KHAI THỊ QUYỂN 2
Hòa thượng Tuyên Hóa
Ban Phiên
Dịch Việt Ngữ Trường Ðại Học Pháp Giới
Vạn Phật
Thánh Thành Talmage, California
Phần 8
71. ÐỨC
LỤC TỔ Ở ẨN NƠI NHÓM THỢ SĂN
Lúc Lục Tổ Huệ Năng
ở chùa Ðông Sơn tại Hoàng Mai thì Ngài được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền tâm
ấn. Ðức Ngũ Tổ dạy Ngài phải mau mau trở về Quảng Ðông mà giấu mình, làm
kẻ ẩn sĩ, không tranh giành với đời, đừng để lộ tông tích, cũng đừng mưu
cầu danh vọng. Vì nhân duyên đó nên Lục Tổ mới trốn đi; song, không phải
Ngũ Tổ dạy Ngài trốn lánh nơi sơn động đừng cho ai thấy. Ðó là điểm mà
mình cần phải phân biệt cho rõ ràng.
Ðức Lục Tổ trốn ở
chỗ nào? Ngài gặp chỗ nào thì ở chỗ đó, lẩn trốn trong nhóm thợ săn và ở
chung với họ hơn mười lăm năm. Ngài che giấu tông tích để tu hành và hòa
đồng với thế tục mà dụng công tu Ðạo. Không ai đoán nổi được Ngài chính là
kẻ đắc Pháp. Bấy giờ Ðức Lục Tổ còn chưa xuất gia, Ngài chỉ là một vị cư
sĩ.
Chúng ta là người tu
Ðạo, bất luận gặp trường hợp nào mình cũng phải "thao quang hối tích,"
nghĩa là che đậy công phu tu hành của mình, không nên để lộ liễu chân
tướng. Như vậy thì mới có thể tu hành được. Ngược lại thì rất khó mà tu
hành.
Các vị không thể đi
đến chỗ nào cũng tự quảng cáo là mình có công phu như thế nọ thế kia, là
mình đã tham Thiền bao nhiêu năm như vậy như kia. Chạy hết chỗ này qua chỗ
khác rêu rao về sự tu hành của mình thì không phải là hành vi của kẻ xuất
gia, của người tu Ðạo!
Các vị phải hết sức
chân thật mà tu hành, không được tự quảng cáo cho mình, muốn người ta phải
ngẩng đầu ngước lên nhìn mình kính nể; bởi vì đó là điều hết sức sai lầm,
làm mất tư cách của người xuất gia! Tục ngữ có câu:
"Hữu xạ tự nhiên
hương,
Hà nhu đại phong
dương?"
Nghĩa là:
"Có xạ hương thì
tự nhiên có mùi thơm,
Cần gì đợi có gió
lớn thổi mới thơm?"
72.
PHÁ BỎ TRI KIẾN NHÂN NGÃ, CHIA RẼ PHẬT GIÁO
Hiện tại tôi cảm
thấy nhiều chuyện tôi làm khi xưa sai lầm rất nhiều. Thế nào là những
chuyện sai lầm? Phật Giáo đề xướng "vô ngã" nhưng tôi lại thường có cái
"ngã"; bởi vì có cái "ngã" cho nên không biết đến người khác. Căn bản là
phải "quên mình, quên người" mới đúng; song, tôi thì lại "nhớ mình, quên
người"! Do vì quên bẵng người khác nên không biết được họ đã làm rất nhiều
việc cho đạo Phật; đó là một điều sai lầm khiến tôi áy náy vô cùng.
Hiện tại, Phật Giáo
Tây phương bắt đầu phát triển, các vị phải đồng tâm nỗ lực, đoàn kết nhất
trí ủng hộ Phật giáo, đồng lòng hiệp sức xiển dương Phật Giáo. Mình không
nên bài bác lẫn nhau, phân tông chia phái, bênh chùa mình, chê chùa khác;
càng không nên phân chia màu da, quốc tịch. Bất luận là Ðại Thừa hay Tiểu
Thừa, tất cả nên cùng nhau đoàn kết lại, chân thật tu hành để Phật Giáo
càng ngày càng phát triển!
Các vị phải đem cái
"ngã" dẹp đi, coi người và mình đồng một thể, phải tự mình làm gương cho
kẻ khác, như vậy thì tiền đồ Phật Giáo mới trở nên xán lạn đặng. Cứ bước
từng bước như vậy mà cảm hóa người khác; đừng dùng thế lực để uy hiếp mà
phải dùng đạo đức để khiến người ta kính phục. Không ra oai, dọa nạt cho
người ta sợ; càng không nên cống cao ngã mạn, tự cao tự đại, cho rằng mình
giỏi hơn mọi người. Vì làm như vậy tức là vẫn còn ngã kiến, ngã chấp, ngã
mạn, ngã tướng; những thứ đó nếu chưa trừ diệt thì sẽ là chướng ngại trên
đường Ðạo, khiến Phật Giáo phải suy yếu dần dần và mình sẽ có tội với
Phật.
Các vị phải lấy sự
phục hưng Phật Giáo làm trách nhiệm của mình, không sợ gian khổ, không sợ
khó khăn. Hãy vì Phật Giáo mà nỗ lực, tình nguyện hiến thân cho Ðạo mà
chẳng có ý mưu đồ, tính toán. Nếu ai cũng được như vậy thì Phật Giáo làm
sao không có ngày phục hưng được? Chúng ta phải giữ gìn tôn chỉ: "Lỗi của
kẻ khác là lỗi của chính mình." Phải có được tư tưởng như vậy thì mới
không sinh ra tâm phân biệt, chia rẽ, thì mới không có cái nhìn sai lệch.
Tôi thường nói rằng:
"Chân nhận tự kỷ
thác,
Mạc luận tha nhân
phi.
Tha phi tức ngã
phi,
Ðồng thể danh Ðại
bi."
Nghĩa là:
"Nhận thật rằng
mình sai,
Ðừng bàn tới lỗi
người.
Lỗi người là lỗi
ta,
Ðồng thể mới Ðại
bi."
Làm được như vậy thì
nhất định khắp nơi đều hòa bình, tuyệt đối chẳng có tâm tranh chấp; bởi:
"Sự sự đô hảo
khứ,
Tỳ khí nan hóa
liễu.
Chân năng bất
sinh khí,
Tựu thị vô giá
bảo.
Tái nhược bất oán
nhân,
Sự sự đô năng
hảo.
Phiền não vĩnh
bất sinh,
Oan nghiệt na lý
trảo?
Thường tiều nhân
bất đối,
Tự kỷ khổ vị
liễu!"
Dịch là:
"Chuyện gì cũng
êm xuôi,
Tính nóng là khó
nguội.
Nếu thật chẳng
nổi nóng,
Chính đó, báu vô
ngần.
Nếu lại không oán
người,
Mọi việc sẽ êm
xuôi.
Vĩnh viễn không
lo phiền,
Oan nghiệt sao
truy đuổi?
Cứ lén nhìn lỗi
người,
Khổ mình vẫn chưa
nguôi!"
Hồi xưa tôi chỉ thấy
cái sai của người khác nên tôi rất đau khổ. Nay thì tôi coi mọi người đều
đúng, cho nên tôi rất thoải mái. Câu "khẩu đầu thiền" của tôi là: "Mọi sự
đều O.K.!" Như vậy, tất cả mọi chuyện sẽ được nhiều lợi ích, may mắn và
thông suốt.
73.
NGƯỜI TU ÐẠO
CẦN VƯỢT QUA KHẢO NGHIỆM
(Vạn Phật Thành ngày
25 tháng 10 năm 1983)
Kẻ học Phật Pháp
nhất định phải diệt sạch tâm ích kỷ, tự lợi, đừng để bị tổn hại đến định
lực của mình, mà phải chuyển thành tâm "vì Pháp quên mình," chỉ cần được
nghe Phật Pháp thì dù phải bố thí thân thể, tánh mạng cũng không mảy may
nuối tiếc hay hối hận. Các vị phải biết rằng:
"Ðạo cao nhất
xích,
Ma cao nhất
trượng.
Ðạo cao nhất
trượng,
Ma tại đầu
thượng."
Nghĩa là:
"Ðạo cao một
gang,
Ma cao một tầm.
Ðạo cao một tầm,
Ma trên đầu ta."
Các vị càng muốn
dụng công tu hành thì càng chịu nhiều khảo nghiệm để coi thử các vị có
nhận thức được hay không. Người muốn tu Ðạo nhất định trước hết phải trừ
lòng tham, chẳng còn lòng sân, và không có phan duyên.
Không phan duyên nói
chung là không dùng thủ đoạn để thu nhận tiền bạc hay đồ vật của kẻ khác.
Các vị nhất định phải trừ sạch lòng tham lam, sân giận, và ngu si; bởi vì
nếu còn ba thứ độc này thì còn sinh ra đủ thứ phiền não!
Mỗi người không ai
biết được nghiệp chướng của chính mình, nhưng khi bắt đầu chân chính tu
hành thì thường sinh ra đủ thứ ma chướng; đó là vì:
"Yếu học hảo, oan
nghiệt trảo,
Yếu thành Phật,
tiên thọ ma."
Nghĩa là:
"Muốn học giỏi,
oan nghiệt tìm,
Muốn thành Phật,
trước gặp ma."
Hiện tại (1979), một
vị "Tam bộ nhất bái" là Thầy Hằng Triều vừa mới xuất gia, lên đường đi "ba
bước một lạy." Vừa biết thế nào là dụng công hành Ðạo, phản bổn hoàn
nguyên, thì bỗng nhiên mẹ của Thầy sinh bịnh, phải vào nhà thương giải
phẫu. Chuyện giải phẫu không phải là ngặt nghèo, nhưng khiến tâm Thầy nổi
lên đủ thứ vọng tưởng, nên lạy Phật mà trở thành lạy vọng tưởng! Thật là
một sự thử thách ghê gớm. Nếu tâm không vững thì sẽ bị cảnh giới làm lay
chuyển. Song, tuy bên trong thì tâm động nhưng bên ngoài thì thân vẫn lễ
lạy; và Thầy đã dùng ý chí kiên cường để khắc phục những vọng tưởng đó.
Các vị thử nghĩ coi,
tu hành không phải là chuyện dễ! Thầy Hằng Triều cảm thấy rằng đối với
những cảnh giới khác thì Thầy có thể giữ tâm không bị lay chuyển, song đối
với cảnh giới này (mẹ bị bệnh) thì Thầy có phần nào không giữ tâm cho vững
được. Tuy chịu không nổi nhưng Thầy vẫn tiếp tục cuộc hành trình "Ba bước
một lạy," tỏ ra không bị cảnh giới làm cho lay chuyển.
Các vị tu Ðạo cần
chú ý! Không thể khởi vọng tưởng được! Vọng tưởng là tảng đá cột chân
người tu hành; có vọng tưởng gì thì tự nhiên có cảnh giới ấy tới khảo
nghiệm. Cho nên tôi thường nói:
"Nhất thiết thị
khảo nghiệm,
Khán nhĩ trẫm ma
biện.
Ðối diện nhược
bất thức,
Tu tái tùng đầu
luyện."
Nghĩa là:
"Tất cả là thử
thách,
Coi bạn xử làm
sao.
Ðối mặt mà chẳng
biết,
Phải luyện lại từ
đầu."
Cũng giống như trai
không buông bỏ được vợ, gái không buông bỏ được chồng, con không buông bỏ
được cha mẹ, cha mẹ không buông bỏ được con cái; đó đều là những hoàn cảnh
để khảo nghiệm mình. Cũng chính vì chỗ không buông bỏ được đó mà mình
chẳng tu hành đặng. Khi cảnh giới đến thì mình không dễ gì vượt qua cửa ải
này được. Có câu rằng: Tu Ðạo như bà bách xích can, Hạ lai dung dị thượng
khứ nan. Nghĩa là: Tu Ðạo như trèo sào trăm thước, Tuột xuống dễ nhưng
trèo lên khó.
Các vị suy nghĩ coi
làm thế nào bây giờ? Nếu không tiến lên trước thì mình sẽ lùi lại phía
sau. Tiến lên trước thì sẽ thăng tiến dễ dàng, lùi về phía sau thì rất dễ
bị đọa lạc. Ði lên là con đường thiện, đi xuống là con đường ác; thật là:
"Nan! Nan! Nan!
Tu hành nhất tự
linh nhân hàn.
Tu tảo khởi, ưng
vãn miên,
Triều triều dạ dạ
bất đắc nhàn."
Nghĩa là:
"Khó! Khó! Khó!
"Tu hành" hai chữ
lạnh rét run.
Thức thật khuya,
dậy lại sớm,
Ðêm đêm ngày ngày
chẳng đặng nhàn!"
Các vị nói coi, khó
hay không khó?
74.
NGƯỜI TU ÐẠO CẦN
GIỮ GÌN THÂN TÂM
Người xuất gia tu
Ðạo lúc nào cũng cần giữ gìn thân tâm, không thể tùy tiện phóng dật, bê
bối! Ở trong đạo tràng tu hành một ngày mà không tiến bộ tức là đã thối
lui, cho nên nói rằng:
"Nhất nhật vô quá
khả cải, Nhất nhật vô công khả tạo!
Nghĩa là: "Một ngày
có lỗi mà không sửa là một ngày chẳng tạo thêm công đức! Người xuất gia
cần nghiêm giữ bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi:
"Hành như phong,
Tọa như chung,
Lập như tùng,
Ngọa như cung."
Nghiã là:
"Ði như gió
thoảng,
Ngồi như chuông
đồng,
Ðứng thẳng như
cây tùng,
Nằm như cung
giương ra."
Khi đi, thì phải
giống như làn gió thổi nhẹ đến nỗi mặt nước trên sông không dấy động; đừng
đi như cơn gió lốc vô cùng hung hãn làm cho mặt biển sóng dậy như cồn,
dâng cao trăm trượng. Khi ngồi, thì phải ngồi như chuông, hết sức vững
vàng; đừng ngồi giống như cái chuông đang lắc, hết lắc qua phải lại lắc
qua trái, không bao giờ ngừng cả. Khi đứng, đầu và thân phải cho thẳng và
nghiêm chỉnh, giống như cây tùng vậy. Cây tùng thì mọc thẳng, cao, đơn
độc, không dựa vào cái gì khác. Khi nằm, thì phải nằm ở thế "kiết tường,"
tức là hông bên mặt ở phía dưới, cũng giống như cây cung trong tư thế được
giương ra. Người xuất gia phải đặc biệt chú ý đến bốn oai nghi này.
Người tu hành không
nên bạ đâu nói đó, mà phải hết sức thận trọng, ôn tồn. Ðến chỗ nào thì
cũng phải làm gương cho kẻ khác, không thể cười đùa, nói càn nói bậy, vì
như thế tức là không tôn trọng quy củ của đạo tràng. Người khác thấy được
hành vi như vậy sẽ phê bình là những người xuất gia trong Vạn Phật Thành
không thông hiểu quy củ. Với thái độ như vậy thì làm sao tu Ðạo, làm sao
thành tựu được Ðạo nghiệp?
Ðừng nên vì một, hai
cá nhân chẳng giữ gìn quy củ mà khiến cho danh dự của Vạn Phật Thành bị
hoen ố, hủy hoại! Vạn Phật Thành là ngọn đèn sáng của Phật Giáo trên thế
giới, bởi vậy, mỗi người trong đại chúng, nhất cử nhất động, nhất ngôn
nhất hành, đều phải nên đặc biệt cẩn thận!
Người xuất gia tu
Ðạo lúc nào cũng phải tự kiềm chế chính mình, không nên nghĩ vẩn vơ, vọng
tưởng. Bất luận là vọng tưởng tốt hay vọng tưởng xấu, thảy đều phải quét
sạch đi, do đó có câu "nhất niệm bất sanh." Ðạt tới cảnh giới này thì mình
mới tương ưng với Ðạo được. Nếu có vọng tưởng vô ích, cho dù thân thanh
tịnh mà tâm huyên náo, thì dụng công tu Ðạo thế nào được? Làm sao mà thành
tựu được? Ðó thật là phí thời gian chứ nào phải tu Ðạo!
Kẻ chân chính tu
hành thì tuyệt đối không có vọng tưởng. Có vọng tưởng thì có chướng ngại.
Có chướng ngại thì không thể tiến bộ, rất dễ làm mình thối thất Ðạo tâm.
Tại Vạn Phật Thành,
bất luận là người xuất gia hay tại gia, nếu không có chuyện cần thì đừng
tới phòng ngủ của kẻ khác. Bởi vì bạn đến phòng tôi nói chuyện này chuyện
nọ, rồi tôi tới phòng bạn nói chuyện thị phi thế nọ thế kia, thì sẽ lãng
phí thời giờ, vô ích. Bạn không tu hành thì cũng được, nhưng bạn không thể
chướng ngại kẻ khác tu hành! Chướng ngại người tu hành thì tương lai sẽ bị
đọa địa ngục Vô Gián, vĩnh viễn chẳng thể khôi phục được thân người!
Ðã phát tâm tu Ðạo
thì mình cần phải giữ tâm chuyên nhất, đặc biệt tiếc nuối thời gian, cho
nên nói rằng: "Nhất thốn quang âm nhất thốn kim, Thốn kim nan mãi thốn
quang âm."(Một phút thời gian, một tấc vàng, Vàng sao mua đặng phút thời
gian?)
Lại nói rằng: "Thất
lạc thốn kim dung dị đắc, Quang âm quá khứ nan tái tầm." (Tấc vàng mất đi
dễ kiếm lại, Thời gian qua mất khó lòng tìm!)
Các vị cần phải nuối
tiếc thời gian! Phàm là người tu Ðạo thì phải tranh thủ thời gian, đừng để
lãng phí. Biết đâu trong một phút nào, một giây nào đó, các vị có thể có
cơ hội khai ngộ!
Ở Vạn Phật Thành,
trong lúc ăn cơm không được nói chuyện. Trước khi ăn, đại chúng niệm bài
tụng cúng dường có câu: "Tán tâm tạp thoại, Tín thí nan tiêu." Nghĩa là
nếu tâm tán loạn, nói tạp nhạp, thì sẽ khiến cho đồ cúng dường của thí chủ
khó tiêu hóa đặng. Tuy niệm như vậy nhưng tại sao mình không giữ quy củ?
Người ta nói rằng: "Vô quy củ bất thành phương viên." (Không có quy củ thì
chẳng thành nề nếp được.)
Không giữ quy củ thì
làm sao có trí huệ? Làm sao khai ngộ được? Cho nên Ðức Khổng Tử từng nói
rằng: "Thực bất ngôn, Tẩm bất ngữ." (Ăn thì không nói, Ngủ thì không mớ.)
Ở trong Trai Ðường,
khi ăn không nên nói năng ồn ào, chỉ nên chăm chú ăn; như thế thì không
những hợp với quy củ mà còn hợp vệ sinh nữa. Vì ăn từ từ, nhai kỹ lưỡng
thì dễ tiêu hóa, có lợi cho sức khoẻ!
75.
KHÔNG TU GIỚI, ÐỊNH THÌ CHĂNG SINH TRÍ HUỆ
(Vạn Phật Thành ngày
17 tháng 10 năm 1983)
Không tu Giới mà
muốn được Trí Huệ thì thật vô lý. Tu Giới thì lời nói phải đi đôi với việc
làm, việc làm theo sát với lời nói, lúc nào cũng nghiêm giữ quy luật,
không làm điều gì ra ngoài khuôn phép. Giới là sợi dây dọi, là cây thước
đo của người xuất gia.
Tại sao có nhiều quy
luật như vậy? Tại vì người tại gia không giữ quy củ, nên nếu xuất gia thì
cần phải có pháp độ, quy tắc. Không giữ Giới thì đương nhiên sẽ không có
được Ðịnh lực. Giới, Ðịnh không viên mãn thì tuyệt nhiên chẳng phát chân
chính Trí Huệ. Nếu có thì cũng là một loại Thế Trí Biện Thông gọi là "tiểu
thông minh," chỉ khiến cho mình đi vào con đường khúc khuỷu, chật hẹp. Cái
thông minh láu lỉnh đó không thể gọi là chân chính trí huệ; đối với Ðại
Trí Huệ, thì đó chỉ là thứ thông minh xảo trá của loài quỷ!
Chẳng có mảy may
hiểu biết sai lầm hay tà kiến thì mới là chân chính trí huệ. Nếu là người
thật có trí huệ thì chuyện gì cũng không sợ bị thua thiệt, bất cứ chuyện
gì chỉ nhìn qua là thấu suốt ngay.
Việc mà kẻ phàm phu
không làm nổi chính là "đoạn dục, khử ái," cắt đứt ái và dục. Tại sao họ
không làm nổi? Là vì họ không có chân chính trí huệ nên bị vô minh, ngu si
chi phối. Nếu mình có chân chính trí huệ thì mọi sự đều được giải quyết
một cách tự nhiên, tốt đẹp.
76.
CHA MẸ LÀ TẤM GƯƠNG
CHO CON CÁI
Thế giới tốt hay xấu
là do gia đình mà ra. Gia đình giáo dục có nề nếp thì tương lai con cái sẽ
xán lạn; còn gia đình giáo dục không có nề nếp thì tương lai con cái sẽ
đen tối. Tuy không thể luận chi tiết nhưng đại khái thì thật trạng không
có sai lệch bao nhiêu; cho nên, kẻ làm cha mẹ phải cẩn thận trong mọi hành
động, mọi việc làm, không thể tùy tiện muốn làm gì cũng được.
Cha mẹ nếu không tự
kiểm nghiệm hành vi thì rất dễ ảnh hưởng con cái, khiến con cái hư hỏng.
Con cái không được dạy dỗ thì tương lai sẽ trở thành những phần tử xấu của
xã hội, của quốc gia. Vì thế, cha mẹ phải chịu trách nhiệm về giáo dục
bằng cách "dĩ thân tác tắc," tự làm gương cho con mình. Mỗi một hành động
đều phải hết sức quang minh lỗi lạc, phải quên mình vì người và phải có
lòng bi mẫn đối với người khác. Con cái thấy tấm gương tốt như vậy thì tự
nhiên sẽ trở thành những công dân ưu tú, và tương lai sẽ giúp an định xã
hội, điều khiển đất nước.
Ðời nay, những kẻ
thiếu hiểu biết đã làm những việc thật đáng phải kinh ngạc. Họ dụ dỗ những
thanh niên nhẹ dạ vào đường sa đọa mà những thanh niên ấy chẳng hề hay
biết, còn tự cho là mình làm chuyện đúng đắn. Nên có câu:
"Nhất thất túc
thành thiên cổ hận,
Tái hồi đầu dĩ
bách niên thân."
Dịch là:
"Ði sai một bước,
ôm hận ngàn thu,
Hối lỗi quay về,
trăm tuổi đã qua!"
Phong khí xã hội như
vậy thật là xấu xa đến cực điểm. Nếu cha mẹ mà ty tiện, hạ lưu, thì con
cái cũng thành hạ lưu, ty tiện. Phàm là kẻ tu Ðạo, học Phật, thì không nên
a dua với kẻ xấu, mà phải giữ thân cho thanh bạch, phải học tập tác phong
của bậc chính nhân quân tử, hầu cải biến phong khí của xã hội đương thời.
Các vị tuyệt đối phải biết an phận thủ thường, không tham gia vào những tổ
chức bất lương, cũng không tán thành những chuyện hưởng thụ dục lạc không
chính đáng. Như vậy thì mới có thể ảnh hưởng được kẻ khác cải tà quy
chánh.
77.
NỀN VĂN HÓA CỐ HỮU
CỦA TRUNG QUỐC
(Vạn Phật Thành ngày
5 tháng 11 năm 1983)
Ở Trung Hoa, làm câu
đối thì âm, vận, bằng, trắc, phải cho đúng. Song hiện nay nếu dạy môn học
này cho người Tây phương thì đa số chẳng hiểu rõ âm vận. Nay các vị bắt
đầu học, tôi không có yêu cầu quá cao; tôi sẽ dạy cho các vị một phương
pháp tuần tự mà làm. Trước hết, phải tạo nền tảng cho thiệt vững, sau đó
chú ý tới vần bằng trắc cũng không muộn.
Ðối liễn là một môn
học không được truyền dạy nữa nên rất nhiều học sinh hiện giờ ở Trung Hoa
không biết làm, hoặc coi thường chuyện làm câu đối. Kỳ thật, môn học này
là biểu hiện trí huệ của nhân loại. Ðối liễn cũng là một bộ môn đặc sắc
cao độ của nền văn hóa Trung Hoa mà văn hóa Tây phương không thể nào sánh
bằngđược. Lý do là vì câu đối phải căn cứ theo triết lý âm dương, thiên
địa, càn khôn, nam nữ... diễn biến mà thành. Ðối liễn vừa tinh luyện, vừa
có ý nồng hậu phong phú, đồng thời lại có tác dụng khai tâm mở trí.
Trung Quốc bây giờ
bắt đầu chú ý trở lại chuyện làm câu đối. Ðời nhà Thanh có ông Kỷ Hiểu Lam
là người rất sành làm câu đối. Thời cận đại thì văn hóa trở thành Bạch
thoại (văn nói, đàm thoại), khiến Cổ văn bị lơ là. Nay các vị học môn Cổ
văn, có nhiều người làm câu đối sẽ không thuần thục lắm, hoặc không có vần
điệu lắm. Song, tôi sẽ sửa cho các vị, và vẫn giữ tối đa ý nghĩa cùng tư
tưởng của câu đối các vị làm ra. Các vị đừng coi thường môn học đối liễn
này bởi vì đó cũng là một cảnh giới vô cùng vô tận vậy.
78.
CHÚNG
SINH ÐÁNG THƯƠNG XÓT, KHÔNG BIẾT TỰ CỨU
(Vạn Phật Thành ngày
29 tháng 8 năm 1982)
Con người là một
phần của Phật, một phần linh tánh của Phật chớ không phải toàn thể. Ví như
Phật phóng hào quang từ một lỗ chân lông, thì trong hào quang đó biến hóa
ra vô lượng chúng sinh; hoặc nơi hơi thở của Ngài phóng hào quang, thì
cũng biến hóa ra vô lượng chúng sinh. Hào quang của Phật có thể biến hóa
ra chúng sinh, cho nên nói rằng: "Nhất thiết chúng sinh, Giai hữu Phật
tính, Giai kham tác Phật."
Là người, thường
trong mỗi hơi thở của mình cũng có vô số vô lượng vi sinh vật. Khi những
vi sinh vật trong hơi thở của mình hô hấp, chúng cũng biến hóa ra vô lượng
những chúng sinh khác. Cho nên, chúng sinh do Phật biến hóa ra khi tu hành
sẽ thành Phật; còn chúng sinh do chúng sinh biến hóa ra, thì tuy khác đôi
chút, nhưng rồi cũng có ngày thành Phật.
Loài súc sinh cũng
có thể biến hóa ra những loài chúng sinh khác bởi vì chúng cũng có hô hấp.
Trong mỗi hơi thở của chúng ẩn núp không biết bao nhiêu là vi sinh vật, mà
khi được trợ duyên thì chúng sẽ biến hóa thành các loài chúng sinh khác;
nếu không có trợ duyên thì chẳng biến hóa đặng.
Trong thân ta có vô
lượng loại vi trùng, mỗi vi trùng là một chúng sinh. Trong mỗi con vi
trùng lại có vô lượng con siêu vi trùng khác nữa; thật là: "Sinh sinh bất
dĩ, Hóa hóa vô cùng!"
Lấy đó mà suy gẫm,
chúng sinh lớn có thể biến hóa lớn, chúng sinh nhỏ có thể biến hóa nhỏ,
mỗi thứ mỗi kiểu. Vì vậy, chúng sinh trong thế giới thì có vô lượng vô
biên, càng sinh sôi nảy nở càng nhiều. Sinh sôi nảy nở cho đến khi thế
giới không dung chứa được nữa, thì thế giới sẽ bị hủy diệt. Song, thế giới
này bị hủy diệt thì có thế giới khác được tạo thành. Luôn luôn có chúng
sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo; rồi ở trong vòng điên đảo, hồ đồ như
vậy.
Chúng sinh không
muốn giác ngộ, lại còn cho là mình thanh tịnh, sáng suốt; cho nên sách
Trung Dung nói: "Nhân giai viết dư tri, khu nhi nạp chư cổ quắc hãm tỉnh
chi trung, nhi mạc chi tri tỮ dã. Nghĩa là: "Con người tự cho mình có trí
huệ, chừng khi bị đẩy rớt xuống hầm rồi, thì chàng ta cũng không biết là
cần phải thoát ra!" Như vậy thì thử hỏi trí huệ này có phải là ngu si
chăng?
Chúng sinh cần ăn để
sống. Như con cá heo được tập luyện nên biết nhảy, biết múa, biết nghe
lời; đó là vì nó muốn ăn! Cho ăn thì nó làm theo lời mình, biểu gì làm đó
ngay. Bởi vì tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, năm thứ dục
chi phối, nên mình điên đảo mê mờ, không biết quay đầu về nhà. Rồi trên
con đường nguy hiểm như vậy mình càng chạy càng xa nhà, càng xa thì càng
lạc lối, lênh đênh trong biển sinh tử mà không biết quay đầu về bến. Thật
đáng thương xót lắm thay!
Chúng sinh nếu không
mê tiền thì cũng mê sắc; chính hai món dục này làm cho ai nấy đều quay
cuồng, không thoát ra nổi. Nếu không thế thì lại say mê ăn uống, danh
vọng, hoặc ngủ nghỉ. Ðó là những vọng chấp của chúng sinh. Bởi có vọng
chấp nên không phá trừ được vòng điên đảo, hồ đồ. Người nào thấu rõ được
sự mê đắm rồi buông bỏ đi, thì có thể được tự tại!
79.
XUẤT GIA LÀ XUẤT CÁI GÌ?
(Vạn Phật Thành ngày
1 tháng 9 năm 1982)
Ðức Phật tuy là một
vị Thái tử nước Ấn Ðộ nhưng đối với phú quý thế gian Ngài lại sinh lòng
nhàm chán rất sâu đậm, nên Ngài muốn bỏ ngôi vua để xuất gia tu Ðạo. Ngài
cũng muốn làm cho tất cả chúng sinh biết rằng tất cả mọi pháp của thế gian
đều là vọng tưởng.
Thế giới này do đâu
mà thành? Là do vọng tưởng của chúng sinh tạo thành, và trong tương lai
thì cũng sẽ do vọng tưởng của chúng sinh mà tiêu hoại; cho nên có câu: Như
thị nhân, như thị quả. (Hễ có nhân thì có quả.)
Ở trên thế gian, mọi
thứ đều là vô thường biến hoại. Bồ Tát nhàm chán pháp thế gian, Phật lại
càng xa lánh pháp thế gian hơn nữa. Ngài không sinh lòng nhiễm ô chấp
trước pháp đó. Ngài vĩnh viễn đoạn tuyệt lòng tham ái, dục vọng thế gian.
Ðiều mà người đời tham thì Phật không tham, điều người đời yêu thích thì
Phật không yêu thích, bởi vì Ngài không có tham ái cho nên Ngài không có
phiền não.
Phiền não mà chúng
ta có bây giờ là do đâu mà sinh ra? Là do tham với ái mà sinh ra! Nếu mình
không tham thì không có lòng ích kỷ, nếu không có lòng ích kỷ thì mình
không có phiền não.
Tại sao mình phải
tham? Tại vì mình bị dục niệm chi phối, khiến cho mình phát sinh ra lòng
tham ái. Nếu có lòng tham ái mà không thể nào thỏa mãn được thì sẽ sinh ra
phiền não; có phiền não thì có điên đảo; có điên đảo thì có ô nhiễm. Bây
giờ mình tu hạnh thanh tịnh tức là phải làm sao để diệt trừ tất cả mọi thứ
ô nhiễm.
Phật lúc nào cũng
tìm cách làm lợi ích cho chúng sinh. Lúc ở trong vương cung thì Phật không
tham trước mọi thứ vinh hoa phú quý; lúc xuất gia thì Ngài dẹp bỏ hết
những oai nghi của người thế tục, không cùng người khác đấu tranh biện
luận, cho nên Ngài đắc được Vô Tranh Tam Muội:
"Tranh thị thắng
phụ tâm,
Dữ Ðạo tương vi
bội,
Tiện sinh tứ
tướng tâm,
Như hà đắc Tam
Muội?"
Dịch là:
"Tranh là tâm hơn
thua,
Ði ngược lại với
Ðạo,
Khiến sanh ra bốn
tướng,
Làm sao được Tam
Muội?"
Phật an trụ nơi pháp
Không Tranh. Ngài hoàn thành hạnh nguyện đã lập khi xưa, đầy đủ vô lượng
công đức. Ngài dùng quang minh của Ðại Trí huệ để diệt trừ tất cả si mê
trên thế gian, phá tan tất cả những sự đen tối vô minh. Ngài là phước điền
vô thượng của chúng sinh ở thế gian, lúc nào cũng vì chúng sinh mà tán
thán công đức của mười phương ba đời chư Phật, khiến chúng sinh được trồng
phước, cầu huệ, và vun bồi tất cả thiện căn nơi Tam Bảo. Phật dùng con mắt
trí huệ thấy được tất cả đạo lý chân thật, rồi lại vì chúng sinh mà tán
thán công đức xuất gia.
"Xuất gia" là xuất
Tam Giới gia (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới), và cũng là xuất Thế tục
gia. "Thế tục gia" là nhà của người đời; ra khỏi nhà người đời rồi tức là
mình không còn quan niệm như người đời nữa.
"Xuất gia" cũng có
nghiã là xuất Phiền não gia. Chúng ta, mỗi người trên thế gian này, đều
đang ở trong cái nhà phiền não. Khi nóng giận thì mình cảm thấy rằng ăn
bất cứ của ngon vật lạ nào cũng đều không có mùi vị gì cả, cho nên khi
mình xuất gia là muốn xuất ra khỏi nhà phiền não.
"Xuất gia" còn có
nghĩa là xuất Vô minh gia. "Vô minh" tức là không có hiểu biết rõ ràng,
chuyện gì cũng không thấu suốt, làm chuyện gì cũng điên đảo cả. Do đó phải
ra khỏi cái nhà vô minh.
Xuất gia cũng do
nhiều động cơ khác nhau. Như ở Trung Hoa, có nhiều người vì lớn tuổi rồi
mà không có thân thích để nhờ cậy, cho nên họ xuất gia để về sau có người
săn sóc cho dễ dàng. Có kẻ thì vì hoàn cảnh bức bách nên xuất gia; hoặc là
vì phạm pháp, giết người nên muốn đổi danh đổi tánh, đổi mặt đổi mày, làm
người xuất gia để luật vua không tầm nã nữa. Có kẻ thì vì khó nuôi nên gia
đình quyết định đem cho nhà chùa. Ðó là ba loại người xuất gia, có tu hành
được hay không thì chưa biết; có thể họ tu được, mà cũng có thể họ chẳng
tu được!
Lại có kẻ chân chánh
vì vấn đề sinh tử, phát tâm Bồ đề, mà xuất gia. Hạng xuất gia như vậy nếu
họ không bao giờ thối tâm thì đúng là chân chánh tu hành. Họ vì đau khổ
nghĩ đến vấn đề sinh tử mà phát tâm đại Bồ đề, y chiếu theo lời Phật dạy
mà tu hành.
Cho nên xuất gia có
nhiều tâm trạng và hoàn cảnh khác nhau. Song, sau khi xuất gia rồi thì
đừng có phạm lỗi lầm mà phải trở nên thanh tịnh, xa lìa mọi tội lỗi, khôi
phục lại tâm thanh tịnh bản hữu của chính mình, vĩnh viễn ra khỏi nhà Tam
Giới, ra khỏi nhà Phiền não, ra khỏi nhà Vô minh, ra khỏi nhà Thế tục.
Có người hỏi: Tại
sao không có Phật đàn bà?
Trả lời: Không phải
là không có Phật đàn bà. Cũng có vậy. Trong Kinh Pháp Hoa có nói rất rõ
ràng rằng cô Long Nữ hiến ngọc xong thì lập tức thành Phật. Long Nữ là một
cô gái, đem ngọc châu hiến Phật, hiến xong rồi thì lập tức ngay đó thành
Phật. Như thế chứng minh rằng đàn bà cũng thành Phật vậy, song rất hiếm.
Còn vấn đề vì sao
làm người nam, vì sao làm người nữ, thì đó là do ưa thích mà ra. Hễ ai có
ý niệm thích làm con gái thì sẽ làm con gái, nếu có tư tưởng thích làm đàn
ông thì sau này sẽ làm đàn ông. Ðó là nghiệp báo mà tự mình tạo ra, tự
mình chịu quả, tùy theo nghiệp mà chuyển hóa. Song, cũng có người có khả
năng chi phối nghiệp quả của chính họ. Họ không bị cảnh giới xoay chuyển,
mà trái lại, họ có thể xoay chuyển càn khôn, làm cho nghiệp quả cải biến
và làm chủ được chính họ.
Nếu mình tùy theo
nghiệp thì mình không có năng lực khống chế nó. Nếu mình biết chuyển
nghiệp, tức là mình có năng lực khống chế nó. Tại sao Bồ Tát lại phát
nguyện? Là để khống chế giòng lưu chuyển của nghiệp. Các Ngài dùng đại
nguyện để làm trụ cột, do đó mới xoay chuyển được nghiệp. Cho nên nói rằng
các Ngài có thể chuyển nghiệp mà nghiệp không chuyển được các Ngài; các
Ngài có thể chuyển cảnh giới mà cảnh giới không chuyển được các Ngài; các
Ngài có thể chuyển quả báo mà quả báo không chuyển được các Ngài!
Thật ra, có thể
khống chế được nghiệp, song phải có trí huệ. Nếu mình chỉ là thứ si mê, vô
minh, chuyên làm chuyện điên đảo, thì không thể nào khống chế được nó.
Hỏi các vị rằng: "Vì
sao các vị muốn làm chuyện điên đảo?" Các vị đáp: "Không biết." Vì không
biết cho nên cứ chạy theo nghiệp!
Bởi vậy cho nên
không phải là đàn bà không có khả năng thành Phật, cũng không phải rằng
Phật là dương mà quỷ là âm. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng Phật là thuần
dương, quỷ là thuần âm, và con người là nửa dương nửa âm!
Không phải nam là
hoàn toàn dương và nữ là hoàn toàn âm đâu! Nếu quả thật người nam là hoàn
toàn dương thì chẳng cần kết hôn với người nữ làm gì, và nếu người nữ là
hoàn toàn âm thì cũng không cần kết hôn với người nam làm gì. Bởi vì sau
khi kết hôn rồi thì sẽ biến thành một nửa âm một nửa dương, không còn
thuần âm hay thuần dương nữa.
Tu hành là tu đến
chỗ vô lậu, tức là tới chỗ thuần dương. Nam là dương nhưng trong dương có
âm; nữ là âm nhưng trong âm có dương. Do đó, sau khi kết hôn thì có năng
lực sinh con đẻ cái là vì âm, dương kết hợp mới biến hóa được. Ðó là cảnh
giới tương đối.
Không phải rằng nam
là hoàn toàn dương hay nữ nhất định là hoàn toàn âm. Trong Kinh Dịch có
nói rằng: "Nhất âm nhất dương, vị chi Ðạo. Thiên âm thiên dương, vị chi
tật."
"Thiên" nghĩa là cực
đoan, hễ thiên âm hay thiên dương thì có bịnh tật, tức là sai lầm rồi.
Không có cực đoan thì gọi là Trung, không có biến cải thì gọi là Dung; đó
là đạo lý Trung Dung. Do đó, người nam đừng cho rằng mình là hoàn toàn
dương, vì nếu thế thì tại sao lại muốn kết hôn? Bởi người nam khi kết hôn
rồi thì trong dương có âm, và người nữ khi kết hôn rồi thì trong âm lại có
dương; đó là vấn đề âm dương trao đổi.
Bây giờ thế nào gọi
là "người"? "Người" chỉ là cái tên giả. Trước kia tôi đã từng nói nhiều
lần rằng lúc ban đầu chữ "người" được đặt ra để chỉ con người. Nếu lúc đầu
dùng chữ "chó," thì bây giờ mình đã gọi con người là "chó" rồi! Cho nên
dùng lâu thì thành thói quen, chữ "người" đó chỉ là một cái tên thôi.
Bây giờ đến câu
"Nhất âm nhất dương vi nhân," nghĩa là một âm một dương là người. Trong
dương có âm, trong âm có dương; trong mùa đông thì có ẩn tàng mùa hạ, cũng
như trong mùa hạ cũng có ẩn tàng mùa đông. Trong mùa đông, tới một lúc nào
đó sẽ sinh ra dương (đông chí); và trong mùa hạ, tới một lúc nào đó sẽ
sinh ra âm (hạ chí). Một năm là sự biến hóa của âm, dương. Âm mà tới cực
điểm thì thành dương, dương mà tới cực điểm thì trở thành âm. Vì vậy, con
người sinh ra là dương, chết đi là âm, cũng đồng một đạo lý đó.
Chúng ta gọi mình là
"con người"; nhưng lúc ban đầu nếu gọi con người là "con gà," thì chữ "gà"
đó gọi quen rồi sẽ không ai cho là kỳ quái nữa. Cũng như đặt tên một đứa
bé là "chó con"; khi nó lớn lên rồi, nếu ai gọi "chó con" thì nó biết đó
là gọi tên nó. Ðó chỉ là một cái tên, và chỉ là cái tên giả thôi. Người họ
Trương thì nói mình là họ Trương. Hỏi anh ta vì sao họ là Trương; thì đáp
rằng bởi vì cha họ là Trương. Hỏi ông nội họ là gì; thì đáp rằng cũng họ
Trương. Lại hỏi ông cố, ông tằng, ông tổ họ là gì, ở đâu lại; truy cho tận
cùng thì anh chàng đó cũng không biết được tổ tiên của mình là họ gì nữa,
bởi vì chỉ là cái tên giả mà thôi!
Do đó, đừng nên chấp
trước, đừng nói rằng tôi như thế nọ hoặc tôi như thế kia. Bởi vì nói gì
rồi cũng có cái "tôi" trong đó, tức là có lòng ích kỷ. Ðã có ích kỷ thì có
phiền não. Nếu như không có cái "tôi" thì không có lòng ích kỷ, thế thì
còn có gì phiền hà đâu?
Con người vì sao mà
nóng giận? Là vì cho rằng người khác đối với mình không tốt, khinh mình,
xử tệ với mình, rồi sinh ra nóng giận. Nhưng nếu họ làm gì có lợi cho mình
thì mình lại vui vẻ, sung sướng. Ðó đều là bị vô minh làm cho mình động
tâm vậy!
80.
ĂN THỊT LÀ NGUỒN
GỐC CỦA TAI KIẾP!
(Vạn Phật Thành ngày
19 tháng 9 năm 1982)
Phật Giáo có ba thời
đại là Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp. Ðó là do nghiệp báo của chúng
sinh chiêu cảm mà ra.
Ở thời Chánh Pháp,
con người được phước báo rất lớn, rất dầy, và trí huệ cũng rất cao. Ở mặt
đất thì nước giống như sữa vậy, rất bổ dưỡng, và nơi nào nước cũng rất
tốt. Tới thời Tượng Pháp thì nước uống mất đi chất bổ dưỡng. Hiện tại thời
Mạt Pháp thì nước không còn chất bổ nữa, trái lại trộn lẫn đủ thứ chất
độc. Có người nói: "Chúng tôi uống nước đã có bỏ thuốc khử độc rồi." Tuy
vậy nước vẫn còn độc, không cách gì trừ hết được.
Trên thế giới, hiện
giờ chất độc càng ngày càng gia tăng, khiến cho không khí bị ô nhiễm. Vì
người ta dùng chất độc quá nhiều nên độc tố thấm dần vào thân người, rồi
trải qua sự biến hóa trong cơ thể, khi mình thở ra thì chất độc đó lại trở
ngược về trong không khí. Hiện tại trong hư không đầy dẫy độc khí.
Chúng ta biết bom
nguyên tử, bom khinh khí là thứ tối nguy hiểm, nhưng những thứ đó còn thua
độc khí do miệng mình phóng ra. Bởi vậy thế giới này càng ngày càng trở
nên vô cùng nguy hiểm. Vì bị độc khí đó xông ướp nên mỗi ngày con người
giống như "sống trong cơn say, chết trong giấc mộng" vậy. Ăn uống, cờ bạc,
rượu chè, lừa bịp, trộm cắp, không có chuyện xấu xa gì mà họ không biết
làm. Ðó là tình trạng độc hại vô cùng, hết sức nguy hiểm vậy.
Bây giờ muốn thế
giới tiêu hết chất độc thì phải có biện pháp gì? Tức là phải ăn chay, đừng
ăn thịt! Ăn chay thì chất độc sẽ giảm bớt đi. Nếu muốn thế giới này hoàn
toàn hết độc thì mọi người đừng ăn thịt, chỉ ăn chay. Bởi vì trong thịt có
chất độc, mà chất độc này lại rất vi tế, nên dù ăn vào mình cũng không
nhận biết được là có chất độc. Song, từ từ mình sẽ trúng phải chất độc của
thịt, lợi hại đến độ không có thứ thuốc nào có thể cứu nổi, bởi vì trong
thịt chất chứa sự oán hận rất sâu dày. Cho nên người xưa nói rằng:
"Thiên bách niên
lai oản lý canh,
Oán thâm tự hải
hận nan bình.
Dục tri thế
thượng đao binh kiếp,
Thả thính đồ môn
dạ bán thanh."
Dịch là:
"Ngàn năm oán hận
ngập bát canh,
Oán sâu như biển,
hận khó tan.
Muốn biết vì sao
có chiến tranh,
Hãy nghe lò thịt,
lúc nửa đêm!"
Miếng thịt trong tô
canh tuy nhỏ, nhưng thật sự trong đó chất chứa sự thù hằn sâu như biển cả
vậy. Người đập lộn với người, nhà này đánh nhau với nhà kia, nước này xâu
xé nước kia, địa cầu này tiêu hủy địa cầu khác; gây nên chiến tranh như
vậy đều là do ăn thịt mà ra. Tất cả những tai nạn đao binh, thủy hỏa, tật
dịch lưu hành, đều là do ăn thịt mà thành. Nếu muốn hiểu rõ đạo lý thì lúc
nửa đêm hãy tới nhà người đồ tể mà lắng nghe: lắng nghe tiếng rống đau đớn
của con heo bị thọc huyết, lắng nghe tiếng khóc uất ức của con trâu hay
con dê bị giết.
Tóm lại, con vật nào
bị giết thì con đó khóc la rên siết. Lúc khóc la chính là lúc mà nó phóng
độc khí ra. Một mặt phóng độc khí, một mặt khóc than nói rằng: "Tốt lắm!
Bây giờ tụi bây giết tao, trong tương lai tao sẽ giết lại tụi bây. Nợ này
chẳng bao giờ phủi sạch được! Tụi bây giết tao, tao sẽ giết lại tụi bây,
tụi bây ăn thịt tao, tao sẽ ăn thịt lại tụi bây!" Do lòng oán hờn, thù hận
chất chứa như vậy nên mới tạo thành đủ thứ tai họa.
Nếu con người ăn
chay trường thì những oan nghiệt đó sẽ tiêu trừ, bao nhiêu đao gươm sẽ trở
thành nhung gấm, sự hung hiểm sẽ trở thành kiết tường. Vì thế, mình phải
tìm cách cứu vãn thời Mạt Pháp sắp tới đây!
DIỄN GIẢI
(1) Ðây là trạng
thái bất động, không dấy khởi vọng niệm của bản tánh (như hồ nước phẳng
lặng, không gợn sóng). Song, nơi bản tánh bất động ấy luôn bừng hiện trí
huệ chiếu soi, quán sát mọi sự (như sự phản chiếu của mặt nước).
(2) Tam giới: Dục
giới, Sắc giới, Vô sắc giới là ba cõi phàm của những chúng sinh chưa thành
Thánh cư ngụ.
(3) Tám tướng thành
Ðạo: 1. _ Phật ở trời Ðâu Suất giáng sanh. 2._ Trụ thai. 3._ Xuất thai.
4._ Xuất gia. 5._ Hàng phục ma quân. 6._ Thành đạo. 7._ Chuyển Pháp luân.
8._ Nhập Niết-Bàn.
(4) 5 vị đệ tử đầu
tiên của Phật là: 1._ Kiều Trần Như, 2._ Mã Thắng, 3._ Bạt Ðề, 4._ Thập
Lực Ca Diếp, 5._ Ma Ha Nam Câu Lợi.
(5) Thủy Quả Hòa
Thượng là tên gọi thân mật của Hòa Thượng Quảng Khâm (1892 - 1986). Ngài
là vị Thánh Tăng của thế kỷ nầy. Bình sanh sống đạm bạc, khổ hạnh, thường
chỉ dùng trái cây độ nhật. Ngài thường nhập định, song lấy pháp niệm Phật
giáo hóa chúng sinh. Trước khi nhập tịch mấy ngày, Ngài triệu tập đệ tử để
phân phú, giải đáp thắc mắc. Giây phút cuối cùng khi lâm chung, Ngài vẫn
an nhiên sáng suốt, thốt ra lời bất hủ: "không có đến, cũng chẳng có đi"
(bất lai diệc bất khứ) rồi mới nhắm mắt nhập tịch.
(6) Hận: lòng tức
giận, thù hằn; cũng giống như ngọn lửa cháy phừng phực trong lòng.
-- Oán: lòng oán
ghét. Khi ghét ai thì mình không muốn nói chuyện với y, luôn nghĩ xấu về
y, luôn tìm lỗi lầm của y, và sẵn sàng trách móc khi có cơ hội.
--Não: rầu rĩ, tự
đau khổ với lòng; khiến cách suy nghĩ và nói năng đầy dẫy tiêu cực, âm
khí, không ai muốn gần gũi.
--Nộ: lòng giận dữ
hiển hiện ra ngoài mặt, như ngọn lửa cháy rừng, không có gì có thể dập tắt
nổi.
--Phiền: lòng đầy
phiền toái, nóng bức, thúc giục, không yên ổn, cứ muốn làm điều nghịch lại
với chân lý.
Hết Quyển 2
(Vạn Phật Thánh Thành)