KHAI THỊ QUYỂN 2
Hòa thượng Tuyên Hóa
Ban Phiên
Dịch Việt Ngữ Trường Ðại Học Pháp Giới
Vạn Phật
Thánh Thành Talmage, California
Phần 2
11.
KHAI THỊ NHÂN NGÀY LỄ PHẬT ÐẢN
(Vạn Phật Thành ngày 1 tháng 5 năm 1982)
Ðức Phật Thích Ca
Mâu Ni trong quá khứ đã: Tam kỳ tu phước huệ,Bách kiếp chủng tướng hảo.
Nghĩa là trong ba A-tăng-kỳ kiếp Ngài tu phước, huệ, và hàng trăm kiếp thì
vun trồng tướng hảo. Ngài tu khổ hạnh, làm những việc khó ai làm được; tu
hạnh nhẫn nại, chịu đựng những chuyện người đời khó nhẫn nại được. Vì
chúng sinh mà Ngài phát tâm Bồ Ðề, tu Nhất Thiết Trí, không tiếc thân mạng
để giáo hóa chúng sinh. Kiếp này qua kiếp khác Ngài nhẫn khổ nại lao; ăn
những thứ mà người ta không muốn ăn, nhường nhịn những chuyện mà người ta
không thể nhường nhịn. Cho nên Ngài mới thành Phật, chứng quả Bồ Ðề.
Phật không phải tu
một ngày một đêm mà thành; Ngài phải tu ba A-tăng-kỳ kiếp, rồi sau đó thị
hiện Tám Tướng Thành Ðạo (3). Tám Tướng Thành Ðạo này là gì? Tướng thứ
nhất là từ nơi trời Ðâu Suất giáng sinh. Cõi trời Ðâu Suất là nơi Pháp
Vương Tử chuẩn bị thành Phật (Bổ Xứ) trú ngụ. Tướng thứ nhì là Trụ Thai.
Phật ở trong bào thai thì Ngài luôn chuyển Pháp Luân giáo hóa chúng sinh,
vì tất cả chúng sinh hữu duyên mà Ngài thuyết Pháp. Tướng thứ ba là Xuất
Thai. Phật ra khỏi thai là ngày mùng tám tháng tư. Sau khi ra khỏi thai
rồi thì Ngài một tay chỉ trời một tay chỉ đất mà nói:
"Thiên thượng
thiên hạ, Duy ngã độc tôn!"
Nghĩa là:
"Trên trời dưới
đất, Không ai tôn quý bằng ta!"
Có phải chăng Ðức
Phật hết sức cống cao ngã mạn? Tôi không phải là luật sư biện hộ cho Phật,
nhưng Phật đích thực là người xứng đáng được mang danh hiệu như vậy. Mới
sinh ra mà nói vậy là Ngài muốn giới thiệu cho chúng sinh hiểu Ðạo. Ngày
Phật ra đời có chín con rồng phun nước tắm Ngài; lớn lên trong cung, Ngài
học đủ pháp thế gian. Tất cả những kỹ năng của người đời Ngài đều học qua.
Nói là học nhưng thật ra Ngài thông đạt vô ngại.
Một hôm Ngài đi dạo
chơi bốn cửa thành thì thấy cảnh sinh, lão, bịnh, tử, nên ý thức được đời
người toàn là khổ đau, trải qua sinh, trụ, dị, diệt, cũng là thành, trụ,
hoại, không. Nhận thấy rằng sinh, lão, bịnh, tử khổ thật là đầy dẫy phiền
não, đời người chẳng có ý nghĩa gì nên Ngài mới xả bỏ địa vị phú quý mà ra
đi; đó là một trong Tám Tướng Thành Ðạo.
Phật tu hạnh Ðầu Ðà
có thể nói là giỏi bậc nhất. Khi ở núi Tuyết Sơn thì mỗi ngày Ngài dụng
công tu hành, chỉ ăn một hạt mè để duy trì sinh mạng, chẳng hề uống
vitamin A, B, C gì cả. Sau đó Ngài thọ sữa dê do một cô gái cúng dường rồi
tới gốc Bồ Ðề mà tịnh tọa và phát nguyện rằng: "Nếu ta không chứng được
Chánh Ðẳng Chánh Giác thì nhất định không đứng dậy." Liền đó Ngài ngồi
trong 49 ngày. Cơ duyên thành thục, nửa đêm Ngài nhìn thấy sao mai rồi ngộ
Ðạo, thốt nhiên chứng đắc trạng thái không sinh không diệt, không tăng
không giảm, không dơ không sạch, bổn lai thanh tịnh bản thể, diệu minh
chơn tâm.
Là đệ tử của Phật ở
thời Mạt Pháp này, chúng ta cần phải làm người Phật tử chân chánh. Phải
biết rằng Phật và các Tổ Sư trong quá khứ tu hành không phải dễ dàng. Bây
giờ mình mỗi ngày tuy không phải ăn một hạt mè, song chỉ cần đừng ham ăn
đồ ngon, đừng ham vitamin, ham bổ dưỡng là được. Thân này là bọc thịt thối
do bốn đại giả hợp, chẳng quý báu gì; bây giờ mình lại vì cái túi da hôi
hám này mà làm trâu làm ngựa, làm nô lệ! Không biết mình làm nô lệ như vậy
bao lâu rồi, không biết tạo ra bao nhiêu ác nghiệp rồi mà bây giờ cũng
chưa chịu "khán phá phóng hạ," chưa chịu nhìn cho thông suốt và buông bỏ
nó, vẫn tiếp tục làm trâu ngựa; thật là chẳng có giá trị gì cả. Cho nên
mình phải quay về cội nguồn nguyên thủy của mình.
Học Phật, tu hành,
là để biết rõ nhân sinh là thống khổ, rồi chứng quả thành Phật, đó mới
chính thật là chân lý. Nên hôm nay, nhân ngày Phật Ðản, chúng ta phải y
lời Phật dạy, lấy thân Phật làm thân mình, lấy hành vi của Phật làm hành
vi của mình, lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy nguyện của Phật làm nguyện của
mình, lấy chí của Phật làm chí của mình. Phải nhẫn nại học hỏi tinh thần
không sợ gian nan, khổ cực. Ðược vậy thì ai cũng sẽ thành Phật, đạt ngộ
liễu sinh thoát tử.
Vì cầu Nhất Thiết
Trí nên Phật không tiếc thân mạng, phát khởi tinh thần dũng mãnh tu hành.
Bây giờ mình không chịu được cực nhọc thì làm sao mà thành Phật được? Khi
đã xuất gia lại không chân chính tu hành thì thật là cô phụ tấm lòng của
chư Phật, chư Bồ Tát và các Tổ Sư! Nếu một ngày mà lòng tham không trừ,
lòng tranh không dẹp, lòng cầu danh lợi chẳng phá bỏ, lòng ích kỷ tự lợi
cứ tăng trưởng, thì còn mặt mũi nào đối diện với Phật, với cha mẹ, tổ tiên
được? Ðừng nên nghĩ tới thân mình, mà phải vì kẻ khác. Phải tinh tấn tu
hành; đừng uổng phí thời giờ. Con quỷ Vô Thường không biết chừng nào lại;
khi nó tới thì dù mình muốn sống thêm vài ngày cũng không xong:
"Mạc đãi lão lai
phương học Ðạo,
Cô phần đô thị
thiếu niên nhân."
Dịch là:
"Ðừng chờ già lão
mới chịu tu,
Mộ phần đầy dẫy
bọn trẻ măng."
Ở đời, sinh rồi
chết, chết rồi sinh; nếu sống không xứng đáng thì chết làm súc sinh. Khi
thân này đã mất thì vạn kiếp khó phục hồi. Nên chi đừng tự lừa dối mình,
đừng làm ông luật sư để tự biện hộ. Cứ nghĩ rằng chẳng cần tu hành, có
ngày Phật sẽ giúp mình thành Phật! Ngay như Tôn giả A Nan là em của Phật,
song Phật cũng không thể ban bố Tam muội cho ngài A Nan, mà chính ngài A
Nan phải tự nỗ lực tu hành.
Vì thế, các vị tới
Vạn Phật Thành tức là tới Tuyển Phật Trường (nơi thi tuyển để thành Phật);
các vị phải học cho giỏi thì đến lúc làm bài thi mới có thể đậu được. Ðừng
chờ tới khi thi rớt, lúc đó hối hận thì đã trễ!
12.
BÁCH KHỔ GIAO TIÊN
(Vạn
Phật Thành ngày 1 tháng 5 năm 1982)
Lúc Ðức Phật Thích
Ca rời hoàng cung tu Ðạo thì bên cha có ba người,(4) bên mẹ có hai người
cùng theo Ngài; song những người này cuối cùng đều rời bỏ Phật. Nhân duyên
như thế nào? Ba người nói Phật tu quá khổ, họ chịu không nổi nên bỏ Phật
để tu pháp môn khác; còn hai người kia khi thấy Phật uống sữa dê thì cho
rằng Phật không chịu khổ, tham hưởng thụ, do đó họ cũng bỏ Phật. Các vị
thử quan sát xem: căn tánh của chúng sinh khó mà làm vừa lòng được; nên
nói: "Chư Phật nan mãn chúng sanh nguyện."
Chúng sinh ham muốn
đủ thứ. Hễ muốn gì thì tham cái đó, tham không đáy. Nên nếu bạn làm vừa
lòng họ điều này, thì họ lại tham muốn thứ khác. Tham dục là cái túi tham
không đáy. Không lúc nào lòng tham dục này có thể mãn túc được; hết tham
cái này lại tham cái kia. Ðẻ ra là đã bắt đầu tham rồi; từ trẻ thơ cho đến
lúc tráng niên, từ tráng niên đến già lão, từ già đến chết, cả một đời là
tham cầu. Tham cầu danh thì chết vì danh; tham cầu lợi thì chết vì lợi.
Tham danh thì bị lửa thiêu cho chết, tham lợi thì bị nước dìm cho chết;
cho nên đó là hai cái nạn về nước và lửa. Còn nếu mình ham cầu vinh hoa
phú quý thì chết vì gió. Ðó là ba mối họa của người đời (Tam Tai). Chúng
sinh coi trọng thế sự quá sức, không chịu buông bỏ!
Ðức Phật Thích Ca
lúc tu hành thì biết nhẫn khổ nại lao, thế mà bạn đồng đạo bỏ Ngài để tu
pháp ngoại đạo khác. Hiện tại chúng ta theo Pháp Phật tu hành nên có rất
nhiều người không đồng ý, cho rằng quá sức khổ, lại chịu thiệt thòi quá
lớn đi. Những kẻ đó không phát lòng chân thành, không sinh nguyện chân
thật. Nhiều vị xuất gia rồi thì chỉ biết ăn rồi chờ chết, không lý hội
được vấn đề sinh tử của mình, rồi hết sức tùy tiện bê bối mặc cho ngày
tháng trôi qua, khi con quỷ Vô Thường tới thì không có chỗ nào để bám víu
cả, sống hay chết đều chẳng được tự do.
Những người xuất gia
như vậy thật lãng phí thời gian. Ðừng nên nghĩ rằng mình theo Phật Giáo
thì tha hồ tùy tiện tạo nghiệp. Nếu nghĩ vậy thì mình là những kẻ tội
nhân. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni tu pháp môn khổ hạnh mà người khác không
chịu nổi nên cuối cùng Ngài mới khai ngộ thành Phật. Lúc đầu Ngài dạy Pháp
Tứ Ðế: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Khổ thì có ba loại khổ (Tam khổ), có tám loại
khổ (Bát khổ), có vô lượng khổ. Ba loại khổ thì gồm có Khổ khổ, Hành khổ,
và Hoại khổ.
Khổ khổ là gì? Tức
là cái khổ của những kẻ bần cùng.
Hoại khổ là cái khổ
của những kẻ phú quý.
Hành khổ là cái khổ
của những kẻ không giàu không nghèo.
Khổ khổ, hay cái khổ
của những kẻ bần cùng là gì? Là không có nhà cửa để ở, không có áo quần ấm
để che lạnh, không có áo quần mỏng để mặc khi trời nóng, lại cũng không có
thực phẩm mà ăn. Ðó là hoàn cảnh hết sức khổ, cái khổ ở trong cái khổ, cái
khổ ở trên cái khổ, vạn cái khổ quấn quýt với nhau.Tại sao phải chịu khổ
như vậy? Bởi vì kiếp xưa chẳng chịu tu hành, hoặc là lừa sư diệt tổ, hoặc
là khinh Pháp mạn giáo, làm đủ thứ ác nghiệp, chỉ nghe theo danh lợi hão
huyền, nghe theo lời xúi giục xảo quyệt của lòng mình, không biết tu hành,
nên mới đọa lạc, chịu tất cả khổ não đó. Những kẻ thọ khổ, đại đa số là do
hàng thú vật đầu thai; bởi vì kiếp trước hủy báng Ðại Thừa, lừa sư diệt
tổ, nên đọa lạc xuống địa ngục, rồi từ địa ngục chuyển thành quỷ đói, rồi
thành súc sanh, sau cùng làm người. Nhưng làm người thì các căn không đầy
đủ, ngũ quan không có đoan chánh.
Thứ hai là Hoại khổ.
Ðó là cái khổ không phải người nghèo chịu nhưng là cái khổ của những người
phú quý chịu. Kẻ giàu thì áo quần, ăn mặc, nhà cửa đều vẹn toàn; có xe
hơi, tàu thủy, có đủ điều sung sướng, nhưng đột nhiên gặp phải hỏa hoạn
thiêu sạch hết mọi thứ vật dụng chẳng còn gì cả. Hoặc bị rớt máy bay, hay
ngồi thuyền bị chết chìm trong biển, đó đều là Hoại khổ. Giàu đương nhiên
là tốt rồi nhưng bất ngờ, khi tai họa xảy ra, cái gì cũng không còn cả, đó
gọi là "hoại." "Hoại" ở đây không phải là phá hoại sự khổ sở mà là phá
hoại phước báo của mình.
Thứ ba là Hành khổẩ,
tức là cái khổ mà kẻ giàu người nghèo gì cũng chịu. Kẻ bình thường, từ trẻ
thơ tới tráng niên, rồi từ tráng niên đến già, rồi già rồi chết, trải qua
biến chuyển từng phút từng giây mà tự mình không làm chủ được. Lúc già rồi
thì mắt mờ, tai điếc, thậm chí tay chân không còn linh hoạt nữa. Ðó là
hình tướng của Hành khổ.
Ba cái khổ trên đây
có thế lực rất lớn ở thế gian này, tất cả anh hùng hào kiệt đều chạy không
thoát những cái khổ này, thậm chí chết vì khổ. Các vị nghĩ coi điều này có
đáng thương xót chăng?"Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo." Báo ứng chỉ là
chuyện sớm hay muộn mà thôi; họa, phước nhỏ như sợi lông cũng không bao
giờ sai. Cho nên mình đừng theo bản tánh của mình mà làm càn, tạo đủ thứ
ác nghiệp. Nhất thất túc thành thiên cổ hận, Tái hồi đầu dĩ bách niên
thân! (Khi sẩy chân, sẽ ân hận ngàn thu, Quay đầu lại, đời người đã trăm
năm!)
Ở thế gian, bất luận
mình làm gì cũng cần phải có chính khí. Người xuất gia cần phải hộ trì
Chánh Pháp, hành trì Chánh Pháp, lúc nào cũng phải theo khuôn khổ nề nếp,
không nên phạm giới, dù hết sức nhỏ. Nếu mình không cẩn thận thì rất dễ
tạo nghiệp; cho nên nói: "Ðịa ngục môn tiền Tăng Ðạo đa." (Cửa địa ngục
đầy ắp kẻ tu hành.)
Người xuất gia nếu
không giữ giới luật, theo quy củ, thì nhất định sẽ đọa địa ngục, chẳng có
ngoại lệ gì đâu! Bởi vì mình đã biết rõ mà còn cố phạm thì tội tăng gấp ba
lần người thường. Ðây không phải là chuyện nói đùa đâu; đừng nghĩ rằng
Phật, Bồ Tát không thấy chuyện mình làm, rồi mình muốn làm gì thì làm.
Trong lòng các vị nghĩ chuyện gì thì trời đều biết cả, hà huống là Phật và
Bồ Tát! Ðừng cho rằng Phật và Bồ Tát không có mắt rồi mình mặc tình làm
loạn, làm càn. Ðó giống như là "yếm nhĩ đạo linh," bịt tai đánh chuông ăn
cắp rồi chạy trốn mà cứ tưởng người khác không nghe. Thật là tự mình lừa
dối chính mình, sau cùng sẽ chịu quả báo, lúc đó có hối hận thì đã muộn.
13.
BÁT KHỔ
Lão Tử nói rằng:
"Ngô sở dĩ hữu
đại hoạn giả, vi ngô hữu thân;
Cập ngô vô thân,
ngô hữu hà hoạn?"
Dịch là:
"Ta có họa lớn vì
có thân này,
Thân ta chẳng có
thì họa sao còn?"
Con người có đủ thứ
chấp trước song không chịu xả bỏ là do bị nhốt trong chuồng Ngũ Uẩn. Vì
không thoát đặng nên ở trong vòng Ngũ ấợm này mà phát sinh đủ thứ chấp
trước, đủ thứ phân biệt, đủ thứ vọng tưởng, không tài nào thoát khỏi sinh
tử được.
Trong Phật Giáo nói
về Khổ thì khi trước tôi đã nói về Tam khổ rồi; bây giờ nói về Bát khổ.
Bát khổ này bao quát tám loại; thực tế không phải chỉ có tám khổ thôi, mà
có vô lượng vô biên nỗi khổ.
Bát khổ là gì? Ðó
là: Sinh, lão, bịnh, tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tăng hội khổ, Ngũ ấợm xí
thạnh khổ, Cầu bất đắc khổ. Tám cái khổ này làm hại con người trên thế
gian nhiều lắm.
1. Sanh khổ: Con
người sinh ra là đã chịu khổ nạn vô cùng rồi. Khi còn trong bụng mẹ, mẹ ăn
đồ lạnh thì con cảm giác như là ở trong núi tuyết vậy; mẹ ăn đồ nóng thì
con tưởng như ở trong núi lửa vậy. Rồi đủ chuyện không như ý phát sinh.
Ðến lúc sinh ra thì cũng như bi ép giữa hai hòn núi vậy; nên con nít sinh
ra là khóc oa oa: "Khổ quá! Khổ quá!" Ðó là vì con nít muốn than khổ nhưng
không biết nói nên chỉ khóc.
Nếu con người không
có thân thể thì không có cảm giác đau khổ gì cả, nhưng khi có thân thể thì
có đủ thứ cảm giác thống khổ. Nên lúc sinh ra cũng giống như lúc con rùa
bị rứt khỏi mu vậy. Thống khổ khó mà nhẫn nại được.
2. Tử khổ: Có sinh
thì phải có chết. Lúc chết thì Tứ Ðại phân tán, bị gió nghiệp thổi đi. Ðau
khổ đó thật khó mà diễn bày được.
3. Bịnh khổ: Thân
thể con người do đất, nước, gió, lửa giả hợp mà thành. Nếu lửa nhiều thì
nước ít, nếu gió nhiều thì đất ít, nếu nước nhiều thì lửa ít. Tứ Ðại không
điều hợp, không quân bình thì tự nhiên sinh bịnh; có bịnh thì có đau đớn.
Con người mà đầu
đau, chân nhức hoặc là tay, lưng, tỳ, vị, thận,... sanh bịnh đều có nguyên
nhân của nó. Nếu kẻ nào mà hiếu sắc thì thận dễ bị bịnh; kẻ tham tài thì
tim dễ bịnh, kẻ thích nóng giận thì gan rất dễ bịnh, kẻ nào buồn phiền thì
phổi dễ sinh bịnh, kẻ nào lòng chứa oán ghét thì tỳ dễ sinh bịnh. Tâm,
can, tỳ, phế, thận có bịnh đều do hận, oán, não, nộ, phiền sinh ra. Người
có tâm sân hận thì hại trái tim, người có tâm oán nặng thì hại tỳ, người
có lòng buồn rầu lo lắng thì hại phổi, người có lòng nóng giận nhiều thì
hại gan, người có lòng phiền nhiều thì hại thận. Nên Bốn Ðại không điều
hợp thì do hận, oán, não, nộ, phiền, và thất tình tác quái. Nếu vui nhiều
quá, oán hận nhiều quá, buồn bã rầu rĩ nhiều quá, sợ hãi nhiều quá, hoặc
là dục vọng nhiều quá đều làm cho Tứ Ðại không điều hợp, sinh ra đủ thứ
bịnh hoạn. Có bịnh thì rất dễ già, nên sau khi bịnh rồi thì tới lão.
4. Lão khổ: Khi già
thì mắt hoa, tai điếc, răng rụng, chân run, thân thể đứng không vững nữa.
Sinh, lão, bịnh, tử,
là bốn thứ khổ làm cho con người không tự tại, phát sinh ra đủ thứ phiền
não.
5. Ái biệt ly khổ:
Vì sao mình làm người? Bởi vì mình có ái, có yêu nên mới tới thế giới Ngũ
Trược này. Nếu yêu đương mà ít thì mình không sinh vào thế giới này đâu,
mà sẽ sinh về Cực Lạc Thế Giới, Lưu Ly Thế Giới, hoặc những thế giới khác.
Cổ nhân nói rằng:
"Ái bất trọng bất sanh Ta Bà, Nghiệp bất không bất sanh Cực Lạc." (Ái tình
không nặng đâu sinh Ta Bà, Nghiệp chướng chẳng hết sao về Cực Lạc?) Nghiệp
hết, tình không, thì thành Phật; nghiệp nặng, tình nhiều, tức là phàm phu.
Kẻ phàm phu thì bị tình ái làm mê loạn, không phá thủng nổi lưới tình, lại
cho rằng ái tình là cao quý nhất. Người đời cho rằng ái tình trai gái là
chuyện hết sức quý giá. Kỳ thật, ái càng nặng thì tình càng thâm, càng hãm
mình vào vòng ngu si mê muội. Có kẻ biết là bẫy rập nhưng rồi cũng chui
vào lưới tình. Con trai, con gái khi trưởng thành rồi thì chỉ nghĩ tới
chuyện mau mau mà kết hôn. Thật là quen đường cũ quá rồi! "Ái" là thứ tình
cảm quyến luyến. Có người thì yêu tiền, có người thì yêu sắc. Tiền tài là
vật ở ngoài thân, sắc đẹp thì cảm nhận ở trong lòng. Tình cảm quyến luyến
cũng là do yêu thương mà ra.
Tinh thần đau khổ
thì tâm không tự tại, đủ thứ khó chịu là cũng vì có ái tình này. Ái biệt
ly khổ là cái khổ chia ly khi hai người đang thương yêu nhau. Hai kẻ yêu
nhau như keo sơn, như cá với nước, thì đột nhiên có chuyện xảy ra khiến họ
bất đắc dĩ phải chia tay. Họ lâm vào tình cảnh thật khó ly biệt, khó chia
tay; còn có nỗi khổ nào bằng không dễ khống chế được, cho nên gọi là Ái
biệt ly khổ.
6. Oán tăng hội khổ:
Khi mình gặp mặt nói chuyện với người có nhân duyên thì cảm thấy rất dung
hợp, làm việc với nhau rất dễ dàng, không có xung đột. Nhưng có những
người khi mình mới gặp mặt thì cảm thấy không có nhân duyên, muốn ghét họ
liền, nên mới tìm cách tránh mặt đối phương, tìm chỗ khác để đi. Nào ngờ
tới chỗ khác cũng lại gặp kẻ đó! Mình càng ghét họ bao nhiêu thì càng đối
đầu với họ bấy nhiêu. Ðó cũng là một nỗi khổ.
7. Cầu bất đắc khổ:
Có mong cầu là bởi có lòng tham. Tham mà không thỏa thì sinh phiền não,
cho nên đó cũng là khổ. Cầu danh, cầu lợi, cầu tiền, cầu sắc mà không được
thì khổ, vì chẳng thỏa mãn tâm nguyện mình muốn.
Cầu mà được cũng
chưa kể là sung sướng. Thí dụ như khi chưa kiếm được tiền thì sợ là không
kiếm được; khi kiếm được thì lại sợ sẽ mất đi, cho nên ngày đêm đề phòng.
Bởi vậy, cầu được đã là khổ, mà cầu chẳng được lại càng khổ hơn! Do đó đối
với việc khác, cứ theo đây mà suy ra. Chưa có thì sợ không kiếm được, có
rồi thì lại sợ mất. Ðó đều là trạng thái lòng không bình thản, không tự
tại, không an lạc.
8. Ngũ ấm xí thạnh
khổ: Ngũ ấợm tức là sắc, thọ, tưởng, hành và thức; cũng gọi là Ngũ Uẩn. Nó
là thứ rất khó hàng phục, rất khó có thể thấy nó là không. Ngũ ấợm này
phừng phừng phát hiện giống như lửa vậy, thiêu đốt tâm thần của mình, làm
mình thống khổ vô vàn. Nếu mình có pháp An tâm, pháp An thân thì tám cái
khổ này chẳng thể động chạm tới mình đặng; nên nói:
"Lão Tăng tự hữu
An thân pháp,
Bát Khổ giao tiên
dã vô phòng."
Dịch là:
"Sư già vốn có
phép An thân,
Tám khổ chằng
chịt chẳng nhằm gì."
14. TU
ÐẠO KHÔNG CẦN QUÁ THÔNG MINH
(Vạn Phật Thành ngày
7 tháng 5 năm 1982)
Lão Tử nói:
"Dưỡng thành đại
chuyết phương vi xảo,
Học đáo như ngu
thủy kiến kỳ."
Dịch là:
"Dưỡng tâm như
dại là tuyệt xảo,
Học tới như ngây
mới diệu kỳ."
Mình cần học "ngây
ngô." Song học ngây ngô không phải là chuyện dễ, bởi vì kinh nghiệm thường
dạy mình rằng đừng có ngây ngô. Cho nên nếu dưỡng tâm như khờ dại thì đó
mới gọi là tinh xảo. Tu hành tức là muốn dưỡng "chuyết," dưỡng tâm như kẻ
khờ khạo; càng khờ càng tốt.
Sao gọi là khờ? Khờ
có nghĩa là hoàn toàn chẳng có vọng tưởng. Không khờ thì vọng tưởng đầy
dẫy. Vọng tưởng mà nhiều thì tự nhiên muốn tìm chuyện xưa, muốn biết
chuyện nay, rồi muốn xen vào đủ chuyện tạp nhạp, muốn hiểu đủ thứ báo chí
tin tức lăng nhăng. Ðó là những điều chướng ngại cho sự tu hành. Sự khờ
khạo, dốt nát chân chính là như thế nào? Tức là nhập Ðịnh. Nếu nhập Ðịnh
thì đông, tây, nam, bắc, đều chẳng biết tới; cùng thế giới vô tranh, tự
tại vô ngại.
Tại sao mình không
thể tự tại vô ngại được? Là bởi vì còn có lòng tranh, lòng tham, lòng cầu,
lòng ích kỷ, lòng tự lợi; do đó chẳng thể tự tại được. Muốn tự tại cũng
làm không được. Khi đã bất mãn hiện tại, bất mãn quá khứ, bất mãn tương
lai, cứ cho rằng người khác đối với mình không tốt, cho rằng mình cư xử
tốt với người, tự biện hộ, tự đứng trên cương vị không thua ai cả, rằng
mình là hơn người, thì không thể tu Ðạo được. Tu Ðạo tức là chẳng biện hộ,
chẳng giảo hoạt, chẳng nói chuyện thị phi; cho nên nói: Ma Ha Tát, bất
quản tha, Di Ðà Phật, các cố các. (Ðại Bồ Tát, chẳng xen vào chuyện người.
A Di Ðà Phật, ai lo chuyện nấy!)
Luôn luôn canh gác
thân tâm, không nghĩ loạn xạ, đó tức là chân chính tu Ðạo. Kẻ không chân
chính tu Ðạo thì lúc nào cũng nghĩ này nọ loạn xạ, lúc nào cũng tìm phương
cách để làm lợi cho mình. Vì thế kẻ chân chính tu hành thì phải: Vạn duyên
phóng hạ, Nhất niệm bất sanh. (Buông xả mọi chuyện, Một niệm không
khởi.)Buông xả tất cả danh lợi, tiền tài, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ.
Không khởi ý niệm nên không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả; luôn luôn
tự tại an lạc.
Chân chính tự tại là
gì? Tức là không khởi vọng tưởng!Nếu tối ngày cứ khởi vọng tưởng thì mình
không có tự tại; tư tưởng loạn xạ của mình sẽ tới khắp cùng hư không, Pháp
Giới. Nếu không muốn tu thì chẳng cần nói làm gì, bằng nếu muốn chân chính
tu hành thì đừng nghĩ loạn xạ, hãy đem tâm mình cột chặt một chỗ, nhất tâm
chuyên niệm. Hễ chuyên nhất thì mới linh ứng; hễ tâm phân tán thì trở nên
u mê. Cho nên người muốn tu thì phải biết đạo lý này vậy.
15. NHỮNG
CON TRÙNG TÁC QUÁI TRÊN THÂN CỦA MÌNH
(Vạn Phật Thành ngày 8 tháng 5 năm 1982)
Người đến Vạn Phật
Thành xuất gia đều là tự ý, không phải bắt buộc. Hoặc là người Mỹ, hoặc là
người Hoa, các vị đó đều tự nguyện, khẩn cầu nhiều lần rồi mới được hứa
khả cho xuất gia. Người quy y cũng vậy, họ tới Vạn Phật Thành đều do tự ý
muốn quy y. Nếu họ không muốn thì cũng không ai ép buộc họ cả, bởi vì ép
buộc không phải là Pháp cứu cánh; cho nên nói: Cưỡng trích chi qua bất
điềm. (Dưa mà hái một cách miễn cưỡng thì không ngọt.)
Nếu người không tự ý
xuất gia thì dù bạn có cho họ đi tu cuối cùng họ cũng hoàn tục. Có kẻ chân
chính muốn xuất gia, nhưng sau thời gian lâu dài còn thối tâm hoàn tục,
huống gì kẻ không thật tâm đi tu. Ðó là những trường hợp có thể xảy ra.
Xuất gia là chuyện
quang minh lỗi lạc, là việc của bậc đại trượng phu, không phải chuyện của
kẻ đạo tặc, hèn hạ nhỏ mọn, hay làm việc tiểu nhân. Làm người xuất gia thì
phải rõ bổn phận của người xuất gia, nhận thức rõ ràng địa vị và tông chỉ
kẻ tu hành, đừng a dua với đám đông giống như kẻ thế tục vậy. Ðừng có
người ta nói dạ thì mình dạ, người ta nói đi thì mình đi, tự mình không có
tông chỉ, không nhận thức rõ ràng.
Quy y Tam Bảo hay hộ
trì Tam Bảo thì cũng vậy; khi các vị quy y Tam Bảo thì cần phải hộ trì Tam
Bảo, không phải là mình quy y Tam Bảo rồi thì muốn Tam Bảo hộ trì mình.
Ðừng tìm tiện nghi ở trong Phật Giáo, nếu như vậy thì sau này sẽ chịu
thiệt thòi, có hối hận thì đã trễ rồi đó.
Chúng ta người nào
cũng đầy dẫy vọng tưởng, vọng tưởng nhiều như hạt bụi. Tại sao có vọng
tưởng nhiều như vậy? Là bởi vì trong thân mình có rất nhiều vi trùng, có
con lớn, có con nhỏ, có con già, có con trẻ. Những con vi trùng đó có con
thì có thần thông, có con thì có quỷ thông, có con thì có nhân thông, có
con thì có thiên thông, có con thì có địa thông. Lũ trùng ấy ở trên thân
ta thi triển pháp thuật, tác yêu tác quái. Chúng nó cũng biết đánh điện
tín! Hễ chúng đánh điện tín tới tâm mình một cái, thì mình khởi lên một
cái vọng tưởng! Cho nên vọng tưởng của mình thật không lúc nào ngừng nổi.
Hễ vọng tưởng này vừa xẹp xuống, thì một điện tín kia truyền lại, khiến
mình lại nổi lên vọng tưởng khác. Ðó đều là do lũ trùng trong thân mình
tác quái.
Những thứ trùng này
tuy là trùng nhưng nó là đặc vụ! Có thứ thì có thiên thông, tức là đặc vụ
trên trời xuống; có thứ thì biết thần thông, tức là đặc vụ của mấy ông
thần; có thứ thì biết nhân thông, tức là đặc vụ của loài người; có thứ thì
gọi là quỷ thông, súc sinh thông. Có thứ trùng trợ giúp mình tu hành để
phát Bồ Ðề tâm thì đó là thứ trùng có Phật thông; có thứ trùng kêu gọi
người ta làm chuyện thiện, tức đó là Bồ Tát thông. Tóm lại trong trời đất
thiên địa, sâm la vạn tượng, ở trong phòng ốc, xá trạch, tận hư không biến
Pháp Giới, không có một loài nào mà chẳng sinh ra ở nơi thân của mình cả.
Vì sao chúng ta uống
vitamin? Là vì mình muốn nuôi dưỡng những thứ vi trùng đó; nuôi dưỡng
chúng cho mập mạp ra. Tuy rằng mình không có thể ăn những thứ trùng đó
nhưng chúng có thể ăn thịt của mình.Trong Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: "Thân
người là do vô lượng, vô số vi trùng tích tụ thành." Các vị thử nghĩ coi:
Thân mình là do từng con vi trùng này hợp thành; bây giờ mình lại đi làm
tôi tớ cho chúng, muốn ăn ngon mặc đẹp, ở nhà sang trọng, thế chẳng phải
là điên đảo sao? Có lần những thứ vi trùng này họp hội nghị, làm cho mình
sinh bịnh. Bác sĩ tới trị, trị cũng không lành. Lúc đó lũ trùng này mới vỗ
tay, cười ha hả. Chúng rất hứng thú bởi vì mình phải đầu hàng chúng. Vì
vậy những người không thích làm chuyện thiện, chỉ muốn làm chuyện xấu,
muốn chiếm tiện nghi, đều do lũ trùng xấu ác dẫn dắt. Chúng làm mình không
phát Bồ Ðề tâm được, vì muốn làm mình đọa lạc, muốn làm mình mất tin
tưởng.
Nếu các vị không tin
thì cứ thử dùng dao xẻ thịt mình coi! Qua vài ngày bọn trùng này sẽ lại ra
hoạt động. Thế nên loài người thật đáng thương xót! Coi thân thể mình như
trân bảo ngọc ngà, nuôi dưỡng các thứ trùng đó, thật là chuyện sai lầm.
Các vị tin tôi cũng nói, mà các vị không tin tôi cũng nói. Tôi nói ra là
để cho bọn vi trùng này nghe để cho chúng biết rằng trên thế giới nầy cũng
có người biết được các hoạt động vi tế của chúng!
16.
BÍ QUYẾT TU ÐẠO:
TIẾT THỰC, QUẢ DỤC
(Vạn Phật Thành ngày 9 tháng 5 năm 1982)
Thế giới có thành,
trụ, hoại, không; loài người có sinh, lão, bịnh, tử; đó là đạo lý tự
nhiên. Các vị nên hiểu rõ đạo lý này: thành tức rồi sẽ trụ, rồi sẽ hoại,
rồi sẽ không; sinh rồi sẽ già, rồi sẽ bịnh, rồi sẽ chết. Nếu chẳng có
thành thì chẳng có trụ, chẳng có hoại, chẳng có không; nếu không có sinh
thì cũng không có lão, không có bịnh, không có tử.
Song nếu ta dùng
vọng tưởng chấp trước để phân biệt chuyện này, thì dù phân biệt đến hết
mấy đại kiếp cũng không phân biệt rõ ràng đặng. Phân biệt bao nhiêu cũng
là hồ đồ. Vừa mới hiểu rõ được một chút thì lại hồ đồ, thế nên ở mãi trong
vòng luân hồi không thoát ra được. Nếu muốn thoát luân hồi phải đả phá cái
đạo lộ si mê vọng tưởng này thì tu hành mới thành Ðạo, chứng ngộ bổn lai
Phật quả, xưa nay vốn chẳng đi chẳng đến, chẳng dơ chẳng sạch, cũng không
tăng không giảm, cũng không sinh không diệt, chẳng có gì là âu sầu phiền
não. Tất cả những thứ Ngũ trược, Lục trược đều chẳng có. Song loài người
không biết buông bỏ cái giả, nên không nắm được cái chân thật; nên nói
rằng:
"Xả bất liễu giả,
Thành bất liễu chân;
Xả bất liễu tử,
Hoán bất liễu sanh".
Dịch là:
"Không vất
bỏ cái giả
Sao có đặng
cái thật;
Không buông
xả cái chết
Sao đổi
thành cái sống?"
Nếu không kiềm chế
tánh hư vọng cuồng dại thì trí huệ chân chính không bao giờ xuất hiện
được. Tự tánh bị che đậy bởi vô minh. Vô minh có hai kẻ giúp đỡ, có hai
tên làm kế hoạch. Bọn chúng là gì? Thứ nhất là thức ăn, thứ hai là sắc
đẹp; một cái gọi là thực dục, một cái gọi là sắc dục! Hai thứ này giúp đỡ
cho vô minh làm đủ thứ chuyện xấu, cho nên sách Nho có nói rằng: "Thực,
sắc tánh dã." Nghiãờ là háo ăn, háo sắc đều là bản tánh của chúng sinh
vậy. Song, mình phải biết tại sao vô minh chẳng phá đặng? Tại sao phiền
não cũng không đoạn được? Trí huệ tại sao chẳng hiện? Ðó chính là do mình
có lòng tham ăn, lòng háo sắc!
Ăn uống thì trợ giúp
cho dục vọng, dục vọng lại làm tăng trưởng vô minh. Con người sinh ra thì
biết ăn, con nít sinh ra là biết uống sữa. Không có sữa thì nó khóc, uống
rồi lại muốn thêm nữa. Ðúng vậy! Lòng tham này mới sinh ra đã có, sau khi
có lòng tham ăn rồi thì sinh ra lòng tham sắc. Con trai thì ham nữ sắc,
con gái thì ham nam sắc, quyến luyến nhau, ham muốn không chịu buông bỏ,
không thể nhìn suốt được. Ăn uống bao nhiêu thứ tinh hoa đều biến thành
tinh. Hễ tinh mà sung mãn thì sinh ra lòng sắc dục, cho nên người xưa nói
rằng: "Bão noãn tư dâm dục, Cơ hàn khởi đạo tâm." (No ấm thì nghĩ chuyện
dâm dục, Ðói lạnh mới khởi lòng trộm cắp.) Khi ăn no rồi, con trai nghĩ
đến con gái, con gái thì nghĩ đến con trai, chỉ có khởi dục niệm này. Khi
nghèo thì nghĩ cách trộm cắp, cũng vì để có đồ mà ăn, ăn rồi tình dục lại
khởi lên. Thế nên hễ ăn cho đủ chất dinh dưỡng, mập mạp phì nộn rồi thì
lại chỉ khởi lòng dâm. Con người trước tiên là khởi lòng tham ăn, muốn ăn
thật ngon miệng, muốn ăn để thân thể cường tráng. Song ăn ít thì không đủ,
mà ăn nhiều làm sao thỏa mãn được lòng tham? Cho nên người ta chết vì sắc,
vì thực. Nếu vô minh không có thực và sắc toa rập thì chẳng có thể tác hại
được ai.
Người xuất gia ăn đồ
càng dở càng tốt, không có dinh dưỡng thì lại càng tốt nữa. Thế nên đối
với vấn đề ăn uống đừng có quá coi trọng. Ăn là để duy trì mạng sống mà
hành Ðạo; không cần phải có quá nhiều chất dinh dưỡng nhưng cũng không ăn
những đồ hư hoại, khiến cho cơ thể sinh bịnh; đó là thực hành Trung Ðạo.
Tôi rất cảm phục một
người ở Ðài Loan, vị đó tức là Thủy Quả Hòa Thượng, (5) Ngài không ham
tiền cũng không ham sắc. Ngài chẳng thèm nhìn đến những phẩm vật người ta
cúng dường Ngài. Ðó là việc mà kẻ phàm phu không làm được, bởi vì không ai
có thể buông bỏ được lòng tham, thậm chí còn coi tiền tài như tánh mạng.
Nhưng Ngài thì rất thanh thoát, coi nhẹ tiền tài, lễ vật chất đống một chỗ
ai muốn lấy gì thì lấy, Ngài không để ý tới, và để cho đồ đệ muốn ăn cắp
bao nhiêu tiền cũng được (những kẻ ăn cắp sau này đều hoàn tục). Các vị
thấy đó, phải chăng sau đó Ngài đã quản lý tiền một cách chặt chẽ hơn?
Không phải vậy đâu! Không những Ngài không quản lý tiền bạc, mà ngay đến
nhìn, Ngài cũng không thèm nhìn nữa. Các vị coi Ðịnh lực của Ngài cao như
thế nào! Ngài chỉ ăn trái cây, đậu phụng, không ăn những thức nào có mùi
vị hay đồ nấu, xào, luộc. Bởi vì Ngài không nhập theo sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp, cho nên chứng được Sơ Quả A La Hán. Ngài tu hành cảm ứng
rất lớn nên Ngài thường bảo hộ Ðài Loan này. Có người nhận ra được Ngài là
ai, nhưng cũng có người chẳng biết được đức hạnh của Ngài, do đó nhục mạ
Ngài, gọi Ngài là "Á Dương Tăng" (ông thầy ngu dốt).
Năm nay thân thể
Ngài yếu đi nên Ngài chỉ ăn một chút cháo, song có kẻ lại phỉ báng, nói
rằng Ngài đọa lạc rồi. Kỳ thật, những người đó không hiểu được và họ đã
sai lầm. Ăn hay không ăn cháo là chuyện của Ngài, tại sao phải tìm cách
xoi mói Ngài? Nếu như ai ai cũng tu hành như Lão Hòa Thượng Thủy Quả,
chẳng tham chẳng nhiễm, thì Phật Giáo nhất định ngày càng sáng tỏ và phát
triển, Chánh Pháp sẽ trụ thế. Ngài đã làm tôi hết sức hoan hỷ, là vị đồng
tu đồng Ðạo, hợp với tôi lắm vậy.
Không thể nói rằng
tất cả ở Vạn Phật Thành đều tốt đẹp, đều là Phật Pháp cả. Song mọi người ở
đây đều y chiếu Phật Pháp mà thi hành, không chú trọng đến chuyện ăn ngon,
mặc đẹp, ở tốt; họ chỉ chú trọng làm sao duy trì cái thân Tứ Ðại giả hợp
này để sống là đủ rồi. Nhu yếu của chúng ta là Pháp, là mùi vị Pháp Vô
thượng. Thế nên mỗi ngày ở Vạn Phật Thành đều có giảng Kinh thuyết Pháp.
Lúc nghe Kinh thì cần phải dũng mãnh tinh tấn, hết lòng mà nghe giảng Kinh
Hoa Nghiêm, đừng lười biếng. Các vị nghe giảng Kinh không phải vì Sư Phụ,
mà nghe là vì mình mà nghe. Nếu các vị chuyện gì cũng biết thì không cần
phải nghe, song không phải chuyện gì các vị cũng biết cả. Những điều mình
biết là thứ Thế Trí Biện Thông, thứ thông minh có thể biện biệt, thấu đạt
chuyện đời của kẻ phàm phu. Học Phật Pháp tức là vì mình mà học, không
phải là vì Sư Phụ hay là vì người khác mà học. Các vị hãy ghi nhớ, đừng để
cho thời gian trôi qua vô ích, rồi sau đó có hối tiếc thì đã trễ.
17.
ĂN THỊT TỨC LÀ ĂN NGƯỜI
(Vạn Phật Thành ngày 30 tháng 5 năm 1982)
"Thiên bách
niên lai oản lý canh,
Oán thâm tự
hải hận nan bình.
Dục tri thế
thượng đao binh kiếp,
Thả thính
đồ môn dạ bán thanh!"
Dịch là:
"Ngàn năm
oán hận ngập bát canh,
Oán sâu như
biển hận khó tan.
Muốn biết
vì sao có chiến tranh,
Hãy nghe lò
thịt, lúc nửa đêm!"
Từ xưa đến nay có
rất nhiều người hy sinh thân mạng kẻ khác để lợi ích cho chính mình, cam
tâm giết hại kẻ khác để bồi dưỡng cho bản thân mình. Thế nên miếng thịt ở
trong tô canh chứa chất lòng oán hận thâm sâu như biển cả. Ðời này qua đời
khác sát hại lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau. Tất cả chúng sinh đều ham sống,
sợ chết, song con người vẫn dùng thủ đoạn áp bức để tàn sát những kẻ yếu
kém hơn mình.
Trong tâm thức của
những con thú trước khi chết đã kết tinh lòng oán hận rất lớn, chúng chỉ
muốn tìm cách báo thù, không có cách gì để thoa dịu ý tưởng cừu hận này
được. Các bạn muốn biết trên thế giới, nguồn gốc của chiến tranh từ đâu
ra? Thí dụ như chiến tranh Việt Nam hay là hiện tại chiến tranh giữa Á Căn
Ðình và Anh Quốc? Ðều là do nghiệp sát quá nặng, quá sâu, cho nên mới dùng
phi cơ, đại pháo, thiết hạm, thủy lôi để hủy diệt nhau! Nếu ban đêm mình
lắng nghe nơi nhà người đồ tể tiếng kêu la rên xiết của con heo, con bò
hay con dê xin cứu mạng, thì mình sẽ biết được nguyên nhân của chiến tranh
ở đâu mà ra. Có bài thơ rằng:
"Nhục" tự
lý biên lưỡng cá nhân,
Lý biên
trác trước ngoại biên nhân.
Chúng sanh
hoàn thực chúng sanh nhục,
Tử tế tư
lượng nhân thực nhân!"
Dịch là:
"Trong chữ
"nhục"gồm có hai người,
Người ở
trong dòm người ở ngoài,
Chúng sanh
lại ăn thịt chúng sanh,
Suy nghĩ kỹ
là người ăn người."
Tiếng Trung Hoa, chữ
"nhục", nghiã là thịt, gồm có chữ "khẩu" tức là cái miệng mở ra, và hai
chữ "nhân" tức là hai người: ở bên trong có một người và ở bên ngoài có
một người. Người ở bên ngoài chờ người bên trong. Người ở ngoài muốn đi vô
nhưng không vô được, người ở trong muốn chui ra ngoài nhưng ra không nổi
là vì người bên ngoài đứng cản, không cho anh ta chạy thoát. Nên chữ
"nhục" này chính là một kẻ ăn thịt và một kẻ bị ăn thịt. Kẻ ăn thịt thì ở
bên ngoài, và là một con người. Kẻ bị ăn thịt thì ở bên trong và cũng là
một con người, nhưng y đã biến thành súc sinh, lại còn bị chận không cho
chạy ra, chạy lên cũng không được, chạy xuống cũng không xong, như là bị
vây khốn, không chạy thoát được. Tuy là miệng mở khá rộng nhưng vì người
bên ngoài đã chận, nên kẻ bên trong không thể chạy khỏi vòng vây.
Vòng vây này có thể
là chuồng dê, chuồng heo, hay là chuồng bò, chuồng trâu. Người bị ăn thịt
thì ở trong chuồng mà người ăn thịt thì ở bên ngoài chận không cho ra. Vì
sao mà chận không cho anh ta ra? Là bởi vì muốn ăn thịt anh ta! Người bị
ăn thịt và người ăn thịt có một mối quan hệ: đó chính là sự oán hận không
thể nào hòa giải được!
Con người là chúng
sinh, miếng thịt mình ăn cũng là chúng sinh. Hễ là động vật, là dê, là
trâu, là gà, là ngựa, là chó, là heo v.v... đều là một loại chúng sinh cả.
Nếu có kẻ nói rằng những thứ động vật này do trời sinh ra để người ăn, như
vậy thì người sinh ra để ai ăn? Bởi vậy trời sinh động vật không nhất định
là để cho người ăn, bất quá bởi vì con người ỷ mình trí óc cao minh nên
mới ăn thịt động vật. Do đó, sự quan hệ ăn thịt này, nếu nghĩ cho kỹ thì
chính là người ăn thịt người! Nếu nói rằng người ăn thịt người, thì thử
hỏi xem kẻ bị ăn thịt, (tức là bây giờ đã biến thành dê, thành heo, thành
ngựa v.v...) đối với mình có quan hệ như thế nào?
Trong Kinh Lăng
Nghiêm có nói rằng: "Con dê trở lại biến làm người." Con dê mà có thể biến
làm người thì tất cả động vật khác cũng có thể biến làm người, cũng như là
mình cải đầu hoán diện, thay đổi bộ mặt thôi, mà mình không biết loài thú
vật đó là ai. Các vị có biết chăng những thứ động vật dê, trâu, heo,
gà,... đó không chừng đều là bà con quyến thuộc, là họ hàng thân thích của
mình? Mối quan hệ đó, nói xa xôi như vậy, chớ nói gần hơn, thì chúng nó
biết đâu chính là cha mẹ mình kiếp trước, hoặc là cha mẹ mình kiếp này,
hay là cha mẹ không biết bao nhiêu kiếp về trước! Nghĩ như vậy, thì nếu ăn
thịt cha mẹ, thì thật là bất hiếu. Cho nên nghĩ kỹ thì mới biết rằng ăn
thịt động vật chính là người ăn thịt người vậy!
Người mà ăn thịt heo
thì con heo có thể sẽ biến thành người. Khi heo thành người, nó lại ăn
thịt heo do người kia biến thành. Nhân duyên cứ luân chuyển mãi, hỗ tương
ăn thịt lẫn nhau: mình ăn nó, nó ăn mình. Do đó cừu hận càng ngày càng
sâu; cừu hận càng sâu thì càng muốn ăn thịt; tánh thích ăn đồ ngon là do
oan nghiệp dẫn dắt, làm mình cảm thấy hợp lý khi giết sinh mạng của kẻ
khác để bổ trợ cho sinh mạng của chính mình!
Nếu các vị không tin
thì tôi kể cho nghe một chuyện có thật như vầy: Vào thời vua Lương Võ Ðế
thì Phật Giáo hết sức hưng thạnh. Lúc bấy giờ có một vị tên là Chí Công,
là một người đã giác ngộ rồi (Minh Nhãn Thiện Tri Thức). Ngài có thể biết
được tiền nhân hậu quả mọi sự. Thời bấy giờ Phật Giáo đi tới chỗ các Thầy
chỉ đi tụng niệm cho người đời. Gia đình nào có chuyện vui chuyện buồn gì
cũng mời các Thầy tới tụng kinh kiết tường, tụng chú kiết tường. Có lần,
một nhà giàu nọ làm đám cưới cho con gái nên mới mời ngài Chí Công tới để
tụng kinh cầu phước. Bởi vì Phật Pháp không ra ngoài pháp thế gian, nên Tổ
Sư cũng tùy thuận theo phong tục của người đời mà đáp ứng. Vừa đặt chân
tới nhà, Ngài liếc nhìn và nói rằng: "Cổ quái! Cổ quái! Cháu lấy bà ngoại,
Con gái ăn thịt mẹ, Con trai đập da bố, Heo, dê ngồi nơi ghế, Họ hàng nấu
trong nồi, Chúng sanh lại tưng bừng, Ta thấy thật là khổ!
Ngài Chí Công nói:
"Thật là 'cổ quái'!" Chuyện gì mà cổ quái? Ðó là cháu lấy bà ngoại của
mình! Bởi vì khi đứa cháu vừa mới sinh thì bà ngoại nó bịnh. Lúc gần chết
bà cầm tay thằng cháu này, nói rằng bà sợ không có ai lo lắng cho thằng
nhỏ, tương lai ai là người giúp nó để thành gia lập nghiệp? Do vậy, lúc bà
ngoại thở hơi cuối cùng thì tay vẫn nắm thằng cháu, quyến luyến không
đành. Bà ngoại xuống âm phủ gặp vua Diêm La, mới khóc lóc cầu xin: "Diêm
La Vương ơi! Xin Ngài ban cho tôi một việc: ỞƯ thế gian tôi có một đứa
cháu nhỏ dại không ai săn sóc, xin Ngài cho tôi về lo cho nó được không?
Vua Diêm La từ bi vô cùng, mới đáp lời thỉnh cầu, nói rằng: "Ðược, tốt
lắm! Bà về lại trần gian săn sóc thằng nhỏ đi. Bà là bà ngoại của nó, bây
giờ bà trở về làm vợ của nó, được chăng?"
Bà đó không thể làm
chủ được nghiệp báo của mình cho nên đầu thai lên dương thế làm con gái.
Ðứa con gái này lớn lên rồi lấy thằng cháu đó. Thật là cải đầu hoán diện,
đổi mặt đổi mày mà thôi, như thử mặc bộ y phục mới không ai nhận biết được
cả. Chỉ có Ngài Chí Công biết được chuyện đó, nên nói: "Cổ quái! Cổ quái!
Cháu lấy bà ngoại."
Ngài Chí Công lại
thấy đứa con gái nhỏ đang ăn miếng thịt heo nên nói rằng: "Con gái ăn thịt
mẹ." Là vì mẹ đứa con gái này vốn làm đủ thứ ác nghiệp nặng nề nên chết
rồi thì hóa kiếp làm heo; nay bị đồ tể giết, bị nấu làm món ăn ngon và bây
giờ đứa con gái này ăn thịt mẹ của mình.
Khi Ngài thấy ở nơi
sau vườn có đứa con trai đang cao hứng đập cái trống bằng da lừa, Ngài mới
nói rằng: "Con trai đập da bố." Nghĩa là bố của thằng nhỏ này vì tạo
nghiệp báo cho nên mới đầu thai làm con lừa, chết rồi bị người ta lột da
làm trống; bây giờ đứa nhỏ này chẳng biết cha nó là miếng da làm thành
trống, nên chỉ biết vui mừng thì đánh trống mà thôi.
Ngài Chí Công lại đi
xuống nơi dãy ghế ngồi, nhìn qua thì thấy những kẻ ngồi đó toàn là trâu,
bò, dê,... hồi xưa bị người ta ăn thịt, bây giờ biến thành người, làm bà
con thân thuộc với nhau. Những loại thịt ở trong nồi đều là những bà con
quyến thuộc của họ, nên ngài Chí Công nói rằng: "Quý vị tới đây tiệc tùng
hết sức vui vẻ, hân hoan để chúc mừng ông chủ nhà làm đám cưới cho con. Sự
thật, ta thấy thật là khổ! Người nào cũng ở trong luân hồi hỗ tương vay
trả quả báo, tàn sát lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau; đó là nỗi khổ khó nói cho
hết được."
Sau khi ngài Chí
Công nói xong, có rất nhiều người hiểu, rồi phát tâm ăn chay, niệm Phật,
tu hành.
Từ xưa đến nay nếu
các vị không ăn thịt kẻ khác thì kẻ khác cũng không ăn thịt các vị. Có
người nói: "Thầy nói thế nào đi nữa tôi cũng không tin." Nếu các vị không
tin thì tôi cũng không có cách gì khác, cứ thí nghiệm thử xem sao!
18.
TU ÐẠO CẦN PHẢI BỎ ÁC
LÀM LÀNH
(Vạn Phật Thành ngày 30 tháng 5 năm 1982)
"Vãng tích
sở tạo chư ác nghiệp,
Giai do vô
thủy tham sân si,
Tùng thân
ngữ ý chi sở sanh,
Nhất thiết
ngã kim giai sám hối."
Dịch là:
"Tất cả ác
nghiệp tạo từ xưa,
Ðều do vô
thủy tham, sân, si,
Theo thân
miệng ý mà phát sanh,
Con nay hết
thảy xin sám hối."
Chúng ta từ xa xưa
đến nay tạo nghiệp ra có thứ ác, thứ thiện; thiện ác trộn lẫn chẳng rõ
ràng. Cho nên có lúc thì mình sinh tâm lành, có lúc thì sinh ra ý niệm ác.
Một niệm thiện thì "không làm điều ác mà làm tất cả điều lành." Nhưng khi
khởi niệm ác thì chỉ nghĩ "làm tất cả điều ác, không làm điều lành."
Bởi vì từ vô lượng
kiếp đến nay lẫn lộn thiện ác như vậy, nên ngày nay làm thiện song ngày
mai lại muốn làm ác, rồi ngày mốt thì tạo ra điều chẳng thiện chẳng ác.
Ðến khi tu Ðạo thì mình khó mà thoát khỏi nghiệp báo. Nên có lúc thì muốn
tu hành, có lúc thì chẳng muốn tu, có lúc muốn thanh tịnh, có lúc lại muốn
nhiễm ô. Cứ mặc cho ngọn sóng đưa đẩy, không biết phiêu lưư tới chỗ nào.
Ðó đều do những ý niệm dấy khởi hồi xa xưa bây giờ kết thành cái quả. Có ý
niệm lúc đầu muốn tu hành, mà ý niệm sau thì muốn hoàn tục; ý niệm trước
thì muốn hoằng dương Phật Pháp nhưng ý niệm sau thì muốn hủy diệt Phật
Pháp. Thật là vô cùng phức tạp. Như vậy thì phải làm sao? Thì cần phải học
trí huệ Bát Nhã; nghĩa là:
"Trạch
thiện nhi tùng,
Phi thiện
tắc cải.
Thị Ðạo tắc
tiến,
Phi Ðạo tắc
thối!"
Dịch là:
"Lựa
điều lành mà theo,
Hễ điều xấu
thì sửa.
Nếu là Ðạo
thì tiến tới,
Không phải
là Ðạo thì thối lui!"
Lúc nào mình cũng
phải đề cao cảnh giác tựa như là đi bên bờ vực thẳm, hệt như là đi trên
mặt băng mỏng. Tu hành cần phải vô cùng cẩn thận như vậy! Nên nói: Sai chi
hào ly, mậu chi thiên lý. (Sai một ly đi một dặm.)
Cho nên tu hành là:
"Cử động hành vi quản tự kỷ, Hành, trụ, tọa, ngọa bất ly gia ".(Phải quản
chế cử động, hành vi của chính mình, Ði, đứng, nằm, ngồi thì không rời
"nhà.") Lúc nào mình cũng cần có ý niệm thanh tịnh, ý niệm sáng suốt quang
minh; đừng khởi ý niệm nhiễm ô, đừng khởi ý niệm hắc ám. Phải hết sức cẩn
thận trong mỗi một suy tư, mỗi một ý nghĩ. Mỗi ý niệm nếu là thiện thì
quang minh càng nhiều, nếu ý niệm là ác thì mình càng hắc ám. Người thiện
thì có ánh hào quang trắng, người ác thì chỉ toàn là khí đen. Thế nên làm
thiện hay làm ác đều tự nhiên biểu hiện nơi hình tướng của mình.
Các vị có thể lừa
người nhưng không thể lừa quỷ, thần, Phật, Bồ Tát. Do vậy, bất luận là kẻ
xuất gia hay kẻ tại gia, nếu lừa dối như vậy thì chỉ tạo ác nghiệp, chẳng
có công lao gì với Phật Giáo. Phải hiểu rằng vì sao mà từ vô lượng kiếp
đến nay mình không thoát khỏi cái khổ luân hồi sinh tử, luôn luôn hồ đồ
ngu tối như vậy? Là bởi vì cái "trương mục ngân hàng" của mình không có rõ
ràng; đầy những thứ hỗn tạp, cái thanh tịnh và cái nhiễm ô mỗi thứ một
nửa, cho nên không ra khỏi Lục Ðạo luân hồi! Nếu mình muốn chân chính tu
hành thành Phật thì trước khi thành Phật mình phải dũng mãnh tinh tấn,
không được tùy tiện. Cần phải biết rằng: Một ngày đã qua, Mạng cũng giảm
dần, Như cá cạn nước, Thử hỏi gì vui? Ðại chúng! Hãy siêng tinh tấn, Như
đầu bị đốt. Chỉ nhớ vô thường, Chớ mặc buông lung.
Có người hoài nghi:
"Phải chăng có ông Diêm La Vương và có con quỷ Vô Thường (Thần Chết)
thật?" Cái đó phải xét coi các vị có thể chẳng chết hay không? Nếu các vị
có thể chẳng chết tức là không có con quỷ Vô Thường. Nếu các vị có bản
lãnh ghê gớm, không thọ quả báo thì tức là không có ông Diêm La Vương. Bạn
có thể chẳng chết hay không? Nếu không thể được thì đương nhiên là có ông
Diêm La Vương và con quỷ Vô Thường; các vị đừng cho rằng mình hết sức
thông minh, "tự bịt tai đi ăn cắp chuông, vừa rung chuông vừa chạy" tự
mình lừa dối chính mình. Các vị phải biết, từ vô lượng kiếp đến nay bởi vì
không tin có ông Diêm La Vương hay có quỷ Vô Thường cho nên mình mới ở
trong Lục Ðạo luân hồi, quay đi quay lại, chẳng cách gì thoát khỏi vòng
sinh tử được!
19.
ÐẠO CẢ SUY THÌ CÓ
NGƯỜI NHÂN NGHĨA
(Vạn Phật Thành ngày 5 tháng 6 năm 1982)
"Lòng người
chẳng như xưa, Ðạo đức đã suy đồi."
Thế giới ngày nay
không biết thăng tiến mà còn càng ngày càng xuống dốc. Hồi xưa không có
nhiều trường học cũng chẳng có nhiều kẻ đọc sách, song con người chẳng có
nhiều thứ điên đảo băng hoại. Hiện tại trường học nhan nhãn, không biết
bao nhiêu là học sinh, song trong thế giới kẻ xấu càng ngày càng nhiều.
Người xưa học là cốt
để minh lý, tức là hiểu rõ đạo lý làm người, thế nào để đừng làm ác, thế
nào để luôn làm lành, sao cho có hiếu với cha mẹ, có tình với anh em, có
trung với đất nước, có tín với bạn bè, có lễ với mọi người, có nghĩa với
dân tộc, liêm khiết trong việc làm và có lòng hổ thẹn với chính mình. Hiện
giờ kẻ đi học thì vì danh lợi!
Chữ minh lý và chữ
danh lợi trong tiếng Trung Hoa phát âm giống nhau, nhưng trên thực tế thì
ý nghĩa khác nhau một trời một vực. Những kẻ học vì danh lợi thì chỉ muốn
học môn nào để kiếm thật nhiều tiền. Cũng giống như có kẻ muốn học y khoa
hay khoa học, song chỉ biết nghĩ rằng sẽ kiếm được nhiều tiền, không nghĩ
rằng tôi học là vì muốn tương lai có thể đem lại hạnh phúc cho nhân dân,
rằng tôi học y khoa là muốn cứu đời, muốn lợi ích cho người khác.
Hiện tại đa số học
sinh chỉ biết tự lợi mà không biết làm lợi cho kẻ khác. Lại có những giáo
sư công khai cổ võ học sinh hút ma túy, làm chuyện dâm dục bừa bãi, hoặc
làm đủ thứ nhiễu loạn thế sự. Cho nên thế giới càng ngày càng suy đồi. Lão
Tử nói rằng:
"Ðại Ðạo
phế hữu nhân nghĩa,
Trí huệ
xuất hữu đại ngụy,
Lục thân
bất hòa hữu hiếu từ,
Quốc gia
phân loạn hữu trung thần."
Nghiã là:
"Khi Ðạo
lớn mất, kẻ nhân nghĩa xuất hiện,
Người trí
huệ tới, bọn giả dối đầy dẫy,
Khi gia
đình bất hòa, kẻ hiếu thảo ra đời,
Lúc quốc
gia phân loạn thì có bậc trung thần."
Khi Ðạo lớn không
còn nữa thì người ta mới nói tới nhân, tới nghĩa. Nếu Ðạo lớn còn thì nhân
nghĩa chẳng ai nói tới, vì nhân nghĩa đã nằm trong Ðạo lớn rồi. Khi có kẻ
trí huệ ra đời thì đương nhiên có kẻ giả mạo hư ngụy đồng thời cũng xuất
hiện để lừa bịp kẻ khác. Khi gia đình hòa thuận với nhau, không ai tranh
chấp cả thì đương nhiên cha hiền từ, con hiếu thảo, anh em vui vẻ sống
chung, gia đình hết sức hòa vui. Nhưng nếu khi sáu họ bà con bất hòa; cha
không hiền từ, con hiếu đễ sẽ ra đời. Cũng như thời ông Thuấn vậy: Phụ
ngoan, mẫu dâm, đệ ngạo, Thuấn vi khắc tận hiếu đạo. (Cha ngoan cố, mẹ dâm
đãng, em ngạo mạn; song ông Thuấn hết lòng làm tròn đạo hiếu.)
Cha của vua Thuấn
rất ngoan cố. Tên của ông ta là Cổ Tẩu (ông già mù), ý nói rằng ông tuy có
mắt nhưng không tròng vậy, vì ông không biết đạo lý trắng đen, đúng sai,
thẳng cong, thiện ác gì cả. Ông có con là vua Thuấn, một người con rất
hiếu thảo mà cũng không biết nữa. Bà mẹ của vua Thuấn là bà mẹ kế; bà này
dâm loạn, nham hiểm, chẳng bao giờ nói tới luân lý, chỉ nghĩ đến chuyện vô
luân. Ông Thuấn có người em khác mẹ tên là Tượng cũng hết sức ngạo mạn,
không cung kính anh mình. Tuy vậy, trong gia đình, ông Thuấn hết sức hiếu
thảo với cha mẹ, hết sức thương yêu, lo lắng cho em.
Lúc bấy giờ, người
em của ông Thuấn với bà mẹ kế nghĩ cách làm hại ông, nên một ngày nọ kêu
ông vào kho gạo để quét dọn. Chờ đến khi ông đi vào trong rồi thì Tượng
mới tức khắc nổi lửa đốt nhà. Nhà kho bắt lửa phừng cháy dữ dội. Lúc đó họ
nghĩ rằng ông Thuấn sẽ bị lửa đốt chết nên hai người mới ra về, trong lòng
hết sức vui mừng. Nhưng chẳng mấy chốc ông Thuấn cũng về lại nhà. Người em
vô cùng kinh ngạc hỏi: "Anh ở trong nhà kho dọn dẹp, sao nhà cháy mà anh
chẳng bị đốt chết?" Ông Thuấn đáp rằng: "Khi tôi thấy lửa cháy, tôi lượm
hai cái bửng cỏ che thân rồi leo lên mái nhà nhảy thoát ra ngoài, cho nên
chẳng bị tổn thương, cũng không bị thiêu đốt."
Một lần khác, khi
ông Thuấn đi ra giếng lấy nước thì hai người ấy lại nghĩ cách để hại ông.
Lúc ông Thuấn leo xuống giếng thì họ đem một tảng đá lớn đến bít miệng
giếng, không cho ông lên. Họ tin rằng ông Thuấn lần này sẽ chết. (Tục ngữ
có câu "lạc tỉnh hạ thạch," nghĩa là rớt xuống giếng rồi lấy đá bịt lại,
tức là hại người ở bước đường cùng, là từ điển tích này mà ra.)
Song, ở phía dưới
đáy giếng lại có một cái động! Ông Thuấn xuống giếng rồi thì từ nơi động
đó bò lên (có người nói rằng nơi địa đạo này có một con hồ ly trắng thường
lui tới ở đó; chính nó tới để cứu ông Thuấn). Tuy hai người đó lúc nào
cũng tìm cách hại ông nhưng ông Thuấn không hề tức giận, lúc nào cũng hết
sức hiếu thảo với cha mẹ và hết sức thương yêu người em của mình.
Bấy giờ, tên Tượng
nghĩ rằng ông Thuấn đã chết, nên về nhà nói với cha mẹ chuyện chia gia
tài. Y nói rằng: "Ngưu dương phụ mẫu, thương lẫm phụ mẫu, can qua trẫm,
cầm trẫm, chỉ trẫm, nhị tẩu trẫm thê." dụ muốn nói rằng: "Dê với bò thì để
cho cha mẹ, lương thực cũng để cha mẹ. Tôi không cần những thứ đó, tôi chỉ
muốn cây đàn ngũ huyền cầm của ông Thuấn, cái ống tiêu của ông Thuấn,
những đồ để luyện võ của ông Thuấn. Ðó là những thứ mà tôi muốn. Hai bà vợ
của ông Thuấn tôi cũng muốn; biểu hai người đó lại phục dịch tôi." (Ông
Thuấn có hai bà vợ; một tên là Nga Hoàng, một tên là Nữ Anh, hai người này
đều là con gái của vua Nghiêu. Vua Nghiêu đặc biệt hứa gả hai người này để
phục dịch ông Thuấn.)
Tên Tượng nói xong
liền vô phòng ông Thuấn. Nhưng vừa vô thì thấy ông Thuấn ngồi chễm chệ
trên giường. Tượng sợ quá, tưởng rằng hồn phách của ông Thuấn hiện về. Ông
Thuấn liền lên tiếng an ủi người em đừng sợ hãi.
Trong thời Nghiêu
Thuấn bấy giờ, lòng người xấu xa như vậy, song ông Thuấn vẫn hết sức làm
tròn chữ hiếu, làm tròn đạo làm con. Thế nên nói rằng trong gia đình, bà
con sáu họ mà không hòa thuận thì có kẻ hiếu thảo ra đời.
Khi đất nước ly loạn
thì có kẻ trung thần xuất hiện. Khi đất nước bình an vô sự thì khó thấy
bậc trung thần. Khi đất nước rối ren loạn lạc thì ai là trung thần, ai là
gian thần có thể thấy đuợc rất dễ dàng.
Thời Tống có hai
triều Nam với Bắc. Lúc quốc gia hết sức phân loạn thì tên gian thần Tần
Cối xuất hiện. Tần Cối giết Nhạc Phi; nhưng Nhạc Phi thì lưu danh thiên cổ
còn Tần Cối thì để tiếng xấu ngàn năm. Bởi vậy "lưu danh thiên cổ" và "di
xú vạn niên" đều là cái tên, nhưng một là cái tên tốt, một là cái tên xấu.
Cũng như đời Nam Tống có ông Văn Thiên Tường; lúc quốc gia hết sức hỗn
loạn thì ông là người hết sức trung thành với Tống. Từ đầu đến cuối ông
bảo vệ quốc gia, không chịu đầu hàng; đó là một vị trung thần. Cho nên khi
quốc gia hỗn loạn mới có thể thấy xuất hiện được những bậc trung thần.
Bây giờ đang kiến
lập đạo tràng cũng chính là lúc khốn khổ gian nan vô cùng. Chính trong lúc
này mới có thể thấy kẻ nào là chân, kẻ nào là giả. Vị hộ pháp chân thật
thì lấy Phật Giáo làm nhiệm vụ của chính mình; lấy việc hộ trì Tam Bảo làm
trách nhiệm của riêng mình.
Bây giờ Vạn Phật
Thành mỗi ngày một phát triển, cần rất nhiều người lại ủng hộ, cần rất
nhiều người lại hợp tác. Kẻ nào có sức thì ra sức, kẻ nào có tiền tài vật
chất thì giúp tiền tài vật chất. Không nên có thái độ "tọa thủ bàng quan,"
tôi nhìn anh, anh nhìn tôi; vì như vậy thì chẳng bao giờ tận sức lập công
cho Phật Giáo được. Phải đem sự hoằng dương Phật Giáo làm nhiệm vụ cá
nhân, hộ trì Phật Giáo là trách nhiệm của mỗi người. Ðược vậy thì Phật
Giáo nhất định sẽ phát triển rực rỡ trong tương lai.
20.
TU ÐẠO CẦN CÓ
TÂM KIÊN TRÌ KHÔNG ÐỔI
(Vạn Phật Thành ngày
6 tháng 6 năm 1982)
Thân cây, mỗi ngày
mỗi cao lớn nhưng ta không thấy sự sinh trưởng của cây. Tuy ta chẳng để ý,
nhưng cây cứ cao lớn dần, chờ đến mười năm hoặc trăm năm sau thì cây đó
biến thành vật hữư dụng.
Cây thì vậy, người
tu Ðạo thì cũng thế. Ðừng quá gấp gáp, đừng nghĩ rằng hôm nay tu hành thì
ngày mai khai ngộ. Chẳng phải dễ dàng như vậy đâu! Mà cần phải ngày ngày
tu luyện, ngày ngày trau giồi, chẳng cần biết là có tiến bộ hay không.
Không thối lui có nghĩa là tiến bộ rồi. Chỉ cần làm cho vọng tưởng mỗi
ngày giảm bớt, thì đã là tiến bộ rồi; dục niệm mỗi ngày mỗi ít thì đó là
tiến bộ rồi; tham sân si mỗi ngày thối lui tức là tiến bộ rồi; đừng có
muốn mau muốn chóng. Cho nên nói:
"Kỳ tấn duệ
giả, kỳ thối tốc"
Nghĩa là:
"Tiến càng
nhanh, thì lùi cũng rất mau."
Tới thật mau tức là
lùi cũng mau, cho nên cần phải có cái tâm hằng thường mà tu hành, ngày
ngày phải sám hối để sửa đổi lỗi lầm:
"Nhất nhật
vô quá khả cải, tức nhất nhật vô công khả tạo".
Nghĩa là:
"Một ngày
chẳng sửa lỗi lầm, là một ngày chẳng tạo công đức."
Cho nên tu hành cần
phải trừ bỏ tập khí, lỗi lầm xấu xa, bỏ đi những tư tưởng lầm lạc, khiến
cho trí huệ quang minh bản hữu của mình xuất hiện. Trí huệ quang minh này
người nào cũng có cả, nhưng rất tiếc là bị vô minh che khuất. Khi không
thể dùng trí huệ quang minh này, bởi vô minh che phủ, sẽ làm cho mình cứ
muốn trụt xuống, không muốn đi lên; nếu hiển lộ được trí huệ thì tự nhiên
mình sẽ tiến tới, đi lên mãi. Ðó gọi là "nghịch lưu" (đi ngược giòng
nước)!
Cho nên tu hành
không phải chỉ có một ngày một đêm, mà cần phải hàng giờ hàng phút hàng
ngày. Buổi cũng sáng như vậy, buổi chiều cũng như vậy, năm này tháng nọ
đều tu hành như vậy, hằng thường bất biến. Thời gian lâu rồi thì mình mới
trưởng dưỡng được trí huệ Bát Nhã. Ðừng nên "một ngày nóng mười ngày
lạnh," một ngày tu mười ngày nghỉ, nếu như vậy thì chẳng thể thành tựu
đặng. Phải như thân cây, mỗi ngày lớn lên một chút, ngày ngày đem lòng
thành mà tu hành.
Trong thời gian tu
hành, nếu gặp những cảnh giới gì, dù ma chướng hay nghịch duyên hoặc thuận
duyên..., cũng phải thái nhiên, bình thản. Thuận cảnh hay nghịch cảnh,
mình đều phải tinh tấn, coi mọi sự vật đều như đang nói diệu Pháp cho
mình. Nếu hiểu được mọi vật đều thuyết Pháp cho mình, mỗi diễn biến đều là
bài Pháp, thì sẽ biết được sự kỳ diệu mà ngôn ngữ không thể diễn tả được.
Nếu hiểu được vậy thì sẽ biết được "bản lai diện mục" của chính mình, biết
được con đường về nhà rồi đó. Cho nên mượn pháp thế gian mà vượt khỏi pháp
thế gian, không bị vạn pháp làm mê lầm, không bị mọi hình tướng làm mê
hoặc. Lúc tất cả cảnh giới tới, nếu mình bình tĩnh sáng suốt, không bị
chướng ngại, thì lâu ngày trí huệ của mình sẽ hiện ra.
Nguyên nhân mà trí
huệ không hiển lộ là do mình không chịu dấn bước tới trước mà tu; chỉ muốn
thụt lùi! Gặp duyên lành thì lại nghi ngờ không quyết định, gặp phải duyên
ác thì liền chạy theo. Cho nên mãi mãi lưu lạc trong Lục đạo luân hồi, mà
không cách gì siêu thoát đặng. Càng bị hãm vào thì càng dấn sâu, càng dấn
sâu thì chân càng lún, kéo không ra nổi. Cho nên nếu thấy thông suốt thì
lại không buông bỏ được, cuối cùng không thể tự tại giải thoát được. Do đó
sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh. Hồ đồ sinh ra, hồ đồ chết đi, trong
khoảng thời gian đó mình không biết làm gì, chỉ toàn là chuyện điên điên
đảo đảo, tìm không ra cái lý do chính đáng.
Các vị! Cuộc sống
con người nếu vậy là cuộc sống hồ đồ; chỉ toàn là vì danh, vì lợi, vì sự
thành công của chính mình. Kỳ thật, việc người thế gian cho là thành công
thì Thánh, Hiền cho là thất bại. Cho nên hễ có nợ nần thì phải ráng thanh
toán cho phân minh. Mình phải làm một người hoàn toàn sáng suốt. Khi sáng
suốt thì phải vĩnh viễn sáng suốt, do đó mới phá được cửa sinh tử, ra khỏi
vòng luân hồi. Như vậy mới là cung cách của bậc đại trượng phu.