Niết bàn
Niết bàn, phạn ngữ là Nirvàna, pàli ngữ là Nibbàna, là pháp ấn thứ
ba trong Tam Pháp Ấn. Trong Đại Trí Độ Luận, quyển thứ hai mươi hai, Tổ Long
Thọ viết: “Chư hành vô thường, Chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tịnh”.
Kinh Tạp A Hàm của Thượng tọa bộ Bắc phương, quyển thứ mười bản chữ Hán cũng có
đề cập đến Tam Pháp Ấn như trong Đại Trí Độ Luận. Theo Hán dịch thì Niết bàn
được chuyển dịch là Diệt, Tịch diệt, Diệt độ, Tịch, Bất sanh, Vô vi, Giải thoát
v.v... Ngoài ra, Niết bàn còn được giải thích khác nhau theo lập trường của Nam
Tông và Bắc Tông Phật Giáo, theo quan niệm tiêu cực và tích cực của các Tông
phái Phật giáo.
Niết bàn được xem là mục tiêu cứu cánh của Đạo Phật, chỉ trạng thái
tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thoát khỏi các kiết sử
tùy miên, sự đoạn diệt hoàn toàn mọi tham ái, sự dập tắt tham sân si, trạng
thái an tịnh tuyệt đối không còn bị bốn tướng sinh-lão-bệnh-tử chi phối nữa.
Rất nhiều đoạn Kinh, Phật hay dùng phương pháp phủ định để hiển thị
Niết bàn, như đoạn sau:
“Đồng nghĩa với Niết bàn giới, này các Tỷ kheo, là nhiếp phục tham,
nhiếp phục sân, nhiếp phục si. Cũng được gọi là đoạn tận các lậu hoặc”.
“Đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, này các Tỷ kheo, được
gọi là bất tử. Con đường Thánh đạo tám ngành là con đường đưa đến bất tử”([i]).
Có hai loại Niết bàn thường được biết đến, đó là Hữu dư Niết bàn và
Vô dư Niết bàn. Hữu dư Niết bàn là chỉ cho người đã đạt đến giải thoát khỏi
vòng luân hồi, nhưng phần nhục thể vẫn còn tồn tại; Vô dư Niết bàn là cảnh giới
vĩnh viễn khi xả ly phần nhục thể. Hai loại Niết bàn này của Phật Giáo có phần
tương tự với hai loại giải thoát của Vedanta là Hữu thân giải thoát và Vô thân
giải thoát.
Đức Phật với pháp thoại, trình bày về Niết bàn Hữu dư y và Vô dư y:
“Này các Tỷ kheo, thế nào là Niết bàn giới có dư y? Ở đây, này các
Tỷ kheo, Tỷ kheo là bậc Alahán, các lậu hoặc đã tận, phạm hạnh đã thành, đã
giải thoát nhờ chánh trí. Trong vị ấy năm căn còn tồn tại, ngang qua năm căn
ấy, vị ấy hưởng thọ khả ý, không khả ý, vì rằng tự ngã không có thương hại cảm
giác lạc khổ. Với vị ấy, tham diệt, sân diệt, si diệt. Này các Tỷ kheo, đây gọi
là Niết bàn có dư y”.
“Này các Tỷ kheo, thế nào là Niết bàn giới không có dư y? Ở đây,
này các Tỷ kheo, Tỷ kheo là bậc Alahán, các lậu hoặc đã tận, phạm hạnh đã
thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu
kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh trí. Ở đây, đối với vị ấy, mọi cảm thọ
đều không có hoan hỷ ưa thích, sẽ được lắng dịu. Này các Tỷ kheo, đây gọi là
Niết bàn không có dư y”([ii]).
Quả Hữu dư và Vô dư còn được giải thích, từ sơ quả đến tam quả Bất
hoàn được gọi là Hữu dư. Quả A la hán thứ tư được gọi là Vô dư.
Niết bàn Hữu dư y hay Vô dư y thường là y cứ
vào hữu thân hay vô thân, nhưng cả hai loại Niết bàn này đều khiến cho cái
nguyên động lực đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt:
“Này các Tỷ kheo! Thân của đức Như Lai còn tồn
tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt. Khi thân của vị
này tồn tại, thời chư Thiên và loài người có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại mạng
chung, thời chư Thiên và loài người không thể thấy được”([iii]).
Trạng thái tâm vắng lặng mà thường
biết là đương thể của Niết bàn. Thế nên, Niết bàn chính là bản tâm thanh
tịnh xưa nay. Nhờ cái đương thể của Niết bàn mà thế gian sinh diệt mới có chỗ
dựa tối hậu. Niết bàn hay sinh tử rốt cùng cũng chỉ là cái tâm của chúng ta, vì
sinh tử (mê) và Niết bàn (giác) chỉ là biểu tượng hai mặt của
tâm. Có khi người ta hiểu Niết bàn là một cảnh giới, nhưng là một cảnh giới vi
diệu mà ở đấy tất cả dục vọng vô minh của cá thể không còn tồn tại nữa. Vì thế,
những người đệ tử Phật muốn biết Niết bàn là gì, chỉ có thể kinh nghiệm một
cách trực tiếp vào nguồn tâm của chính mình. Và khi nào mà ý niệm về ta
và của ta không còn năng lực hoạt động trong tâm, thì tự nhiên hành giả
sẽ kinh nghiệm được cái một, cái thuần nhất bất tạp của
muôn loài vạn vật. Có thể nói, Niết bàn là chân lý tuyệt đối, nó vượt ngoài nhị
nguyên và tương đối. Người đạt được Niết bàn là người phục vụ kẻ khác một cách
trong sạch nhất, vì họ không còn nghĩ về mình, họ đã thoát khỏi mọi sai lầm về Ngã
và lòng khát khao muốn trở thành. Trong Niết bàn, không còn có thái độ thiên
chấp và bưng bít. Niềm vui chân thật chỉ xuất hiện khi nào ta thoát khỏi mọi
thành kiến ngã chấp và ý niệm có sẵn. Những người có lối sống phàm thường, đam
mê trong dục lạc thật khó mà biết được sự an lạc nội tâm của các nhà tu hành
đắc lực. Nhất là thời hiện đại này, nhiều người đã xem nhẹ truyền thống tâm
linh và đạo đức, lại xem trọng tri thức và vật chất. Và chính đó là mầm mống thác
loạn trong đời sống nội tâm và đời sống xã hội loài người hôm nay. Giáo dục của
thời đại không còn là giáo dục đạo đức nữa, mà giáo dục đã thiên về tri thức và
hướng ngoại.
Cũng cần lưu ý, Niết bàn không thuộc về những
tạo tác hữu vi. Tạo nhiều việc lành thì sinh về các thiên giới, còn mức trung
bình thì sinh vào nhân giới để hưởng thọ quả báo khổ vui. Cõi người có những
vận mệnh khác nhau là vì trong những nhân lành có lẫn lộn nhân ác nhiều hay ít.
Và tột cùng các thiện sự chỉ đạt được cao lắm sinh vào các cõi trời Dục giới để
hưởng phước báo hữu vi. Thế nên không thể dùng thiện sự chấp tướng mà mong đạt
đến cứu cánh Niết bàn (Vô vi).
Muốn đến cõi sắc và vô sắc mà còn phải
tu nhân thiền định, huống nữa là muốn thoát khỏi luân hồi.
Đức Phật thuyết giảng pháp thoại liên tưởng
đến Niết bàn:
“Này các Tỷ kheo, có xứ này, tại đây không có
đất, không có nước, không có lửa, không có gió, không có hư không vô biên...
không có phi phi tưởng xứ; không có đời này, không có đời sau; không có cả hai
mặt trăng mặt trời. Do vậy, này các Tỷ kheo! Ta tuyên bố không có đến, không có
đi, không có trú, không có diệt, không có sanh, không có an trú, không có
chuyển vận, không có sở duyên. Đây là sự đoạn tận khổ đau”([iv]).
Đây là pháp thoại thứ hai liên tưởng đến Niết
bàn:
“Này các Tỷ kheo, có cái không sanh, không
hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỷ kheo, nếu không có cái không
sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình
bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ kheo,
có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có thể trình bày sự xuất ly khỏi
sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi”([v]).
Và đây là pháp thoại thứ ba liên tưởng đến
Niết bàn:
“Cái gì có nương tựa, cái ấy có giao động; cái
gì không nương tựa, cái ấy không giao động. Không có giao động thời có khinh
an, có khinh an thời không có thiên về, không có thiên về thời không có đến và
đi, không có đến và đi thời không có diệt và sanh, không có diệt và sanh thời
không có đời này, không có đời sau, không có đời giữa. Đây là sự đoạn tận khổ
đau”([vi]).
Vì Niết bàn được diễn tả bằng những từ ngữ phủ
định, nên nhiều người hiểu lầm đó là trạng thái tự hủy diệt. Nếu hủy diệt, chỉ
là sự hủy diệt dục vọng và mọi ý tưởng sai lầm về Ngã. Niết bàn không thuộc
về có, vì không có tướng mạo. Niết bàn không thuộc về không, vì hằng tri hằng
giác. Đây là trạng thái thoát ly năm thủ uẩn, là cảnh giới “Phi nhị biên, ly
tứ cú, tuyệt bách phi”. Trạng thái tâm vắng lặng mà rõ biết là
đương thể của Niết bàn. Cái đương thể này đầy đủ bốn đặc tính Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh thì làm sao là hư vô đoạn diệt được? Thế nhưng, nhiều học giả Phật tử đã
coi Niết bàn là hư vô tuyệt diệt. Là đệ tử Phật mà hiểu Niết bàn là cảnh hư vô
tuyệt diệt là đã rơi vào kiến chấp đoạn diệt, bèn thành tà kiến, và dĩ nhiên là
tự mình đã phản bội lại Đức Phật rồi.
Điểm nổi bật của Phật Giáo nguyên thủy coi
Niết bàn là tĩnh. Ngược lại, nét đặc sắc của Phật Giáo phát triển coi
Niết bàn là động. Nhưng thực ra tĩnh và động chỉ là
hai mặt của cái một tuyệt đối mà thôi. Đến thời đại A Tỳ Đạt Ma Luận Thư
(thời đại bộ phái) đã quan niệm Niết
bàn là một cảnh giới vĩnh tịch, thắm đượm một màu sắc vô cùng tiêu cực. Phật
Giáo phát triển đến thời hưng khởi đã quan niệm Niết bàn mang tính hoạt dụng
tích cực hơn. Các vị Bồ tát vì mang đại nguyện độ sinh nên vĩnh viễn hoạt động
mà lòng không nhiễm trước thế gian, cái tâm không nhiễm trước đó được mệnh danh
là Bất trụ Niết bàn.
Tất cả mọi công hạnh độ sanh của chư Bồ tát
cũng từ quan điểm chủ động ở trên mà được an lập. Các Ngài nguyện vĩnh
viễn nơi biển sinh tử mà vĩnh viễn nơi bờ Niết bàn, vì sinh tử tức là Niết bàn,
một loại Niết bàn rất sinh động. Niết bàn này của Phật Giáo phát triển, thực ra
cũng chỉ là thừa kế Niết bàn của Phật Giáo nguyên thủy rồi thể hiện trên phương
diện tích cực nhập thế độ sanh mà thôi.
Tất cả pháp hữu vi sinh diệt trong từng sát
na. Quá khứ đã trôi qua, vị lai thì chưa đến, sự tồn tại chân chính chỉ có thể
tìm thấy trong từng sát na hiện tại. Vì thế, Niết bàn chỉ có ở sát na hiện tại,
ngay tại đây và bây giờ. Niết bàn cũng là chỗ tiềm ẩn của thế giới hiện thực, song
song tồn tại với thế gian vô thường, và vô thường chính là dụng lực của Niết
bàn vô vi đó vậy.
Có một thiền khách hỏi:
- Thế nào là Đại Niết bàn?
Sư đáp:
- Hãy nơi sinh tử mà nhận lấy.
[i] Tương ưng V - Một Tỷ kheo khác (2) - 7
[ii] Phật thuyết như vậy, DuK III, 7 - 443
[iii] Trường Bộ I, Phạm Võng - 46
[iv] Phật tự thuyết, Ud 80 - 381
[v] Phật tự thuyết, Ud 80 - 382
[vi] Phật tự thuyết, Ud 81 - 382