Hà Nội đều chỉ có các mục Tứ Sơn, Phổ Thuyết
Sắc Thân, Phổ Khuyến Phát Bồ Ðề Tam Văn và Lục Thì Sám
Hối Khoa Nghi, nghiã là tương tự như ấn bản chùa Ðống
Cao mà bài tiểu dẫn nói trên miêu tả. Một điều đáng chú
ý là trong các bản lưu tại Thư Viện Khoa Học Xã Hội Hà
Nội, có một bản chép tay chép lại một bản in năm 1631.
Bản này có mang lời tựa của thiền sư Huệ Duyên chùa Sùng
Quang, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường viết ngày rằm tháng
Mười một năm Tân mùi, niên hiệu Long Ðức thứ ba (1631).
Sách này cũng mang theo lời dịch và giảng nghĩa bằng chữ
Nôm của thiền sư Thận Trai, pháp hiệu là Tuệ Tĩnh tự làVô
Dật, viết vào khoảng đầu thế kỷ thứ mười bảy (*).
(*)
Xem thêm Trần Thị Băng Thanh: Một vài tìm tòi bước đầu
về văn bản thơ văn Lý-Trần, Tạp chí Văn học, số 5-1972
(N.H.C.).
Ta
không biết bản in của thiền sư Thích Tuệ Hiền ở chùa
Hoa yên núi Yên Tử được thực hiện vào năm nào, chỉ biết
bản in của Hội Phật Giáo Bắc Kỳ năm 1943 đã căn cứ trên
bản in của chùa Quất Tụ năm 1850, mà bản chùa Quất Tụ
đã căn cứ trên bản chùa Hoa Yên. Xét về nội dung, ta thấy
những bài như bài tựa Kim Cương Tam Muội Kinh Chú Giải, bài
tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Ngữ Lục Vấn Ðáp Môn Hạ, Niêm
Tụng Kệ, Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ đều có mang
khí sắc Trần Thái Tông một cách rõ rệt. Những lời trao
đổi giữa Thái Tông với các môn đệ (Ngữ Lục Vấn Ðáp
Môn Hạ) cũng thấy có in trong sách Thánh Ðăng Lục.
Ðọc
kỹ toàn thể văn Khóa Hư Lục ta thấy rõ sách này chỉ là
tuyển tập nhiều đoạn văn được sáng tác vào những thời
gian khác nhau, chứ không phải là một tác phẩm được viết
ra dưới một chủ đề duy nhất. Cái danh từ Khóa Hư dùng
để làm đầu đề cho tuyển tập cũng gợi ý ấy. So sánh
về nội dung, ta thấy tư tưởng của bài Tứ Sơn thật khác
xa với tư tưởng Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ hay
tư tưởng Bình Ðẳng Lễ Sám Văn Tự. Tư tưởng bài Tứ
Sơn cũng như tư tưởng trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam còn
mang nhiều dấu vết tổng hợp tư tưởng Phật Nho, chú trọng
nhiều về hình thái văn từ hơn nội dung Thiền học. Tư tưởng
Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ và Niệm Tụng kệ chẳng
hạn chứng tỏ một kiến thức thâm sâu và thuần túy về
Thiền, như là các bài này đã được viết hai mươi năm sau
bài Tứ Sơn và Phổ Khuyến Phát Bồ Ðề Tâm Văn. Các bài
Niệm Phật Luận, Tọa Thiền Luận và Tuệ Giáo Giám Luận
với giọng văn đơn giản đi thẳng vào đề tại thực tế
chắc chắn cũng thuộc về một số những sáng tác đi sau
Tứ Sơn. Về khoa nghi sám hối, chắc chắn Bình Ðẳng Sám
Hối Khoa Nghi, trong đó ý niệm sám hối được tạo dựng
trên căn bản triết học pháp tính vô tính, chắc chắn cũng
được sáng tác sau Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi.
Căn
cứ trên những nhận xét ấy ta có thể nói rằng những đề
mục sau đây trong Khóa Hư Lục đã được sáng tác trong buổi
đầu, và có thể là đã được trích ra từ sách Thiền Tông
Chỉ Nam.
Tứ
Sơn: bốn bài thơ nói về bốn ngọn núi tượng trưng cho sinh,
lão, bệnh, tử và những lời tựa cho bốn bài thơ ấy.
Các
lời tựa này viết theo thể văn biền ngẫu, rất nhiều hình
ảnh thi ca. chú trọng đến tính cách vô thường, khổ và
vô ngã của thực tại.
Phổ
Thuyết Sắc Thân: Nói về sinh mệnh con người cũng là văn
biền ngẫu, có nhiều giá trị thi ca, và cũng nhấn mạnh đến
tính cách vô thường và khổ đau của hiện hữu.
Phổ
Khuyến Phát Bồ Ðề Tâm Văn: cùng lối văn biền ngẫu, cũng
nói về vô thường, vô ngã của thực tại và khuyên người
phát tâm tu đạo.
Các
bài Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ và Niêm Tụng Kệ
tuy cũng có nội dung hướng dẫn sự thực hành Thiền học
nhưng tư tưởng già dặn và thuần túy về Thiền của chúng
cho ta thấy chúng không thể nằm trong Thiền Tông Chỉ Nam chung
với những bài như ba bài trên được. Ta cũng có thể nói
rằng Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi đã được sáng tác sau Thiền
Tông Chỉ Nam không lâu: Thái Tông rất chú trọng về việc
sám hối, đã sáng tác khoa nghi này để tự mình sử dụng
và sau đó lưu hành cho người khác sử dụng. Việc Thái Tông
bị ép cưới vợ đã có mang của anh ruột, theo tiêu chuẩn
luân lý Khổng Mạnh đã được chính Thái Tông cho như là
“thương luân bại lý” cùng việc phải chấp nhận điều
Trần Thủ Ðộ ép làm trong mục đích trừng trị, chinh phạt...
chắc góp phần trong ý hướng sám hối của vua.
THÁNH
ÐĂNG LỤC
Nhân
đây ta cũng nên nói về tác phẩm Thánh Ðăng Lục, một tài
liệu có liên hệ tới Trần Thái Tông. Ấn bản mà ta hiện
có là ấn bản năm 1750 do một vị đệ tử của hòa thượng
Chân Nguyên thực hiện năm 1750. Vị đệ tử này tên là Tính
Lãng ; theo bài tựa trùng ấn, ông nói rằng năm 1705 thầy
của ông là hòa thượng Chân Nguyên tức Tuệ Ðăng đã có
in một lần rồi; nay bản gỗ đã thất lạc, ông muốn thực
hiện một bản in khác. Cũng theo bài tựa này (mà người viết
là Tính Quảng ở chùa Thiền Phong núi Tử Sầm) thì bản của
hòa thượng Chân Nguyên in lại theo bản của thiền sư Chân
Nghiêm chùa Sùng Quang (xã Xuân Lan, huyện Cẩm Giàng, tỉnh
Hải Dương) vốn đã được thực hiện hai trăm năm trước
đó, tức là vào giữa khoảng thế kỷ thứ mười sáu. Thánh
Ðăng Lục ghi chép về sự nghiệp tu học của năm ông vua
đời Trần; Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông và Minh
Tông. Cùng với các sách Thuyền Uyển Tập Anh, Tam Tổ Thực
Lục, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, sách Thánh Ðăng Lục
cũng là một tài liệu được biên chép theo phương pháp và
truyền thống thiền môn. Bốn tác phẩm này có rất nhiều
sử liệu chính xác và giá trị có thể bổ túc những chỗ
thiếu sót và sửa chữa những điểm sai lầm trong các bộ
quốc sử và trong các tác phẩm văn hóa như Việt Âm Thi Tập
và Toàn Việt Thi Lục. Sở dĩ các tác phẩm này có được
những giá trị đó cũng là nhờ chúng được bảo tồn trong
các chùa, nhất là các chùa trên núi, như chùa Yên Tử, nơi
binh hỏa tương đối đã tàn phá ít và cũng nhờ ở sự kiện
ở thiền môn ít ai nghĩ tới việc sửa chữa tài liệu trong
các bộ ngữ lục theo ý hướng chính trị của mình. Tam Tổ
Thực Lục chẳng hạn, trong phần nói về Nhân Tông, đã kể
đến những công việc của Nhân Tông làm trong thời gian xuất
gia và ghi rõ ngày, tháng, năm, với những chi tiết rất có
ích cho việc kiểm điểm sử liệu.
TRẦN
TRIỀU THIỀN TÔNG BẢN HẠNH
Hòa
thượng Chân Nguyên tức Tuệ Ðăng người san định Thánh
Ðăng Lục năm 1705 cũng là tác giả Yên Tử Sơn Trúc Lâm Trần
Triều Thiền Tông Bản Hạnh, mà chúng tôi đã từng nhắc
đến bằng tên tắt Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh. Ðây
là một tác phẩm chữ Nôm, trong đó tác giả nói nhiều về
vua Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông. Tác phẩm này chắc
chắn là đã dùng nhiều tài liệu của Thánh Ðăng Lục. Tác
phẩm có nói đến nói chuyện của vua Thái Tông với Tống
Ðức Thành và nhắc lại một số Thiền ngữ của vua. Tất
cả những chi tiết này chứng minh các mục Ngữ Lục Vân Ðáp
Môn Hạ và Niêm Tụng Kệ trong Khóa Hư Lục là chính tác phẩm
của Thái Tông. Ấn bản còn lại là ấn bản năm 1745 do một
ni cô tên Diệu Thuần chùa Liên Hoa ở kinh thành Thăng Long
thực hiện theo lời phú chúc của bổn sư cô là thiền sư
Liễu Viên. Hiện giáo sư Hoàng Xuân Hãn có được bản in
rất đẹp này, mà trong đó ta còn thấy một bài phú bằng
chữ Nôm (Cư Trần Lạc Ðạo Phú) và một bài ca (Ðắc Thú
Lâm Tuyền Thành Ðạo Ca) của vua Trần Nhân Tông, và bài phú
Vịnh Hoa Yên Tự của thiền sư Huyên Quang, tổ thứ ba phái
Trúc Lâm, người truyền thừa thứ tám của truyền thống
Yên Tử. Sách Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh được viết
vào những n ăm cuối thế kỷ thứ mười bảy.
NHU
YẾU TỈNH THỨC
Toàn
bộ sáng tác của Thái Tông mang tính chất nhu yếu của một
tâm hòn muốn luôn luôn tự đánh thức mình dậy trong cuộc
đời, không để rơi và tình trạng sống say chết mộng. Có
người nói những hình ảnh sinh, lão, bệnh, tử, vô thường,
vô ngã và bất tịnh mà Thái Tông đưa ra trong các tác phẩm
Tứ Sơn, Phổ Thuyết Sắc Thân và Phổ Khuyết Phát Bồ Ðề
Tâm chứng tỏ ông có một thái độ bi quan, yếm thế đối
với cuộc đời. Ðiều này không đúng. Khi ta nhìn vào cuộc
đời Thái Tông ta thấy vua không bi quan, yếm thế; trái lại
vua rất tich cực trong việc dựng nước trị dân và nắm lấy
chủ quyền hành động trong tay khi đã đến tuổi trưởng
thành. Khi ta đọc những tác phẩm của vau, ta cũng thấy một
niềm thao thức muốn thực hiện một cái gì có giá trị vĩnh
cửu; đó là sự ngộ đạo. Vua không phải là một người
tâm thwongf chỉ muốn hưởng thụ những lạc thú cuộc đời,
những lạc thú có thể nằm trong tầm tay của một người
như vua. Trái lại, vua muốn vươn tới, và tự nhủ đừng
tự đánh mất mình trong những thế giới hình sắc, thanh âm,
hương vị, và cảm xúc của hưởng thụ. Bốn bài kệ Tứ
Sơn là một sự thức tỉnh thực sự về tính cách vô thường
của một đời người. Tứ sơn là bốn ngọn núi sinh, lão,
bệnh và tử, tức là bốn cửa ải của đời người. Ðánh
mất một đời người trong lãng quên và trong thanh sắc để
rốt cuộc không còn cơ hộ tìm ra nguồn cội quê hương mình
là một điều đáng tiếc. Vua viết trong bài kệ thứ nhất.
Lưỡi
vướng vị ngon, tai vướng tiếng
Mắt
theo hình sắc, mũi theo hương
Lênh
đênh làm khách phong trần mãi
Ngày
hết, quê xa vạn dặm đường[3].
Một
đời người qua suông như thế thật là uổng phí. Hình ảnh
mà Thái Tông dùng để diễn tả sự chấm dứt của một cuộc
đời lãng phí là một hình ảnh kỳ tuyệt có giá trị đánh
thức rất thần diệu. Ðó là hình ảnh trăng khuya lặn trên
một dòng sông yên tĩnh sau một trận bão tố khủng khiếp,
trong đó tác giả thây một ngư ông say khước để thuyền
tự do vượt sóng qua sông:
Một
trận cuồng phong dậy đất bằng
Ngư
ông say khướt thả thuyền ngang
Bốn
phương mây kéo mầu đen kịt
Một
giải sông reo sóng dậy tràn
Sầm
sập tóe tung mưa xối xả
Ỳ
ầm chuyển vận sấm oang vang
Phút
giây bụi cuốn chân trời tạnh.
Canh
vắng, dòng sông bóng nguỵêt tàn [4].
Hiện
tại, trong cảnh đêm khuya trăng lặn bên dòng sông, hình ảnh
ngư ông say khướt với chiếc thuyền trôi trong giông tố mà
ta thấy trước đó mấy phút hình như đã là một ảo ảnh:
tất cả sẽ tan biến, chỉ còn lại dòng sông và bóng nguyệt.
Về cái chết, Thái Tông viết trong bài Phổ Thuyết Sắc Thân:
“Khi xưa tóc mượt má hồng, ngay nay tro xanh xương trắng.
Khi mưa lệ tưới mây ảm đạm, lúc gió sầu lay nguyệt mơ
màng. Canh tàn thì quỷ khóc thần sầu, năm muộn thì trâu
dày ngựa đạp. Ðom đóm lập lòe trong cỏ biếc, côn trùng
rền rỉ ngọn đương trơ. Bia đá một nửa phủ rêu xanh,
tiều mục đạp ngang thành lối tắt...”
Về
tính cách bất tịnh và vô thường của thân người, Thái
Tông viết trong Phổ Khuyến Phát Bồ Ðề Tâm: “Công danh
cái thế, chẳng qua một giấc mộng dài; phú quý kinh người,
khó tránh “vô thường” hai chữ. Tranh nhân chấp ngã, rốt
cuộc là không; khoe giỏi khoe hay rốt cùng chẳng thực. Tứ
đại rã rời thôi già trẻ; núi khe mòn mỏi hết anh hùng.
Tóc xanh chưa thấy mà mầu bạc đã pha. Kẻ mừng mới đi
mà người điếu đã tới. Một bao máu mủ, bao năm khổ luyến
ân tình; bảy thước xương khô, mặc sức tham xan tiền của.
Thở ra không hẹn thở vào; ngày nay không tin ngày kế. Trôi
nổi sông yêu giờ nào nghỉ, nấu ung nhà cháy biết bao thôi?”
Tinh
thần thao thức cảnh giác nàybàng bạc trong suốt nghi thức
Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi vốn là một phương tiện cảnh
tỉnh tâm hồn, không hơn không kém. Sự cảnh tỉnh này được
thực hiện trong mọi mặt (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và
ý) và vào mọi lúc trong ngày (tang tảng sáng, buổi trưa, buổi
chiều, buổi nhá nhem, buổi tối, buổi quá nửa đêm).
NHU
YẾU TINH CHUYÊN
Tự
nhắc nhở về tính chất vô thường, bất tịnh và hư giả
của cuộc đời không phải là để buồn nản buông xuôi mà
là để dốc lòng tinh chuyên thực hiện sự đạt ngộ. Lục
Thì Sám Hối Khoa Nghi đã được vua chế ngự để thực hành
sám hối một ngày sáu lần, có lẽ trong những ngày ít bận
rộn việc triều chính và có lẽ ở chùa Phổ Minh hay Chân
Giáo. Khoa Nghi chia làm sáu phần, để thực hành sáu lần trong
ngày. Mỗi lần lâu vào khoảng 20 phút. Nghi thức gây tác động
cảnh giác rất cao và rất tha thiết: sám hối ở đây không
phải là xin tội với Phật mà là gạn lọc tỉnh thức tự
tâm. Vào thế kỷ thứ sáu vua Lương Vũ Ðế bên Tàu cũng
có ngự chế một nghi thức sám hối tên là Từ Bi Ðạo Tràng
Sám Pháp, mười cuốn, nhưng là để nhờ các vị tăng sám
hối cho bà hoàng hậu đã vì sân si mà nhảy xuống giếng
chết để sau này trở thành một con độc long. Nghi thức này
được gọi là Lương Hoàng Sám, người ta nói rằng sau khi
các vị tăng sám hối xong thì hoàng hậu được siêu thăng
về và báo mộng cho vua hay. Trong trường hợp Thái Tông. Vua
không ngự chế sám pháp để xin tội cho ai khác. Chắc hẳn
những hành động của Trần Thủ Ðộ như ép Lý Huệ Tông
tự tử, giết tôn thất nhà Lý, giết hết binh sĩ theo Trần
Liễu làm loạn sông Cái, ép vua lấy chị dâu có mang... đã
đè nặng trên tâm tư của Thái Tông, và những khổ đau này
có dự phần vào động cơ sáng tác sáng pháp. Nhưng các tội
lỗi trên, Thái Tông không nghĩ là của riêng Trần Thủ Ðộ
mà là tội lỗi của gia đình và dòng họ, là tội lỗi của
chính mình. Tuy vậy, suốt sáu nghi thức sám hối ta thấy nhu
cầu sám pháp thì ít mà nhu yếu thức tỉnh và tinh chuyên
thì nhiều. Sám pháp ở đây được thực dụng như một phương
tiện yểm trợ thiền định, gạn lọc nội tâm, tạo nên
trạng thái thao thức của sự cảnh giác.
Mỗi
nghi thức bắt đầu bằng một bài kệ cảnh giác, rồi đến
lễ dâng hương, một bài kệ dâng hương, một bài kệ dâng
hoa, một bài trần bạch có tác dụng cảnh sách, một lời
sám hối, một bài kệ khuyến thỉnh, một bài kệ tùy hỷ,
một bài kệ hồi hướng, một bài kệ phát nguyện, và cuối
cùng là một bài vô thường. Văn cú rất diễm lệ, hình ảnh
rất phong phú, tư tưởng rất sâu sắc. Sáu nghi thức là sáu
hòn bích ngọc. Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi của Trần Thái Tông
là một sám pháp gọn gàng, thực tiễn và đẹp đẽ, so với
nghi thức Từ Bi Thủy Sám đã không thể thua mà còn có thể
đẹp đẽ hơn và thực dụng hơn. Không biết tại sao ở các
thiền đường xứ ta sám pháp các vua Trần Thái Tông lại
được ít người sử dụng trong khi các sám pháp Lương Hoàng,
Dược Sư, Thủy Sám lại rất phổ thông. Ta hãy đọc một
đoạn về nghi thức buổi sáng để thấy giá trị tư tưởng
và văn chương của Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi:
Bài
kệ cảnh sách giờ Dần
Ánh
dương vừa mới hé
Mặt
đất tối rạng dần
Ý
xôn xao trỗi dậy
Hình
tranh nhau phân vân
Ðừng
ôm xác chét nữa
Ngửng
đầu lên thiền chân:
Siêng
năng trong sáu niệm
Mới
khế ngộ cơ thần.
Lễ
chúc hương buổi sớm
“Phục
dĩ: bóng thỏ về Tây, vầng ô đã rạng: nơi chiếu Phạn,
họp muôn dòng Thanh Tịnh; trên cõi Không, lễ các bậc Thánh
Hiền. Muốn gửi tin bằng gỗ chiên đàn; phải kính đốt
xông loài hương báu. Hương này, trông từ rừng Giới Luật,
tưới bằng nước Thiền Na; chặt trong vườn Trí Tuệ, đẽo
bằng đao Giải Thoát. Hương không dùng rìu búa sức người
mà hình thể từ nhiên nhiên tự kết. Ðốt nén bảo hương
Tri Kiến; kết thành đài mây Quang Minh. Lúc hương xông khắp
chốn thơm tho; nơi khói tỏa đầy trời ngào ngạt. Na;y nhân
buổi sớm, đốt hương cúng dường”.
Bài
kệ dâng hương
Ngào
ngạt trầm hương rừng chính định
Chiên
đàn vườn tuệ đã vun trồng
Giới
đao đẽo gọt nên hình núi
Ðốt
tại lò Tâm để hiến dâng
Bài
kệ dâng hoa
Hoa
nở sáng ngời trên đất tâm
Hoa
tiên rải xuống chẳng thơm bằng
Hái
dâng từng đóa lên chư Phật
Gió
nghiệp muôn đời thổi chẳng rung
Tính
cách cảnh giác và khích lệ hành động trong khoa nghi Lục
Thì Sám Hối cũng thấy trong các bài Tứ Sơn, Phổ Thuyết
Sắc Thân và Phổ Khuyến Phát Bồ Ðề Tâm. Trong bài Phổ
Thuyết Sắc Thân, Thái Tông nói đến cơ hội quý báu của
người được mang thân người đầy đủ sáu căn, được
sinh nơi có văn hóa, và khuyên nên tinh tiến hành đạo: “Nếu
đã là con mắt sáng, kíp nên phản tỉnh hồi quang; cất mình
vượt khỏi hố sinh tử, giang tay xé toạt lưới ái ân; nam
cũng vậy, nữ cũng vậy, đều có thể tu; trí cũng thế, ngu
cũng thế, đều là có dịp. Nếu chưa đạt được tâm Phật
ý Tổ, thì trước hãy nương vào phép trì giới niệm kinh.
Kíp đến khi đạt được trình độ Phật cũng không mà Tổ
cũng không thì còn giới nào trì kinh nào niệm? Ở nơi ảo
sắc mà cũng như ở nơi chân sắc; an trú trong phàm thân mà
cũng là an trú trong pháp thân. Phá lục tặc làm nên lục thần
thông; rong chơi trên biển bát khổ như trên biển tự tại”.
Trong bài Phổ Khuyến Phát Bồ Ðề Tâm, vua viết: “Nếu có
thể phản chiếu hồi quang thì ai ai cũng có thể Kiến Tính
thành Phật. Hơn nữa thân người dễ mất, pháp Phật khó
được tương phùng, nếu muốn siêu thoát dòng lục đạo thì
chỉ có một đoạn Nhất Thừa là con đường tắt. Phải tìm
Chính kiến, đừng tin tà sư; ngộ xong thì mới thật bước
vào, hành được thì mới hay thoát tục. Chân bước lên đất
đai thực tại, đầu đội dưới khung trời Thái Hư. Khi sử
dụng thì vạn cảnh phô bày; khi buông thả thì mảy trần
không vướng. Vượt đến chốn không liên quan sinh tử; ngộ
đến cơ mà quỷ thần không lường. Hoặc phàm hoặc thánh
đều vẫn đi một con đường; dù ghét dù thương đều thở
chung một lỗ mũi”.
Vua
Trần Thái Tông là một người có cảm xúc bén nhạy. Vua nhìn
sự vật một cách sâu sắc. Lời nói của Trúc Lâm quốc sư
về bổn phận của người chịu trách nhiệm giữ dân in dâu
vào tâm não vua như một lời phán quyết của định mệnh
[5], vua chấp nhận và tuân phục, nhưng vua quyết không chịu
đóng vai trò thụ động của thời thế; vua muốn sống cuộc
sống của chính mình. Không ai tuyên truyền, nhối sọ vua về
đạo Phật. Chính vua tự tìm học Phật theo lời khuyên nhủ
theo nhủ quốc sư Trúc Lâm. Ngôi báu, đối với vua, không
còn là một đối tượng thèm khát, ước ao mà chỉ là một
gánh nặng không thể gánh. Cho nên Thái Tông đã không ngồi
trên ngôi để thưởng thức phú quý quyền hành, đắm chìm
trong thanh sắc. Trái lại, vua luôn luôn tự mình thức tỉnh
mình, không muốn tự đánh mất trong cuộc sống vô tâm hưởng
thụ. Khi quốc gia cần, vua cũng tự thân chiến đấu can đảm
vào sinh ra tử, đi trước ba quân. Nhưng khi gà mới gáy sáng,
vua đã giật mình trỗi dậy, không muốn chôn lâu trong giấc
ngủ nơi giường êm nệm ấm. Vua đã thành đạt không những
trong sự nghiệp nuôi dân, bảo vệ hòa bình, mà còn trong sự
nghiệp đạo học và tu đạo nữa. Chính tinh thần cảnh giác
và cầu tiến đã giúp vua thành đạt sự nghiệp.
TƯ
TƯỞNG THIỀN HỌC
Thái
Tông nói trong bài Tọa Thiền Luận: “Người học đạo cốt
mong kiến tính (thấy được bản tính mình)”. Theo vua Tính
là đối tượng của sự tu chứng đạo và là nền tảng của
hiện hữu. “Tính là tâm ta, cái Tâm mà Trúc Lâm quốc sư
nói là Phật: “Phật không ở trong núi; Phật ở trong tâm
người. Tâm tĩnh lặng mà phát sinh trí giác đó mới chính
là Phật”. Ðó là bản tính cũng là chân tâm. Trong bài tựa
sách Kim Cương Tam Muội Kinh Chú Giải, vua viết: “Bản tính
huyền ngưng, chân tâm trạm tịch, dứt tuyệt ý niệm về
tròn khuyết; nếu không phải do thánh trí thì không tìm được
đến giếng mối của nó; nó không hợp, không tan, không còn,
không mất; mắt thấy tai nghe không thể tìm được vang bóng
của nó; vì nó không phải hữu cũng không phải vô, không
xuất thế cũng không nhập thế, nó ngang nhiên độc tồn,
siêu việt, ngoài nó không có gì khác, vì vậy nó được gọi
là phát hiện trở lại tự tính siêu việt đó vốn đã bị
che lấp bởi vọng niệm. Vua viết tiếp: “Chỉ vì sự tập
hợp huân nhiễm lâu đời của chúng sinh mà phát ra sóng gió
tri kiến của thần thức, vì chúng sinh buông mình theo con đường
ô trọc che lấp cho nên không biết đem ánh sáng tuệ giác
để chiếu soi, khiến cho bốn phương thành xứ. Mơ hồ không
biết rõ lối về...” Tu đạo tức là thực hiện sự trở
về đó. Thái Tông nhiều lần đề cập đến sự chứng ngộ
như một sự trở về, trở về quê hương [6]. Sám hối, tới
giai đoạn này, cũng là một phương tiện trở về. Sám hối
không còn là một ăn năn hối cải tội lỗi đã làm mà là
một quyết định trở về. Bình Ðẳng Sám Hối của Trần
Thái Tông được sáng tác trong chủ đích ấy. Ta hãy đọc
trong bài tựa của vua viết: “Pháp tính như như, không vướng
một mảy may niệm lự: chân nguyên lặng lặng, xưa nay vốn
tuyệt dứt sự ô nhiễm của tư duy. Chỉ vì {pháp tính và
chân nguyên} bị che lấp cho nên vọng duyên đã phát khởi
và huyễn thế đã hình thành. Nghiệp thức vì vậy đã che
đi cả vầng trí tuệ tròn sáng, gia tài ta tan nát chỉ vì
sự hiển bày tham dục của sáu căn. Nếu ta chấp nhận được
giáo pháp thanh tịnh thì có thể rửa sạch được mọi tư
duy ô nhiễm mà phát tâm nhất chân bình đẳng”. Tâm nhất
chân bình đẳng đây là chân tâm, là Phật tính, là uyên nguyên
của thực thể; đứng về phương diện này chúng sinh và Phật
hoàn toàn bình đẳng bởi vì tất cả đều cùng chung tâm
nhất chân ấy. Cũng vì vậy cho nên sám pháp gọi là Bình
Ðẳng Sám Hối Văn. Nhưng sám hối đây là sám hối với ai?
Lễ lạy đây là lễ lạy ai khi mà trên mặt thực tế ta với
Phật hoàn toàn bình đẳng? Thái Tông viết: “Lạy là lạy
cái thế vô tướng của pháp thân. Lạy được như thế thì
cái thể tự thu dụng và tha thu dụng [7] giao tham, đến được
bến bờ kia thì mặt mũi xưa nay tự nhiên hiển lộ” (bài
tựa Bình Ðẳng Sám Hối Văn).
Sự
thực hiện kiến tính hay sự trở về này phải tuân theo trình
tự tam học tức giới, định và tuệ: đó là Thiền, Giới
là khởi điểm thực hiện. “Giới là uy nghi, Ðinh là bất
loạn, Tuệ là giác tri”. Uy nghi ở đay là sự cảnh giác
từng giờ từng phút về tư tưởng, lời nói và hành động
để duy trì chính niệm hay sự tỉnh táo của tâm hồn. Thái
Tông chú trọng đặc biệt đến điểm này. về Ðịnh và
Tuệ, vua viết: “Tuệ phát sinh từ Ðịnh nếu tâm định
thì tuệ sinh, nếu tâm loạn thì tuệ diệt. Nên biết rằng
không những Tuệ phát sinh từ Ðịnh mà Ðịnh cũng phát sinh
từ Tuệ nữa: Ðịnh và Tuệ nương nhau mà không thể biệt
lập với nhau. Nếu bảo tọa thiền tâm chưa đắc định mà
đã có thể phát sinh ra tuệ, điều ấy thật chưa có. Chúng
sinh đều có sẵn tuệ tính nhưng nếu không tập tọa thiền
thì vẫn chưa có thể nói là minh có Tuệ. Nếu không cần
tọa thiền mà có tuệ vậy tọa thiền để làm gì?” (Tuệ
Giáo Giám Luận)
THOẠI
ÐẦU THIỀN
Thái
Tông thao thức thực hiện tuệ giác để tìm ra được một
cái gì không sinh không diệt trong dòng đời sinh diệt, bất
tịnh, khổ đau, vô thường và vô ngã. Vua đã tham thủ thoại
đầu bất hủ của thiền sư Lâm Té về “con người thực
không vị trí” (vô vị chân nhân). thoại đầu ấy như sau:
Thiền
sư một hôm khai thị đại chúng: “Này quý vị trên một
đống thịt đỏ au kia,có một con người thực không vị trí,
hay ra vào trước mắt quý vị. Nếu quý vị không biết {con
người thực không có vị trí ấy} là ai thì chỉ cần hỏi
lão tăng đây”. Có một vị tăng bước tới hỏi: “Xin cho
biết con người thực không có vị trí ấy là gì?” Thiền
sư liền đánh vị tăng ấy và nói: “Con người thực không
vị trí là cái cứt khô gì đâu?” (Lâm Tế Lục).
Thái
tông rất thao thức muốn tìm cho ra “con người thực” này.
Ðó chính là tự tính là chân tâm, là thể kim cương bất
hoại. Nhưng “con người thực” đó phải tìm ở đâu? Thiền
sư Lâm Tế nó drằng nó “nó ở ngay trên đống thịt đỏ
au”, “ra vào trước mắt” mọi người. Ðống thịt đỏ
au đó, tức là sắc thân con người mà Thái Tông đã cực
tả trong những dòng hiện thực sau đây:
“Bộ
xương khô cài hoa điểm ngọc, túi da hôi ướp xạ xông lan,
cắt lụa; là bọc thân máu mủ, xâu tràng hoa đeo túi phân
tro... trang điểm bề ngoài, bề trong uế trọc {...}, những
mong sống kiếp của thông già, nào biết tứ chi như nhà dột.
Hồn phách tạm về lối quỷ, thi hài còn để cõi người.
Tóc lông răng móng chửa kịp tiêu, đờm giãi bọt hơi đà
thấy ứa. Rữa nát thì chảy lỏng máu mủ, tanh hôi thì rinh
đất rinh trời. Ðen đúa mắt chẳng dám nhìn, xanh lè thật
đáng sợ. Bất luận nghèo giàu, tất cả đều chết. Ðể
ở trong nhà, ruồi bu bọ nguậy, vứt ra ngoài đường thì
quạ rỉa chó ăn. Người đời thì bịt mũi mà qua, con hiếu
phải lấy nong mà đậy... thu thập thịt xương, chôn hài cốt.
Quan tài phó sao trời đốm ruộng, mồ mả chôn muôn dặm hoang
sơn. Ngày xưa tóc mượt má hồng, ngày nay tro xanh xương trắng...”
Sắc
thân ấy, thể xác ấy không phải là con người chân thực
của ta. Vậy con người chân thực kia, con người không có
vị trí kia, nó nằm ở đâu? Làm sao khám phá? Thái Tông đặt
ra câu hỏi ấy, đã tham thiền thủ ý ấy. Sau đây là bài
kệ ngộ đạo của vua:
Vô
vị chân nhân thịt đỏ au
Hồng
hồng trắng trắng khéo lừa nhau
Ai
hay mây cuốn trời quang tạnh
Hiện
rõ bên trời dáng núi sao [8].
Con
lừa ba cẳng ở đây là gì? Phải chăng là con chim đại bàng
giới, định, tuệ mà trí có của con người không thể nào
đạt được bằng đường lối khái niệm va tư duy? Con lừa
ba cẳng ấy phải chăng chỉ có một mình vua Thái Tông cưỡi
được?
Thiền
ngữ thứ ba Thái Thông đã bỏ nhiều công phu tham khảo là
thiền ngữ “một con đường đi lên duy nhất” (hướng thượng
nhất lộ). Sách Phật thường nói đi từ ngọn về gốc là
hướng thượng. Ði từ gốc ra ngọn là hướng hạ. Sách Thích
Ma Ha Diễn Luận nói” Về phương tiện hiện tượng sinh diệt
có hai phương pháp hành đạo: phương pháp hướng thượng
và phương pháp hướng hạ. Hai phương pháp ấy quyết trạch
được vấn đề sinh tử”. Trong sách Bích Nham Lục, bài tựa
của Phổ Chiếu có câu: “ông thầy tu áo và hướng thượng,
tức là cái mà trong số ngàn vị thánh không vị nào chịu
truyền lại”. Lời giải thích của Chủng Ðiện trong Bích
Nham Tập có dẫn lời của Bàn Sơn như sau: “Một con đường
hướng thượng duy nhất, ngàn thánh không truyền: kẻ học
giả lao nhọc thân hình như con vượn bắt bóng”. Thái Tông
chắc chắn đã để nhiều công phu vào đề tài này. Sau đây
là đoạn văn vua viết về sự chứng ngộ của vua trong mục
đích mời các bạn và môn đệ cùng chiêm nghiệm. Ta hãy đọc
để thấy được chút nào sở đắc thiền học của ông vua
kỳ lạ ấy.
“Bàn
Sơn có lời thùy ngữ sau đây: “Một con đường hướng thượng,
ngàn thánh không truyền; học giả vì vậy mà khổ công nhọc
mình như con vượn tìm bắt bóng hình của nó” (hướng thượng
nhất lộ, thiên thánh bất truyền, học nhân lao hình, như
hầu tróc ảnh). Quý vị học giả bốn phương hãy hướng
về đầu nẻo ấy mà tham thủ lấy thiền ý kia xem sao. Tôi
xin hỏi: các vị làm sao mà “tham thủ” được thiền ý
ấy? Nếu có chủ tâm tham thủ và đối tượng tham thủ thì
cũng như anh chàng gàn điên kia, trên đầu lại muốn thêm
có một cái đầu, sau lưng lại có muốn thêm một cái đuôi,
trong mắt lại muốn có thêm con ngươi, trên da thịt lại có
thêm nhiều cục bướu. Ðề tài ấy, nói tới thì môi miệng
cứng câm, nhìn tới thì đồng tử rơi rụng... Ông già mắt
vàng liếc mắt làm ngơ; Hồ tăng mắt xanh dương mi đứng
ngó; Mã Tổ vứt phất trần; Thủ Sơn giấu cào tre; Triệu
Châu xé áo gai; Vân Môn bỏ bánh Hồ; Ðức Sơn liệng gậy;
Lâm Tế nuốt tiếng hét; Phật phật Tổ tổ đều tiềm ẩn
tung tích, người người ai nấy đều táng đởm kinh hồn.
Ðó là một vật dùi sắt đâm vào không được, kim đồng
xuyên qua không thủng, ánh sáng nháng ra từ đá lửa mau thế
mà không đuổi kịp nó, làn chớp trên trời so với nó cũng
còn chậm rì. Chưa thấy được nó thì dù tỉnh ngộ cũng
còn trong làng trầm túy; dù mê man cũng còn dẫm trên đường
sinh tử; dù đã được phú chúc trên hội Linh Sơn thì cũng
vẫn còn ở trong chốn lậu đậu như thường; dù được Thiếu
Thất truyền cho thì cũng như còn là trong hang giây quấn. Phải
có cơ dương tinh nhuệ mau như chớp giật, một tiếng hét
cũng khế hợp được căn cơ; phải có ngôn tài thao thao như
dòng sông, hễ thoại đầu đưa ra là giải quyết ngay được.
Tham khảo đi tham khảo lại, sâu ngày dài tháng, nếu không
dám đi trên con đường đèo trơn trợt thì làm sao thoát được
thân phận trong hang sâu núi thẩm? Này quý vị, hễ đã tới
đây thì chớ bỏ qua dịp quý mà không tham cứu. Nhiều kẻ
học giả đưa mắt nhìn sườn núi cheo leo, nghĩ rằng khó
mà bước tới. Hôm nay vì quý vị tôi không khỏi đánh liều
tay rờ râu cọp, chân đi đầu sào chót vót. Khi nói, phải
biết rằng như gió thổi tung reo; khi im phải biết rằng như
hồ trong trăng chiếu; khi đi, phải biết rằng như nước chảy
mây trôi; khi đứng, phải biết rằng như núi yên non vững.
Lời nào nói ra cũng đều nằm trong kế hoạch linh hoạt của
Thích Ca; câu nào cất lên cũng đều phù hợp với gia phong
Sơ Tổ. Buông đi thì tám chữ mở toang, nắm lại thì nhất
môn tuyệt đỉnh, hạng ma quỷ sẽ trở thành lâu đài Di Lặc,
núi Hắc Sơn sẽ chẳng khác cảnh giới Phổ Hiền: đâu đâu
cũng là đại quang minh tạng, căn cơ nào cũng là bất nhị
pháp môn. Ngại gì ánh sáng đến khi bóng tối đi, quản chi
lúc mây che thì trăng hết tỏ. Ngọc minh châu nằm lòng bàn
tay, xanh thì chiếu xanh, vàng thì chiếu ánh sắc vàng; gương
cổ dựng trên đài: Hồ thì hiện Hồ, Hán thì hiện Hán.
Ðâu cần nhìn đến huyễn thể, vì đâu đâu cũng là pháp
thân, khỏi nhọc đỉnh đầu phóng quang, vốn sẵn đã có
trong sáu thần thông diệu dụng. Cung điện ma vương đảo
lộn, tâm can ngoại đạo lật bày; biến trái đất làm vàng
ròng cho quốc gia, đãi nhân thiên lấy sông dài làm sữa ngọt;
chuyển pháp luân thường trực trong lỗ mũi, hóa bảo tháp
hiện thực dưới lông mi. Trên sóng nước, thiếu nữ bằng
đá múa khúc Bà Sa, trong mây bạc, người gỗ nhạc công thổi
sáo ca bài ca lưu khách. Khi gặp vũ trường liền diễn xuất,
lúc thấy chỗ tốt thì nghỉ ngơi; hoặc đưa tay tìm dắt,
hoặc quay về sơn dã, khi biếng nhác thì theo {chân đám} mây
ngủ {trên tảng} đá, lúc hứng chi thì vịnh nguyệt triều
phong; ưu du nơi tửu tứ trà phương, tiếu ngạo là đường
hoa liễu bá.[9]
Hoa
vàng rỡ rỡ, không đâu là tâm bát nhã, tre tím xanh xanh, không
đâu là không lý chân như. Nhổ cỏ dại hiện bản lai diện
mục, con đường mòn cắt đứt nẽo tử sinh. Hồi đầu cưỡi
ngựa sắt mà về, xỏ mũi trâu bùn đi bước một. Không lấy
một pháp trong vạn pháp làm bạn thì đâu còn sở đắc nào?
Phật cũng không, tâm cũng không, chân cũng đúng mà giả cũng
đúng. Ngoài cửa tam yếu dù hét “nhị” cũng là “tam”.
Ðầu đường thập tự có hô “cửu” vẫn là “thập”,
lấy sáo không lỗ tấu khúc vô sinh. Dùng đàn không giây gãy
bài khoái hoạt. Ai ai mà không phải tri âm, đâu đâu lại
chẳng là bè bạn? Một con đường hướng thượng ấy, làm
sao ta hiểu được? Hãy nghe kỹ nghe kỹ. Ai nghe lọt được
thiền ngữ ấy thì tai sẽ bị ba ngày điếc đặc [10]. Nếu
chẳng nghe lọt, há lại bỏ di hay sao? Bởi vì nơi nào cũng
có những cây dương xanh có thể buộc ngựa, nhà nào cũng
có con đường dẫn về kinh đô. Ðường về dưới nguyệt
ít ai đến, một ánh trăng khuya lạnh khắp miền...”
ẢNH
HƯỞNG THIỀN PHÁI LÂM TẾ
Thoại
đầu “vô vị chân nhân” mà Trần Thái Tông tham khảo là
một thoại đầu nổi tiếng của phái Lâm Tế. Những ý niệm
như “tam huyền”, “tam yếu” mà vua thường nói cũng xuất
phát từ tư tưởng Lâm Tế. Chắc hẳn ngoài sự nghiên tầm
điển tịch và đọc các bộ lục như Lâm Tế Lục và Cát
Ðằng Tập, vua đã có học hỏi ít nhiều về thiền học
Lâm Tế ở thiền sư Thiên Phong vốn từ Trung Hoa sang. Thiền
sư Lâm Tế hiệu là Nghĩa Huyền, người tỉnh Hà Nam, hồi
trẻ tham học với thiền sư Hoàng Bích, và được Hoàng Bích
truyền tâm pháp. Tư tưởng thiền của Lâm Tế cũng giống
như tư tưởng Hoàng Bích: nhấn mạnh đến nguyên lý chúng
sinh với Phật không khác. Nhưng Lâm Tế có nhiều biện pháp
giáo hóa rất đặc biệt: hồi thiền sư về Trấn Châu Tiểu
Viện hành đạo (sau này đổi là Lâm Tế Thiền Viện) ông
xướng xuất các biện pháp tam cú, tam huyền, tam yếu, tứ
chiếu dụng và tứ tân chủ. Ðặc biệt nhất là sự thi hành
phép bổng yết (gậy đánh và tiếng hét). Gậy và tiếng hét
là những phương tiện đánh thức giác ngộ. Lâm Tế có một
nhân cách thật ngang tàng có thể sánh với Bồ Ðề Ðạt
Ma: Lâm Tế Lục sôi bỏng một sức sống rào rạt hùng liệt,
không phải như Bích Nham Tập của Tuyết Ðậu và Viên Ngộ,
tuy diễm tuyệt nhưng đằm thắm.
BỐN
MƯƠI BA BÀI TỤNG CỔ
Trong
những năm Thánh Tông đã nắm hoàn toàn trong tay việc trị
nước thì Trần Thái Tông để hết thì giờ vào công phu thiền
tập. Vua đã hướng dẫn nhiều người trong việc thực hành
thiền đạo, kể cả nhiều vị tăng sĩ. Mục Ngữ Lục Vấn
Ðáp Môn Hạ trong sách Khóa Hư có ghi lại một câu thiền
ngữ của vua trả lời các câu hỏi của Ðức Thành, một
vị du tăng nhà Tống, và những vị tăng khác. Ví dụ một
vị tăng hỏi: “Chưa thoát ly chưa xuất thế thì còn mong
được chỉ dẫn, nhưng đã thoát ly đã xuất thế rồi thì
sao?” Vua đáp:
Mây
sinh đỉnh Nhạc toàn màu trắng
Nước
đến Tiêu Tương một sắc xanh.
Một
vị tăng khác hỏi: “Cổ kim không có nhiều đường khác
nhau, kẻ đạt ngộ đều đi chung một lối mà về. Nhưng bệ
hạ có nghĩ rằng tìm ra được đạo chỉ có một mình đức
Thế Tôn mà thôi không?” Vua đáp:
Mưa
xuân tuy không phân biệt cao thấp
Nhưng
cành xuân có cành thấp cành cao.
Ðể
giúp các thiền lữ quen biết trong việc tham thủ các công
án, vua Thái Tông đã trích cử một số thoại đầu (đề
án) làm lời niêm (nhận xét) và kệ tụng (kệ hướng dẫn).
Khóa Hư Lục còn ghi lại 43 công án được Trần Thái Tông
chọn lựa. Cho lời nhận xét và bài kệ hướng dẫn. Niêm
Tụng Kệ là tác phẩm được sáng tác vào những năm hành
đạo lớn tuổi nhất của vua, lúc ấy đã gần 60. Ta hãy
đọc thử 3 trong số 43 công án trong Niêm Tụng Kệ, các công
án thứ 15, 16 và 17.
Công
Án Thứ Mười Lăm:
Cử:
Nam Tuyền nói: tâm không phải Phật, trí không phải đạo.
Niêm:
Hô hấp tất cả lý lẽ huyền vi, trên đường về bước
dưới ánh trăng.
Tụng:
Vạn tiếng âm thầm tinh tú chuyển
Thái
hư trầm lặng không vết gì
Nương
gậy lên lầu trông bốn phía
Tịch
tịch liêu liêu nào ngại chi?
Công
Án Thứ Mười Sáu:
Cử:
Lâm Tế sau khi xuất thế chỉ dùng có phép bổng yết (gậy
và hét) để khai thị đồ chúng. Hễ thấy một vị tăng vào
cửa là hét.
Niêm:
Giữa trưa mồng một tháng Năm, bao nhiêu độc địa trong lưỡi
miệng đều tan biến.
Tụng:
Vừa tới cửa ngoài nghe tiếng hét
Tỉnh
giấc hôn trầm lũ cháu con
Một
tiếng sấm xuân vừa chấn động
Khắp
nơi cây cối nảy mầm non.
Công
Án Thứ Mười bảy:
Cử:
Nam Tuyền nói: tâm hàng ngày là đạo
Niêm:
Lạnh thì nói lạnh, nóng thì nói nóng
Tụng:
Ngọc trắng nguyên lai không dấu vết
Cứ
gì mài dũa mới thành xinh
Quê
cũ không đo lường lối ấy
Núi
dốc buông tay phó mạng mình.
Lối
làm kệ tụng cho các cổ tắc hay thoại đầu này, xưa đã
được thiền sư Tuyết Ðậu thực hiện. Tuyết Ðậu là một
thi sĩ có tài ngăng. Ảnh hưởng Tuyết Ðậu đã được đưa
xuống từ truyền thống Thảo Ðường qua các truyền thống
Vô Ngôn Thông và Yên Tử, hay đã đến trực tiếp bằng tác
phẩm Bích Nham Lục và Tuyết Ðậu Ngữ Lục? Có lẽ bằng
cả hai đường. Ta chỉ biết Thái Tông có một tâm hồn giàu
có chất nghệ sĩ. Một ngày nọ sau công việc triều chính
bề bộn, vua tìm lên thiền am Thanh Phong của thiền sư Ðức
Sơn, và ở lại suốt đêm ở đây. Ngủ thì uổng quá, trong
khi ngoài sân ánh trăng rạng rỡ, cây cỏ còn thức, rì rào
trong gió nhẹ. Cả thiền sư cả vua đều đứng chơi trước
sân chùa cho tới khuya. Sau đây là bài thơ vu làm khuya hôm
ấy:
Gió
thổi sơn tùng nguyệt chiếu hiên
Nhiệm
mầu tâm cảnh đượm hương thiền
Thú
vui tĩnh mạc nào ai biết
Cùng
với thiền tăng thức trắng đêm [11].
[1]
(45) Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư chép là năm Ðinh Dậu (1237).
Ðây chép theo bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam do chính tay
Trần Thái Tông viết
[2]
(46) Thái Tổ: Trần Thừa, cha của Thái Tông, khi Thái Tông
lên ngôi ông ta được phong Thượng Hoàng.
[3]
(47) Tỳ trước chư hương thiệt tham vị
Nhãn
manh chúng sắc nhĩ văn chương
Vĩnh
vi lãng đãng phong trần khách
Nhật
viễn gia hương vạn lý trình
[4]
(48) Bãi đãng cuồng phong quát địa sinh
Ngư
ông lúy túy điếu chu hoành
Tứ
thì vân hợp âm mài sắc
Nhất
phái ba thiên cố động thanh
Vũ
cước trận thôi phiêu lịch lịch
Lôi
xa luân chuyển nô oanh oanh
Tam
thời, trần liễm: thiên binh tĩnh
Nguyệt
lạc trường giang dạ kỷ canh
[5]
(49) “Ðã làm vua thì không còn có thể theo ý thích của riêng
mình được nữa, mà phải lấy ý thích của dân làm ý thích
của mình, lấy lòng dân làm lòng mình”.
[6]
(50) “Nhật vãng gia hương vạn lý trình”: (ngày hết quê
xa vạn dặm đường) (Tứ Sơn) hay “Hoàng hà cửu khúc vị
quân cử, một thiệp đồ trình tự đáo gia” (chín khúc sông
Hằng khai tuệ nhãn, đường xa không bước vẫn về nhà (Niêm
Tụng Kệ)
[7]
(51) Thụ dụng thân là báo thân (Sambhogakaya) một trong tam thân
của Phật sử dụng vào sự lợi ích tu chứng của kẻ khác.
[8]
(52) Vô vị chân nhân xích nhục đoàn
Hồng
hồng bạch mạc tương quan
Thùy
tri vân quyên trường không tĩnh
Thúy
lộ thiên biên nhất dạng sơn
(Phổ
Khuyết Sắc Thân)
[9]
(53) Tứ sơ tiễu bích vạn thanh tùng
Liễu
ngộ đô vô vạn vật không
Hỷ
đắc lư nhi gtam cước tại
Mạch
ky đã sấn thượng phong cao
[10]
(54) Bách Trượng thiền sư nghe một tiếng hét của Mã Tổ
thiền sư, điếc đặc ba ngày.
[11]
(55) Phong đã tùng quan, nguyệt chiếu đình
Tâm
kỳ phong cảnh cộng thê thanh
Cá
trung tư vị vô nhân thức
Phó
dữ sơn tăng thưởng đáo minh