MI TIÊN VẤN ĐÁP
(Milinda
Panha)
Dịch Giả: Hòa Thượng
Giới Nghiêm
(Maha Thera Thita Silo)
Tỳ Kheo Giới Ðức Hiệu Đính, Ấn Bản 2003
II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP
(Gồm 244 Câu Hỏi)
073-089
73. Cõi Phạm Thiên bao xa?
- Thưa đại đức! Từ đây đến cõi trời phạm thiên
bao xa?
- Xa lắm, tâu đại vương!
- Đại đức có thể cho biết cụ thể được chăng?
- Có thể được, tuy không xác đáng lắm, nhưng đại vương có thể hình dung. Rằng
là nếu có một tảng đá to lớn bằng một tòa nhà, rớt từ cõi trời phạm thiên xuống
thì nó phải mất bốn tháng mới đến được nơi đây, tâu đại vương.
- Thế tại sao kinh sách Phật giáo nói rằng, một tỳ khưu có thần thông có thể
bay từ cõi người lên cõi phạm thiên chỉ với thời gian như viên lực sĩ co duỗi
cánh tay? Điều ấy thật khó tin.
Đại đức Na-tiên không trả lời mà lại hỏi:
- Đại vương quê quán ở đâu?
- Trẫm sanh ra và lớn lên ở đảo Alasanda, thưa đại đức.
- Từ đây đến đó có xa chăng?
- Xa lắm, có lẽ xa hơn hai trăm do tuần.
- Thế đại vương có nhớ việc gì xảy ra tại quê cũ của đại vương chăng?
- Trẫm nhớ chứ, và nhớ một cách dễ dàng.
- Sao đại vương có thể đi và về vượt qua hai trăm do tuần nhanh đến vậy?
Đức vua Mi-lan-đà cười xòa:
- Đại đức nhạy trí quá, trẫm rất cảm phục.
74. Thời gian tái sanh
- Thưa đại đức, ví dụ có hai người ở đây cùng chết, một người được sanh lên
cõi trời phạm thiên, một người đầu thai vào xứ Kasmir kế cận đây, thế thì ai sẽ
đến trước?
- Cùng đến một lúc, tâu đại vương.
- Xa gần không đồng nhau mà sao lại cùng đến một lượt, thưa đại đức?
- Thế thì đại vương thử nhiếp tâm nghĩ đến xứ sở Alasanda của đại vương đi?
- Trẫm nghĩ rồi.
- Bây giờ đại vương lại nhiếp tâm nghĩ đến xứ sở Kasmir đi!
- Trẫm nghĩ rồi!
- Thời gian mà đại vương nghĩ đến hai xứ sở ấy, xứ sở nào mau hơn?
- Thời gian bằng nhau.
- Tại sao thế? Xứ Alasanda của đại vương cách đây hai trăm do tuần, xứ Kasmir
cách đây chỉ có mười hai do tuần mà thời gian đi về lại bằng nhau?
- Quả đúng như thế thật. Nhưng đại đức có thể cho nghe thêm ví dụ nữa được
chăng?
- Ví dụ có hai con chim cùng bay, một con tìm đậu nhánh cao, một con tìm đậu
nhánh thấp, chúng cùng đậu một lần. Bần tăng thử hỏi đại vương, cái bóng của hai
con chim ấy, bóng nào rọi xuống mặt đất trước?
- Cùng một lần, không trước không sau.
- Chúng sanh chấm dứt thọ mạng ở đây, dẫu hóa sanh lên cõi Phạm thiên, dẫu
đầu thai vào cảnh người thì thời gian vẫn đồng nhau, không có sau trước, tâu đại
vương.
- Đại đức cho nghe thêm ví dụ.
- Đại vương hãy nhìn sắc thân của bần tăng đi?
- Trẫm nhìn rồi.
- Đại vương bỏ bần tăng, và qua cửa kính trên nóc cung điện, nhìn mặt trời
thử xem.
- Trẫm nhìn rồi.
- Thời gian mà đại vương nhìn bần tăng ở cạnh đây và thời gian mà đại vương
nhìn mặt trời xa xăm kia, có bằng nhau chăng?
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu:
- Vậy là trẫm đã hiểu. Sự tái sanh của chúng sanh, dầu ở cảnh giới nào, đều
xảy ra trong một niệm, chẳng có xa gần, sau trước!
- Đúng thế, tốc lực tâm đều bằng nhau.
- Quả vậy, thưa đại đức.
75. Sự liên hệ giữa kiếp này với kiếp kia
Đến đây, đức vua Mi-lan-đà chợt suy nghĩ một hồi lâu rồi nói:
- Thưa đại đức, trẫm có một hoài nghi, một nghi nan. Rằng là chúng sanh chết
ở đây đầu thai vào cảnh giới khác, khi đi sanh như vậy chúng có hình tướng hoặc
màu sắc nào chăng?
- Chẳng có màu sắc nào, chẳng có hình tướng gì khi chúng sanh đi đầu thai,
tâu đại vương. Suốt cả tam tạng, Đức Chánh Đẳng Giác không nói điều ấy.
- Nếu Đức Phật không thuyết điều ấy thì rõ ràng giáo pháp của Đức Phật đồng
với ngoại đạo rồi!
- Tại sao đại vương lại suy diễn như vậy?
- Đúng là trẫm suy diễn, nhưng mà trẫm suy diễn y cứ nơi câu nói của đại đức.
Nếu chúng sanh đi đầu thai mà không mang theo màu sắc và hình tướng nào cả, như
vậy chứng tỏ không có chúng sanh đi đầu thai. Không có chúng sanh đi đầu thai
thì cảnh giới mà nó đầu thai cũng không có. Cõi sau không có thì cõi sau nữa
cũng không có. Nếu luận điểm như vậy thì khác gì chủ trương của tà sư
Gunàjìvaka, là bậc thầy lớn, là bậc trí thức lớn ngoại đạo hằng tuyên bố: "Chẳng
có cõi này, cõi sau nên không có chuyện chúng sanh đầu thai vào cõi sau."
- Đại vương hãy nghe bần tăng nói đây.
- Trẫm nghe rõ rồi.
- Đại vương có nói dối không đấy?
- Sao đại đức lại nói thế?
- Làm sao đại vương có thể nghe được lời nói của bần tăng, khi mà lời nói của
bần tăng chẳng có màu sắc và hình tướng nào cả? Chẳng có màu xanh, trắng,
vàng... hay hình thù như voi, ngựa, xe đi từ miệng của bần tăng sang lỗ tai của
đại vương?
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Hay lắm, tuyệt vời thay là trí tuệ của đại đức.
- Tâu đại vương! Chúng sanh lìa bỏ cõi đời này đi tìm chỗ tái sanh chẳng có
màu sắc, hình thù tướng mạo gì cả đâu. Từ cảnh giới này sang cảnh giới kia ví
như tiếng nói của bần tăng đi sang lỗ tai của đại vương vậy!
- Trẫm đã hiểu rồi. Có lẽ trên thế gian này chẳng ai có tuệ giác thâm sâu như
đại đức, đã soi rọi làm cho trẫm tiêu tan mọi nghi ngờ. Nhưng từ sự giải đáp của
đại đức, trẫm lại phát sanh một nghi nan khác nữa.
- Đại vương cứ nói.
- Nếu tái sanh mà chẳng có màu sắc và hình tướng nào đi ra cả, thì khi đầu
thai vào cảnh giới mới, một ngũ uẩn khác sẽ tự nhiên sanh ra chăng? Và như vậy
thì nói thiện, nói ác để làm gì? Có sự liên hệ gì giữa nghiệp thiện ác với đời
này đời kia đâu? Và cái mà Phật giáo gọi là vòng luân hồi tái sanh thật vô nghĩa
lý vậy! Xin đại đức hãy soi sáng cho trẫm điều nghi nan ấy.
- Vâng, thường ngày đại vương có ăn cơm chăng?
- Có.
- Hạt cơm ấy từ đâu ra?
- Từ lúa.
- Lúa ấy tự nhiên sanh ra hay do đại vương bảo nhân dân cày bừa và gieo hạt?
- Dĩ nhiên là phải trải qua công phu gieo cày gặt hái mới có được.
Im lặng một lát, đại đức Na-tiên hỏi tiếp:
- Hạt gạo mà đại vương sai người nấu để ăn chính là hạt lúa mà người nông dân
gieo trên ruộng phải chăng?
- Thưa không phải.
- Hay là hạt lúa khác?
- Cũng không phải. Nó có được từ hạt lúa gieo trên ruộng.
Đại đức Na-tiên chợt mỉm cười:
- Thế là đại vương đã tự trả lời câu hỏi của đại vương! Đại vương đã tự trả
lời rằng, hạt cơm mà đại vương ăn chẳng phải do tự nhiên sanh mà do công người
nông phu gieo cày và gặt hái. Lại nữa, hạt cơm ấy có được dẫu chẳng phải là hạt
lúa gieo trên ruộng, nhưng cũng do từ hạt lúa trên ruộng ấy sanh ra. Cũng vậy,
ngũ uẩn tuy đã diệt rồi, nhưng nương tựa ngũ uẩn ấy, do các nghiệp thiện ác chi
phối mà sanh ra ngũ uẩn mới. Ngũ uẩn mới chính là hạt gạo mà đại vương ăn, nó có
được cũng do từ ngũ uẩn cũ, tức là hạt lúa cũ sinh ra. Và đấy chính là sự diễn
tiến của vòng luân hồi tái sanh, tâu đại vương.
- Trẫm đã rõ lắm rồi nhưng cho nghe thêm ví dụ.
- Đại vương có tổ chức hội hoa đăng chứ?
- Thưa có.
- Khi đại vương chủ trì hội hoa đăng ấy, đại vương thấy người ta mồi lửa từ
cây đèn này sang cây đèn khác chứ?
- Vâng, thấy.
- Thế thì lửa bên cây đèn này tự nhiên nó chạy sang cây đèn bên kia chăng?
- Chẳng phải tự nhiên mà do có người mồi.
- Rồi lửa ở cây đèn sau chính là lửa ở cây đèn trước?
- Không phải.
- Hay chẳng liên hệ gì với nhau?
- Chẳng phải.
- Vậy là đại vương đã tự trả lời. Đại vương đã tự trả lời rằng, chẳng phải
ngũ uẩn mới do tự nhiên sanh mà chính do thiện ác tạo tác. Ngũ uẩn mới không
phải là ngũ uẩn cũ đầu thai mà do ngũ uẩn cũ cùng với những tạo tác của nó mà
sanh ra ngũ uẩn mới. Đại vương đã nắm vững vấn đề rồi chứ?
Đức vua Mi-lan-đà gật đầu rồi hỏi tiếp:
- Ngũ uẩn nói chung, nhưng nói riêng sắc uẩn cũng là vậy chứ.
- Đúng là vậy.
- Thọ và tưởng... cũng thế?
- Đúng là vậy.
- Nhưng sắc thân của chúng sanh dù xấu dù đẹp, dù đui què mẻ sứt hay lành
lặn; những cảm thọ vui buồn, cùng những tri giác, ý tưởng v.v... nếu bảo chết là
hết thì không đúng, bảo không liên hệ gì nhau cũng không đúng. Trẫm đã hiểu vậy
nhưng đại đức có thể thiện xảo cho nghe ví dụ nào cụ thể dễ hiểu nữa chăng?
- Có thể được. Đại vương có cái kiếng soi mặt nào ở đấy chăng?
- Thưa có.
- Đại vương hãy để cái kiếng ấy ở trước mặt đại vương.
- Để rồi.
- Đại vương hãy soi mặt mình vào đấy.
- Soi rồi.
- Đại vương có thấy rõ tai, mắt, mũi của đại vương ở trong kiếng chăng?
- Thưa, thấy rõ rồi.
- Thế là tai, mắt, mũi của đại vương đã đi qua cái kiếng kia rồi phải không?
- Đúng vậy.
- Đại vương hãy xem lại coi thử đại vương có mất tai, mất mắt và mất mũi
chăng?
- Không mất.
- Vậy, nói chung là ngũ uẩn, nói riêng là sắc, thọ tưởng... ở kiếp sau nó
nương từ sắc, thọ, tưởng của kiếp này mà có, bảo là một cũng sai, bảo là hai cái
khác nhau cũng sai vậy. Khi một chúng sanh chết, ngũ uẩn diệt theo, nhưng những
nghiệp thiện ác tạo tác như bóng nương theo hình sẽ cấu sanh ngũ uẩn mới, đời
sống mới trong bụng mẹ. Mãi mãi như vậy là hành trình luân hồi của chúng sanh
trong sáu nẻo.
- Cảm ơn đại đức.
76. Vào cửa nào để đầu thai?
- Đại đức vừa bảo là ngũ uẩn mới sẽ cấu sinh trong bụng mẹ, vậy thì nó sẽ
theo vào cửa nào mới cấu sanh được?
- Nó có vào nhưng chẳng theo cửa nào cả, tâu đại vương!
- Sao lại vô lý như thế được?
- Đại vương có cái hộp nào mang theo đó chăng?
- Thưa có.
- Đại vương có biết trong hộp ấy đựng gì không?
- Nó đựng ngọc ấn và mấy cái triện son của trẫm.
- Vậy thì "cái thấy" của đại vương nó đi vào cửa nào mà biết trong hộp
đựng ngọc ấn và triện son?
- À ra vậy!
- Chúng sanh vào bụng mẹ chẳng theo cửa nào cả cũng y như thế, đầu tiên nó đi
vào bởi cái tâm sơ khởi gọi là kiết sinh thức;
cái thức ấy chẳng có hình thù, tướng mạo gì cả, nó như cái luồng suy nghĩ hay
tốc lực tâm của đại vương vụt chạy vào bên trong cái hộp kia vậy.
- Trẫm không còn nghi ngờ gì nữa cả.
77. Nhân sanh giác ngộ
- Nhân để sanh giác ngộ có mấy pháp hở đại đức?
- Nó có bảy nhân sanh gọi là thất giác chi, gồm có niệm, trạch pháp, tấn, hỷ,
an, định, xả - tâu đại vương.
- Người giác ngộ đạo quả là do giác chi nào hay phải thành tựu trọn vẹn bảy
giác chi ấy?
- Dĩ nhiên thành tựu bảy giác chi mới trọn vẹn, nhưng chỉ cần một giác chi
thành tựu cũng đủ giác ngộ rồi.
- Ấy là giác chi nào vậy?
- Là trạch pháp giác chi hay còn gọi là tuệ trạch pháp, tâu đại vương!
- Trẫm có thắc mắc đấy, thưa đại đức! Bởi vì nhân giác ngộ có tới bảy điều,
cớ sao đại đức bảo rằng chỉ cần thành tựu một trạch pháp giác chi cũng đủ giác
ngộ?
- Vậy thì đại vương hiểu thế nào, một lưỡi kiếm đặt trong bao nó gồm có bảy
phần: bao trong, bao ngoài, cán kiếm, chuôi kiếm, lưng kiếm, bụng kiếm và lưỡi
kiếm... mới gọi là đầy đủ phải chăng?
- Đúng thế.
- Khi cần cắt một vật gì, người ta sử dụng cả bảy phần ấy hay sao?
- Không, chỉ cần sử dụng lưỡi kiếm.
- Cũng vậy là bảy giác chi. Tuệ trạch pháp giác chi được ví như lưỡi kiếm,
sáu giác chi còn lại như là bao, chuôi, thân kiếm... vậy. Chúng vốn không xa lìa
nhau mà cấu thành một bộ phận, tuy nhiên, chỉ cần tuệ trạch pháp giác chi là cắt
lìa được phiền não rồi, tâu đại vương.
- Thật là tuyệt vời!
78. Điều lành nhỏ, phước quả lớn;
Điều ác lớn, tội báo nhỏ
Vua hỏi:
- Có trường hợp nào mà một người làm việc ác lớn, tội báo lại nhỏ; còn một
người làm việc lành nhỏ, phước quả lại lớn không, đại đức?
- Có chứ, và chuyện ấy cũng thường thường xảy ra.
- Vậy là không đúng với luật nhân quả chăng? Luật nhân quả bảo rằng gieo hạt
mè nhỏ thì được hạt mè nhỏ, gieo hạt bí to thì được quả bí to?
- Đúng là thế. Nhưng nếu hạt mè kia nhiều phân, có nước, nhổ cỏ dại, chăm cào
xới, nhổ tỉa cây dày thì hạt sẽ lớn hơn một tí chứ?
- Đúng thế.
- Còn hạt bí to kia gieo nơi đất sỏi đá khô cằn, chẳng phân nước, chẳng chăm
sóc thì quả bí chắc hẳn sẽ còn tí teo như quả cà?
- Đúng vậy.
- Cũng vậy là gieo nhân, nhưng còn trợ duyên, thuận duyên, nghịch duyên hay
chướng duyên góp phần vào nhân ấy mới quyết định quả được. Một người làm việc dữ
nhưng suốt ngày đêm ăn năn, hối hận, luôn luôn cảm thấy khó chịu, bứt rứt... nên
nguyện từ rày về sau không dám làm việc ác nữa. Chính nhờ tâm người ấy ăn năn
hối cải nên cái quả báo, tội báo sẽ nhẹ đi, nhỏ đi. Đấy là trường hợp nhân việc
ác lớn mà quả tội báo lại nhỏ. Một người làm việc lành nhỏ nhưng tâm lại hoan
hỉ, thỏa thích; suốt ngày, suốt tháng an vui, mát mẻ với chút ít việc lành ấy
thì phước quả của nó chắc chắn là to lớn lắm, tâu đại vương!
- Đại đức kể cho nghe một trường hợp cụ thể.
- Vâng, thuở Phật còn tại thế, một hôm ngài gặp một tôi nhân bị chặt cụt cả
tay cả chân, miệng ngậm một cành hoa sen với tác ý thành kính dâng cúng cho
ngài. Sau khi thọ nhận, Đức Phật quay lại bảo với các tỳ kheo rằng: nhờ phước
đức này mà trong suốt chín mươi mốt kiếp sắp tới, người bị cụt tay chân kia khỏi
bị đọa vào ba đường dữ, được sanh lên cõi trời hưởng hết phước báu mới sanh lại
làm người. Bởi vậy cho nên chuyện nhân quả xảy ra trên thế gian này nó muôn mặt,
muôn chiều, chứ không đơn giản như thường nhân hiểu đâu! Điều lành nhỏ phước quả
lớn, điều ác lớn tội báo nhỏ - mà ngược lại như thế cũng thường có đấy, tâu đại
vương!
- Trẫm đã hiểu.
- Đại vương đã hiểu nhưng chưa hiểu hết.
Đức vua mỉm cười:
- Có thể đúng như vậy thật.
79. Kẻ trí làm điều ác, tội báo nhỏ;
Người ngu làm điều ác tội báo lớn
- Thưa đại đức, nhân quả khó hiểu cho toàn diện, nhưng giả sử kẻ có trí và
người ngu cùng làm điều ác thì ai bị tội báo nhiều hơn?
- Người ngu sẽ bị nặng, tâu đại vương!
- Nếu thế thì khác luật pháp của thế gian. Trong quốc độ của trẫm, người thừa
hành pháp luật, kẻ có học, có trí thức, hiểu biết mà phạm pháp, trẫm sẽ có hình
phạt rất nặng; trái lại, người quê mùa, thất học, dại dột mà phạm pháp thì trẫm
sẽ chế định hình phạt rất nhẹ.
- Dĩ nhiên là Phật pháp khác thế gian pháp.
- Xin đại đức cho nghe ví dụ.
- Có một cục sắt nóng đặt giữa hai người, kẻ trí và người ngu. Nếu đức vua
bắt buộc mỗi người phải nắm cục sắt ấy đưa lên, chuyện gì xảy ra? Người trí sẽ
thò tay nắm thật nhanh, đưa lên rồi thả xuống thật nhanh. Như thế y sẽ bị phỏng
nhưng phỏng nhẹ. Còn người ngu không biết, nắm chặt, thế là y bị phỏng nặng.
Cũng thế, người ngu làm việc ác, không biết đấy là ác, lún sâu vào ác nên tội
báo sẽ nặng. Còn người trí biết đấy là ác, cũng làm ác; nhưng tìm cách này cách
kia để cho cái ác ấy nó nhẹ đi, do vậy tội báo sẽ ít hơn, tâu đại vương!
- Rõ ràng lắm rồi.
80. Bay bằng thân
- Thưa đại đức, có ai đi đến cõi Phạm thiên, xứ Bắc-cu-lô-châu hay châu khác
bằng thân thể này được không?
- Có thể được.
- Thân hình tứ đại nặng nề này làm sao có thể bay đến nơi xa xăm như thế?
- Đại vương có thể nhảy lên khỏi mặt đất này được bao cao?
- Thuở nhỏ thì trẫm nhảy cao chừng ba hắc tay nhưng nhờ tập luyện võ nghệ với
ý chí, sau này trẫm nhảy cao gấp đôi như thế.
- Với quyết tâm, với ý chí, đại vương có thể nhảy cao hơn gấp đôi mức bình
thường; cũng dường thế ấy, các sa môn tu tập thiền định, làm cho thiền định sung
mãn; sau đó dùng ý chí, nung nóng ý chí, tu tập thuần thục tứ-như-ý-túc, đắc
thần thông họ có thể bay đến cõi trời Phạm thiên, Bắc-cu-lô-châu hoặc các châu
khác nhanh chóng bằng thời gian của viên lực sĩ duỗi cánh tay thôi, tâu đại
vương.
- Thật là kỳ lạ!
- Đúng vậy, năng lực của tâm bất khả tư nghì.
81. Xương dài 100 do tuần
- Thưa đại đức, điều đó thì bất khả tư nghì rồi, nhưng các vị sa môn trong
hàng ngũ của đại đức, có người thuyết những điều cũng bất khả tư nghì không kém
vậy!
- Cho bần tăng được nghe?
- Họ nói rằng, có một thứ xương động vật không biết là loại giống gì dài đến
một trăm do tuần!
Đại đức Na-tiên mỉm cười:
- Điều ấy có thể hiểu được, suy luận được chứ không bất khả tư nghì lắm đâu.
Xin cho nghe.
- Đại vương đọc nhiều hiểu rộng, chắc có đọc qua sách "hải dương học"
nói về các loài thủy tộc sống ở biển khơi?
- Thưa, có đọc nhưng không biết có nhớ không!
- Ở đấy có nói đến một loài cá kình ngư hay thuồng luồng gì đó, dài đến năm
trăm do tuần.
- Đúng vậy, dường như là vậy.
- Cá mà dài đến năm trăm do tuần, xương chỉ có một trăm do tuần, có lẽ xương
còn ngắn quá phải không đại vương?
Đức vua cười ha hả:
- Tuyệt vời làm sao là cái dí dỏm của đại đức!
- Đại vương dí dỏm cũng thú vị như thế!
82. Biển
- Đại đức có nhắc đến biển. Tại sao người ta gọi là biển trong khi nó cũng
chỉ là nước thôi?
- Sở dĩ gọi là biển vì trong đó có nước hòa với muối, nên nước biển thường có
vị mặn.
- Tại sao nó lại mặn?
- Vì nó tích tụ quá lâu ngày, lại tích lũy quá nhiều xương cốt của các loài
thủy tộc khiến nước trở nên mặn, tâu đại vương!
- Chỉ đơn giản thế thôi ư?
- Vâng, chỉ có thế là đủ hiểu rồi, còn truy nguyên đến tận gốc cho rõ lý do
thì tất là trùng trùng nhân duyên tương tác, tương thành.
- Đúng vậy.
83. Ngưng hơi thở
- Thưa đại đức, các sa môn Thích tử có thuyết rằng, nếu nhập định đến một độ
sâu nào đó người ta có thể ngưng hơi thở mà vẫn không chết?
- Đúng vậy.
- Đại đức có thể cắt nghĩa được chăng?
- Vâng, nhưng đại vương có biết các loại hơi thở thường liên hệ với tâm con
người như thế nào không?
- Quả thật chưa biết.
- Vậy thì đại vương hãy nghe đây. Người mà tâm địa nóng nảy, độc ác, xan
tham, nhiều mê si thì hơi thở của họ thô tháo, dồn dập, đứt quảng, nặng nề. Còn
người tâm an ổn, vắng lặng, thư thái, mát mẻ thì hơi thở nhẹ nhàng, điều hòa,
diu và sâu. Đại vương có biết điều đó chăng?
- Thưa, có biết.
- Thế người ngủ mà thường ngáy thì ra sao?
- Có trường hợp người ban ngày làm việc nhiều, tối ngủ mê mà ngáy. Có người
ham ăn, mê ngủ, đầu óc rỗng không, to mập, ngủ thường ngáy. Có người chất phát,
vô tư, không lo, không nghĩ, nằm ngủ thường ngáy. Có người thân bệnh hoạn, tâm
không được tu tập, ngủ thường ngáy - thưa đại đức.
- Nhưng nói chung thì ngáy, hơi thở họ ra sao? Ngủ mà ngáy thì tốt hay xấu?
- Khi ngáy, hơi thể nặng nề, thô trọc; biểu hiện trạng thái tâm không yên
tĩnh nên đa phần là xấu.
- Đúng vậy. Còn người khi sắp chết, hơi thể khò khè, phát ra tiếng kêu ức ức
hoặc vật mình vật mẩy, hoặc rống như trâu bò hoặc kêu như heo bị chọc tiết là
sao?
- Đấy là biểu hiện một cái tâm buông lung, phóng dật, thân khẩu ý tự tung tự
tác làm càn, làm quấy, làm dữ, không có giới, không có định, không có trí. Còn
những biểu hiện kèm theo như kêu rống là do tạo ác nghiệp quá nặng... Chẳng hay
trẫm nghĩ như thế có đúng không, đại đức?
- Hoàn toàn đúng. Cho nên hơi thở càng thô, tâm càng thô, hơi thở càng tế,
tâm càng tế. Những vị tỳ kheo càng đi sâu vào thiền định thì thân an tịnh, tâm
sẽ an tịnh. Thân tâm càng an tịnh thì hơi thở càng lúc càng dịu nhẹ, vi tế. Đến
một lúc nào đó thân hoàn toàn chỉ tịnh thì tâm cũng hoàn toàn chỉ tịnh. Lúc ấy
hơi thở cũng mất luôn, chấm dứt luôn hơi thở nhưng sự sống, sức nóng vẫn còn tồn
tại.
- Có thể là đúng vì nghe rất hợp lý.
- Đấy không phải là cái lý mà là sự thật. Các tỳ kheo nhập tứ thiền có thể
ngưng hơi thở, các vị Thánh nhập định diệt thọ, tưởng - không những các ngài chỉ
ngưng hơi thở mà còn ngưng luôn cả cảm giác và tri giác đấy, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức đã cho trẫm mở rộng kiến văn.
Đại đức Na-tiên mỉm cười, chỉnh thêm một lượt nữa:
- Đấy không chỉ là kiến văn mà là "sự thật" khá thâm sâu của giáo pháp, tâu
đại vương!
- Thật là kỳ diệu.
84. Pháp xuất thế gian
- Đại đức vừa giải thích điều cao siêu ấy mà đại đức bảo là "sự thật khá
thâm sâu" của giáo pháp, thế ra giáo pháp còn những điều thâm sâu hơn thế
nữa chăng?
- Phải, không những nó thâm sâu mà còn tế vi và mầu nhiệm nữa.
- Đại đức có thể nói về các pháp ấy cho trẫm nghe với chăng?
- Có thể được, nhưng đó chính là các pháp xuất thế gian (Lokuttaradhamma)
nên rất khó nói.
- Tại sao lại khó nói?
- Thưa, vì rằng pháp xuất thế gian thì phải được diễn đạt và thông
hiểu bằng tuệ xuất thế gian. Pháp xuất thế gian không thể lãnh hội bằng
phàm tuệ được.
- Hóa ra là vậy - hóa ra là vì trẫm là người phàm!
Đại đức Na-tiên mỉm cười, không trả lời.
85. Tuệ xuất thế gian nằm ở đâu?
- Đại đức vừa nói đến tuệ xuất thế gian, vậy
tuệ xuất thế gian ấy khác với tuệ như thế nào? Và tuệ xuất thế gian
ấy trú ở đâu?
- Cũng chỉ là tuệ ấy (Pannà) nhưng nó sâu hay cạn đó thôi, tâu đại
vương! Tuệ xuất thế gian nó cũng không có trú xứ, không có nơi chốn, như gió
vậy!
- Cảm ơn đại đức! Thế thì câu hỏi ấy đại đức đã giải đáp một lần rồi.
86. Thức, tuệ và sanh mạng
- Thưa đại đức, thức và tuệ có ý nghĩa, ngữ tự giống nhau hay
khác nhau?
- Ý nghĩa và ngữ tự của thức và tuệ hoàn toàn khác nhau, tâu đại vương.
- Xin đại đức giảng cho nghe.
- Thức là vinnàna, nghĩa là nhận biết, thu góp mọi kiến thức, kinh
nghiệm; còn tuệ là pannà có nghĩa là thấy rõ, biết chắc mọi sự mọi vật
(các pháp) đúng như thực tướng, tâu đại vương.
- Cả hai thức và tuệ ấy chính là sanh mạng ở trong thân tứ đại này phải
không?
- Đại vương! sanh mạng theo cách hiểu của đại vương là linh hồn phải
chăng? Và vấn đề linh hồn thường tại ở trong thân thì đại vương đã hỏi rồi, và
bần tăng cũng đã giải đáp thỏa đáng rồi. Đừng nên rơi vào quan niệm thường kiến
như thế!
- Vâng, nhưng trẫm vẫn bị một hoài nghi khởi sanh. Là nếu không có một sanh
mạng thường tại ở trong thân thì ai là người thấy bằng mắt? Nghe bằng tai? Ngửi
bằng mũi? Nếm bằng lưỡi? Đụng chạm bằng thân? Và suy nghĩ bằng ý? Hẳn phải có
một linh hồn ở trong thân chứ?
- Đại vương, xin ngài hãy nghe cho kỹ đây, khi đại vương nhìn thấy một cái
hoa đẹp, đại vương nhận thức rõ là cái hoa ấy đẹp chứ?
- Vâng!
- Nếu sau đó, đại vương thoáng nghe một âm thanh chát chúa, đại vương cảm
thấy khó chịu chứ?
- Vâng!
- Vậy thì cái "thức nhận biết" đóa hoa đẹp và "thức cảm nghe"
âm thanh chát chúa ấy nó là một thức hay là hai thức?
- Thưa, nó là hai thức.
- Vậy thì thức trước diệt rồi mới có thức sau phải chăng?
- Đúng vậy!
- Thế là đại vương đã tự trả lời, rằng là chẳng có thức thường trú như linh
hồn, như sanh mạng, mà thức chỉ là duyên sanh, duyên diệt!
Đức vua Mi-lan-đà chợt như bừng sáng:
- À ra thế, chẳng có lý giải nào rõ nghĩa hơn thế! Vậy còn tuệ thì sao?
- Tuệ cũng từ cái nhận biết ấy, từ cái thức ấy chứ không phải là hai cái khác
nhau: nhưng thức thì dễ sai lầm, còn tuệ thì thấy đúng, biết đúng - tuệ thấy
đúng như thực tướng, tâu đại vương!
- Đại đức có thể nói rõ nghĩa hơn một chút nữa chăng?
- Thưa vâng, nhận biết của cái thức là do vô minh, ái dục chi phối, còn cái
thấy của tuệ là một cái thấy trong sáng, thanh tịnh từ sự giác ngộ và giải
thoát, không bị ngăn che bởi vô minh và ái dục nữa, tâu đại vương!
- Nghĩa là thức có chức năng khác, và tuệ có chức năng khác? Hay nói cách
khác "thức thanh tịnh" thì "tuệ" khởi sanh?
- Vâng, có thể hiểu như vậy.
- Còn sanh mạng thì sao?
- Sanh mạng cũng như thức và tuệ vậy, nó có vai trò và chức năng khác nhau
trong toàn bộ cơ cấu thân tâm của loài hữu tình, tâu đại vương!
- Cảm ơn đại đức! Quả thật là vi diệu!
- Đại vương, điều vừa trình bày ấy quả thật là vi diệu nhưng trí óc con người
vẫn có thể lãnh hội được. Còn Đức Thế Tôn thì ngài liễu tri cả những điều thậm
mật hơn thế nhiều, làm được cả những việc huyền diệu mà trong tam giới không ai
làm được!
- Những điều ấy là điều gì, thưa đại đức?
- Những việc tai nghe, mắt thấy, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm là cái gì
cụ thể, tuy nhiên, nhận biết cho đúng là một việc khó. Nhưng thử hỏi những pháp
vô hình, vô tướng, những pháp tế vi trừu tượng từ tâm vương, tâm sở thì ai là
người có khả năng thấy rõ, biết chắc bằng Đức Thế Tôn?
- Vâng, xin đại đức giảng rộng cho nghe?
- Đại vương, ví như có người ngụm một ngụm nước biển, y có thể biết được nước
biển ấy là mặn chăng?
- Biết được.
- Nhưng y có thể phân tích trong ngụm nước biển ấy, bao nhiêu là nước từ Hằng
hà? Bao nhiêu nước từ sông Yamanà? Bao nhiêu nước từ sông Sarabbù? Bao nhiêu
nước từ sông Aciravatì? Bao nhiêu nước từ sông Nahì?
- Thật không thể! Chẳng ai có khả năng phân tích ra được.
- Tại sao?
- Vì chúng đã bị trộn lẫn làm một rồi.
- Đại vương có thấy không, lưỡi nếm vị là một cái gì cụ thể, thế mà ta chẳng
thể nào phân tích được, huống hồ là những pháp vô hình, vô tướng, tế vi và trừu
tượng. Chúng ta làm thế nào để biết được đây là thọ (cảm giác), đây là
tưởng (tri giác), đây là hành (ý chí), đây là tác ý (khởi tâm);
đây là tâm vương này, tâm vương kia?
- Quả thật là khó khăn.
- Đức Thế Tôn không những biết rõ mà còn phân tích chi ly, rằng đây là hành
trình của các tâm vương, tâm sở trong dục giới, đây là hành trình của các tâm
vương, tâm sở sắc giới, đây là hành trình của các tâm vương, tâm sở vô sắc giới!
- Vâng, vâng.
- Rồi Đức Thế Tôn còn biết rõ và phân tích được các trạng thái tâm, đạo và
quả xuất thế gian nữa, tâu đại vương.
- Thật là kỳ diệu, thật là phi thường, thưa đại đức.
- Đúng vậy.
88. Thì giờ phải lẽ rồi
Đến đây, đại đức Na-tiên nói rằng:
- Tâu đại vương, bây giờ nửa đêm, cũng là thì giờ phải lẽ, bần tăng còn trở
về chùa.
Đức vua Mi-lan-đà đáp:
- Thưa vâng, canh đầu đã qua, trống hoàng thành đã báo canh giữa từ lâu, trẫm
đã làm phiền giờ giấc của đại đức nhiều lắm rồi.
Nói xong, đức vua truyền quan hầu lấy vải dạ cuộn lại, bên trong tẩm đầy dầu,
đốt lên làm đèn để tiễn đại đức Na-tiên ra về. Ngài nói với quan hầu:
- Các ngươi tôn kính và phục dịch trẫm như thế nào thì phải tôn kính và phục
dịch đại đức y như thế.
Các quan hầu vâng dạ rồi tán thán:
- Đại vương là bậc đại trí thức thế gian không ai dám sánh mà vị đại đức kia
cũng vậy, thật là bậc trí thức cổ kim hy hữu.
Đức vua gật đầu, đáp với giọng vừa hài lòng, vừa tự mãn:
- Đúng vậy! Có vị thầy như đại đức kia và có người học trò như trẫm đây thì
trên thế gian này có môn học nào lại không thể truyền đạt được? Đại đức kia kiến
thức siêu quần bạt tụy thì trẫm đây cũng y như thế!
Đức vua Mi-lan-đà hoan hỷ vô cùng vì đại đức Na-tiên đã giải đáp mau lẹ, đầy
đủ, rành mạch và rõ ràng những câu hỏi của ngài; bèn sai lấy bộ y gấm Kambala
cực kỳ quý báu trị giá một trăm ngàn lượng bạc, dâng cúng đến đại đức Na-tiên,
rồi tâu rằng:
- Ngoài bộ y này, trẫm còn muỗn dâng cúng hằng ngày tại vương cung một trăm
lẻ tám mâm cơm bánh vật thực đến Chư Tăng chùa Sankheyya, xin đại đức và Chư
Tăng hoan hỷ thọ nhận cho. Và đại đức cùng Chư Tăng cần dùng gì xin cứ tùy
thích, của trong kho luôn luôn có sẵn.
- Bần tăng xin đa tạ, nhưng tứ sự hằng ngày chúng tôi đã có đủ, đại vương
đừng bận tâm suy nghĩ.
- Trẫm cũng biết đại đức sống đời tri túc nuôi mạng, chẳng màng đến lợi lộc
vật chất thế gian; nhưng đại đức phải biết hộ trì mình, đồng thời hộ trì cho
trẫm nữa chứ?
- Xin đại vương hãy trình bày cho rõ tôn ý?
- Vâng. Ý trẫm muốn nói là, nếu đại đức khước từ vật dụng cúng dường thì dư
luận, miệng tiếng sẽ bất lợi cho đại đức và bất lợi cho trẫm nữa. Tại sao vậy?
Vì mọi người trong khắp quốc độ, cả quốc độ khác nữa, sẽ nói rằng: tỳ kheo
Na-tiên thật là vô tích sự, chẳng tài cán gì; nghe đồn là trí tuệ vô song nhưng
đã không giải đáp được những câu hỏi sắc bén, thâm sâu của đức vua Mi-lan-đà,
đến nỗi đức vua chẳng dâng cúng thứ gì đến ông ta cả. Như thế, thì dư luận ấy có
tổn hại thanh danh của đại đức chăng?
Nhè nhẹ gật đầu, mỉm cười, đại đức Na-tiên nói:
- Quả có thế thật. Còn về phía đại vương thì bất lợi gì?
- Dư luận họ sẽ nói rằng, ông vua Mi-lan-đà thật là keo lẫn, rít róng; đại
đức Na-tiên đã khổ công ngày đêm chẳng quản mệt nhọc, giải đáp cho đức vua từ
câu hỏi này đến câu hỏi kia, từ gần đến xa, từ cạn vào sâu, từ pháp thô thiển
đến pháp vi tế... thật không có chỗ nào mà chê được. Chỗ nào cũng đầy đủ rõ
ràng. Chỗ nào cũng như mặt trời, mặt trăng. Thế mà đức vua hà tiện kia chẳng
cúng dường gì đến bậc tu hành khả kính, trí tuệ vô song kia cả! Có đáng chán
không chứ!
- Quả là người ta có thể đàm tiếu thế thật.
- Cho nên, để tự hộ trì, bảo vệ danh thơm, tiếng tốt cho cả hai, đại đức thật
không thể khước từ phẩm vật cúng dường của trẫm vậy.
- Khi mà đại vương sử dụng sự khôn khéo của lý luận và miệng lưỡi thì tất cả
các giống hữu tình trên thế gian đều phải bị thuyết phục! Bần tăng xin cung kính
nhận sự cúng dường nhưng không phải để hộ trì danh thơm, tiếng tôt - mà chính là
để hộ trì giáo pháp vậy!
Đức vua Mi-lan-đà tán thán:
- Thật là khéo nói thay! Và cũng thật là hộ trì chánh đáng thay!
Đến ngang đây, hốt nhiên đức vua có vẻ trầm ngâm, rồi chậm rãi, bùi ngùi tâm
sự:
- Trẫm ngày ngày như con sư tử bị nhốt trong cái cũi vàng, nhưng thường hướng
mặt ra bên ngoài mơ ước một cuộc đời tự do phóng khoáng. Ngôi vị đế vương của
trẫm đây hằng phải chăm lo việc nước, lo nghĩ trăm công ngàn chuyện chẳng có khi
nào được thanh thản ở trong lòng. Lắm lúc trẫm muốn từ bỏ tất cả để ra đi, sống
đời xuất gia giải thoát, nhưng chướng duyên còn nhiều quá. Rốt lại, mơ ước cũng
chỉ là mơ ước thôi!
Khi đại đức Na-tiên trở về chùa rồi, nằm trên long sàn, đức vua thao thức
không ngủ được. Ngài hồi tưởng lại cuộc vấn đáp trong ngày, tự hỏi: "Ta đã
hỏi đại đức Na-tiên những gì? Và đại đức Na-tiên đã trả lời ta như thế nào?"
Rồi từng câu hỏi và đáp lần lần hiện ra trong tâm trí của đức vua. Sau khi rà
soát lại toàn bộ nội dung và ý nghĩa các câu hỏi và đáp, Đức vua tự tán thán: "Hay
lắm, tất cả các câu hỏi của ta đều thỏa đáng, chơn chánh và các câu đáp của đại
đức Na-tiên cũng thỏa đáng và chơn chánh vô cùng." Với niềm vui lâng lâng
trong lòng, đức vua không ngủ cho đến sáng.
Về phần đại đức Na-tiên, cũng y như đức vua vậy, vừa nằm nghỉ nghiêng lưng
thì các câu hỏi và đáp lại mồn một hiện ra: "Nhà vua đã hỏi ta những gì? Và
ta đã đáp những câu hỏi ấy như thế nào?" Rồi đại đức cũng tự xét: "Các
câu hỏi của đức vua đều rất hay, những câu trả lời của ta cũng chẳng có chỗ nào
là khiếm khuyết cả." Đại đức cũng giữ niềm hân hoan trong lòng cho đến lúc
trời sáng.
Sớm hôm ấy, đại đức Na-tiên lại y bát đi vào cung, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
Đức vua Mi-lan-đà đến đảnh lễ rồi ngồi một bên phải lẽ.
Đức vua chấp tay nói:
- Thưa đại đức! Suốt đêm qua trẫm đã không ngủ được vì các câu hỏi và đáp cứ
lởn vởn hiện ra trong đầu. Tuy nhiên, trẫm rất hân hoan và vui sướng vì những
câu hỏi của trẫm rất là chánh đáng và những câu trả lời của đại đức cũng chí lý
và tốt đẹp dường bao!
Đại đức Na-tiên cũng mỉm cười rồi nói:
- Đại vương tưởng rằng đêm qua bần tăng ngủ ngon giấc sao? Đại vương thao
thức, hồi tưởng về ý nghĩa của những câu hỏi và đáp suốt đêm, rồi hân hoan,
thích thú vì nó cho đến sáng - thì bần tăng cũng vậy chớ có khác gì! Nói tóm lại
là tất cả đều tốt đẹp, về phần đại vương cũng vậy mà về phần bần tăng cũng thế!
Hai bậc trí tuệ vô song gặp nhau, tâm đắc với nhau, cùng tâm sự với nhau như
thế rồi từ giã, hẹn hôm sau sẽ tái ngộ đàm đạo nữa.
Ghi chú:
Bản Bắc truyền "Na-tiên Tỳ kheo kinh" chấm dứt ngang đây, chỉ có
62 câu, so với bản Nam truyền là 88 câu. Ngoài ra bản Nam truyền còn hơn 150
câu hỏi và đáp nữa, xin chư vị độc giả hãy xem tiếp.
89. Phật và chư tăng, ai phước báu nhiều hơn?
Hôm sau, sau khi an vị nơi chỗ ngồi, đức vua Mi-lan-đà lại hỏi tiếp:
- Thưa đại đức, Bà Pajàpati Gotàmì là di mẫu của Phật, có dâng cúng
đến Đức Phật một bộ y quý giá, nhưng Đức Phật không thọ nhận, lại nói
với bà rằng: "Hãy
cúng dường bộ y này đến Chư Tăng, vì cúng dường đến Chư Tăng cũng như cúng dường
đến Như Lai vậy." Chẳng hay điều ấy có đúng chăng?
- Thưa, quả có như thế.
- Như vậy chứng tỏ rằng Đức Phật không cao quý hơn Tăng, không cao thượng hơn
Tăng, không phải là bậc thầy tối thượng của Tăng rồi! Đại đức nghĩ như thế nào?
Bộ y kia đã được làm ra thật công phu, mất biết bao nhiêu là thì giờ cùng tâm
huyết? Chính tự tay bà Pajàpati Gotàmì cán bông, bắn bông, quay sợi rồi tự dệt
lấy. Thế mà Đức Thế Tôn đã cam tâm từ chối! Nếu Đức Thế Tôn quả đã tròn đủ các
đức tánh cao thượng đặc biệt phi thường hơn Tăng thì ngài đã thọ nhận để cho bà
di mẫu - vốn có ân đức nuôi dưỡng ngài từ nhỏ - được phước báu to lớn mới phải.
Chuyện xảy ra như vậy làm cho trẫm có hai mối nghi, thưa đại đức . Mối nghi thứ
nhất là phước báu của Phật không hơn phước báu của Tăng. Mối nghi thứ hai là Đức
Thế Tôn quên nghĩ đến ân đức dưỡng dục đối với bà di mẫu của mình!
- Tâu đại vương, cả hai mối nghi của đại vương đều chính đáng, tuy nhiên,
việc làm của Đức Phật chứng tỏ Đức Phật cao thượng hơn đại vương nghĩ rất nhiều.
- Xin đại đức hoan hỷ giải thích cho nghe.
- Bần tăng muốn giải thích bằng ví dụ.
- Vâng, trẫm rất vui lòng.
- Ví như đại vương sắp truyền ngôi cho một vị hoàng tử vậy. Muốn cho hoàng tử
sau này được mọi người tôn trọng, nể phục, khả dĩ có đủ uy tín để lãnh đạo quốc
độ, có đủ uy tín với lân bang; nên trước mặt bá quan văn võ triều đình, trước
mặt các sứ thần ngoại giao, đại vương thường ca ngợi tài đức, phẩm hạnh của
hoàng tử. Đại vương làm như thế là nghĩ đến sơn hà xã tắc trong tương lai, hay
làm như thế vì nghĩ rằng hoàng tử cao quý, cao thượng hơn đại vương?
- Dĩ nhiên là trẫm nghĩ đến quốc độ sau khi trẫm nhắm mắt.
- Việc ca ngợi phước báu của Tăng cũng y như thế. Đức Phật vì nghĩ đến tương
lai của giáo pháp, muốn cho giáo pháp được thịnh mãn lâu dài nên Đức Phật mới ca
tụng phước báu của Tăng. Dù sao, đến thời phải lẽ, Đức Phật sẽ nhập diệt; và kẻ
kế thừa sự nghiệp hoằng truyền giáo pháp tồn tại năm ngàn năm là sứ mạng của
Tăng. Tăng còn thì giáo pháp còn, cho nên Đức Phật khuyên bà di mẫu cúng dường
đến Tăng cũng vì lẽ ấy. Đức Phật nghĩ đến Tăng cũng như đại vương nghĩ đến vị
hoàng tử của đại vương vậy, đâu phải vì Tăng cao quý, cao thượng hơn Đức Phật!
Đại vương hãy suy gẫm thử xem?
- Có lý lắm, trẫm đã suy gẫm rồi. Nhưng đại đức có ví dụ nào nữa chăng?
- Ví như cha mẹ vì thương con, lo lắng, chăm sóc con. Ngoài vấn đề lo cơm ăn
áo mặc cho đầy đủ, đôi khi cha mẹ còn bóp tay, bóp chân tắm rửa, kỳ cọ, thoa
dầu, trang điểm cho con nữa. Việc làm ấy của cha mẹ có phải là vì con cái cao
quý, cao thượng hơn cha mẹ không, hở đại vương?
- Không phải thế. Mà vì cha mẹ nào cũng thương con, hằng lo cho con, mong cho
con được sung sướng, được xóm làng nể trọng, để còn kế thừa sự nghiệp, đem lại
danh thơm tiếng tốt cho gia đình, tổ tiên...
- Vâng, đúng là vì Đức Phật hằng chăm lo cho Tăng trong mai hậu được đầy đủ
tứ sự cúng dường, được ngoại giáo và thế gian nể trọng, để thừa tự giáo pháp cho
được xán lạn và vinh quang, tâu đại vương!
- Ngài còn ví dụ nào nữa chăng?
- Ví như một nước lân bang vốn quy phục đại vương, đem cống hiến cho đại
vương những phẩm vật quý giá. Đại vương lại đem vật cống hiến ấy tặng cho vị
quốc sư mà đại vương hằng kính trọng và thương mến. Người ta có vì lẽ đó mà bảo
quốc sư ấy cao quý và cao thượng hơn đại vương chăng?
- Không thể bảo như thế được. Sở dĩ mà trẫm đem vật quý giá ấy ban tặng cho
vị quốc sư là vì vị quốc sư xứng đáng được hưởng, ngoài ra, trẫm còn muốn văn võ
bá quan trong triều đình tôn trọng danh dự và địa vị của vị quốc sư ấy nữa.
- Đức Thế Tôn là bậc thầy tối thượng của Tăng, là bậc thầy của chư thiên và
nhân loại; ngài vĩ đại, cao thượng và cao quý hơn tất thảy chúng sanh trong tam
giới, ân đức và phước báu của ngài ai nào dám so sánh được, tâu đại vương? Ở
trong kinh Samyutta Nikàya (Tương ưng bộ) có kệ ngôn như sau: "Cao quý
hơn tất cả các núi ở tuyết lãnh chỉ có Tuyết Sơn. Mặt trời là bá chủ, là cao quý
hơn tất thảy các vật giữa hư không. Biển cả cao quý hơn tất cả sông hồ trên mặt
đất. Mặt trăng cao quý hơn tất cả các vì tinh tú. Giữa tam giới, Đức Phật cao
quý, cao thượng hơn tất cả chúng sanh." Lại nữa, Đức Pháp chủ Sàriputta có
thuyết rằng: "Trên thế gian này chỉ có một người, một con người duy nhất, độc
nhất, trải qua vô lượng kiếp tu tập các công hạnh, là kẻ tế độ chúng sanh; sanh
ra trong thế gian là vì sự an vui, tiến hóa, sự lợi ích cho chư thiên và loài
người. Vị độc nhất vô nhị ấy chính là Đức Chánh Đẳng Giác, bậc A-la-hán vô song,
là Đức Phật Sakya Muni vậy." Tâu đại vương! Đức Phật cao quý và cao thượng
như thế thì tâm bi mẫn của ngài đối với Chư Tăng mai hậu, đối với tiền đồ của
giáp pháp cũng giống như đại vương đối với hoàng tử, như cha mẹ lo cho con, như
đại vương ban tặng phẩm vật cho vị quốc sư vậy. Đại vương đã sáng tỏ chưa?
- Sáng tỏ rồi. Nhưng còn mối nghi thứ hai?
- Vậy đại vương nghĩ thế nào? Bà di mẫu cúng dường bộ y quý giá do tự tay
mình làm đến Đức Phật là do động cơ nào thúc đẩy?
- Có lẽ là do động cơ mẹ con, nghĩa là nặng về tình cảm cá nhân hơn là bố thí
cúng dường vì tâm ly tham, vì các trạng thái tâm cao thượng.
- Cúng dường, bố thí do tình cảm cá nhân, phước báu sẽ như thế nào so với sự
cúng dường, bố thí bằng các trạng thái tâm cao thượng như xả, ly tham hoặc chỉ
nghĩ đến Tăng cùng sự tồn tại lâu dài của giáo pháp?
- Dĩ nhiên bố thí cúng dường với các trạng thái tâm sau, phước báu sẽ thù
thắng hơn nhiều.
- Đức Thế Tôn chính vì nghĩ đến ân đức to lớn của bà di mẫu nên ngài đã tạo
duyên cho bà cúng dường bố thí đến Tăng, để bà hưởng được phước báu thù thắng
trong mai hậu vậy. Điều lợi ích ấy chính đại vương đã tự nói ra.
- Vâng, hóa ra Đức Thập Lực Tuệ đã giúp cho bà di mẫu cúng dường cao thượng
để bà hưởng được phước báu cao thượng. Trẫm đã rõ. Ôi! Hay vậy thay! thật là
những ý nghĩa vàng ngọc, cao quý vậy thay!