KHAI THỊ QUYỂN 2
Hòa thượng Tuyên Hóa
Ban Phiên
Dịch Việt Ngữ Trường Ðại Học Pháp Giới
Vạn Phật
Thánh Thành Talmage, California
Phần 5
41.
LỜI KHUYẾN KHÍCH ÐẦU NĂM
(Vạn Phật Thành ngày
10 tháng 2 năm 1983)
Thời gian qua thật
là mau. Giờ đây năm cũ đã hết và năm mới đã tới mà mình chẳng hay biết.
Ðời người cũng vậy, từ lúc sinh ra đến khi già rồi chết, mình cũng chẳng
hay biết. Sinh, lão, bịnh, tử quay cuồng chóng vánh mà con người thì hồ đồ
cứ để hết năm này đến năm khác trôi qua. Nếu chẳng giác ngộ vấn đề sinh tử
thì mình sinh ra một cách hồ đồ, rồi chết đi một cách hồ đồ. Sống như vậy
còn có ý nghĩa gì? Hãy nhìn xem! Mỗi quốc gia, mỗi gia đình, mỗi cá nhân
đều hướng về con đường già, chết ấy; sinh ra trong hồ đồ, rồi chết đi
trong hồ đồ!
Sinh tử hồ đồ là do
bị vô minh che lấp. Vì sao có vô minh? Vì "nhất niệm bất giác sinh tam tế"
(do một niệm ngu tối mà sinh ra ba trạng thái vi tế của tâm thức là Nghiệp
tướng, Hiện tướng và Chuyển tướng). Một khi ba tướng đã phát sinh thì biến
hóa vô cùng tận; do đó, trong cuộc sống của mình có ngàn vạn trạng thái,
đủ thứ nhân duyên. Nếu mình giác ngộ được trạng thái này thì phải mau phát
tâm Bồ Ðề, cầu có trí huệ để thông suốt mọi sự.
Phật là đấng vô cùng
trí huệ, hết sức thông đạt, cho nên Ngài được gọi là bậc Ðại Giác. Chúng
ta cần phải từ nơi chỗ hồ đồ, ngu muội mà trở về chỗ minh bạch sáng suốt.
Trước tiên cần phải tận lực quét sạch đi tất cả những thói hư, tật xấu,
lỗi lầm; và lúc đó, trí huệ quang minh sẽ hiện tiền.
Năm nay, Tết đến
chúc các vị sinh tâm đại giác ngộ! Một ngày đã qua, Mạng cũng giảm dần,
Như cá cạn nước, Thử hỏi gì vui? Ðại chúng! Hãy siêng tinh tấn, Như đầu bị
đốt, Luôn nhớ vô thường, Chớ mặc buông lung!
42. CÓ NÊN ÐỂ
CHO TRẺ EM TỰ DO PHÁT TRIỂN CHĂNG?
(Vạn Phật Thành ngày
20 tháng 3 năm 1983)
"Thiên địa chi
đại,
Tứ hải chi khoan,
Vô kỳ bất hữu."
Nghĩa là:
"Trời đất rộng
lớn,
Bốn biển mênh
mang,
Chuyện lạ đầy
dẫy."
Thế giới có vô số
những chuyện đặc biệt, kỳ dị mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Song
chuyện gì cũng một phần là do trời tạo, một phần là do người tạo. Trời tạo
mà người không làm gì cũng không thành công; người làm mà trời không tạo
thì cũng không có căn bản. Cho nên, trên đời chuyện gì cũng tương đối, có
thiện có ác, có âm có dương, có đúng có sai, có tốt có xấu; đó là pháp đối
đãi.
Vì là pháp đối đãi,
nếu người biết làm thì điều xấu có thể biến thành điều tốt, nếu người
không biết làm thì tốt cũng trở thành xấu! Cũng vậy, người biết dụng công
thì lúc âm khí cực thạnh cũng có thể biến hóa thành dương khí, và lúc
dương khí hết sức cang cường cũng có thể làm cho điều hòa. Âm thuộc về
tĩnh, về nhu; còn dương thì thuộc về động, về cương; cho nên điều tốt điều
xấu đều do con người làm ra. Cổ nhân nói:
"Cận chu giả
xích,
Cận mặc giả hắc,
Nhiễm ư lam tắc
lam,
Nhiễm ư hoàng tắc
hoàng."
Nghĩa là:
"Gần son thì đỏ,
Gần mực thì đen,
Nhuộm xanh thì
xanh,
Nhuộm vàng thì
vàng."
Ở nước Trung Hoa có
một vị Á Thánh tên là Mạnh Tử. Lúc còn nhỏ, cha mất sớm, chỉ có mẹ nuôi
dưỡng Ngài. Lúc đầu, nhà của Ngài cạnh nhà người đồ tể. Vì còn nhỏ, tai
nghe mắt thấy chuyện gì cũng dễ tiêm nhiễm, cho nên Ngài ngày ngày học
cách người đồ tể thọc huyết trâu, dê. Mẹ của Ngài thấy vậy thì biết rằng
nếu để Ngài tự do phát triển thì tương lai nhất định Ngài sẽ trở thành một
tên đồ tể. Vì vậy bà lập tức dọn nhà đi, và dọn tới bên cạnh nghĩa địa.
Bấy giờ Mạnh Tử lại
học cách người coi mộ: quét đất, thắp nhang, dâng hoa, cúng tế người chết.
Mẹ Ngài lúc đó mới nghĩ rằng: "Không xong rồi! Con nít mà để cho phát
triển tự do thì tương lai con mình sẽ trở thành kẻ coi mộ chớ có lợi gì?"
Bởi vậy lần thứ hai bà lại dời nhà đi nữa. Lần này, bà dọn nhà tới bên
cạnh trường học.
Ở cạnh trường học,
ngày ngày Mạnh Tử tận tụy bắt chước những học sinh ở đó: lên lớp chào
thầy, về nhà lễ cha mẹ. Tuy nhà không có tiền, nhưng Mạnh Tử ra sức học
hành; đối với việc đọc sách, đi, đứng, lễ, nghĩa, ông rất thành thạo. Mẹ
Ngài thấy như vậy bèn quyết định sẽ ở đó luôn vì hễ con của bà bắt chước
kẻ đọc sách thì tương lai sẽ thành đạt.
Nhưng không lâu thì
Mạnh Tử nổi tính phá phách, ngỗ nghịch, không còn muốn học nữa. Một hôm,
mẹ Ngài đang lúc dệt tơ, thấy con đi học mà bỏ ngang về nhà thì liền cắt
khung cửi, khiến dây tơ dứt làm hai đoạn. Mạnh Tử thấy vậy liền nghĩ rằng:
"Khung cửi đứt, không còn dệt được, tất sinh kế nhà mình sẽ khó khăn, bởi
mọi sinh hoạt hàng ngày đều dựa vào nghề dệt vải này." Cho nên Ngài mới
hỏi mẹ rằng: "Tại sao mẹ lại cắt khung cửi như vậy?"
Bà trả lời: "Con nay
chẳng chịu học hành thì cũng giống như khung cửi không còn dệt được nữa
vậy!" Mạnh Tử nghe xong hết sức hổ thẹn, quyết chí dụng công học hành. Về
sau, Ngài trở thành một vị đại thánh nhân của Nho học.
Ởấ nước Mỹ này, tôi
không thể nói rằng tự do phát triển là hoàn toàn không đúng. Song, nếu tự
do phát triển thái quá thì đó là một điều sai lầm. Quan niệm này nếu tồn
tại thì sẽ nuôi dưỡng hậu hoạn. Trẻ con cũng giống như cây non đang độ
lớn; nếu cây đâm chồi nảy nhánh loạn xạ tất cần phải cắt tỉa đi thì tương
lai cây mới mọc thẳng, cũng như trẻ con phải được dạy dỗ chu đáo thì mới
có thể trở nên trụ cột của quốc gia sau này!
Nếu con trẻ có tật
viết tay trái thì không thuận tiện cho lắm. Tay mặt thuộc về tánh nhu
thuần, tay trái thuộc về tánh cương cường; tay mặt là âm, tay trái là
dương. Nếu trong nhà có con em viết tay trái thì tốt nhất nên sửa lại, để
viết tay phải thì thuận hơn. Cũng giống như đi nhiễu Phật thì đi từ bên
phải qua, mọi thứ đều từ bên tay phải mà bắt đầu, đó mới hợp với bản tánh,
mới linh hoạt được. Con em thuận tay trái thì tánh tình ít nhiều có đặc
tính cương cường.
Tôi đề nghị với các
bậc làm cha mẹ rằng hễ con cái có điểm nào sai lầm thì nên cấp thời sửa
đổi lỗi lầm của chúng. Ðể tự do phát triển thì tương lai chúng sẽ biến
thành "hippy," lưu manh, du đãng. Khi đó chúng ta phải làm gì? Có câu:
"Dưỡng bất giáo
phụ chi quá,
Giáo bất nghiêm
sư chi đọa."
Nghĩa là:
" Nuôi mà không
dạy là lỗi của cha,
Dạy mà không
nghiêm là thiếu sót của thầy."
Chẳng lẽ chúng ta
không cẩn thận ngăn ngừa sao? Nếu muốn nói đến chân chính tự do phát triển
thì phải bỏ trẻ con vào núi cao rừng hoang, không có câu thúc gì cả, cho
chúng tự do sinh tồn giống như thảo mộc tự nhiên sinh trưởng vậy. Nếu
không thì không thể đề cập tới "tự do phát triển" được. Nếu cho rằng chìu
theo ý trẻ con muốn là tự do phát triển, thì đó là một quan niệm sai lầm.
Trẻ con làm đúng thì cổ võ, khích lệ để cho chúng tiếp tục làm; nếu chúng
làm sai thì mình phải chấn chỉnh để chúng tiến tới điều chánh, điều thiện.
Ðể nhân loại tiếp tục sinh tồn trong xã hội này, mình phải duy trì hành
động có trí huệ; không thể dùng lầm danh từ "tự do phát triển" này được.
Khi để trẻ con tự do
phóng túng, thì trong tương lai chúng sẽ biến thành những thanh thiếu niên
hư hỏng, hết sức bạo ngược, cang cường. Chúng không thể thành người anh
tuấn mà sẽ là những phần tử hư hỏng của xã hội. Nếu đất nước thiếu những
bậc lương đống, anh tài thì hậu quả thật khó lường được vậy!
43. NGUY CƠ CỦA SỰ
TIẾN BỘ KHOA HỌC, KỸ THUẬT(Vạn
Phật Thành ngày 25 tháng 3 năm 1983)
Nhân loại ai ai cũng
"hướng ngoại truy cầu." Vì cầu ở ngoài tâm cho nên càng cầu thì càng xa
gốc, không sao tới được đích; mà càng không tới được đích thì càng muốn
truy cầu thêm. Ðó gọi là "bỏ gốc theo ngọn, bỏ gần theo xa."
Các vị cho điện não
(computer), Tivi, điện thoại, tủ lạnh, v.v... là hay, là đẹp, kỳ thật
chúng tượng trưng cho vật bên ngoài đã làm con người mê muội, ham chấp
trước, không giác ngộ. Nhưng nếu mình thật sự thông suốt mọi sự thì những
thứ đó có thể giúp mình giác ngộ. Lục căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý)
là sáu tên cướp (Lục tặc) làm cho con người đọa lạc, nhưng nếu biết cách
dùng chúng thì có thể tu hành thành Ðạo Vô Thượng Bồ Ðề, thành Phật!
Tuy ở bên ngoài có
điện não xuất hiện, song trong tự tánh của mình cũng đầy đủ những thứ vi
diệu bất khả tư nghì như vậy. Xưa nay mình vốn không cần thiết phải hướng
ngoại truy cầu. Song, bởi vì cái bảo bối kỳ diệu khó diễn bày gọi là
"thường trụ chân tâm, tánh tịnh minh thể" của chúng ta bị Ngũ ấm che
khuất, cho nên bảo bối đó không thể xuất hiện được. Rồi thì do vô minh nên
mình lại bỏ gốc chạy theo ngọn, bỏ cái gần chạy theo cái xa, mà không biết
quay đầu nhìn lại tự tâm mình.
Có điện não bên
ngoài là do có điện não trong tự tánh của mình. Ðiện não đó gọi là Thần
não, cũng có thể gọi là Thánh não, Phật não, hay Ðại Trí Huệ. Hiện tại các
khoa học gia tuy phát minh được đủ thứ tân kỳ, song chúng đều là những thứ
ở bên ngoài tự tâm, càng cầu càng tìm chúng thì lại càng xa gốc. Các khoa
học gia chỉ hiểu những thứ hời hợt bề ngoài mà thôi; tuy có vẻ như đạt
được chỗ sở đắc, kỳ thật, họ đánh mất đi bản hữu trí huệ của họ, cho nên
gọi là "bỏ gốc, theo ngọn."
Người tu Ðạo thì
phải "bỏ ngọn, theo gốc," phải làm sao để Phật tánh bản hữu của mình được
viên mãn, phải làm thế nào để phản bổn hoàn nguyên, để khôi phục lại bản
hữu trí huệ, tức là Ðại Viên Cảnh Trí, Bình Ðẳng Tánh Trí, Diệu Quán Sát
Trí, Thành Sở Tác Trí. Nếu đem điện não so sánh với bốn Trí này thì điện
não bất quá chỉ bằng một phần trong hàng trăm ngàn vạn ức phần của bốn Trí
kia. Nhiều người lấy đồng thau mà cho là vàng thiệt, thật đáng thương xót!
Cho nên, chúng ta là
kẻ tu Ðạo thì phải nhận chân được bản hữu trí huệ của mình, không cần phải
truy cầu những thứ cao siêu xa vời ở bên ngoài.
Chúng ta hoàn toàn
không cần đến những vật bên ngoài ấy sao? Tôi đã từng nói rằng điện não là
thứ yêu quái do khoa học sinh ra, làm cho con người thất nghiệp, lười
biếng giải đãi, ưa thích phóng túng, ghét làm lụng cực nhọc. Nếu tệ trạng
này tiếp tục thì chẳng bao lâu loài người sẽ biến thành đồ phế thải, không
còn dùng được nữa. Khi con người đã vô dụng thì đương nhiên cuộc hý trường
tại thế gian này sẽ mau chóng bế mạc; bởi vì con người thành vô dụng thì
cần con người làm gì nữa? Song ngược lại, nếu con người giác ngộ, thì họ
sẽ dùng trí huệ để sử dụng kỹ thuật, không để cho kỹ thuật khống chế con
người. Lúc đó, đương nhiên con người sẽ tạo ra rất nhiều sản phẩm có lợi
ích cho nhân quần!
Nói tóm lại, cũng là
một sản phẩm song điều quan trọng là chúng ta có biết sử dụng nó hay
chăng. Mình phải sử dụng điện não, không để nó khống chế mình! Cho nên nói
rằng:
"Kiến sự, tỉnh
sự: xuất thế gian,
Kiến sự, mê sự:
đọa trầm luân."
Dịch là:
"Thấy việc, liền
thức tỉnh: vượt trần gian,
Ðụng chuyện, mà
lờ mờ: đọa luân hồi."
44. NÂNG CAO TIÊU CHUẨN HÀNG TĂNG SĨ, TÍCH CỰC XIỂN DƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM
(Vạn
Phật Thành ngày 14 tháng 4 năm 1983)
Chúng ta đang ở
trong thời Mạt Pháp, đã xa Phật quá lâu, song Pháp chưa hoàn toàn tiêu
diệt. Các vị vẫn còn cơ hội y chiếu theo lời Phật dạy mà tu hành, các vị
vẫn còn cơ hội chứng quả thành Phật!
Nếu bản thân là kẻ
xuất gia thì mình phải quyết tâm giữ gìn cái tông chỉ là dù gặp hoạn nạn
khó khăn tới đâu cũng không bao giờ thay đổi lập trường. Mặc ai tới phá
hoại, mình đừng để bị dao động. Chỉ cần nhận thức rõ ràng việc mình làm,
con đường mình đi là quang minh chính đại, rồi cứ dũng mãnh mà tiến bước.
Trong thời Mạt Pháp,
thiên ma, ngoại đạo, ly mỵ, vọng lượng, sơn yêu, thủy quái, sợ nhất là Chú
Lăng Nghiêm vì Chú Lăng Nghiêm có công năng phá tà hiển chánh, và vì Chú
Lăng Nghiêm mà Phật đã giảng Kinh Lăng Nghiêm, một bộ kinh cốt tủy của
Phật Giáo!
Con người nếu không
có xương tủy thì chết, Phật Giáo không có Kinh Lăng Nghiêm thì Phật Pháp
diệt. Cho nên phương pháp tốt nhất để hộ trì Chánh Pháp trong thời Mạt
Pháp là học thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, học thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm
cho nhuần nhuyễn. Sau khi đọc và học thuộc lòng đến chỗ hết sức thuần
thục, hãy tận lực phát huy đạo lý của Kinh và diễn thuyết cho mọi người
nghe. Thế giới này nếu thiếu Chú Lăng Nghiêm thì yêu ma, quỷ quái chẳng sợ
hãi gì nữa, chúng sẽ tha hồ hoành hành. Song bởi vì trên thế giới còn có
người trì Chú Lăng Nghiêm nên bọn bàng môn, tả đạo, vọng lượng, ly mỵ, sơn
yêu, thủy quái, còn kiêng sợ, không dám công nhiên xuất hiện. Nếu không có
Chú Lăng Nghiêm thì thế giới này trở thành thế giới của bọn yêu ma, quỷ
quái!
Các vị coi, hiện tại
tư tưởng con người cũng hết sức cổ quái, có kẻ không bằng loài cầm thú. Ðó
là do bọn yêu ma, quỷ quái lộng hành ở thế gian, mê hoặc người đời, khiến
họ mất đi trí huệ căn bản, biến thành hạng người tráo trở, hết biết nhân
nghĩa, làm chuyện thấp hèn không bằng loài trâu ngựa nữa. Ðó cũng là do
càng ngày càng ít người biết tụng Kinh Lăng Nghiêm, trì Chú Lăng Nghiêm
nên thiên ma ngoại đạo mới hoành hành, không còn kiêng nể gì cả!
Tuy nhiên Vạn Phật
Thành là nơi phát nguyên của Phật Pháp ở Tây phương, là chỗ quy tập tinh
hoa của những người tu Ðạo chân chính trên thế gian, cho nên Vạn Phật
Thành không phải là địa bàn hoạt động của bọn yêu ma quỷ quái, bọn chúng
không thể nào đặt chân tới Vạn Phật Thành được! Có những kẻ không thể ở
Vạn Phật Thành được là do họ không đủ đức hạnh, tư tưởng đầy dẫy những thứ
tà tri tà kiến, nên chỉ ở một thời gian là họ bị lộ nguyên hình, phải bỏ
đi chỗ khác.
Từ đây về sau, ở Vạn
Phật Thành, các vị xuất gia và đệ tử tại gia đều cần phải học thuộc lòng
Kinh Lăng Nghiêm. Như vậy thì đối với Phật Pháp không có công lao nào lớn
bằng. Bởi vì có những giáo sư nổi tiếng, những vị học giả trứ danh, thậm
chí còn có cả kẻ xuất gia, hiện giờ công khai nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là
giả tạo!
Vì sao họ lại điên
đảo như vậy? Là do Kinh Lăng Nghiêm đề cập đến Bốn điều răn dạy về sự
thanh tịnh, và đồng thời Năm mươi thứ ấm ma. Do đó, bọn họ không thể chịu
nổi khi đứng trước những tấm kính chiếu yêu được nói đến trong Kinh Lăng
Nghiêm này. Khi họ tự so sánh với năm mươi thứ ấm ma thì bản chất yêu quái
của họ hiện ra rõ ràng, và khi tự so sánh với bốn điều dạy về sự thanh
tịnh thì họ không làm sao giữ được những quy củ nói đến trong bộ Kinh này.
Bởi không chịu nổi sự thật đó nên họ mới che đậy lương tâm, và dèm pha cho
rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo!
Cho nên, đối với
Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm, chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng
là không có chú nào linh nghiệm bằng Chú Lăng Nghiêm, không có kinh nào
chân chính hơn Kinh Lăng Nghiêm. Là vì kinh này đem tất cả những điều sai
trái của thiên ma ngoại đạo, và của cả chúng sinh, trình bày vô cùng rõ
ràng, xiển minh hết sức tường tận.
Nếu không có Chú
Lăng Nghiêm thì Phật Pháp chẳng còn, thiếu Kinh Lăng Nghiêm thì Chánh Pháp
bị tiêu diệt! Vì thế, các vị hãy vì hộ trì Phật Pháp mà nhất định học
thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm! Nếu lúc nào cũng có thể thuyết giảng được thì
mới không hổ thẹn là một đệ tử chân chính của Phật, không hổ thẹn là đã
xuất gia một cách uổng phí.
Bởi vậy cho nên các
vị đừng để những "học giả trứ danh," những "giáo sư nổi tiếng," hoặc những
"Ðại Pháp Sư" làm cho mê hoặc, như kẻ đui đi theo người mù mà tin rằng
Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo! Dựa vào đâu mà họ dám nói Kinh Lăng Nghiêm là
giả tạo? Với lời lẽ mù quáng, cống cao, đầy dẫy tà kiến, ngã mạn, cuồng
vọng, tương lai họ sẽ chịu quả báo khó tưởng tượng nổi.
Mặc cho gia phong
của những đạo tràng khác ra sao, ở Vạn Phật Thành ai muốn xuất gia thì tối
thiểu phải có bằng Cử nhân! Nếu các vị đỗ Cử nhân ở trường khác thì cần
phải gia nhập chương trình huấn luyện Tăng Già ở Vạn Phật Thành; các vị
phải trải qua ba năm huấn luyện nghiêm túc để cho học vấn và đạo đức được
ưu tú, rồi mới đủ tư cách thọ giới Cụ Túc làm Tỳ Kheo hoặc Tỳ Kheo Ni.
Ở thời đại này,
người xuất gia nhất định cần phải xuất chúng, đặc biệt siêu việt, có bối
cảnh giáo dục ưu tú, thì mới có thể trở thành bậc Pháp Khí được. Nếu là kẻ
không rành chữ nghĩa, cả ngày chỉ biết đi tìm cách móc nối, thủ đoạn, xin
xỏ, lợi dụng; hoặc là kẻ giả làm sư để kiếm ăn qua ngày, hoặc chỉ làm
những chuyện hoàn toàn không cao thượng, không thanh tịnh, chuyên môn phá
giới, thì kẻ đó chỉ làm ô nhục cửa Phật mà thôi, làm sao khiến cho Phật
Giáo ngày càng sáng lạng được? Làm sao khiến cho người ta sinh lòng cung
kính Tam Bảo đặng?
Vì thế từ đây về
sau, những ai muốn xuất gia ở Vạn Phật Thành, bất luận là nam hay nữ, già
hay trẻ, trước hết cần đỗ bằng Cử nhân, sau đó cần thuộc lòng Chú Lăng
Nghiêm và Kinh Lăng Nghiêm thì mới đủ tư cách xuất gia. Ngoài ra, người
xuất gia cần học thuộc lòng Giới Sa Di, 53 Tiểu chú, Kinh Phạm Võng Bồ Tát
Giới và thông đạt Tứ Phần Luật (tức là Giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni). Trước
kia, trong đạo tràng này, tiêu chuẩn xuất gia tuy không nghiêm khắc như
bây giờ, song tôi không thu nhận đồ đệ một cách cẩu thả. Trước khi thâu
nhận ai, tôi hết sức cẩn thận, cho họ trải qua một thời gian dài để quan
sát tư tưởng, ngôn hạnh của họ như thế nào rồi mới thâu nhận, thế phát cho
xuất gia. Song ở thời Mạt Pháp này, tà ma lộng hành nên tôi chẳng thể
không sửa đổi cho triệt để và tích cực đề cao phẩm cách đạo đức và học vấn
của người xuất gia. Phàm là kẻ theo tôi xuất gia thì cần phải "đầu đội
trời, chân đạp đất," văn võ toàn tài, là long tượng trong cửa Phật. Thậm
chí nếu lấy con mắt tục mà nhìn, thì phải là bậc nhân tài trác tuyệt, phi
phàm. Những kẻ theo tôi xuất gia đã lâu cũng cần học thuộc Kinh Lăng
Nghiêm và phải có thể sẵn sàng giảng giải nếu cần. Như vậy thì mới thực sự
đảm nhận trách nhiệm hoằng dương Chánh Pháp, tiếp nối sứ mệnh của Phật, và
cũng không uổng phí sự nghiệp xuất gia của mình!
45. ÐẠO
TRÀNG MỚI LẬP
(Vạn Phật Thành ngày 15 tháng 4 năm 1983)
Vạn Phật Thành mới
được thành lập, mọi sự đều chưa ổn định, nên có những chuyện tạp loạn,
không trật tự. Người ngoài tới đây trú ngụ thì hoàn toàn không hiểu rõ quy
củ, nên nhiều chuyện làm chưa được viên mãn. Trong giai đoạn này, kẻ tới
Vạn Phật Thành thì có tốt có xấu, rắn rồng lẫn lộn. Kỳ thật, kẻ xấu là cái
gương cho người tốt, người tốt cũng là cái gương cho kẻ xấu, cho nên hai
bên làm gương cho nhau, hỗ tương thuyết pháp, hỗ tương soi chiếu nhau. Con
người như vậy, Phật, Bồ Tát, Hộ Pháp cũng thế, và thiên ma ngoại đạo cũng
vậy.
Ởấ đây đạo tràng mới
thành lập, có rất nhiều Hộ Pháp. Vì có lẽ từ xưa chưa hề làm qua công
chuyện hộ pháp, hoặc vì làm biếng, muốn nghỉ xả hơi, cho nên gặp chuyện
rắc rối xảy ra thì họ không biết làm sao giải quyết cho êm đẹp. Cũng giống
như người mới tới Vạn Phật Thành, gặp chuyện gì cũng không biết làm sao xử
lý. Do đó có rất nhiều thiên ma, yêu quái muốn nhân cơ hội tới đây thừa
dịp "nước đục thả câu" để trục lợi.
Tuy nhiên không viên
mãn là sự bắt đầu của viên mãn. Những người sống ở Vạn Phật Thành tuyệt
đối cần phải có đức hạnh; không có đức hạnh thì không thể nào ở đây được
vì họ sẽ cảm thấy không tự do, tự tại. Kẻ có đức hạnh thì thấy thân tâm
rất an lạc, rất sung sướng, tự tại. Do nơi cảm giác đó mà có thể biết được
Vạn Phật Thành là đạo tràng như thế nào. Người có đức hạnh thì Phật Bồ
Tát, Hộ Pháp hết sức hoan hỷ; song bọn ma quỷ lại không ưa. Chúng muốn làm
cho những người đức hạnh này phải bỏ đi; do đó chúng dùng mọi thứ ma
thông, yêu thuật huyễn hoặc, để làm cho họ phải loạn tâm. Thậm chí có
những thứ súc sanh ngu dốt, những thứ côn trùng, cũng tới Vạn Phật Thành
để thi triển bản lĩnh, tác yêu tác quái.
Trên đời, có tốt thì
có xấu, cho nên chúng ta phải biết:
"Trạch thiện nhi
tùng,
Bất thiện nhi
cải.
Thị Ðạo tắc tiến,
Phi Ðạo tắc
thối."
Dịch là:
"Lựa tốt thì
theo,
Không tốt thì
sửa.
Là Ðạo thì tiến
tới,
Không phải là Ðạo
thì thối lui."
Cần có chánh tri,
chánh kiến nghĩa là cần có sự hiểu biết đúng đắn, có quan niệm đúng đắn.
Thế nào là hiểu biết và quan niệm đúng đắn? Tức là không tranh, không
tham, không truy cầu, không ích kỷ, không làm điều tự lợi, mà cũng chẳng
dối trá!
Tới Vạn Phật Thành
mà còn cái ngã to tướng, cho rằng mình hay mình giỏi, thì các vị đã lầm
lẫn rồi! Ở Vạn Phật Thành, nếu là rồng thì phải cuốn mình lại, nếu là cọp
thì phải nằm phục xuống; tất cả đều phải nghiêm thủ quy luật, không có
ngoại lệ. Nếu các vị nhận thức được đức hạnh và thiện căn của mình thì
đừng lãng phí, đừng vào núi vàng mà chẳng biết rồi tay không rời núi!
Vạn Phật Thành và
những đạo tràng khác chẳng có gì khác nhau. Chỉ có một điểm không giống
nhau là Vạn Phật Thành không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ,
không tự lợi, và không nói dối!
46.
BỐN ÐIỀU RĂN DẠY VỀ TÁNH THANH TỊNH CHÂN THẬT, BẤT HƯ
(Vạn Phật Thành ngày
17 tháng 4 năm 1983)
Bốn Ðiều Răn Dạy Về
Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong Kinh Lăng Nghiêm là:
"Ðoạn dâm, Ðoạn sát, Ðoạn thâu, Ðoạn vọng" (dứt dâm dục, dứt giết chóc,
dứt trộm cắp, dứt nói dối). Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau.
Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới
thâu, tức là ăn cắp, và giới vọng ngữ tức là nói láo. Bởi vì phạm giới dâm
thì sát, đạo, vọng, đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn,
nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể!
Phật thật là vô cùng
từ bi, hết lòng hết dạ dạy bảo chúng ta hết sức rõ ràng Bốn Ðiều Răn Dạy
Về Tánh Thanh Tịnh. Tuy nói rõ như vậy, nhưng có người lại không tin.
Không phải chỉ có một số người không tin mà thôi, trong đó, những kẻ không
tin lại là những học giả, những vị giáo sư, những kẻ xuất gia không giữ
giới luật. Những người đó không có niềm tin nên không có cách gì cải
thiện, cũng không cách gì để bài trừ cái gốc tà kiến của họ được; bởi vì
những điều hiểu biết sai lầm của họ đã chằng chịt, thâm căn cố đế, làm cho
họ mất lòng tin và công nhiên cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo!
Trong các bộ kinh mà
Phật nói ra, Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh hết sức trọng yếu. Dù cho các
vị học giả, giáo sư, những kẻ không giữ giới luật, cho đến những kẻ dùng
đủ thứ thần thông, hiện ra mười tám phép biến hóa, tới nói với tôi rằng
Kinh Lăng Nghiêm là giả đi nữa, thì tôi cũng không tin được! Tại vì sao?
Bởi vì Kinh Lăng Nghiêm dạy đạo lý hết sức chân chính, chỉ căn bịnh của
chúng sinh hết sức rõ ràng; đó là "vô minh tội nghiệp." Kinh này chính là
"đối bịnh cho thuốc," là lời khuyên răn rõ ràng nhất. Song người ta không
ai muốn uống thuốc đắng, mặc dù thuốc hay thì quá đắng, khó mà chịu nổi.
Nên dù có bậc thầy thuốc giỏi đưa toa thuốc ra thì họ cũng vất đi không
dùng, nói rằng thuốc chẳng có hiệu lực gì, rằng thứ thuốc này chỉ để lừa
người ta. Như vậy đúng là tự mình lừa mình và lừa người khác, tự mình làm
hại mình rồi hại người khác vậy!
Bởi vậy cho nên
những kẻ không hiểu biết cứ chạy theo những người này, nói rằng có những
vị học giả danh tiếng như vầy, có những nhà giáo sư nổi tiếng như kia,
hoặc có những vị Ðại Pháp Sư có tên tuổi như nọ nói rằng Kinh Lăng Nghiêm
này là giả; rồi họ chạy theo những người đó như những kẻ đui đi theo những
người mù, cùng nhau kẻ xướng người họa. Người ta nói làm sao thì họ nói
làm vậy, do đó rốt cuộc tà thuyết đầy dẫy.
Nếu thật sự đúng như
vậy, tức Kinh Lăng Nghiêm là giả, thì các vị trong Phật Giáo không cần
phải giữ giới luật làm gì, cũng không cần nghe Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh
Thanh Tịnh này làm gì, và cũng không cần biết đến Năm Mươi Thứ Ấm Ma là ra
sao, tất cả mọi thứ đều nhất tề vất bỏ hết! Các vị thử nghĩ coi, loại
người như vậy thật là ác độc vô cùng; nếu những người như thế đó mà không
bị xuống Ðịa ngục Cắt Lưỡi thì thật là không còn công lý gì nữa!
Mới đây tôi có nói
đến một em bé bị bịnh thần kinh (em bé này có bịnh tâm lý biến thái, hành
vi quái dị, toàn thân đều có bịnh). Ðứa bé này sở dĩ bị bịnh là vì kiếp
trước đã từng hủy báng kinh điển Ðại Thừa, tạo nên tội nghiệp đọa địa ngục
Vô Gián, bây giờ sinh ra làm người phải chịu quả báo như vậy. Ðó cũng là
vì loài người chúng ta không hiểu đạo lý, lại còn tự cho mình là hay là
giỏi, rồi công nhiên tạo ra đủ thứ tội nghiệp, còn trợn tròn mắt mà nói
láo. Hành động như vậy thật là mất hết lương tri, lương năng, làm cho bản
hữu trí huệ của mình bị hủy diệt đi; thật là đáng thương thay!
Bởi những kẻ hủy
báng kinh điển Ðại Thừa đó đã dùng tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý tạo ra đủ
thứ ác nghiệp, nên khi họ sinh làm người thì thành những kẻ mắc bịnh tâm
lý biến thái, trở nên vô tri, vô giác, đến khi thọ ác báo rồi, lại còn cho
rằng mình là hay là giỏi lắm!
Chúng ta không nên
dùng cái "thông minh giả" của mình mà hủy báng lời Phật. Nào là những kẻ
rất có tiếng tăm, nào là những nhà học giả trứ danh, nào là những vị giáo
sư uyên bác, nào là các vị Pháp Sư nổi tiếng, một khi họ nói ra lời hủy
báng Phật Pháp thì vô hình trung, lời nói của họ sẽ ảnh hưởng đến trăm
ngàn vạn ức, vô lượng, vô biên người khác, khiến cho những người đó đánh
mất đi lòng tin chơn chính. Cho nên các vị thấy, tạo ra tội nghiệp như vậy
không phải là tai hại vô cùng sao? Trăm ngàn kiếp về sau, họ sẽ đầu thai
làm kẻ thọ quả báo, trở thành những người câm! Bởi vì họ làm hại tri kiến
của kẻ khác, nói lên những lời khiến kẻ khác hiểu lầm đạo lý, như thế thật
là vô cùng nguy hại!
Các vị hãy nghĩ coi,
vì sao những người đó cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo? Là bởi vì họ
không thể làm được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh: Không dâm dục thì
họ không thể làm được, không sát sinh thì họ cũng chẳng làm nổi! Không
trộm cắp thì ở trên bề mặt có thể nói rằng họ không trộm cắp, nhưng thực
sự có rất nhiều học giả, giáo sư thường lấy trộm văn chương của học sinh
hay của kẻ khác rồi vá víu lại để làm của mình; nếu đem vật sở hữu của kẻ
khác mà làm của mình thì đó chính là trộm cắp vậy! Nếu một ngày nào mà họ
nói những lời lừa dối học sinh thì ngày đó họ đã nói láo rồi! Ðương nhiên
không phải tất cả những vị học giả hay giáo sư đều như vậy, song ở trong
hàng ngũ những người đạo đức luôn luôn có vô số những kẻ gian dối tác hại.
Bởi vì không làm
được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh đó nên họ sợ hãi, và không thể
chấp nhận lý luận trong Kinh được. Nếu họ chấp nhận lý luận của Kinh thì
họ không thể tồn tại, và dĩ nhiên họ sẽ mất đi địa vị của họ. Nhưng họ lại
không muốn như vậy nên mới làm trái với lương tâm, mới nói rằng Kinh Lăng
Nghiêm là giả. Khi có ý nghĩ như vậy là họ đã phạm tội lớn tày trời:
"Khoát đạt không,
Bát nhân quả,
Mãng mãng đãng
đãng, Chiêu ương họa."
Nghĩa là:
"Phủ nhận hết mọi
thứ,
Bác bỏ luật nhân
quả,
Thì tự chuốc lấy
tai ương."
Trong tương lai họ
sẽ thọ lãnh quả báo đọa địa ngục Vô Gián, lúc đó họ có hối lỗi thì không
còn kịp nữa!
47. NĂM MƯƠI THỨ
ẤM MA TRONG KINH LĂNG NGHIÊM
Hiện tại chúng ta
đang nghiên cứu Năm Mươi Thứ Ấm Ma, nhưng sợ rằng có đến năm trăm loại Ấm
Ma sẽ xuất hiện cả đây! Cho nên các vị đừng mở cửa để hoan nghinh chúng
làm loạn! Tuy nói là ma, song nhìn bề trái của nó thì chúng đến để giúp đỡ
sự tu Ðạo của mình, xem chí nguyện của mình kiên cố hay chẳng kiên cố. Nếu
kiên cố thì dù ngàn con ma tới mình cũng không thay đổi lập trường, vạn
con ma tới mình cũng không thối lui, cái gì mình cũng không sợ cả! Nếu
mình không có sở cầu, thì tức là: "Ðáo vô cầu xứ, tiện vô ưu." (Khi lòng
không mong cầu, tâm sẽ hết âu lo.)
"Vô sở cầu" tức là
không có điều gì sợ hãi. Sợ cái gì? Cũng giống như người sợ quỷ, nghĩ rằng
quỷ hết sức ghê gớm, xấu xí. Người nào cũng nghĩ rằng người chết thì biến
thành quỷ, nên họ sợ. Nhưng không ai sợ thần. Ông thần Kim Giáp là kẻ hết
sức lợi hại mà chẳng ai sợ ông ta!
Khổng Tử từng nói
rằng: "Kính quỷ thần nhi viễn chi." (Kính quỷ thần nhưng lánh xa họ.)
Song, mình đừng sợ quỷ cũng đừng sợ thần. Mình cung kính họ nhưng không
cần phải thân cận với họ.
Ma là thứ đến thử
thách người tu Ðạo nên các vị đừng có lòng khủng khiếp, lo sợ. Nếu mình sợ
sệt, thì dù không muốn kêu ma lại, nó cũng sẽ tới. Nếu mình không sợ, thì
nó muốn lại cũng không được. Ðó là mật quyết vô cùng trọng yếu: Ðừng sợ
hãi! Khi mình không khiếp nhược, không lo sợ, thì tự nhiên mình sẽ chánh.
"Chánh" thì có thể hàng phục mọi thứ, vì lẽ "tà bất thắng chánh." Ma sợ
nhất bốn chữ: Chánh Ðại Quang Minh. Nếu mình mà "chánh đại quang minh" thì
ma sẽ nép giữ quy củ, chúng sẽ hướng về mình mà đảnh lễ.
Bây giờ hãy nghiên
cứu cảnh giới Năm Mươi Thứ Ấm Ma. Năm mươi thứ đó tức là Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Ðây bất quá là nói sơ lược cốt tủy mà thôi. Kể tường tận thì
cảnh giới của chúng thật vô số, không thể kể hết được, nên Phật chỉ nói có
năm mươi thứ là để giúp người đời hiểu và quán sát dễ dàng. Khi sáng tỏ
được đạo lý của Năm Mươi Thứ Ấm Ma thì mình sẽ không bị cảnh giới đó làm
dao động, đó là điều hết sức quan trọng.
Nếu muốn đừng bị
cảnh giới làm dao động thì đầu tiên mình phải trì giới. Giới là căn bản
của tất cả các Ðịnh; Ðịnh là căn bản của Trí Huệ; Huệ là căn bản để thành
Phật. Nếu muốn thành Phật thì nhất định phải tu Giới, Ðịnh, Huệ. Tu mà
không tương hợp với Giới, Ðịnh, Huệ tức là mình tìm cầu pháp ở bên ngoài
tâm, tức là đã "hướng ngoại truy cầu"! Khi có Giới lực thì mình sẽ đắc
Ðịnh lực; có định lực thì mình sẽ có Huệ lực, vì chúng là tương sinh. Giới
sinh Ðịnh, Ðịnh phát Huệ, Huệ thành Phật; thiếu một thì chẳng thành được.
Do đó, hiện tại mình
phải dùng thái độ khách quan mà nghiên cứu, đừng có thái độ chủ quan. Khi
có thái độ chủ quan thì rất dễ có sự thiên lệch. Mình cần phải dùng Trạch
Pháp Nhãn (con mắt biết nhận định chân lý) mà quán sát, dùng Trí Diệu Quán
Sát mà nghiên cứu, nhưng đừng chấp trước ở điều mình quán sát. Trí Diệu
Quán Sát cũng giống như cái gương vậy, chẳng khác gì mấy với Trí Ðại Viên
Kính. Trí Ðại Viên Kính thì chẳng dao động mà có thể hiện ra tướng thật
của mọi sự; còn Trí Diệu Quán Sát thì có năng lực quán sát mọi vật khiến
mình biết được mọi vật một cách rõ ràng.
Phải dùng thái độ
khách quan, không thiên lệch, thì mới nhận thức được cảnh giới một cách rõ
ràng. Các vị mà nhận thức thấu đáo được cảnh giới thì sẽ không bị nó làm
cho mê loạn!
48. LĂNG
NGHIÊM ÐẠI ÐỊNH
Vì sao Chú Lăng
Nghiêm có nhiều điều tốt đẹp như vậy? Bởi vì niệm Chú Lăng Nghiêm thì có
thể nhập Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh. Lăng Nghiêm Ðại Ðịnh này không phải là định
mà cũng chẳng phải là không định, song không lúc nào là chẳng định (vô
định, vô bất định, vô hữu bất định thời). Cho nên nói rằng: "Na-già thường
tại Ðịnh, Vô hữu bất định thời." (Na-già, tức là rồng, lúc nào cũng ở
trong Ðịnh, không bao giờ chẳng định.)
Lăng Nghiêm Ðịnh là
định hết sức kiên cố, phát sinh ra vô lượng trí huệ, các thứ thiên ma,
ngoại đạo không thể nào phá hoại nổi.
Nhưng nhập Ðịnh để
làm gì? Ví như tới Disneyland vậy, nơi đó có đủ trò vui, đồng thời cũng có
đủ trò kinh dị, mình sẽ thấy những điều chưa từng thấy, nghe những điều
chưa từng nghe. Cũng vậy, khi nhập Ðịnh, mình sẽ trải qua những cảnh giới
chưa từng thấy hay nghe qua. Nếu như trong Ðịnh mà "như như bất động, liễu
liễu thường minh," không bị cảnh giới làm cho dao động, thì mình có thể
xoay chuyển tất cả cảnh giới. Ðó chính là sự kỳ diệu khi nhập Lăng Nghiêm
Ðịnh.
Không có Lăng Nghiêm
Ðịnh thì mình sẽ tùy theo cảnh giới mà xoay chuyển, cái gì lại thì mình
chạy theo cái đó, luôn luôn bị cảnh giới dắt dẫn. Khi mình có Lăng Nghiêm
Ðịnh này thì mình không còn bị cảnh giới xoay chuyển nữa. Mắt mình nhìn
hình sắc mà bên trong tâm không có rung động; tai mình nghe tiếng nhưng
lòng không bị lôi cuốn theo. Khi thấy việc gì xảy ra mà mình tỉnh giác thì
sẽ ra khỏi vòng phiền trược; nhưng nếu gặp việc mà mê muội, không tỉnh
giác, thì mình sẽ rớt vào vòng luân hồi.
Ở trong Ðịnh mình có
thể phát sinh vô lượng trí huệ, cho nên nói rằng Ðịnh sinh Huệ. Nếu không
nhập Ðịnh thì không thể khai được trí huệ, cũng giống như chưa tới
Disneyland thì không biết trong đó có gì. Cho nên có một vị cư sĩ mời tôi
đi Disneyland chơi, muốn tôi coi đây coi đó; họ cho rằng tôi chưa từng
thấy qua những chuyện đó bao giờ. Thật ra những hình sắc hay tất cả những
đồ vật đều không có gì đặc biệt cả. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay đã
thấy qua không biết bao nhiêu thứ, không biết bao nhiêu chuyện nữa, bất
quá mình đã nhìn qua rồi quên mất đi. Nếu như mình nhớ được một cách rõ
ràng thì không cần phải coi lại làm gì nữa.
49. ÐỪNG HAM THẦN THÔNG DỊ ÐOAN
(Vạn Phật Thành ngày
19 tháng 4 năm 1983)
Trên thế giới này có
nhiều chuyện kỳ quái, nhiều đến độ không thể nói hết được. Vì sao mà có đủ
sự việc kỳ quái như vậy? Bởi vì tâm lý con người "hiếu kỳ," thích sự kỳ
quái.
Con người có lòng
hiếu kỳ nên thế giới mới có những việc kỳ quái xuất hiện. Những thứ đó một
khi xuất hiện thì mê hoặc tâm người, khiến mình không còn làm chủ chính
mình nữa. Một khi đã không có chủ, gia đình và quốc gia cũng sẽ rối loạn.
Ðã loạn, thì những quỷ quái đó mặc tình hiện thần thông, làm cho con người
điên điên đảo đảo, chạy bên đông chạy bên tây, đi tìm chuyện kỳ diệu, thần
thông, linh nghiệm. Ðó đều là bị cảnh giới làm xoay chuyển rồi vậy.
Tại sao mình bị cảnh
giới xoay chuyển? Là bởi vì có tâm hiếu kỳ. Tâm hiếu kỳ này vốn là tâm
tham. Những chuyện kỳ quái phát sinh trên trần gian này, nếu mình nghiên
cứu sâu xa tận gốc rễ của nó, thì cũng do lòng tham này tạo ra. Nếu không
có lòng tham thì không cần thiết phải hiện ra những thứ kỳ quái, làm ra vẻ
đặc biệt kỳ quái để cho người ta nhìn mình là linh nghiệm như vậy, tốt đẹp
như vậy, khác thường như vậy. Bởi vì con người có tâm tham nên bị những
thứ kỳ quái đó hấp dẫn, lôi cuốn.
Những điều kỳ quái
khác thường đó đều là những việc không chánh đáng, đều thuộc về ma nghiệp.
Những việc chánh đáng là nghiệp của Phật. Cho nên hiện tại có rất nhiều
người mất đi chánh tri chánh kiến, cái biết cái nhìn đúng đắn. Bạn giảng
Pháp chân chánh thì họ nghe không lọt tai, giảng cách nào họ cũng không
chấp nhận, thậm chí lời vào tai bên trái thì chạy ra tai bên phải. Song
nếu bạn nói những điều kỳ quái, đặc biệt thì họ vĩnh viễn nhớ không bao
giờ quên, đó chứng minh là con người bị lòng tham tác quái!
Vì sao mà họ không
nhớ được điều chân chánh? Bởi vì họ cảm thấy không có gì lợi cho họ cả. Kỳ
thật điều chân chánh mới thật là lợi ích. Những người trên thế gian này đa
số nhận cái giả mà không chịu nhận cái chân thật, nhận kẻ cướp làm con của
mình. Vì vậy khi mình nói điều ngay thẳng, chân thật thì họ chẳng muốn
nghe, nhưng khi nói những điều nịnh hót thì họ hết sức vui vẻ. Thật là:
"Trung ngôn nghịch nhĩ, lợi ư hành, Lương dược khổ khẩu, lợi ư bịnh." (Lời
trung thật tuy khó nghe nhưng lợi cho việc làm, Thuốc tốt tuy đắng nhưng
trị lành được bịnh.)
Ða số người đời đều
không muốn tiếp thọ lời trung ngôn, tức là lời nói ngay thẳng, cũng như
không muốn uống thứ thuốc tốt, nhưng rất là đắng. Nếu mà đưa cho họ thuốc
đắng thì họ nhăn mặt làm ra vẻ khó chịu, nói rằng: "Ô! Thuốc này khó uống
quá". Nhưng thuốc khó uống như vậy thì bịnh mới lành được!
Thời đại bây giờ
người ta là vậy đó, giảng chuyện của Phật, của Bồ Tát thì không ai muốn
nghe cả; nhưng nếu kể chuyện yêu ma quỷ quái thì họ lại thích nghe. Thí dụ
như nghe kể chuyện trai gái không giữ quy củ, sống hết sức phóng túng, thì
người ta lại thích thú bởi vì chính họ cũng không muốn giữ quy củ. Ðó là
những ý tưởng hết sức hèn hạ, hết sức tệ hại.
Cho nên, có những
người tới Vạn Phật Thành rồi mà không ở lâu được là vì sao? Là vì họ không
có tinh thần hy sinh, không có tư tưởng chân chính vì Pháp quên mình.
Người chân chính vì Pháp quên mình thì dù đuổi họ, họ cũng không đi; đánh
chưởi họ, họ cũng chẳng chạy. Họ cảm thấy rằng đây qủa thật là chỗ Chánh
Pháp trụ thế, họ muốn tiếp cận với Chánh Pháp!
Chúng ta ở đây đang
nghiên cứu Năm Mươi Thứ Ấm Ma, đối với thời đại này thì hết sức hữu dụng.
Chúng ta muốn hoằng dương Phật Pháp thì phải có tinh thần đại hy sinh,
đừng tham lợi ích tiện nghi gì cả. Hễ có kẻ cúng dường phẩm vật mà mắt
mình sáng rực, miệng mình cười toe toét, thì mình thật là chẳng ra gì!
50. MUỐN
ÐỘ CHÚNG SINH THÌ TRƯỚC HẾT MÌNH ÐỪNG ĂN THỊT
Chúng sinh là do
nhân duyên hòa hợp mà thành, từ mười hai nhân duyên mà biến thành người.
Từ con kiến cho đến những thứ vi khuẩn đều là chúng sinh. Chúng ta không
cần phải đi ra bên ngoài mà tìm chúng sinh, ngay trong tự tánh của mình
cũng có vô lượng chúng sinh.
Khoa học hiện tại
phát triển đã chứng minh rằng trong thân thể ngũ tạng lục phủ con người có
vô số loại vi khuẩn và vi sinh trùng; như vậy có nghiã là có vô lượng
chúng sinh. Khi con người ăn thịt loại động vật nào, thí dụ như heo, bò
hay cá, thì trong đó có vô số loại vi khuẩn. Con người ăn loại thịt đó vào
trong bụng thì tự nhiên sẽ có chủng tử của những thứ vi khuẩn đó; ăn càng
nhiều thì mình cùng với những thứ vi khuẩn đó kết làm quyến thuộc càng
mạnh, kết duyên với nó càng sâu, cho đến chỗ là mình với nó không còn phân
ly, chia cách nữa!
Ăn thịt heo càng
nhiều thì mình rất có cơ hội để biến thành heo, ăn thịt bò càng nhiều thì
mình rất có thể sinh làm bò. Nếu mà ăn gạo càng nhiều thì mình có thể biến
thành gạo chăng? Gạo là loại vô tình, còn chúng sinh là loài hữu tình. Nếu
ăn loài hữu tình thì mình có thể trở thành những thứ chúng sinh hữu tình.
Nếu ăn những loại vô tình (thực vật) thì mình có thể giúp cho sự phát
triển của Pháp thân, Huệ mạng. Nếu con người không ăn thịt chúng sinh nào
thì tức là mình độ cho chúng sinh đó, khiến chúng vượt qua khổ hải, tới bờ
Niết Bàn. Con người nếu hiểu được đạo lý này thì không nên ăn thịt chúng
sinh.
Khi xưa, có kẻ vì ăn
thịt chúng sinh nên khi chết rồi thì bị đọa lạc xuống gặp Diêm La Vương.
Lúc còn sống ông ta ăn qua những loại thịt của chúng sinh nào, thì những
thứ đó bây giờ đều tới để đòi nợ. Người ăn thịt tự biện hộ như vầy: "Tôi
tuy là ăn thịt nhưng tội không phải thuộc về tôi mà thuộc về người bán
thịt mới đúng!"
Bấy giờ vua Diêm La
mới truyền lịnh kêu người bán thịt lại; người bán thịt cũng tự biện hộ
rằng: "Tôi sở dĩ mà bán thịt là vì có người mua thịt, nếu không có người
mua thì bán thịt làm gì?"
Người bán thịt với
người ăn thịt, hai người mới tranh luận với nhau, sau cùng thì hai người
đó đổ trách nhiệm lên anh chàng đồ tể.
Diêm La Vương lại
kêu anh chàng đồ tể vào. Anh đồ tể này cũng tự biện hộ rằng: "Tôi đúng là
đồ tể, nhưng vì có người mua cũng như có người ăn thì tôi mới làm nghề đồ
tể. Nếu chẳng có người mua cũng chẳng có người ăn thì tôi cũng chẳng làm
nghề này được!"
Vì thế, mọi người
đều nói lên cái lý của mình, lý lẽ mà họ nói ra đều là tạo tội nghiệp cả.
Kết quả, Diêm La Vương phán rằng người ăn thịt phải bồi thường nợ máu. Cho
nên, chúng ta ăn thịt một loài chúng sinh nào là kết oán với loài chúng
sinh đó. Có bài thơ rằng:
"Nhục" tự lý biên
lưỡng cá nhân,
Lý biên nhân thực
ngoại biên nhân,
Chúng sinh hoàn
thực chúng sinh nhục
Tử tế tư lượng
nhân thực nhân."
Nghiã là:
"Ở trong chữ
"nhục" có hai người,
Người bên trong
ăn người bên ngoài,
Chính chúng sinh
ăn thịt chúng sinh,
Nghĩ cho kỹ là người ăn
người!"
Trong Kinh Lăng
Nghiêm có chép: "Dương tử vi nhân, nhân tử vi dương." (Dê chết trở làm
người, người chết trở làm dê.) Con dê có thể làm người, thì con heo cũng
có thể làm người. Nếu chưa có Thiên Nhãn Thông thì mình không quán sát
được nhân duyên đó nên cho rằng heo là heo, dê là dê. Con người mà ăn
nhiều thịt chúng sinh thì bản hữu trí huệ của họ bị che lấp, mất linh tánh
và biến thành ngu si.
Bởi vậy muốn
độ chúng sinh thì trước tiên đừng nên ăn thịt! Con người muốn độ chúng
sinh thì phải độ tự tánh của chúng sinh, độ sinh thì phải ly tướng. Không
có chấp trước thì mới thật sự là độ sinh vậy!