KHAI THỊ QUYỂN 2
Hòa thượng Tuyên Hóa
Ban Phiên
Dịch Việt Ngữ Trường Ðại Học Pháp Giới
Vạn Phật
Thánh Thành Talmage, California
Phần 7
61.
QUÂN TỬ BIẾT CÁCH TẠO VẬN MẠNG
(Vạn Phật Thành ngày
1 tháng 10 năm 1983)
Rất nhiều sự việc
trên thế gian mình cho rằng tốt, nhưng bên trong thực sự có nhiều điều
chẳng tốt phát sinh. Hiện tại bạn cho là hết sức vui sướng, nhưng tương
lai có thể làm cho bạn thống khổ. Cho nên nếu muốn tránh sự phiền não
không gì bằng giữ Trung Ðạo. Trung Ðạo có nghĩa là không nhiều quá mà cũng
không ít quá, không có phiền não mà cũng không có vui thú. Sách Trung Dung
có nói rằng:
"Hỷ nộ ai lạc chi vị
phát, vị chi Trung;
Phát nhi giai trung
tiết,vị chi Hòa."
Nghiã là:
"Vui, giận, buồn,
sướng khi chưa sinh thì gọi là Trung;
Khi phát ra rồi mà
giữ ở mức trung thì gọi là Hòa".
Nếu hiểu đạo lý này
thì bất luận làm gì mình cũng không thái quá, cũng không mê muội, không
điên đảo. Cần phải biết rõ ràng đen là đen, trắng là trắng, thiện là
thiện, ác là ác, phân chiết minh liễu thì mới không lẫn lộn thiện với ác.
Những điều mà chúng ta gặp trong kiếp này đều là do nghiệp lực kiếp trước
tạo thành. Hiện tại muốn cải biến vận mệnh của mình thì cần phải tạo nhiều
công đức. Có câu rằng:
"Quân tử hữu tạo
mệnh chi học.
Mệnh do ngã lập,
Phước tự kỷ cầu.
Họa, phước vô môn,
Duy nhân tự chiêu."
Dịch là:
"Người quân tử biết
cách tạo vận mạng.
Mạng do ta làm,
Phước tự ta cầu.
Họa, phước không có
cửa,
Chỉ do ta chuốc
lấy."
Người học Phật nhất
định phải nhận thức rõ ràng định luật nhân quả báo ứng; không thể tùy tiện
tạo ác nghiệp, trồng ác nhân, cũng không được làm sai đạo lý nhân quả. Vì
thế phải mười phần cẩn thận, nếu chờ đến lúc thọ quả báo thì hối hận đã
muộn rồi!
62.
SỰ BẤT ÐỒNG GIỮA PHẬT VỚI MA
(Vạn Phật Thành ngày
9 tháng 10 năm 1983)
Phật thì không có
tâm sân hận, ma thì chắc chắn có tâm sân hận; đó là chỗ bất đồng.
Phật thành Phật là
do ma giúp mà thành. Bởi vì khi Ngài ngồi dưới cây Bồ Ðề sắp sửa thành Ðạo
thì ma vương sinh lòng giận dữ, bèn phái ma binh, ma nữ lại uy hiếp, dẫn
dụ Ngài. Song Phật không động tâm, trái lại, Ngài dùng Ðịnh lực khắc phục
ma lực, rồi giác ngộ thành Phật. Do đó, Phật thì không có lòng giận dữ oán
ghét gì ma cả. Ma thành ma là bởi chúng có lòng dạ tranh đấu cang cường;
cho nên có câu rằng:
"Tranh thị thắng phụ
tâm,
Dữ Ðạo tương vi bội,
Tiện sinh tứ tướng
tâm,
Do hà đắc Tam Muội?"
Dịch là:
"Tranh là tâm hơn
thua,
Ði ngược lại với
Ðạo,
Khiến sinh ra bốn
tướng,
Làm sao được Tam
Muội?"
Ma tranh không được
hạng nhất thì sinh ra lòng giận dữ, lòng ganh tị, lòng chướng ngại; cho
nên người nào có tư tưởng, hành vi như vậy thì đều là ma, vĩnh viễn khó
thành Phật được. Thần thông của ma so với thần thông của Phật cũng chẳng
kém gì; song, thần thông của Phật là chánh phái, còn thần thông của ma là
tà phái. Vì "tà không thắng chánh" nên ma rốt cuộc không thể thắng Phật,
do đó nó đành phải cam tâm cúi lạy, dập đầu quy y Phật. Song Phật thì từ
bi thương xót chúng sinh, tuyệt đối Ngài không đối đầu với ma mà chỉ dùng
đạo đức để cảm hóa, làm chúng cảm phục.
Trong Tám Tướng
Thành Ðạo, có tướng gọi là "Hàng Ma"; thực sự gọi là "Cảm Hóa Ma" thì có
lẽ đúng hơn bởi vì Phật không dùng phương pháp, thủ đoạn gì để áp bức,
cưỡng bách, hàng phục ma cả. Nếu như Ngài mà "hàng phục" ma thì tức là
Ngài có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả; mà có bốn
tướng này thì chẳng thành Phật đặng!
Vậy Phật làm sao
khiến Ma vương phải đầu hàng? Ngài dùng Từ, Bi, Hỷ, Xả, bốn tâm vô lượng.
Hễ Ma vương lại để hại Ngài, Ngài dùng tâm từ bi mà đối đãi, dùng đức hạnh
mà cảm hóa. Phật biết được lý "tiền nhân hậu quả"; Ngài biết sở dĩ ma đến
quấy phá là vì trong quá khứ Ngài đã từng tạo oán cừu, nên bây giờ Ngài
không tranh cãi, mà chỉ an tâm chấp nhận chúng ma đến quấy nhiễu.
Ma làm sao trở thành
ma được? Do vì có hận, oán, não, nộ, phiền (6) năm thứ độc này mà ra! Năm
độc khí này giúp cho chúng thành ma, vì vậy ma lúc nào cũng tạo phiền não
cho người khác, nhất là đối với người tu Ðạo. Chúng thấy kẻ tu hành như là
cái gai trong mắt, nhất định phải tìm cách phá hoại Ðạo nghiệp của người
xuất gia. Khi có người xuất gia, tu hành thành Phật, thì chúng ma thiếu đi
một kẻ quyến thuộc, do đó chúng tận lực phá hoại.
Phàm là người xuất
gia thì phải hết sức cẩn thận đề phòng, đừng để trúng kế của ma mà rớt vào
bẫy, vĩnh viễn khó thoát thân được. Nên kẻ tham Thiền phải nhận rõ cảnh
giới, nếu không sẽ bị ma khống chế. "Tẩu hỏa nhập ma" (hỏa hầu tiêu tán,
ma liền xâm nhập) là điều mười phần nguy hiểm!
Sao gọi là Phật? Sao
gọi là ma?
Phật thì theo đạo
lý, hợp lẽ phải; theo đạo lý tức là hợp nhân quả. Ma thì chẳng đếm xỉa đến
đạo lý, không biết đến chuyện nhân quả. Theo nhân quả thì hợp lý, không
theo nhân quả thì không hợp lý. Do đó, Phật với ma khác biệt rõ ràng nhất
là ở điểm này. Phật thì có lòng từ bi, còn ma thì đầy dẫy tâm sân hận.
63.
TÁM ÐỨC TÍNH CĂN BẢN LÀM NGƯỜI(Vạn Phật Thành ngày
12 tháng 10 năm 1983 cho các em học sinh)
Các bạn trẻ, các em
có biết điều căn bản làm người là gì chăng? Tức là phải có tám đức tính:
Hiếu, Ðễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ. Ngày hôm nay tôi sẽ giải thích
một cách đơn giản ý nghĩa của mỗi đức tính cho các em nghe:
1. Hiếu: tức là hiếu
thảo. Hiếu thảo với cha mẹ là điều căn bản của bổn phận làm con. Hiếu thảo
nghĩa là báo đáp công ơn dưỡng dục của cha mẹ, và hiếu thảo cũng có nghĩa
là biết vâng lời cha mẹ chỉ dạy.
2. Ðễ: tức là kính
trọng. Kính trọng người lớn hơn mình, vì mình làm em nên có bổn phận phải
kính trọng anh chị mình.
3. Trung: tức là
trung thành. Hết lòng trung thành với đất nước của mình, đó là trách nhiệm
của người công dân, có tận trung thì mình mới báo đền được công ơn của đất
nước.
4. Tín: tức là tín
nhiệm. Ðối với bạn bè phải có tín nhiệm, hứa với bạn chuyện gì thì phải
làm chuyện đó, không thể thất tín, sai hẹn.
5. Lễ: tức là lễ
phép. Ðối với mọi người, mình phải có lễ phép, phải hết sức khiêm nhường.
Nếu không có lễ thì mình chỉ là thú vật mà thôi. Cho nên các bạn nhỏ, khi
gặp thầy cô thì phải biết chào hỏi, về nhà gặp cha mẹ phải biết lễ phép.
6. Nghĩa: tức là
nghĩa khí. Thấy điều gì có nghĩa thì phải dũng cảm mà làm. Khi thấy ai gặp
tai nạn thì mình phải tận lực giúp đỡ, giải quyết vấn đề giúp họ. Với bạn
bè thì mình phải có đạo nghĩa; khi giúp ai không cần có điều kiện gì cả,
tuyệt đối không có tâm mưu đồ, mong đền ơn đáp nghĩa.
7. Liêm: tức là liêm
khiết. Người liêm khiết thì bất luận gặp hoàn cảnh nào cũng không động
lòng tham cầu, cũng chẳng muốn hưởng tiện nghi. Hơn nữa mình phải có tinh
thần "chí công vô tư," và biết quên mình mà làm chuyện ích chung.
8. Sỉ: tức là hổ
thẹn. Gặp chuyện gì không hợp đạo lý, đi ngược lại với lương tâm của mình,
thì tuyệt đối chẳng làm. Con người nếu không biết hổ thẹn thì giống như
cầm thú vậy.
Hiếu, Ðễ, Trung,
Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ là tám đức tính căn bản để làm người, các em đừng
quên. Trong tương lai ra đời phục vụ xã hội, các em phải: Ngôn tất trung
tín, Hành tất đốc kính. (Lời nói phải trung tín, Hành vi phải cung kính.)
Hễ các em nói lời
nào thì nhất định phải giữ chữ tín, đừng có nói dối; làm việc gì thì cũng
phải hết sức cung kính, chân thật, tuyệt đối đừng làm cho có lệ mà thôi.
64.
LẤY VIỆC GIÚP ÐỜI LÀM TRÁCH NHIỆM
Các vị cần phải lập
chí lớn, làm chuyện lớn! Ðừng nên nghĩ chuyện làm quan lớn để kiếm nhiều
tiền vì đó chỉ là riêng mình hưởng thụ, đối với thế giới nhân loại không
có cống hiến gì cả. Mình phải nghĩ làm thế nào để xã hội được sung sướng
hạnh phúc, làm thế nào để lợi ích quốc gia, làm thế nào để lợi ích toàn
nhân loại. Nghĩ như vậy thì mới là kẻ đại trượng phu, là bậc anh hùng hào
kiệt!
Các vị đừng ham muốn
học làm thầy thuốc chỉ để làm giàu, rồi dù kẻ không có bịnh cũng cứ chích
thuốc bừa để kiếm tiền, như vậy là sai với đạo lý nhân quả, tương lai sẽ
đọa địa ngục. Ðừng ham làm luật sư vì nghĩ rằng nghề này kiếm ra nhiều
tiền; rồi chỉ cần được trả tiền thì dù người có tội mình cũng sẽ biện hộ
cho hết tội. Nếu đem pháp luật biến thành trò hề trẻ con, thì kẻ bị thua
thiệt làm sao có chỗ để kêu oan? Cũng đừng ham làm nhà khoa học chỉ vì
muốn kiếm được nhiều tiền mà phát minh những thứ vũ khí giết người, giết
hại trăm ngàn vạn kẻ khác.
Tiền là thứ làm hại
con người, làm cho con người tàn sát lẫn nhau. Người thân biến thành sơ,
anh em vì tranh giành gia sản mà biến thành cừu hận; thậm chí vì tiền mà
con giết cha!
Gần đây, ở Los
Angeles đã xảy ra một chuyện con giết cha như sau: Có một ông nhà giàu,
tài sản lên đến 600 triệu đồng; có lẽ ông ta đã kiếm ra tiền một cách
không được chính đáng lắm. Y có hai người con, cả hai đều là thanh niên
bất lương, bởi vì tiền cho nên chúng đã mưu sát cha mình. Các vị coi đó,
tiền là vật tốt sao?
Chúng ta phải coi
tiền như là phân, là đất, đừng nên bị tiền làm cho mê muội, cũng không cần
phải vì tiền mà nói láo. Mình phải biết an phận thủ thường, tận lực làm
việc, vì nhân loại mà tạo điều hạnh phúc. Cho nên có câu: Hy sinh tiểu
ngã, nhi thành đại ngã. (Hy sinh cái "tôi" nhỏ bé này để thành tựu lý
tưởng cao cả.) Ðó là chí nguyện vĩ đại, các vị hãy khuyến khích lẫn nhau.
Ởấ trường, đầu tiên
các em học sinh phải học làm sao để nên người, không nên học cách nịnh bợ,
a dua, xảo trá. Mình không nịnh hót người khác, cũng không thích người
khác nịnh hót mình. Phải học làm sao để có học vấn chân thật, biết cách
lập ngôn, lập công, lập đức, trở thành bậc anh tài xuất chúng.
Ðiều tôi nói với các
em ngày hôm nay hy vọng các em nhớ lấy, đừng để nghe tai này rồi lọt qua
tai kia!
65.
CÓ CHÍ THÌ NÊN
(Vạn Phật Thành ngày
13 tháng 10 năm 1983)
Sau khi xuất gia,
tôi phát nguyện rằng trước tiên sẽ đem kinh Phật diễn thành thể văn dễ
hiểu, và sau đó sẽ dịch sang tiếng Anh. Tuy tôi không biết tiếng Anh nhưng
tôi muốn tìm đủ phương pháp để phiên dịch kinh điển, được bao nhiêu hay
bấy nhiêu.
Sau khi tới Mỹ rồi
thì nhân duyên thành thục, mùa hè năm 1968 tôi thành lập Ban Phật Học
Giảng Tập mùa hè, mở khóa giảng Kinh Lăng Nghiêm; rồi tiện dịp bắt đầu
phiên dịch kinh điển từ tiếng Hoa ra tiếng Anh. Ðến nay, nhiều bộ kinh đã
được phiên dịch, song không nhất định là hoàn toàn chính xác, dù sao chúng
tôi cũng đã hết sức nỗ lực.
Hiện tại, người hiểu
Phật Pháp đã nhiều và người có khả năng phiên dịch cũng nhiều nữa, cho nên
các vị hãy đem kinh điển đã dịch xưa kia ra sửa chữa lại, làm sao cho thật
hoàn hảo, chính xác, khế hợp với ý của Phật. Ðó là ý nguyện của tôi, hy
vọng các vị hợp lực cùng nhau hoàn thành công đức này.
66.
BÀI TRỪ SẮC THÁI MÊ TÍN
(Vạn Phật Thành ngày
15 tháng 10 năm 1983)
Tôi có cảm giác rằng
Phật Giáo Trung Hoa còn tồn tại rất nhiều hình thái mê tín, đầy dẫy chuyện
không hợp lý, khiến người đời sinh hoài nghi và chẳng tin Phật. Những điều
như vậy chắc chắn phải cải cách; nếu không sửa đổi một cách triệt để thì
tiền đồ của Phật Giáo trong tương lai sẽ như thế nào?
Thí dụ như những kẻ
tới chùa thắp hương, họ nghĩ rằng thắp càng nhiều thì công đức càng lớn,
kỳ thật đó là quan niệm sai lầm. Cúng hương cho Phật là biểu thị lòng cung
kính; chỉ cần mình thành tâm thắp một cây nhang là đủ rồi, cần gì phải
thắp nhiều! Nếu tâm không thành thì thắp bao nhiêu nhang cũng chẳng được
cảm ứng. Phật không phải là kẻ thích ngửi mùi hương, nếu Phật thích hương
thơm thì cũng giống như phàm phu, chẳng có gì khác biệt. Cái phong khí như
vậy cần phải sửa đổi, nếu không thì người ta hoài nghi rằng Phật tham ngửi
mùi hương thơm. Cho nên vô tình mà mình đã làm đức cao thượng của Ngài bị
ô nhiễm, thật là tội lỗi vô cùng!
Có những kẻ thiếu
hiểu biết tới chùa lễ Phật, đó là chuyện tốt, song họ không biết lạy Phật
có ý nghĩa gì. Họ chỉ biết cầu Phật phù hộ cho thăng chức, phát tài, bình
an hạnh phúc, rồi cầu xin con trai con gái, cầu danh cầu lợi, cầu xin đủ
chuyện; những thứ cầu đó đều là biểu hiện của lòng ích kỷ, tự lợi, chẳng
hề nghĩ tới làm lợi ích cho người và cho đời gì cả. Nếu cầu Phật và Bồ Tát
thì sẽ có ứng nghiệm vì các ngài không làm chúng sinh thất vọng, song có
lòng mong cầu không đáy như vậy thì thật là sai lầm lắm!
Khi thấy tình hình
như vậy tôi cảm xúc vô cùng. Mình phải chỉ bày những người thiếu hiểu biết
đó cách lạy Phật, dạy họ rằng phải vì tín ngưỡng mà lạy Phật, vì toàn thế
giới, vì cầu hòa bình mà lạy Phật. Dạy cho họ khẩn cầu bằng tấm lòng chính
đại quang minh, vì người khác, chẳng vì mình, thì đó mới đúng là hành vi
của người Phật tử!
Có những Thầy thiếu
tri thức, tuyên truyền rằng nếu đốt vàng mã, đồ giấy, tiền giấy thì có
công đức rất lớn, và cho người chết có tiền chi xài, có thể hối lộ bọn cai
ngục làm giảm hình phạt. Bà con khi nghe các Thầy nói vậy thì liền mua
vàng mã, tiền giấy để đốt, càng nhiều càng tốt, tin rằng Thầy nói là đúng,
vì người xuất gia không biết nói láo! Nhưng bà con nào biết chuyện bí mật
ở bên trong, những Thầy đó đứng phía sau để thủ lợi mà mình nào hay? Nên
các vị phải hết sức sáng suốt mà suy xét, đừng để họ làm chuyện gian trá,
lừa bịp tiền bạc. Thủ đoạn như vậy thật là tệ hại, thấp hèn.
Do đó, tôi muốn cải
cách tập tục đốt vàng mã tiền giấy, mù quáng mê tín, để Phật Giáo đừng
chịu tiếng oan rằng: đạo Phật là tôn giáo đề xướng và chủ trương chuyện
đốt vàng mã, tiền giấy!
67.
LÒNG THAM KHÔNG ÐÁY CỦA CON NGƯỜI
(Vạn Phật Thành ngày
16 tháng 10 năm 1983)
Con người ai cũng có
tâm tham: tham tài, tham sắc, tham danh, tham ăn, tham ngủ. Tham không
đáy, chẳng biết dừng lại.
Khi con người thấy
nhan sắc, hình tướng mỹ lệ, nghe âm thanh thánh thót, nếm hương vị ngon
ngọt, thì tự nhiên mê đắm, rồi chắc chắn sẽ tìm đủ mọi cách chiếm cho được
mới thôi. Vì nhất thời hưởng thụ mà người ta dùng mọi thủ đoạn bất chính
để tranh đoạt, dù sẽ phải ân hận suốt đời; thật là đáng tiếc thay! Cổ nhân
nói:
"Tri túc thường lạc,
Năng nhẫn tự an."
Nghĩa là:
"Biết đủ thì sung
sướng,
Biết nhịn thì yên
thân."
Thật là đúng thay!
Các bạn học sinh!
Khi học hành thì phải nỗ lực mà học, khi rảnh rỗi chơi giỡn thì phải hết
sức vui đùa; không thể làm mà không chơi, chơi mà không làm. Mình phải
phát triển một cách quân bình, thì mới có ích lợi cho thân và tâm; cho nên
Ðức Phật dạy rằng:
"Bất thiên Không,
Hữu nhị biên, thị vi
Trung Ðạo."
Nghĩa là:
"Không lệch qua hai
bên
Có và Không, chính
là Trung Ðạo."
Mình phải biết giữ
đạo lý Trung Dung, không nhiều quá cũng không ít quá, lúc nào cũng vừa đủ.
Trong khi đang học hành đừng nên nghĩ rằng:
-Tại sao mình phải
học?
-A! Ðể kiếm tiền.
-Vì sao phải kiếm
tiền?
-Ðể hưởng thụ, để
thỏa mãn sự hưởng thụ vật chất.
Nghĩ như vậy tức là
mình đã bỏ gốc mà chạy theo ngọn, bỏ điều gần mà đuổi theo điều xa xôi, và
quên mất những điều căn bản làm người, không biết thế nào là hiếu thuận
với cha mẹ, thế nào là cung kính với thầy giáo, thế nào là có đức hạnh,
thế nào là làm người tốt. Ðó là những điều căn bản làm người mà mình lại
hoàn toàn quên mất!
Cho nên, nguyên nhân
làm thế giới sụp đổ chính là lòng tham không đáy của con người! Nếu ai
cũng không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không
nói dối, thì thế giới chẳng còn khổ não nữa!
Các bạn học sinh!
ỞVạn Phật Thành, Sáu Tông Chỉ này là tiêu chuẩn để mình học cách xử thế.
Nếu mình chăm chỉ thực hành Sáu Tông Chỉ đó, thì mình sẽ trở nên con người
khác biệt với thế tục. Mình không tranh danh, cũng không đoạt lợi; được
vậy thì mọi phiền não thống khổ sẽ tiêu tan hết.
Các em phải nhận
trách nhiệm sửa đổi những phong tục tập quán xấu, làm cho thế giới suy sụp
hiện tại trở thành thế giới tốt đẹp. Làm sao để sửa đổi? Tức là phải dùng
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín; phải dùng năm đức tính này để cải biến và tạo
thành một thế giới mới. Ðó gọi là "an thiên lập địa", làm cho thế giới an
lạc vậy!
68.
BA THỨ ÐỘC TÁC HẠI CON NGƯỜI NẶNG NỀ NHẤT
Con người nếu có
lòng tham thì vĩnh viễn không thể sung sướng được. Không tham thì sẽ sung
sướng, bởi vậy mình cần phải "chỉ tham," tức là dứt lòng tham:
"Tham tâm hữu như vô
để khanh,
Ðiền chi nan mãn,
Sân hận sanh.
Ngũ dục phân trần
điên đảo tưởng,
Si nhiên bất giác,
Pháp khí băng."
Dịch là:
"Lòng Tham lam như
hố sâu không đáy,
Không thỏa mãn được
thì sanh Sân hận.
Năm dục phừng phừng,
suy nghĩ đảo điên,
Si mê chẳng biết,
Pháp khí tiêu tan."
Do khởi lòng tham
nên có rất nhiều người thân tàn danh hoại, nhiều kẻ khiến cho nước mất nhà
tan. Quả thật tham lam là thứ hại người, chúng ta không thể chẳng cẩn
thận, đắn đo.
Khởi sân hận thì
mình phải biến nó thành không có, vì lửa sân có thể thiêu hủy mọi công
đức. Do đó, người tu Ðạo trước tiên phải học pháp môn Nhẫn Nhục Ba La Mật;
tu tới chỗ công phu chín mùi thì có thể hóa sân hận thành từ bi. Lòng sân
hận cũng giống như nước đã biến thành băng, và tu là đem băng hóa thành
nước, vì nước có thể lợi ích vạn vật.
Khởi si mê thì mình
cần phải trừ đi để cho trí huệ hiện tiền. Vì sao mình có rất nhiều vọng
tưởng? Là vì mình quá sức ngu si, mà gốc của sự ngu si chính là vô minh.
Do vô minh tác động khiến mình khởi dục niệm, sinh ra đầy dẫy vọng tưởng.
Khi lý trí không khống chế nổi tình cảm thì mình làm chuyện điên đảo; đó
là điều hết sức nguy hiểm, khiến cho mình dễ mất đi Ðạo nghiệp. Cho nên,
mình phải trừ sạch vọng tưởng thì ngu si sẽ tự nhiên tiêu diệt.
Tóm lại, lúc nào ba
độc Tham, Sân, Si, mà trừ tận gốc thì lúc đó thân tâm mình sẽ thanh tịnh,
không còn phiền não. Hết phiền não thì đạt được cảnh giới an nhàn. Lúc đó
thì vô ưu, vô lự, vô quái, vô ngại; thật là vô cùng tự tại tiêu dao! Bởi
vậy cho nên ý nghĩa rất là sâu sắc, hy vọng các vị để tâm nghiên cứu tường
tận thì sẽ được lợi ích không nhỏ.
69.
Ở VƯỜN LAN MÀ CHĂNG BIẾT LAN THƠM (Vạn Phật Thành ngày
16 tháng 10 năm 1983)
Chúng ta ở trong đạo
tràng này ngày ngày học Pháp, hành Pháp, ngày ngày được khói hương xông
ướp, dần dà Pháp với mình hợp lại làm một!
Phật Pháp có năm thứ
hương gọi là Ngũ Phần Giới Hương: Giới Hương, Ðịnh Hương, Huệ Hương, Giải
Thoát Hương, Giải Thoát Tri Kiến Hương. Ðược năm thứ hương này xông ướp
một thời gian lâu thì tự nhiên mình sẽ khai ngộ. Kẻ mới tới thì cảm thấy
mọi chuyện ở chùa đều chẳng tốt; hương là hương, mà ta là ta, chẳng có
quan hệ gì. Nhưng nếu ở đây lâu và thường được hương xông ướp thì tự nhiên
mình sẽ hòa với hương khí làm thành một thể; cho nên cổ nhân nói rằng:
"Dữ thiện nhân cư,
Như nhập chi lan chi
thất,
Cửu nhi bất văn kỳ
hương.
Dữ bất thiện cư,
Như nhập bào ngư chi
tứ,
Cửu nhi bất văn kỳ
xú."
Nghĩa là:
"Ở với người tốt,
Thì cũng giống như
vào vườn lan,
ỞƯ lâu thì mình
không còn biết mùi thơm.
Còn ở với người xấu,
Thì cũng giống như
vào chợ cá,
Ở lâu thì mình không
còn biết mùi tanh nữa."
Vì sao vậy? Bởi vì
con người mình và hoàn cảnh bên ngoài đã hợp thành một thể rồi!
Những người có thiện
căn được hương xông ướp thì có thể đột nhiên đại ngộ, cũng gọi là khai
ngộ. Khai ngộ thì có gì tốt? Tức là mình hiểu được thấu suốt tất cả mọi sự
việc, không còn hồ đồ, rồi phá thủng vô minh, khiến trí huệ hiển hiện. Vô
minh cũng giống như một cái thùng đen thui, chẳng thấy được gì cả. Khi đã
khai ngộ thì quang minh xuất hiện, phá tan cái màn hắc ám đó, và mình thấy
được rõ ràng mọi chuyện.
70.
THẾ NÀO LÀ TAM TẠNG KINH MƯỜI HAI BỘ?
(Vạn Phật Thành ngày
17 tháng 10 năm 1983)
Tam Tạng tức là Kinh
Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng. Kinh Tạng nói về cái học của Ðịnh, Luật Tạng
nói về cái học của Giới và Luận Tạng nói về cái học của Huệ.
Sau khi Ðức Phật
Thích Ca nhập Niết Bàn, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp lãnh đạo 500 vị chứng quả A
La Hán ở nơi Thất Diệp Quật để kết tập Ba Tạng Kinh Ðiển. Bấy giờ, Tôn giả
A Nan ghi lại lời Pháp mà Ðức Phật đã dạy lúc còn tại thế và làm thành
Kinh Tạng; Tôn giả Ưu Bà Ly đem những giới luật mà Ðức Phật đã dạy sắp xếp
lại thành Luật Tạng; Tôn giả Ma Ha Ca Diếp đem tâm đắc của các vị đệ tử
học Kinh, nghiên cứu Luật, mà kết tập lại thành Luận Tạng.
Mười hai bộ tức là
12 đề mục phân biệt văn thể của Kinh, được tóm tắt trong bài kệ sau đây:
Trường Hàng, Trùng
Tụng tịnh Cô Khởi,
Tỷ Dụ, Nhân Duyên,
dữ Tự Thuyết,
Bổn Sự, Bổn Sinh, Vị
Tằng Hữu,
Phương Quảng, Luận
Nghị cập Thọ Ký.
1. Trường Hàng: Kinh
thuộc loại này thì viết bằng văn xuôi từng hàng, từng hàng.
2. Trùng Tụng: tức
là nghĩa lý ở văn xuôi được diễn tả bằng thể kệ tụng, để lập lại ý chính.
3. Cô Khởi: là những
bài kệ, bài tụng viết ra độc lập, chẳng liên quan gì tới ý văn phía trước
và phía sau của Kinh.
4. Tỷ Dụ: là dùng ví
dụ để thuyết minh nghĩa lý của kinh văn.
5. Nhân Duyên: là
phần tường thuật các nhân duyên liên quan đến những chuyện xảy ra.
6. Tự Thuyết: thường
thì có người thỉnh Pháp, Ðức Phật mới thuyết Pháp; duy chỉ có bộ Kinh A Di
Ðà thì không có người thỉnh mà Ðức Phật tự thuyết.
7. Bổn Sinh: là phần
Ðức Phật kể về quá khứ kinh lịch khi Ngài hoằng Pháp lợi sinh.
8. Bổn sự: là phần
kể lại những việc mà các vị Bồ Tát, A La Hán đã làm lúc tu nhân.
9. Vị Tằng Hữu: là
nói về những chuyện thần thông biến hóa mà xưa nay chưa từng nghe thấy.
10. Phương Quảng: là
phần kinh phương chính quảng đại nói đến cảnh giới viên dung vô ngại.
11. Luận Nghị: là
phần báo cáo về sự nghiên cứu Kinh, Luật của các vị đệ tử, hoặc là phần
ghi chép lời thảo luận của Ðức Phật và các đệ tử.
12. Thọ Ký: là phần
đề cập đến việc Ðức Phật thọ ký cho những vị Bồ Tát, như lúc nào thì họ
thành Phật, khi nào thì họ sinh Tịnh độ, thành Phật ở cõi Tịnh độ nào, hay
là những dự ngôn v.v....
Tôi giới
thiệu mười hai bộ Kinh Tam Tạng đơn giản như vậy để các vị có một ấn tượng
sơ khởi. Chúc các vị thâm hiểu Kinh Tạng, và phát trí huệ rộng lớn như
biển.