KHAI THỊ QUYỂN 2
Hòa thượng Tuyên Hóa
Ban Phiên
Dịch Việt Ngữ Trường Ðại Học Pháp Giới
Vạn Phật
Thánh Thành Talmage, California
Phần 1
1
GIEO NHÂN GẶT
QUẢ
"Liễu tri chúng
sanh chủng chủng dị,
Tất thị Tưởng,
Hành sở phân biệt.
Ư thử quán sát
tất minh liễu,
Nhi bất hoại ư
chư pháp tánh."
Dịch là:
"Rõ biết chúng
sanh nhiều chủng loại,
Do Tưởng, Hành,
phân biệt mà có.
Nhân vì quán sát
nên hiểu rõ
Song không hủy
hoại tánh các pháp."
Chúng sanh do khởi
hoặc nên tạo nghiệp, thọ báo, trồng nhân nào thì gặt quả ấy, đó là đạo lý
rất tự nhiên. Nếu trồng nhân Phật thì đặng quả Phật, trồng nhân Bồ Tát thì
gặt quả Bồ Tát, trồng nhân Duyên Giác thì gặt quả Duyên Giác, trồng nhân
Thanh Văn thì gặt quả Thanh Văn. Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác là
bốn Thánh Ðạo.
Trong sáu đường phàm
thì có ba đường thiện là Thiên, Nhân, A-tu-la; còn ba đường ác là Súc
sinh, Ngạ quỷ, Ðịa ngục. Nói tóm lại, nếu trồng nhân của ba đường thiện sẽ
gặt quả của ba đường thiện, trồng nhân của ba đường ác sẽ gặt quả của ba
đường ác. Ðạo lý đó đúng, không sai sót một mảy may và cũng không bao giờ
thay đổi; và tuyệt nhiên chẳng có sắc thái mê tín nào cả.
Người si mê thì
không biết sự lợi hại của đạo lý nhân quả nên cứ tùy tiện hành động, chẳng
tin nhân quả, thậm chí họ còn bác bỏ. Người có trí huệ thì biết nhân quả
báo ứng hết sức lợi hại nên sợ làm những điều sai lầm với nhân quả. Bất
luận làm chuyện gì đều phải ba lần suy nghĩ rồi mới thực hành.
Bậc thánh nhân xuất
thế tu hành là để chấm dứt vòng nhân quả. Kẻ phàm phu thì tạo thêm tội lỗi
trong chuỗi nhân quả. Không có tội thì tạo thêm tội; tạo ra tội rồi thì
chẳng chịu nhận đó là tội, còn cho là chuyện đương nhiên, chẳng có mảy may
hổ thẹn. Thật là chồng chất thêm tội lỗi, chẳng thể tha thứ đặng!
Chúng sanh có nhiều
loại dị biệt; bao quát thì chỉ có hai loại là thiện với ác, nhưng mỗi thứ
đều khác nhau. Mỗi loại, mỗi thứ tạo những nghiệp riêng, rồi thọ những quả
báo riêng; nhưng nói chung thì tất cả chúng sanh đều ở trong pháp Ngũ Uẩn
(sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mà hình thành nghiệp quả sai biệt của mình.
Nếu ta quan sát và thông đạt được nghiệp quả báo ứng sai biệt này thì sẽ
thấu suốt tất cả pháp tánh mà chẳng hủy hoại đạo lý của pháp tánh đó:
"Trí giả liễu tri
chư Phật Pháp,
Dĩ như thị hạnh
nhi hồi hướng,
Ai mẫn nhất thiết
chư chúng sanh,
Linh ư thực Pháp
chánh tư duy."
Dịch là:
"Người trí thấu
rõ mọi Phật Pháp,
Vậy nên tu hành
để hồi hướng,
Với lòng thương
xót mọi chúng sanh,
Khiến họ nghĩ
đúng nơi chân lý."
Kẻ có trí huệ thì
liễu giải Pháp của Phật nói ra, cho nên họ tu hạnh Bồ Tát, hồi hướng tất
cả thiện căn mà họ tích tập được. Vì sao mà hồi hướng thiện căn cho chúng
sanh? Vì họ ai mẫn tất cả chúng sanh! Bồ Tát thấy chúng sanh quá mê muội;
những điều chúng sanh làm đều điên đảo. Bất luận là giáo hóa chúng sanh
như thế nào thì chúng sanh cũng không lãnh hội được. Nếu dạy họ phải quên
mình vì người, bỏ ngọn theo gốc, ủng hộ Chánh Pháp, làm cho Chánh Pháp trụ
thế, thì họ chẳng bao giờ tin tưởng. Chúng sanh thật đáng thương hại. Cho
nên các ngài khuyên chúng sanh đừng làm chuyện ác, mà làm chuyện thiện;
đối với Pháp chân thật thì phải làm theo cho đúng.
Thế nào là điều
chẳng đúng? Các vị hãy tự phản tỉnh và suy nghĩ một cách chi ly, không
những một lần mà phải thường thường suy nghĩ, coi thử các vị có phạm lỗi
lầm nhân quả không? Coi thử đối với Phật Giáo các vị đã tận tâm tận lực
làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ chưa, hay lại tạo ra đủ thứ tội nghiệp
lỗi lầm?
Vì thế, mọi nơi, mọi
lúc, các vị phải hồi quang phản chiếu, phản tỉnh lại phản tỉnh, kiểm thảo
rồi kiểm thảo, như vậy thì mới đúng là tín đồ chân chánh của đạo Phật!
2 PHẢN BỔN HOÀN NGUYÊN(Vạn
Phật Thành ngày 10 tháng 3 năm 1977)
Phật Giáo thường nói
"phản bổn hoàn nguyên," có nghĩa là chúng ta xưa như thế nào thì trở lại
như thế đó; song khi xưa bổn lai như thế nào? Lúc xưa cái gì cũng chẳng
có. Cho nên bây giờ hoàn nguyên tức là quay trở lại trạng thái mà cái gì
cũng chẳng có.
Hễ mình có một chút
chấp trước tức là có chướng ngại. Có chướng ngại thì không thể ra khỏi Tam
Giới, cho nên nhất định phải phá thủng mọi chấp trước. Khi tới chỗ chẳng
có gì cả, thì đó là lúc mình khôi phục lại bộ mặt thật của chính mình.
Hiện tại mình muốn có cũng chẳng được, chờ tới khi mình chẳng muốn gì cả
thì mọi thứ đều có đủ. Trí huệ sẽ hiện tiền, thần thông sẽ hiện tiền, diệu
dụng sẽ hiện tiền.
Tại sao mình chẳng
có trí huệ, thần thông? Là vì mình đi hết chỗ này đến chỗ khác lượm lặt
những thứ rơm rác, còn những thứ vàng bạc châu báu thì mình không muốn.
Cái bản hữu quý giá của chính mình thì mình chẳng muốn, lại vất bỏ đi, mà
chỉ đi tìm những thứ rác rưởi rồi tự cho mình là thông minh lắm. Ðúng ra
thì thật là hết sức si mê vậy!
3. DÙNG TÂM BÌNH THƯỜNG ÐỂ
HỌC PHẬT
"Lộ dao tri mã
lực,
Nhật cửu kiến
nhân tâm."
Dịch là:
"Trải đường dài
xa, biết sức ngựa,
Lâu ngày chày
tháng, rõ lòng người."
Kẻ học Ðạo không
phải chỉ một ngày một đêm mà có thể học được Phật Pháp. Cần có thời gian
lâu dài để thể nghiệm đạo lý Phật dạy, theo đạo lý đó mà tu hành mới có
thể thành tựu được.
Người chân chính
nhận thức được Phật Pháp thì chẳng kinh hãi, sợ sệt, chẳng vui cũng chẳng
buồn. Phật Pháp thì như vậy: chẳng có gì đáng lo âu khiếp sợ, cũng chẳng
có gì đáng vui hay đáng buồn cả. Phải luôn giữ trạng thái "như như bất
động, liễu liễu thường minh," (1) vì đó chính là bản chất của Phật Pháp
vậy!
4. HỌC PHẬT THÌ ÐỪNG THAM
DANH LỢI(Vạn
Phật Thành ngày 15 tháng 3 năm 1977)
Người học Phật Pháp
cần phải luôn luôn thành thật dụng công mà tu hành, như hai chân đứng vững
trên mặt đất (cước đạp thực địa), không được mưu đồ hư danh.
Ham thích hư danh
thì chẳng ích lợi gì cho việc tu Ðạo. Muốn làm những việc "hữu thực vô
danh" thì không được tham cầu chuyện "hữu danh vô thực"; nghĩa là không
tham cầu cái danh giả dối, có tiếng mà không có miếng. Còn như làm những
việc chân thật được biểu hiện ra ngoài thì được gọi là "hữu thực vô danh"!
Các vị đừng nên tham
cầu cái hư danh; mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều phải chân
thật. Lòng tâm chân thật, làm việc chân thật, chính là bản sắc của tín đồ
Phật Giáo. Tâm mình sung mãn đạo đức, học vấn và trí huệ thì lúc đó mới
gọi là có bản lãnh!
Ðừng tham cái danh
hão, đừng thích cái lợi giả của thế gian; nếu không thì cũng giống như
"cánh hoa giả" chẳng bao giờ có thể sinh "quả" thật được. Ðó là điểm hết
sức quan trọng, mong các vị chú ý!
5. GHI CHÚ VỀ SỰ LINH NGHIỆM KHI CẦU MƯA Ở CÔNG VIÊN GOLDEN GATE - SAN
FRANCISCO(Do
người trong cuộc thuật lại)
Ở San Francisco và
những vùng phụ cận mấy trăm dặm đã xảy ra nạn hạn hán. Trong hai năm liền
mưa rất ít, không những gây khó khăn cho việc trồng trọt mà nước uống cũng
trở thành vấn đề nghiêm trọng, nên việc dùng nước mỗi ngày bị hạn chế. Vì
thế, những người xuất gia và tại gia ở chùa Kim Sơn tự động phát tâm cầu
mưa, thực hành hạnh Bồ Tát.
Vào lúc bảy giờ sáng
ngày 16 tháng 12 năm 1977, tại công viên Golden Gate, Thầy Hằng Thực đại
diện thiết lập đàn để cầu mưa. Tổng cộng có mấy trăm người tham gia thành
khẩn tụng niệm chú cầu mưa. Pháp Hội hết sức trang nghiêm; từ lúc nước Mỹ
lập quốc đến nay, đây là pháp hội đầu tiên vậy. Người nào không phải là
tín đồ Phật Giáo thì cho là mê tín và chuyện không thể xảy ra được. Khi
kết thúc Pháp Hội, mọi người ra về với lòng tin vững chắc là sẽ có mưa
xuống. Cổ nhân có câu:
"Tinh thành sở
chí, Kim thạch vi khai."
Nghĩa là:
"Lòng thành cùng
cực, Vàng, đá cũng tan."
Cho nên, ngày hôm
sau vào khoảng mười hai giờ trưa, bầu trời đang quang đãng trong suốt, đột
nhiên mây đen kéo đến, sấm sét nổi lên, và trong khoảnh khắc mưa rơi phủ
khắp. Mọi người ai nấy đều hết sức vui mừng.
Cơn mưa bất ngờ đã
làm cho những chuyên gia khí tượng hết sức ngạc nhiên. Có hiện tượng này
là do sự "cảm ứng đạo giao": Lòng thành khẩn cao độ của những người phát
tâm cầu mưa đã tác động được tâm từ bi của Long Vương, nên dù cho không
phải là lúc trời phải mưa, nhưng mưa lại tuôn xuống để cứu độ chúng sinh!
Nạn hạn hán được
tiêu trừ sau trận mưa đó. Tin này truyền đi khắp San Francisco, ký giả báo
chí và các đài truyền hình đều tới phỏng vấn, chụp hình, quay phim.Chuyện
này được loan truyền cho là chuyện hết sức kỳ lạ. Người viết có tham gia
Pháp Hội cầu mưa này nên ghi chép lại để các vị độc giả biết.
6. TUYỂN HIỀN CỬ NĂNG
ÐỂ LÀM BẬC TRỤ TRÌ
(Vạn Phật Thành ngày 16 tháng 1 năm 1978)
Trong tương lai, các
chùa Kim Luân, Kim Sơn và Như Lai đều cần một vị Trụ Trì. Vì vậy, các vị
hãy suy cử một vị có tài đức, có đủ tư cách để làm Trụ Trì, rồi ủng hộ vị
đó.
Tuyển trạch một vị
Trụ Trì thì phải lấy gì làm tiêu chuẩn? Thứ nhất là vị đó không được nóng
giận, đối xử phải có hòa khí, ở đâu cũng tạo được nhân duyên với chúng
sanh; không dùng quyền lực để áp đảo người khác, biết dùng tác phong dân
chủ mà làm việc khiến cho mọi người kính nể.
Nếu tuyển chọn một
vị Trụ Trì hay nóng giận thì không ai có thể chịu được sự áp bức của vị
đó, mọi người sẽ bất mãn, hòa khí sẽ không còn. Như vậy thì chẳng giúp ích
gì cho Phật Giáo cả, mà ngược lại, còn gây khó khăn nữa!
Vị nào diệt được
nóng giận, biết nhẫn nhục cao độ, tất nhiên sẽ được tuyển làm Trụ Trì; nếu
trái lại e rằng ít có hy vọng. Bởi vì sao? Bởi vì có phiền não thì rất dễ
đem
Phật Pháp thiêu hủy
đi! Phiền não thuộc về lửa có thể thiêu hủy mọi thứ, dù cho có trận mưa
lớn như vừa kể, cũng không thể nào dập tắt được đại hỏa tai này.
Hôm nay, ngày 16
tháng giêng năm 1978, tôi nói với các vị những lời quan trọng này bởi vì
tương lai khi tuyển chọn vị Trụ Trì, các vị cần phải nhận xét phẩm hạnh,
kiến thức của vị đó như thế nào. Phàm là Trụ Trì tất phải có thiện duyên
quảng đại, hòa hợp với tất cả mọi người, đồng lao cộng tác, mọi người đều
tôn kính, không làm cho ai oán ghét.
Bất luận là Tỳ Kheo,
Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, nếu các vị thấy người nào có Ðạo tâm,
tinh tấn tu hành, có năng lực lãnh đạo, xứng đáng làm bậc Trụ Trì, thì
người đó có thể được suy cử làm Trụ Trì vậy!
7. KINH LĂNG
NGHIÊM TUYỆT ÐỐI LÀ BỘ CHƠN KINH
Hôm nay là ngày 17
tháng 12 năm 1976 (ngày vía Ðức A Di Ðà), tôi đối trước mười phương chư
Phật phát nguyện như sau. Nguyện gì? Nguyện này có liên hệ đến vấn đề Kinh
Lăng Nghiêm là thật hay giả.
Gần đây có rất nhiều
học giả phê bình Kinh Lăng Nghiêm, cho rằng bộ Kinh này không phải do
chính Ðức Phật Thích Ca nói ra, mà là do người đời sau ngụy tạo. Ðó là lối
tuyên truyền phá hoại, làm cho rất nhiều tín đồ không muốn thâm giải Phật
Pháp, sinh lòng phỉ báng hoài nghi. Nhiều người nghe nói thì nói theo,
nhưng lại không biết chân giả thế nào, đó là điều rất đáng thương!
Hôm nay, tôi đối
trước mọi người mà bảo chứng rằng Kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh chân thật;
không những Kinh Lăng Nghiêm mà Chú Lăng Nghiêm cũng chân thật! Kinh Lăng
Nghiêm là chân thân của Phật, là xá lợi của Phật, không ai có thể phá hoại
được!
Có Kinh Lăng Nghiêm
thì có Chánh Pháp, không có Kinh Lăng Nghiêm thì không có Chánh Pháp! Nếu
như Kinh Lăng Nghiêm là giả thì tôi nguyện sẽ bị cắt lưỡi, và đọa Vô Gián
địa ngục.
Tôi hy vọng các vị
từ đây về sau phải có Trạch Pháp Nhãn, đừng nghe theo lời của các vị tiến
sĩ hay học giả nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm mà cho rằng bộ Kinh này là ngụy
tạo! Các vị đừng để bị dao động, mà trái lại, cần phải có Ðịnh lực để
chuyển hóa sự sai lầm đó!Vì sao những kẻ đó lại cho rằng Kinh Lăng Nghiêm
là giả tạo? Là vì họ đã mê lầm đến cực điểm, không muốn cho Chánh Pháp trụ
thế, không muốn người khác tu hành, cho nên cố ý phá hoại! Trong Kinh Lăng
Nghiêm có dạy rằng:
"Dâm tâm bất trừ,
Trần bất khả xuất."
Nghiã là:
"Lòng dâm không
dứt, Trần gian chẳng thoát."
Chỉ hai câu này thôi
cũng đủ chứng minh bộ Kinh này hàm chứa diệu lý chơn thật, xác quyết của
chư Phật nói ra: "Nếu không trừ được lòng dâm dục, thì không thể ra khỏi
được Tam Giới. "(2) Cũng có thể nói rằng: Nếu không đoạn dục, khứ ái, thì
căn bản không thể nào chứng quả được! Trong Kinh Lăng Nghiêm còn dạy rằng:
"Nhược bất đoạn
dâm,
Tu Thiền Ðịnh
giả,
Như chưng sa
thạch,
Dục kỳ thành
phạn,
Vô hữu thị xứ."
Nghiã là:
"Không dứt lòng
dâm,
Mà tu Thiền Ðịnh,
Cũng như nấu cát,
Rồi mong thành
cơm,
Thật chẳng thể
được."
Do đó, quán chiếu
thì biết rằng Chánh Pháp Nhãn Tạng là ở đây! Phàm là người Phật tử chân
chính thì nhất định phải ủng hộ, nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm và tụng trì
Chú Lăng Nghiêm, bởi vì Chú này có năng lực không thể nghĩ bàn; đó là kinh
nghiệm của chính bản thân tôi.
Tôi lại phát nguyện
đặc biệt nhấn mạnh rằng bộ Kinh Lăng Nghiêm là thật chứ không phải giả.
Nếu tôi có sai lầm thì nguyện sẽ đọa địa ngục và bị cắt lưỡi!
Hy vọng các vị nhận
thức rõ ràng vấn đề này, tự mình phải có chánh kiến, đừng cô phụ lòng tôi.
8.
CHÚNG SINH BIỆT NGHIỆP VỌNG KIẾN, VÀ ÐỒNG PHẬN VỌNG KIẾN
Trong Kinh Lăng
Nghiêm có một đoạn thảo luận về hai thứ điên đảo vọng kiến. Thế nào là hai
thứ điên đảo vọng kiến?
Thứ nhất gọi là
Chúng Sinh Biệt Nghiệp Vọng Kiến, tức là do mình đơn độc tạo nghiệp không
giống với tất cả những người khác, tự mình kiến giải hành vi không giống
kẻ khác, trong mọi trường hợp thì mình hoàn toàn đều khác.Thí dụ cho mình
là người giỏi nhất, hại người lợi mình, thích những điều xa vời hão huyền
hoặc làm những việc mà không có người nào dám làm. Ðó là tạo nghiệp, mà tự
mình tạo thì mình thọ, so với người khác không giống nhau.
Loại thứ hai gọi là
Chúng Sinh Ðồng Phận Vọng Kiến, tức là do chúng sinh cộng nghiệp tạo
thành, mình cùng với tất cả những người khác thì đều giống nhau; cũng như
thiên tai làm chết hàng ngàn vạn người thì đó gọi là cộng nghiệp, là một
số người cùng chịu chung. Những người đó cùng tạo điều ác nên cùng thọ quả
báo giống nhau.
Chữ "kiến" ở đây có
nghĩa là kiến giải, bởi vì lấy si mê của chúng sinh làm của mình, nhận tên
trộm làm con mình, cho nên sinh ra đủ thứ chấp trước vọng tưởng. Do vọng
tưởng mà sinh ra mê hoặc, do mê hoặc mà tạo ra vô số ác nghiệp, bởi vậy
cho nên cùng nhau thọ quả ác.
Bây giờ tôi xin kể
một chuyện thật về Cộng nghiệp như sau: Năm Dân Quốc thứ 33 (1944), ở tỉnh
Hà Nam, Trung Quốc, hoàn toàn không có mưa cả một năm trời, đất đai khô
cằn mà còn bị thêm nạn châu chấu. Những con châu chấu này mỗi lần bay tới
thì đầy cả bầu trời. Tất cả nông sản đều bị chúng ăn hết, thậm chí một
ngọn cỏ một chiếc lá cũng không mọc lên nổi. Lúc bấy giờ có một đứa trẻ
nhìn thấy trên trời có một ông già đeo cái túi, từ sáng đến chiều luôn tay
vứt xuống những con châu chấu từ trong túi ấy bay khắp bầu trời.Dân ở đó
vì quá đói nên giăng lưới bắt châu chấu về ăn cho đỡ đói. Họ nghĩ rằng
châu chấu cũng là một nông sản nên không có chất độc. Ngờ đâu khi những
con châu chấu này bị nấu chín rồi thì biến thành phân, thành đất bùn, ăn
không được, không ai dám ăn cả. Vì đói quá nên dân chúng chỉ còn có cách
là dời đến nơi khác. Từ tỉnh Hà Nam đến Trường An cách xa tám trăm dặm,
trong khoảng đường có người chết không biết bao nhiêu mà kể; những người
này chết một cách khủng khiếp, ai nấy nhìn thấy cũng khiếp sợ. Ðây có thể
nói là một ví dụ do "cộng nghiệp" mà chiêu cảm lấy quả báo.
Bây giờ nói tới Biệt
Nghiệp Vọng Kiến và Ðồng Phận Vọng Kiến. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật có
giải thích rất rõ ràng.Thế nào là Biệt Nghiệp Vọng Kiến? Cũng như trong
thế giới này, có những người mắt bị nhặm thì thấy trước mắt toàn một màu
đỏ, ban đêm khi nhìn ánh đèn lại thấy xung quanh đèn có những vòng ánh
sáng đủ màu. Bởi mắt có bịnh nên mới thấy những huyễn ảnh như vậy, thấy đủ
năm màu tạp sắc trùng trùng điệp điệp. Con mắt bịnh này tượng trưng cho vô
minh, ban đêm tượng trưng cho si mê, ánh đèn tượng trưng cho tạng tánh,
tức là bổn tánh của mình, năm màu sắc tượng trưng cho Ngũ Uẩn hay Ngũ Ấm,
là những trần cảnh giả tạo.
Vì do chúng sinh có
vọng kiến nên mới có huyễn ảnh ở ngoại cảnh; nếu vọng kiến mà trừ rồi thì
bịnh không còn nữa, ánh sáng huyễn ảnh đó làm sao mà có được? Con mắt tốt
tượng trưng cho trí huệ chân thật, còn bóng đèn tượng trưng cho chân lý.
Dùng trí huệ chân thật mà thấy được chân lý, thì Nhất Chân Pháp Giới hoàn
toàn không có Ngũ ấm, Ngũ Trần gì cả.
Cũng như có người
mắt mình vốn không có bịnh nhưng tự mình lại làm cho có bịnh. Giống như
một anh chàng hút thuốc phiện vậy, có lần anh ta cười lớn trong khi anh ta
đang đứng trước một bức tường.
-Tôi hỏi: "Tại sao
anh cười?"
-Anh ta trả lời:
"Thật là kỳ quái! Bức tường này thật đẹp, nó có đủ năm màu ánh sáng chiếu
rọi bốn phía."
Ðó chỉ là do huyễn
ảnh mà ra, không có bịnh mà hút thuốc phiện thì tâm thần trở nên điên đảo.
Những huyễn ảnh đó vốn là giả lại cho là thật, nên thân ở trong mê mà
chẳng biết mình mê! Trên đây đã lược giải Biệt Nghiệp Vọng Kiến.
Tiếp theo, trong
Kinh lại giải thích thế nào là Ðồng Phận Vọng Kiến. Thí dụ như trong Diêm
Phù Ðề có một châu nhỏ, chỉ có hai nước mà quả báo chiêu cảm không giống
nhau. Dân chúng của một nước thì thọ cảm ác duyên, toàn gặp những tai nạn
bất tường; còn dân ở nước lân cận thì chẳng bị gì cả. Ðó là do vọng hoặc,
vọng nghiệp, vọng kiến mà tạo thành.
Như hiện tại ở Mỹ,
miền Ðông thường có tai họa bão lụt làm chết nhiều người, nhưng miền Tây
Nam thì hoàn toàn vô sự. Ðó là vì nghiệp cảm chỉ tại miền Ðông mà thôi,
không có tại miền Tây Nam vậy.Hoặc có kẻ thấy hai mặt trời hay hai mặt
trăng thì đều là những điềm bất tường; người xưa nói: "Thiên vô nhị nhật,
Dân vô nhị quân." (Trên, không có hai mặt trời; Nước, không có hai vua.)
Ở Trung Hoa, về đời
nhà Hạ, vua Kiệt là người bạo ngược, trên không trung bỗng nhiên hiện ra
hai mặt trời, nhà Hạ nhân đó mà diệt vong. Ðó là điềm hung dữ được báo
trước.Ngoài ra còn có những điềm gọi là Vựng, Thích, Bội, Quyết. Những ác
khí bao quanh mặt trăng làm mờ mặt trăng thì gọi là Vựng; khí đen che lấp
mặt trăng gọi là Thích; khí trắng ở bên cạnh mặt trăng gọi là Bội, mà che
đi một nửa thì gọi là Quyết. Ðó là những điềm xấu thuộc về mặt trăng.
Lịch sử Trung Hoa có
chép rằng khi mặt trăng bị che lấp bảy lần thì Hán Cao Tổ ở Bành Thành bị
giặc Hung Nô vây khốn.Ngôi sao có ánh sáng dài sau đuôi gọi là Tuệ, tức là
sao chổi; hào quang ngắn hơn quét đi bốn phía thì gọi là Bột Tinh; ở trên
không trung xẹt xuống gọi là Phi Tinh; ở dưới mà vọt lên gọi là Lưu Tinh;
đó đều là những điềm xấu thuộc về các ngôi sao.
Sách Xuân Thu có
chép rằng vua Tống Nhượng Công không có nhân nghĩa nên sao xẹt xuống như
mưa, vua Tần Thủy Hoàng hết sức bạo ngược thì sao chổi xuất hiện; đó cũng
là những điềm không lành.Ác khí ở phía trên mặt trời gọi là Phụ, ở bên
cạnh mặt trời gọi là Nhĩ. Sau khi trời mưa mà xuất hiện cầu vồng thì gọi
là Hồng Nghê, buổi sáng gọi là Hồng, buổi chiều gọi là Nghê; đó đều là
những điềm xấu của mặt trời. Tóm lại, bên cạnh mặt trời, mặt trăng có hiện
ra những khí đó đều là những điềm báo trước sự bất tường.
Ở nước Trung Hoa,
mỗi khi một triều đại thay đổi thì đều có những điềm bất tường xảy ra. Có
lần, một vị Hoàng Ðế thấy điềm bất tường nơi một ngôi sao, liền triệu quan
Thiên Văn đến để hỏi sẽ xảy ra điềm tốt hay xấu.
-Vị Khâm Thiên Giám
tâu rằng: "Ðây là điềm hết sức bất tường, Bệ Hạ có thể sẽ tử vong, nhưng
thần có cách làm cho vị Tể Tướng chịu điều hung dữ ấy thay cho Bệ Hạ, Bệ
Hạ có bằng lòng không?"
-Nhà vua trả lời:
"Tể Tướng lo liệu quốc gia đại sự thì làm sao có thể chết thay cho ta
được."
-Viên quan lại hỏi:
"Có thể chuyển tai họa đến nhân dân chăng?"
-"Dân là gốc của
nước, ta vì dân mà làm, có thể nào để dân chết thay cho ta được."
-"Nếu vậy thì chuyển
tai họa này đến mùa màng được chăng?"
-"Mùa màng mà mất
thì dân sẽ chết đói, đó là chuyện ta không thể làm được!"
Quan Khâm Thiên Giám
nghe xong liền sụp lạy mà tâu rằng: "Hoàng Thượng đúng là bậc minh quân có
lòng nhân từ, thì nhất định sẽ chuyển được điều hung dữ thành điều kiết
tường; Hoàng Thượng nhất định không thể chết được!"
Quả nhiên, ngày hôm
sau điềm xấu trên trời biến mất, không còn thấy nữa. Việc đó chứng minh
rằng không có chuyện gì là cố định, chỉ do tâm mình mà chuyển biến thôi.
Nếu tâm thiện thì có thể chuyển điều xấu thành điều tốt; cho nên Lão Tử
nói rằng:
"Hồi tâm thú
thiện,
Thiện tuy vị vi
nhi Thiện Thần tùy chi.
Hồi tâm hướng ác,
Ác tuy vị vi nhi
Ác Thần tùy chi."
Dịch là:
"Quay tâm hướng
thiện,
Ðiều thiện tuy
chưa làm mà Thiện Thần đã theo sát. Chuyển tâm về ác,
Ðiều ác tuy chưa
làm mà Ác thần đã kề bên."
Thần thì có thiện có
ác; Thiện thần thì bảo hộ thiện nhân, Ác thần thì trừng phạt kẻ ác, cho
nên nói rằng: "Họa, phước vô môn, Duy nhân tự chiêu." (Họa, phước không
cửa vào, Chỉ do mình tự chuốc lấy.)Nếu trong tâm mình không làm điều ác
thì điều bất tường (không lành) không thể phát sinh.
9. TRÌ CHÚ TRƯỚC
TIÊN PHẢI CHÁNH TÂM THÀNH Ý
(Vạn Phật Thành ngày 25 tháng 1 năm 1981)
"Tụng trì, mặc
niệm, thiểu ý ngôn,
Thị giáo lợi hỷ
hóa đại thiên.
Sở tác chư pháp
tất cứu cánh,
Bất tăng bất giảm
đáo Niết Bàn."
Dịch là:
"Tụng trì, thầm
niệm, ít nói năng,
Dạy dỗ, lợi vui,
khắp nơi nơi.
Mọi việc làm ra
đều cứu cánh,
Không tăng, không
giảm, tới Niết Bàn."
Học Chú thì trước
tiên cần phải chánh tâm, thành ý; tâm không chánh thì học chú gì cũng
thành tà. Tâm chánh, học Chú mới có cảm ứng. Chánh tâm cũng chưa đủ, cần
phải thành ý. "Thành" tức là lúc nào mình cũng hết sức chuyên chú, chuyên
tâm, không xao lãng, không làm những chuyện cẩu thả, tắc trách. Ðược vậy
thì mới có cảm ứng.
Nếu không "chánh
tâm, thành ý," nếu trong lòng đầy dẫy tư tưởng sai lầm, làm hại kẻ khác,
tức là mình làm chuyện của ma. Pháp của ma vương là hại người, không lợi
ích cho ai cả.
Nếu thật sự muốn tu
hành thì trong bất cứ trường hợp nào cũng không được làm hại kẻ khác. Phải
nuôi tâm làm lợi chúng sinh; không được học Chú để hàng phục ma quỷ hoặc
đi đấu với người khác.
Người theo Phật Giáo
không có kẻ thù, không tìm người để trả thù. Ðối với kẻ cố ý hại mình,
mình phải nhẫn nại, tu hạnh Nhẫn Nhục Ba-la-mật; không sinh tâm báo thù.
Ðó là chỗ cao siêu, là ưu điểm của Phật Giáo mà các tôn giáo khác thiếu
sót.
Tuy Cơ Ðốc Giáo có
nói rằng "ái địch" (thương kẻ địch), nhưng đó chỉ là trên phương diện ngôn
ngữ, thực sự họ có thể hiện được trong hành động không? Họ luôn luôn xem
người Phật Giáo như kẻ địch, họ có thương yêu những người Phật Giáo không?
Chắc chắn là không, vì họ gọi người Phật Giáo là nghịch đồ, là ma quỷ!
Tôn chỉ hết sức
trọng yếu của Phật Giáo là: Nếu bạn là ma quỷ thì tôi tuyệt đối không làm
tổn hại bạn, không sinh lòng đối kháng, mà ngược lại, sẽ tìm cách để nhiếp
thọ bạn. Ðây là giáo nghĩa đặc biệt nhất của đạo Phật. Ðối với chúng sinh
luôn phát tâm từ bi, không làm hại kẻ khác.
Chú Lăng Nghiêm là
chú kinh thiên động địa, khiến quỷ thần phải run sợ, là linh văn hết sức
hiệu nghiệm. Học Chú Lăng Nghiêm rồi thì phải luôn luôn phát tâm từ bi, cử
tâm động niệm không được làm hại người khác. Nếu ai đối với mình không tốt
cũng đừng khó chịu, đừng oán ghét. Tâm mình cần phải rộng lớn như ba ngàn
thế giới vậy, vạn vật đều có thể chứa gọn trong tâm mình; đó chính là bản
sắc của người Phật tử vậy!
"Tụng trì, mặc niệm,
thiểu ý ngôn." Câu chú "Yin two na" (Nhân đa la) dịch nghĩa là tụng trì,
hoặc là mặc niệm, hoặc thiểu ý ngôn; tức là mình không cần nói nhiều, cũng
không vọng tưởng nhiều, chuyên tâm thì linh, tán loạn thì không cảm ứng.
Thế nào là chuyên
nhất? Tức là luôn luôn đừng sinh tâm làm hại chúng sinh. Nếu có tâm làm
hại kẻ khác thì tương lai sẽ gặp chuyện hết sức nguy hiểm; bởi vì: "Ða
hành bất nghĩa tất tự tệ." (Nếu luôn làm chuyện bất nghĩa, thì mình sẽ tự
tiêu diệt mình.)
Mình hại kẻ khác tức
là mình đã hại chính mình. Mình giết cha người, thì có kẻ chắc chắc sẽ
giết cha mình; mình giết anh người thì sẽ có kẻ giết anh mình; đó là luật
nhân quả. Là Phật tử thì cần phải làm lành lánh dữ. Nếu không tạo nhân ác,
thì sẽ tránh được quả ác trong tương lai.
"Thị giáo lợi hỷ hóa
đại thiên." Câu này nói rằng lấy Phật Pháp chỉ dẫn, giáo hóa chúng sinh,
làm cho tất cả mọi người đạt được chỗ lợi ích, hoan hỷ. Khi thấy có chuyện
gì lợi ích cho người khác thì mình làm ngay:
"Tài bồi tâm
thượng địa,
Trưởng dưỡng tánh
trung thiên."
Dịch là:
"Vun bồi miếng
đất tâm linh,
Nuôi lớn bầu trời
bản tánh."
Thường giúp kẻ khác
thì lâu ngày tự nhiên sẽ có đức hạnh. Không phải chỉ kêu gọi người khác
làm lợi ích cho mình, mà tự mình không làm lợi ích kẻ khác. Kẻ nuôi dưỡng
tánh ỷ lại và chỉ muốn tận hưởng tiện nghi là kẻ không có khí phách.
Hãy xem trên đời
này, những kẻ chuyên đi tìm tiện nghi cho mình kết quả đều thất bại; nếu
các vị không tin thì hãy nghiên cứu cho kỹ lưỡng. Bất luận là ai, với lòng
tham không đáy, chuyên đi tìm tiện nghi cho chính mình thì kết quả đều
không tốt. Nếu mình đem lại lợi ích cho người khác, làm cho mọi người hoan
hỷ, thì đi tới đâu ai ai cũng kính phục mình.
Khổng Tử nói rằng:
"Ngôn tất trung tín, Hành tất đốc kính, Tuy man mạch chi bang, hành hỹ."
(Lời nói chân thật, Hành động chắc thật, cung kính, thì dù ở nơi nguy hiểm
cũng vẫn được an toàn.)
Một lời nói ra thì
phải thành thật, không được gian trá, lừa dối kẻ khác. Hành vi thì phải
hết sức thành thực, trung hậu, khiêm nhường, cung cẩn. Bất cứ làm việc gì
cũng có lòng "khiêm cung hòa kiết"; không được cống cao ngã mạn, coi mình
như ông trời, không ai sánh bằng. Như vậy thì không thể chấp nhận được!
10. QUY
MẠNG CHÚ LĂNG NGHIÊM QUANG MINH TRÊN ÐẢNH PHẬT
"Ngã kim quy mạng
Ðại Phật Ðảnh,
Vô tận Pháp tạng
trí huệ quang.
Nguyện ngã minh
liễu diệu Tổng Trì,
Phụng hành Như
Lai sở thuyết "
"Ngã kim quy mạng
Ðại Phật Ðảnh": Ðó là lời của các vị Hộ Pháp, rằng các vị ấy quy mệnh Ðại
Phật Ðảnh Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú.
"Vô tận Pháp tạng
trí huệ quang": Ðại Phật Ðảnh là đảnh đầu của Phật và là kho Pháp tạng vô
tận. Nếu đuợc kho Pháp tạng ấy thì dùng không bao giờ hết cả. Pháp tạng vô
tận này tại nơi tự tánh của mình mà xuất hiện chứ không phải từ bên ngoài
vào. Nhưng tại sao ngay bây giờ không xuất hiện? Pháp tạng cũng giống như
những con trùng ngủ vùi trong mùa đông, chờ khi xuân tới nắng ấm thì chúng
bắt đầu hoạt động trở lại. Khi nào thân của người tu hành phát nhiệt thì
con trùng tự tánh sẽ hồi sinh, đồng thời tất cả những loại vi khuẩn khác
đều chết (vi khuẩn đây tức là phiền não).
Như vậy không phải
là sát sanh sao? Nếu các vị cho rằng đây là sát sanh, thì có thể không cần
tu hành! Không ai bắt buộc các vị cả; các vị có thể hoàn tục, có thể làm
như người tại gia với đầy dẫy phiền não, chướng ngại, tranh giành, vô
minh, ganh tị. Nhưng nếu muốn tu thì phải cải biến những thứ vi khuẩn đó
và khôi phục lại Phật tánh của mình.
Khi chưa thành Phật
thì trong thân mình có đến 84.000 loại trùng ăn thịt của mình, uống máu
của mình, trú ngụ nơi thân của mình. Chúng xúi giục mình đừng giữ giới
luật, bắt mình làm chuyện điên đảo. Bởi bị chúng chi phối nên mình mới làm
đủ chuyện xấu xa. Nếu mình nói rằng: "Ôi! Ðó là tại chúng nó làm, không
phải tôi làm." Như vậy thử hỏi tại sao mình lại giúp cho chúng? Nghĩa là
đói một chút thì chịu không nổi, khát một chút thì cũng không xong, ngủ
không đủ thì cũng không đành; tại sao mình phải trợ giúp những thứ vi
trùng đó? Trợ giúp chúng thì tự tánh chẳng thể hiển lộ được!
Vậy những thứ vi
trùng đó rốt ráo là gì? Tức là trùng ngu si, làm cho thân mình chỗ này
không dễ chịu, chỗ kia không yên ổn; toàn thân thật phiền hà! Có lúc thì
chúng làm cho mình bịnh này, lúc thì làm mình bịnh khác. Những thứ vi
trùng ngu si này khiến mình không đủ áo mặc thì không được, cơm không đủ
ăn cũng không xong, rốt cuộc cứ phải vật lộn với chính mình.
Vô tận Pháp tạng thì
ở nơi Ðại Phật Ðảnh mà phát sinh. Trí huệ quang này không giống như những
thứ hào quang khác mà là hào quang của Phật. Tại sao Phật lại có hào
quang? Bởi vì Phật không muốn có vi trùng ngu si tăm tối, cho nên mới dùng
trí huệ để chiếu sáng mọi vật, quét tan vô minh. Khi vô minh bị quét sạch
thì Pháp tánh tự nhiên hiển hiện, do đó Trí huệ quang tức là Phật quang
vậy!
"Nguyện ngã minh
liễu diệu Tổng Trì" : Tại sao cung kính Ðại Phật Ðảnh Trí Huệ Quang? Tại
sao phải cung phụng Ðại Phật Ðảnh Trí Huệ Quang? Bởi vì mình muốn hiểu rõ
Chú Ðại Tổng Trì, cũng là Ðà La Ni Lăng Nghiêm. Chú Ðại Bi còn gọi là Ðại
Bi Ðà La Ni.
Ðà La Ni là tiếng
Phạn Dharani, dịch là Tổng Trì. "Tổng" nghĩa là bao nhiếp tất cả các pháp,
"trì" nghĩa là giữ gìn vô lượng ý nghĩa. Tất cả các pháp đều được tổng
nhiếp vào chú này, tất cả các pháp đều khởi nguyên từ chú này.
Các vị hãy nhìn lá
cờ của Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, mỗi một màu hồng trên lá cờ là biểu
hiện cho Trí huệ quang. Ánh sáng này từ nơi "một" mà phát xuất ra, cho nên
nói rằng:
"Nhất bổn tán vi
vạn thù,
Vạn thù hoàn quy
nhất bổn."
Nghiã là:
Từ "một" mà phân
thành vạn thứ,
Từ vạn thứ lại
trở về "một."
Hào quang từ một
điểm mà phóng ra vạn phương rồi từ vạn phương mà thâu về một điểm. Vì vậy,
tại Vạn Phật Thành không phải chỉ có "một" mà là tất cả hào quang của chư
Phật đều từ đây phóng xuất quang minh, rồi quang minh đó trở về làm "một"
mà chẳng xâm phạm hay chướng ngại những hào quang khác.
"Phụng hành
Như Lai sở thuyết nghĩa": là khi đã hiểu ý nghĩa của thần chú này thì phải
theo đạo lý của chú đó mà cung kính thực hành.