MI TIÊN VẤN ĐÁP
(Milinda
Panha)
Dịch Giả: Hòa Thượng
Giới Nghiêm
(Maha Thera Thita Silo)
Tỳ Kheo Giới Ðức Hiệu Đính, Ấn Bản 2003
II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP
(Gồm 244 Câu Hỏi)
090-095
90. Lễ bái, cúng dường Xá lợi, Kim thân Phật, cây Bồ-đề... không có phước
báu!
Khi tìm được chỗ thích hợp, đức vua Mi-lan-đà
đê đầu xuống sát chân đại đức Na-tiên, thành kính đảnh lễ rồi thưa rằng:
- Bạch đại đức! Chúng ngoại đạo thấy Phật tử cung kính lễ bái, cúng dường xá
lợi, cây bồ đề, kim thân Phật, chúng đã nói rằng: "khi Đức Phật còn tại tiền,
các Phật tử cung kính, lễ bái, cúng dường ngài cũng phải lẽ. Nay ngài đã nhập
diệt rồi, các ngươi dẫu có lễ bái cúng dường bao nhiêu chăng nữa thì Đức Phật
cũng đâu có hoan hỷ? Mà không hoan hỷ tất không có phước báu. Không có phước báu
tất sẽ có tội. Coi chừng các ngươi làm vậy là rơi vào tà kiến đấy!"
Thưa đại đức! Sự nhận xét ấy của ngoại đạo đúng hay sai? Là chánh kiến hay tà
kiến? Những mong đại đức với tâm bi mẫn, với tuệ chân thật hãy phá nghi cho
những người học Phật thời hậu lai.
- Tâu đại vương! Đại vương hãy nghe đây, bần tăng sẽ giảng giải. Nhưng trước
khi giảng giải, bần tăng xin hỏi đại vương: thuở Phật còn tại tiền, khi nhận
được sự lễ bái, cung kính, cúng dường của cận sự nam nữ hai hàng, Đức Phật có
hoan hỷ không?
- Dĩ nhiên là có hoan hỷ.
- Chẳng phải thế, tâu đại vương! tâm hoan hỷ là tâm thô lậu, nó chính là cấu
uế đối với các vị tu tập thiền quán, huống chi đối với Đức Phật là bậc ở ngoài
ba cõi? Khi nhận sự lễ bái, cúng dường của Phật tử, Đức Thế Tôn trú tâm giải
thoát chớ không phải tâm hoan hỷ đâu, tâu đại vương!
- Vâng, đúng vậy!
- Đức Thế Tôn đã hoàn toàn vắng lặng và siêu thoát từ cội cây bô-đề sau khi
thành đạo quả Chánh Đẳng Giác; nghĩa là ngài không còn thỏa thích, hoan hỷ với
bất cứ lợi lộc, phẩm vật cúng dường nào của chư thiên hoặc loài người. Và dĩ
nhiên, Đức Phật giờ đã Niết bàn rồi thì Ngài không còn hoan hỷ với những lễ phẩm
cúng dường cũng là điều chắc thật. Ngoại đạo nói vậy là đúng, nhưng lời chỉ
trích của chúng đã phản tác dụng, vô tình đã nói lên sự thực về Đức Đạo Sư. Vì
Đức pháp chủ Xá-lợi phất đã từng thuyết như sau: "Đức Thế Tôn không có sự
hoan hỷ với những phẩm vật cúng dường của chư thiên và nhân loại, nên những ai
cúng dường đến ngài sẽ được quả báu nhiều vô số kể." Tâu đại vương, vậy thì
luận điểm tuyên truyền của ngoại đạo rằng là "không hoan hỷ tất không có
phước báu, không có phước báu tất là có tội" chính là tà kiến, là sự thấy
biết lầm lạc không phù hợp với chân lý!
Đức vua Mi-lan-đà nói:
- Nghe thì có lý nhưng sự y cứ của đại đức không đáng tin cậy. Tại sao vậy?
Ngài Xá-lợi phất thì biện minh cho Đức Thế Tôn, đại đức thì dựa vào ngài Xá-lợi
phất thì có khác nào cha con khen ngợi và tâng bốc lẫn nhau? Chính đại đức phải
tự giải thích, phân tích sao cho đúng pháp, đúng với chánh lý để giải trừ những
tà kiến nguy hại kia chứ không phải là trích dẫn những câu có sẵn!
- Đúng như thế, tâu đại vương! Những người cận sự nam nữ họ đều cung kính, lễ
bái, cúng dường Xá-lợi, cây bồ-đề, kim thân Phật...; mặc dầu biết rằng Đức Phật
đã nhập diệt, ngài không có thỏa thích hoan hỷ gì trong những lễ phẩm ấy; nhưng
nhờ vậy, họ tưởng nhớ đến Đức Thế Tôn, tưởng nhớ đến những pháp lớn, pháp nhỏ mà
Đức Thế Tôn đã từng dạy bảo để tu tập. Nếu như sự tu tập ấy được kiên trì, với
nhiếp tâm, với tinh cần thì họ có thể được thiện sanh làm người, làm trời, cao
hơn là chứng đắc bốn đạo quả và Niết bàn không, hở đại vương!
- Có thể là như vậy, nhưng trẫm muốn nghe bằng ví dụ cụ thể, dễ hiểu kìa!
- Vâng, người ta hay dùng lửa để đốt cháy cỏ khô, cây khô hoặc những vật uế
tạp. Khi cỏ khô, cây khô hoặc những vật uế tạp đã được thiêu hủy rồi thì lửa ấy
có còn chăng, đại vương?
- Dĩ nhiên, khi không còn vật dẫn cháy thì lửa cũng tắt theo.
- Vậy khi muốn dùng lửa trở lại, người ta làm sao để có lửa, đại vương?
- Người ta lấy cây khô cọ xát với cây khô, đặt bùi nhùi là vật dẫn cháy thì
sẽ có lửa.
- Trí tuệ được ví như lửa vậy, tâu đại vương! Đức Phật đã Niết bàn rồi, trí
tuệ ngài không còn nữa, nhưng những đệ tử của ngài đã theo lời dạy của ngài, tu
tập theo những pháp lớn, pháp nhỏ của ngài; cũng dùng cây khô cọ xát với cây
khô, cũng đặt bùi nhùi dẫn cháy để phát sanh trí tuệ. Như vậy, Đức Phật thuở tại
tiền không hoan hỷ lễ phẩm cúng dường, khi Niết bàn cũng không hoan hỷ lễ phẩm
cúng dường; nhưng những người Phật tử cung kính, lễ bái, cúng dường xá lợi, cây
bồ-đề, kim thân Phật; đã hằng ngày tự mình nhắc nhở, hằng ngày tự mình hành
thiền, hằng ngày đã dùng phương pháp lấy lửa để thành tựu trí tuệ; nên kết quả
của việc làm ấy được phước báu vô lượng vô biên, là chứng đắc ba thứ đạo quả:
quả người, quả trời và quả Niết bàn, tâu đại vương!
- Thật là thông đạt, nhưng trẫm muốn nghe thêm ví dụ?
- Vâng, ví như một ngày mùa hạ khí trời oi bức, một cơn gió mát mẻ thổi qua
làm cho mọi người đều khoan khoái. Nhưng khi cơn gió qua rồi, lúc nóng nực,
người ta không biết làm sao để chống nóng, phải không đại vương?
- Người ta có thể làm gió được, thưa đại đức! Người ta dùng lá thốt nốt và
tre kết thành một tấm lớn đặt trên trần nhà, có dây kéo, thế là có thể có gió
quạt mát cho cả nhà. Cũng có thể dùng nan tre, dán giấy để cầm tay quạt mát cho
từng người, thưa đại đức!
- Gió qua rồi nhưng người ta có thể làm gió được, ấy là từ miệng đại vương
nói ra. Đức Phật với giác ngộ, với trí tuệ, với từ bi hỷ xả... có mặt trên thế
gian này, quả là một cơn gió lớn, thanh lương và mát mẻ vô cùng. Cơn gió ấy đã
thổi vẹt vô minh và si mê trên trần thế. Cơn gió ấy đã xua tan biết bao sân hận,
hung dữ, bạo tàn, ác độc... của con người. Cơn gió ấy đã làm cho hằng sa thế
giới chấn động, ma vương sợ hãi và chúng sanh thì được tẩm mát, được an lạc và
thanh bình. Làn gió của Đức Thế Tôn đến như vậy, an trú như vậy và ra đi như vậy
- nói hoan hỷ hoặc không hoan hỷ đều không đúng - nhưng rõ ràng là ích dụng và
lợi lạc cho vô số chúng sanh. Đức Thế Tôn nhập diệt rồi, gió ấy đã qua rồi,
nhưng người ta có thể làm gió được, bằng nổ lực cá nhân, bằng lá thốt nốt, nan
tre và giấy; bằng sự cung kính, lễ bái cúng dường xá lợi, cây bồ-đề, kim thân
Phật... để quạt mát, đem lợi lạc, hạnh phúc, an vui đến cho mình và mọi người,
tâu đại vương!
- Ví dụ ấy cũng khá chính xác, nhưng trẫm muốn nghe thêm ví dụ khác để hiểu
thêm về nhiều mặt của một vấn đề!
- Vâng! khi muốn nghe tiếng trống, đại vương phải làm sao?
- Trẫm sai lực sĩ đánh. Đánh mạnh thì âm thanh lớn vang xa, đánh nhẹ thì âm
thanh nhỏ vang gần.
- Vậy khi không đánh thì âm thanh kia đi đâu?
- Nó diệt rồi!
- À, té ra âm thanh đã mất hẳn, không còn nữa!
- Không, nó diệt chứ không mất! Đại đức nghĩ thế là sai rồi! Bởi khi cần âm
thanh, ta sẽ có cách làm cho âm thanh có mặt trở lại!
- Phải làm sao?
- Trẫm sai lực sĩ đánh trống! Đại đức nên nhớ rằng cái trống chỉ là nhân, cái
trống không tự nó phát ra âm thanh, một nhân không thể thành quả. Nhân phải có
hỗ trợ duyên, một duyên hay nhiều duyên mới trổ thành quả. Cũng vậy, cái trống
cần phải có dùi trống, người đánh trống trợ duyên mới phát ra âm thanh được.
- Vậy là chính đại vương đã giải tan những nghi vấn của đại vương! Đức Phật
gióng lên Tiếng Trống Bất Tử ở giữa đời, Đức Phật nhập diệt rồi nhưng
tiếng trống không hẳn đã mất đi vĩnh viễn. Cái trống còn đó, Pháp bảo còn đó;
nếu có người đánh trống thì âm thanh kia vẫn vang lên như thường.
- Xin thưa, đồng ý Pháp bảo dụ như cái trống, nhưng cây bồ-đề, xá lợi, kim
thân Phật đâu phải là Pháp bảo? Vậy cung kính lễ bái, cúng dường những hình
tượng ấy có thể nào lại vang lên âm thanh của Pháp bảo?
- Rất là chính xác. Tuy nhiên, tâu đại vương, cái trống tự nó không phát ra
âm thanh mặc dầu có người đánh trống; [*] cũng vậy, Pháp bảo và người gióng
trống Pháp bảo không cũng chưa đủ, nó phải cần có nhiều duyên hỗ trợ. Cúng
dường, lễ bái xá lợi, kim thân Phật nó chính là trợ duyên cho chúng sanh nhớ
tưởng đến ân đức, trí hạnh của Đức Phật mà tu tập, phải thế không đại vương?
[*] Vì còn thiếu dùi trống
- Hay lắm!
- Lúc Đức Thế Tôn diệt độ, ngài dạy rằng: "Khi Như Lai Niết bàn rồi, pháp
và luật là thầy của các ngươi." Pháp và luật chính là tam tạng, chính là
Pháp bảo, chính là giới định tuệ, chính là 37 trợ đạo phẩm. Vậy thì cái trống
Pháp bảo luôn còn ở đấy, chỉ thiếu người đánh trống và dùi trống nữa mà thôi.
Khi nào có dùi trống, có người đánh trống, gióng lên tiếng trống Pháp bảo thì
chắc hẳn rằng đức tin, phước báu, từ bi, trí tuệ, giác ngộ, giải thoát sẽ có mặt
ở đời này, phải thế không đại vương?
- Phải vậy!
- Thế thì lời nói của ngoại đạo là ngoa ngôn, xảo ngôn, là hư ngụy, là không
thật, là tà kiến...; chính chúng muốn cho các hàng Phật tử không có nơi nương
tựa, không có nơi hướng về, không có nơi tôn kính, không có nơi lễ bái...; làm
cho Phật tử hoang mang, sợ hãi, đức tin bị lung lay... Đại vương có thấy thế
không?
- Đúng vậy! Nhưng còn sự hoan hỷ và không hoan hỷ?
- Đức Phật đã nhập diệt rồi, đặt vấn đề hoan hỷ và không hoan hỷ chỉ là trò
chơi của sự lập ngôn! Chính sự khởi tâm khi thành kính, lễ bái, cúng dường... đã
thành tựu phước báu rồi! Tiếng trống có hoan hỷ và không hoan hỷ cũng là trò hý
lộng ngôn ngữ! Âm thanh của tiếng trống là tùy thuộc vào sức yếu mạnh của người
lực sĩ. Pháp bảo được giác ngộ sâu cạn là tùy căn cơ, trình độ, sự lãnh hội cùng
túc duyên của người tu Phật. Người tu theo đức tin, người theo tinh tấn, người
theo trí tuệ cũng do từ kho tàng Pháp bảo cùng căn cơ trình độ mà ra, từ cá biệt
duyên của mỗi người mà ra!
- Trẫm đã thông suốt, đã tỏ tường, tuy nhiên, trẫm còn muốn nghe thêm về sự
hoan hỷ!
- Được thôi! Trên quả đất rộng lớn này biết bao nhiêu là kỳ hoa, dị thảo;
biết bao nhiêu là giống cây cùng nứt hạt, nẩy mầm và lớn lên làm cho xanh tươi,
mát mẻ, đẹp đẽ và phong phú! Tâu đại vương, quả đất có hoan hỷ không, mà cây
cối, muôn hoa nẩy nở và phát triển như thế?
- Chúng hoan hỷ gì đâu! Chúng nương nhờ từ đất, đón nhận nước, không khí, ánh
sáng mà trở nên sum suê, tươi xanh đấy chứ!
- Cũng vậy, Đức Thế Tôn còn sống hay đã Niết bàn, ngài cũng chẳng hoan hỷ gì
cả; nhưng tứ chúng, chư thiên và nhân loại nương nhờ nơi ngài, đón nhận giáo
pháp của ngài; tạo phước báu, tu tập từ bi, hỷ xả, tu tập để đắc các tầng Thánh
quả. Nói cách khác, đức tin và nghe pháp
là hạt giống, giới là gốc rễ, định là thân cây, tuệ là lá
hoa và giác ngộ, giải thoát các tầng Thánh là quả, tâu đại vương!
- Đúng là không cần có sự hoan hỷ mà chính do tâm tạo thiện nghiệp, học hỏi
giáo pháp và tu tập. Phước báu phát sanh ở đó.
- Còn nữa, ví như những loại vi trùng sống nhờ nơi thân, trong bụng chúng
sanh như voi, ngựa, trâu, bò, dê, lừa, lạc đà...; các loài động vật ấy chúng
không hề hoan hỷ, thỏa thích các loài vi trùng ấy, nhưng vi trùng vẫn lớn lên,
sinh con đẻ cháu hàng hàng lớp lớp.
- Vâng, quả vậy. Trường hợp này có lẽ là do nghiệp duy trì, nuôi dưỡng.
- Đúng thế! Ví như con người thường phát sanh chứng bệnh channavuti.
Dẫu con người có hoan hỷ hay không hoan hỷ thì bệnh channavuti vẫn phát
sanh, tồn tại và hành hạ con người. Tại sao như thế, đại vương?
- Dĩ nhiên là do nhiều nguyên nhân, nhưng nói ngắn gọn là do ác nghiệp sanh
ra.
- Lại ví như dạ xoa Nanda có tâm ác độc, đánh mạnh vào đầu đức pháp chủ Xá
lợi phất, sau đó dạ xoa Nanda bị quả đất rút. Đại vương nghĩ như thế nào, đức
pháp chủ có hoan hỷ khi dạ xoa Nanda bị ác báo ấy không?
- Dẫu cõi trời, cõi người có tiêu hoại đi, mặt trời, mặt trăng có bị rơi
xuống đất, núi Tu di bị vỡ tan tành... đức pháp chủ Xá lợi phất cũng không có
tâm địa ấy đâu!
- Vậy dạ xoa Nanda bị quả đất rút do nguyên nhân nào?
- Do năng lực của nghiệp mà dạ xoa kia đã làm.
- Đúng vậy! Còn bốn người nữa làm hại Đức Phật bị quả đất rút là nàng Cincà,
Đức vua Suppabuddha, ông Devadatta, kẻ trộm Udameyyaka... thì đại vương nghĩ như
thế nào, Đức Phật có hoan hỷ về điều đó không?
- Đức pháp chủ không có tâm địa ấy thì dĩ nhiên Đức Phật cũng hoàn toàn
không! Chính chúng gây nhân ác thì bị ác báo.
- Vâng! Gây nhân thiện thì quả báo lành, tốt, gây nhân ác thì bị quả báo dữ,
xấu. Đấy là định luật. Đức Phật dẫu đã Niết bàn rồi, không có hoan hỷ về việc
Phật tử cung kính, cúng dường, lễ bái xá lợi, cây bồ-đề, kim thân Phật; nhưng
lạc báo, thiện báo, phước quả sẽ trổ sanh cho người ấy, do thiện tâm của người
ấy. Trái lại, Đức Phật, đức pháp chủ Xá lợi phất không có hoan hỷ về việc những
người làm hại mình bị quả đất rút nhưng khổ báo, ác báo, tội báo vẫn lôi những
kẻ ấy vào địa ngục a-tỳ như thường. Như vậy, lời nói của ngoại đạo là rỗng
không, không có y cứ vào định luật nhân quả, không thấy không biết sự vận hành
của nhân quả; không biết rằng tác ý là nghiệp...! Luận cứ của chúng là tà kiến,
không đúng với chân lý. Đại vương là bậc có trí, hãy từ đó mà suy gẫm thêm!
Đức vua Mi-lan-đà vô cùng hoan hỷ, hết lời tán dương trí tuệ phá nghi của đại
đức Na-tiên, rồi kết luận:
- Lời xuyên tạc, phá hoại của chúng ngoại đạo từ nay đã tiêu tan, vô hiệu
quả, nhờ tuệ đức của ngài vậy.
91. Đức Phật có toàn giác không?
[Hơi khác với câu hỏi 60]
- Bạch đại đức! trẫm có một mối nghi rất to lớn, là Đức Thế Tôn không phải là
bậc Toàn Giác!
- Tại sao?
- Thưa, đọc trong kinh, trẫm thấy rằng, có rất nhiều trường hợp Đức Thế Tôn "hướng
tâm" đến mới biết, không hướng tâm đến thì không biết. Như vậy, sao gọi là "toàn
giác" được?
- Tâu đại vương! Đức Thế Tôn đúng là bậc Toàn Giác, ngài biết rõ tất cả các
loại tâm. Duy nhất chỉ có Đức Thế Tôn mới thông suốt, mới biết rõ sự hiện hữu và
sự vận hành các tướng tâm ấy!
- Các tướng tâm ấy như thế nào?
- Thứ nhất là tướng tâm tham dục, sân hận, si mê, thường dính mắc bởi ái
luyến và phiền não. Cái tâm ấy gọi là trì độn, chậm chạp, không có tu tập, tức
là loại tâm chưa được tiến hóa. Cái tâm ấy được ví như một cây tre chằng
chịt từ đầu đến ngọn bởi những mắc, những gai nè phức tạp, vô phương tháo gỡ,
tâu đại vương!
- Đấy là tâm của tất cả chúng sanh, nhất là những chúng sanh đang lặn hụp,
đau khổ trong bốn đường dữ, phải thế không đại đức?
- Vâng, loại tướng tâm thứ hai là tâm của những chúng sanh đã ra khỏi bốn ác
đạo ấy. Đấy là tâm của những vị Thánh Tu-đà-huờn, kẻ đã cắt đứt ba sợi dây ràng
buộc là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ. Loại tướng tâm này đã vượt khỏi trì
độn, đã bước vào dòng tiến hóa, đã thật sự có tu tập, đã có đức tin chơn chánh
vào con đường và giáo pháp diệt khổ của Đức Thế Tôn, tâu đại
vương!
- Xin cho nghe ví dụ.
- Ví như cây tre có mười đốt chằng chịt gai nè của chúng sanh ở tướng tâm thứ
nhất, đã được trẩy sạch ba mắc cùng những gai nè dính mắc, ràng buộc ở nơi ba
mắt ấy. Cây tre như vậy là đã được tháo gỡ và kéo ra được một đoạn ba đốt, tâu
đại vương. Ấy là tướng tâm thứ hai.
- Vâng, trẫm đã hiểu, còn tướng tâm thứ ba?
- Là tâm của vị Thánh Tư-đà-hàm, kẻ đã làm nhẹ bớt thêm hai sợi dây ràng buộc
là tham dục và sân hận. Ví như cây tre có mười đốt ở trên, sau khi đã trẩy sạch
ba mắc cùng với gai nè, vị này đã trẩy thêm được một ít gai nè ở hai mắc kế nữa,
tâu đại vương!
- Thế là tướng tâm thứ ba, chưa trẩy sạch hẳn tất cả gai nè trên năm mắc, năm
đốt ấy?
- Vâng, đến tướng tâm thứ tư, tâm của vị Thánh A-na-hàm mới trẩy sạch trọn
vẹn, trơn tru cả năm mắc, năm đốt, tâu đại vương.
- Xin cho trẫm nghe tướng tâm thứ năm?
- Là tướng tâm của vị A-la-hán, bậc đã cắt đứt luôn năm sợi dây ràng buộc còn
lại là sắc ái; vô sắc ái, ngã mạn, phóng tâm và vô minh, tâu đại vương. Ví như
năm đốt cùng với gai nè còn lại trên cây tre, vị này đã trẩy sạch, cây tre đã dễ
dàng lấy ra, không còn vướng mắc gì nữa. Đây gọi là bậc vô sanh, vô lậu, giải
thoát, tâu đại vương! Còn tướng tâm thứ sáu là tâm của vị Độc Gíac Phật, là
bậc tự tu, tự chứng, tự mình giác ngộ, giải thoát.
- Có gì khác nhau giữa tâm giải thoát, tuệ giải thoát của một vị A-la-hán và
một vị Độc Giác Phật, thưa đại đức?
- Về giải thoát, vô lậu ấy thì giống nhau nhưng về sự sâu cạn của tâm, của
tuệ thì khác nhau. Ví như, vị Độc Giác Phật có thể biết tâm của vị A-la-hán, còn
vị A-la-hán không biết tâm của vị Độc Giác Phật.
- Vâng, còn về tâm thứ bảy, có lẽ đó là tâm của vị Phật Toàn Giác. Thưa, tâm
và tuệ của ngài khác với vị Độc Giác Phật như thế nào?
- Ví như một người đàn ông dũng cảm có thể dễ dàng bơi qua sông lớn lúc nửa
đêm, nhưng khi đối diện với biển cả, ông ta lại cảm thấy sợ hãi, thiếu tự tin.
Một vị Độc Giác Phật so sánh với đấng Toàn Giác cũng y như thế. Đức Toàn Giác
thường có đầy đủ bốn tuệ và mười tám pháp (Buddha dhamma) vô ngại, vô
lượng, bất khả tư nghì. Chẳng ai so sánh được. Đó là thấy mọi việc quá khứ, hiện
tại, vị lai, khả năng tư duy, ngôn ngữ, trí nhớ, trực giác, thiền định, ý chí,
nghị lực, giải thoát, thắng tuệ, tự do, thanh tịnh, định tĩnh, chú ý, tĩnh thức,
quan tâm đến người khác. Nhờ có đầy đủ 18 pháp ấy nên Đức Thế Tôn rất dễ dàng
thấy biết tâm của chúng sanh, dễ dàng thấy biết mọi việc để hóa độ chúng sanh,
tâu đại vương!
- Sự dễ dàng ấy như thế nào, thưa đại đức?
- Ví như một tay xạ thủ thiện xảo, có mũi tên tốt, cái cung tốt, nhắm bắn vào
một tấm vải được căng sẵn. Đại vương nghĩ thế nào, mũi tên kia sẽ được xuyên
suốt qua tấm vải có dễ dàng không?
- Thưa, rất dễ dàng.
- Đức Toàn Giác dễ dàng và mau chóng quán xét sự việc gì cần biết như ý muốn,
còn nhanh hơn người đàn ông cầm một vật gì từ bàn tay phải đặt sang tay trái, dễ
dàng hơn viên lực sĩ co duỗi cánh tay, tâu đại vương.
- Thưa đại đức, trẫm vẫn còn nghi ngờ Đức Thế Tôn không phải là bậc Toàn
Giác. Vì sao vậy? Vì còn quán tâm, còn hướng tâm thì rõ ràng còn tìm kiếm. Còn
tìm kiếm thì nhất định còn điều chưa thấy, chưa biết - thì sao được gọi là "biết
hoàn toàn" được ?
- Đại vương! Ví như có nhà phú hộ giàu có muôn kho, đầy ắp tài sản, của cải,
ngũ cốc, mật ong, đường, sữa v.v... Nếu như có người muốn xin một nắm gạo để nấu
cháo, thì cháo ấy có sẵn ngay hay không?
- Cháo ấy không thể có sẵn để ăn ngay. Phải vào lấy gạo trong kho, bỏ vào nồi
nước và đun nấu một thời gian nào đó, thưa đại đức.
- Trí giác của Đức Thế Tôn cũng giàu có, thịnh mãn như vị phú hộ kia; muốn sử
dụng thứ gì, thuộc "cái biết" nào thì phải vào kho mà lấy ra, cũng y như
thế! Tuy nhiên, ví dụ cái kho của ông phú hộ là hữu hạn, là giới hạn; ví dụ vào
kho để lấy gạo rồi nấu cháo để ăn là phải tốn một thời gian. Cái kho hiểu biết
của Đức Thế Tôn là vô hạn định, vô hạn lượng; và muốn biết việc gì, điều gì ngài
chỉ cần hướng tâm đến là biết ngay tức khắc với thời gian còn nhanh hơn cái chớp
mắt, với thời gian chỉ có một niệm, tâu đại vương!
- Thưa, cái niệm ấy như thế nào?
- Ví như đức vua Chuyển luân Thánh vương vừa nghĩ đến xe báu thì tức khắc xe
báu hiện ra. Một niệm là một móng tâm, một khởi tâm, một hướng tâm, một ý nghĩ,
tâu đại vương!
- Bây giờ thì trẫm không còn lý do gì để nghi nan nữa. Đức Thế Tôn đích thực
là đấng Toàn Giác vậy.
92. Đức Thế Tôn có tâm Đại bi hay không?
- Thưa đại đức, Đức Thế Tôn hằng đem lại điều lợi ích cho chư thiên và nhân
loại; ngài có tâm đại bi, hằng tế độ cho chúng sanh trời, người, nam, nữ... là
điều chắc thật đấy chứ ạ?
- Quả đúng vậy.
- Đề-bà-đạt-đa chính do Đức Thế Tôn cho xuất gia?
- Phải rồi, Đề-bà-đạt-đa được Đức Phật cho xuất gia một lần cùng với năm vị
khác trong hoàng tộc là Bhaddiyà, Anuruddha, Ànanda, Bhagu, Kimabila! Có thêm
người thợ hớt tóc Upàli nữa là bảy người, tâu đại vương!
- Thưa đại đức, Đức Thế Tôn là bậc Toàn Giác, không có việc gì trên thế gian
mà ngài hướng tâm đến lại không biết; thế khi Đức Thế Tôn cho Đề-bà-đạt-đa xuất
gia, ngài có biết rằng sau này Đề-bà-đạt-đa âm mưu chia rẽ tăng chăng?
- Đức Thế Tôn có biết rõ như vậy, tâu đại vương!
- Trẫm có nghe rằng, trong pháp và
luật của Đức Thế Tôn, là tỳ khưu ni, sa di hoặc sa di ni đều không thể chia
rẽ Tăng được, chỉ có tỳ khưu mới chia rẽ tăng được, có phải vậy chăng?
- Đúng vậy! Chỉ có tỳ khưu cùng cộng trú, cùng làm lễ phát lồ mới hội
đủ điều kiện chia rẽ Tăng. Không phải là tỳ khưu không thể chia rẽ Tăng được.
Đại vương hiểu rất chính xác.
- Người chia rẽ Tăng thì ác nghiệp, tội báo sẽ như thế nào, thưa đại đức?
- Bị đọa địa ngục chịu thống khổ chừng một kiếp.
- Đức Thế Tôn cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia làm tỳ khưu, Đức Thế Tôn lại rõ biết
sau này vị tỳ khưu ấy chia rẽ Tăng. Thế Đức Thế Tôn có biết là sau khi tạo ác
nghiệp chia rẽ Tăng rồi, Đề-bà-đạt-đa sẽ bị đốt cháy trong địa ngục a-tỳ lâu
chừng một kiếp chăng?
- Đức Thế Tôn càng biết rõ điều ấy.
- Thưa đại đức! Chính đại đức đã xác định rằng Đức Thế Tôn cho Đề-bà-đạt-đa
xuất gia, xuất gia rồi ông ta sẽ chia rẽ Tăng, chia rẽ Tăng ông ấy tạo ác nghiệp
chịu quả báo bị thiêu đốt ở địa ngục a-tỳ lâu chừng một kiếp. Ở đây, vấn đề này
sẽ nẩy sinh hai khía cạnh mà ngoại đạo sẽ đem ra dị luận, có hại cho Đức Thế
Tôn. Thứ nhất, nếu Đức Thế Tôn chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra cho Đề-bà-đạt-đa
trong tương lai - thì rõ Đức Thế Tôn không phải là "bậc Toàn Giác".
Thứ
hai, nếu Đức Thế Tôn biết rõ quả báo thống khổ mai sau của Đề-bà-đạt-đa
thì Đức
Thế Tôn tuy là bậc Toàn Giác nhưng ngài lại thiếu tâm đại bi. Vậy cái
gọi là Đức Phật có mặt ở đời hằng đem đến hạnh phúc và an vui cho chư
thiên và loài người,
là điều hoàn toàn cần phải xét lại! Xin đại đức hãy vì người học Phật
trong mai
hậu, dùng trí tuệ mà đem đèn sáng đặt vào bóng tối để xóa tan mọi nghi
nan của
trẫm thì trẫm tri ân lắm vậy!
- Đại vương, những nghi nan của đại vương là có cơ sở, tuy nhiên, vì Đức Thế
Tôn là bậc Toàn Giác, ngài có sự thấy biết về quá khứ, vị lai là bất khả tư
nghì. Ngài thấy biết rằng, nếu Đề-bà-đạt-đa mà sống đời tại gia thì y sẽ tạo ác
nghiệp với khổ báo không thể nghĩ lường. Đề-bà-đạt-đa xuất gia, được gieo duyên
với giáo pháp, được phước báu thanh tịnh hỗ trợ; nên khi bị trả quả chia rẽ
Tăng, ông ta chỉ thọ báo quả địa ngục a-tỳ lâu chừng một kiếp, sau đó ông ta sẽ
đắc quả Độc Giác Phật hiệu là Atthisara. Trái lại, nếu Đề-bà-đạt-đa không tu tỳ
kheo thì ông ta sẽ bị thiêu, bị nấu từ địa ngục này sang địa nguc khác; hết khổ
địa ngục, ông ta rơi vào hàng trăm kiếp làm ngạ quỉ, rồi làm a-tu-la với thời
gian không đếm được. Và do đó, được thiện báo thọ sanh làm người đã khó khăn
huống hồ chứng quả Phật Thánh. Đại vương nghĩ thế nào, vậy bậc Toàn Giác là bậc
đại bi hay không phải đại bi?
- Quả đúng vậy, nếu sự thật như thế thì tâm đại bi của Đức Thế Tôn là bất khả
tư lường. Tuy nhiên, ngoại đạo cũng có cách nói của họ mà sự hữu lý xem ra ta
chẳng nên xem thường...
- Đại vương cứ nói!
- Vâng, ngoại đạo sẽ châm biếm, mỉa mai rằng: "Ông Phật Tổ Cồ đàm khéo
thật! Ông đánh Đề-bà-đạt-đa sưng mày sưng mặt rồi ông kêu lại, dịu dàng đấm bóp,
xoa dầu cho! Ổng xô Đề-bà-đạt đa té sấp, té ngữa rồi đến dỗ dành, ẵm bồng ra
chiều từ ái. Ổng giết Đề-bà-đạt-đa chết rồi cho tái sanh làm người mới! Ổng để
cho Đề-bà-đạt-đa thọ khổ chán chê rồi sau đó mới cho hưởng hạnh phúc, an vui!"
Đại đức sẽ trả lời thế nào về điều ấy?
- Dễ dàng thôi, tâu đại vương! Cứ lý ấy của ngoại đạo sẽ bị tác dụng ngược
lại khi ta chỉ cần đặt cho họ vài câu hỏi.
- Vâng, trẫm đang chú tâm lắng nghe đây.
- Đại vương hãy hỏi họ rằng: khi người mẹ dùng roi đánh đứa con một của mình
- thì do bà ấy thương con hay ghét con?
- Thưa, người mẹ nào lại không thương con, nhất là đứa con một thì tình
thương kia lại càng dạt dào, vô lượng. Sở dĩ bà phải đánh con là mong nó chừa bỏ
một vài tật hư, tánh xấu nào đó; chỉ mong nó trở nên người lành, người tốt mà
thôi!
- Tâm đại bi của Đức Thế Tôn đối với chúng sanh, đối với Đề-bà-đạt-đa cũng
như người mẹ đối với con một của mình đấy, tâu đại vương!
- Hay lắm! Đại đức hãy cho nghe thêm ví dụ nữa.
- Vâng, ví như đại vương là bậc minh quân của thiên hạ, trí bi gồm đủ; xử
phạt, khen thưởng đều nghiêm minh, công bằng; tình lý đều cân phân, trọn vẹn.
Bần tăng có nghe rằng, trong các khung hình phạt của đại vương đặt ra, có một
tội ác được gọi là "tội nên cảnh cáo, tội nhằm để ngăn ngừa", bần tăng
không rõ lý do làm sao mà đại vương đặt ra khung hình phạt ấy?
- Thưa, đấy là phạt tội nhẹ để ngăn ngừa tội nặng, ví như cắt xẻ một cái ung
nhỏ, thà đau đớn chút ít nhưng ngăn ngừa được cái bệnh chết người trong mai hậu!
- Cũng vậy là Đức Phật cho phép Đề-bà-đạt-đa xuất gia, biết chia rẽ Tăng sẽ
đọa địa ngục. Thà để cho Đề-bà-đạt-đa chịu đau khổ chút ít mà ngăn ngừa được khổ
báo nặng nề nếu ông ta sống đời tại gia, tâu đại vương! Giới và định trong thời
gian Đề-bà-đạt-đa xuất gia sẽ giúp cho ông ta sớm thoát khỏi khổ ách và sẽ thành
Phật Độc Giác trong ngày vị lai.
- Đại đức còn ví dụ nào về điều ấy nữa không?
- Có chứ! Ví như có một tội nhân thụ án phải bị chặt đầu. Khi ấy có một vị
quan thân tín của đại vương, được đại vương sủng ái, tin cậy, thường được đại
vương ban cho nhiều đặc ân; tỏ vẻ tội nghiệp cho tội nhân ấy, bèn xin đại vương
tha cho tội xử trảm, chỉ chặt một tay của người ấy thôi. Tâu đại vương! Theo ý
đại vương thì vị quan ấy có thiện tâm hay ác tâm? Có tội lỗi hay không có tội
lỗi?
- Y là người tốt sao gọi rằng có tội được!
- Đức Thế Tôn cũng ví như vị quan ấy, vì không nỡ để Đề-bà-đạt-đa thọ khổ lâu
dài, tội báo kinh khiếp nên ngài tạo hoàn cảnh cho ông ta chỉ trả quả đau khổ
chút ít. Vị quan là người tốt, có lòng từ thì Đức Thế Tôn quả là có tâm đại bi,
tâu đại vương!
- Thật ra, ví dụ là để hiểu rõ thêm vấn đề thôi, chứ theo định luật nhân quả
thì ai làm người ấy chịu, có phải thế không, đại đức?
- Đúng thế, tâu đại vương! Tuy nhiên, những hỗ trợ duyên bên ngoài cũng tác
động và quyết định cho nhân kia được thành quả hay không được thành quả; có quả
lớn hoặc quả nhỏ, quả được tăng trưởng hay quả bị hủy hoại! Kẻ tội phạm kia theo
lẽ bị chặt đầu nhưng do nghịch duyên, có vị quan kia can thiệp nên quả trổ bị
nhẹ đi. Đề-bà-đạt-đa đáng lẽ ra phải bị tội báo nặng hơn, nhưng nhờ giới định
một thời hỗ trợ; vào phút cuối cùng lại có tâm hướng thiện hồi đầu, niệm ân đức
của Đức Phật, đặt đức tin nơi Đức Phật; do vậy, thiện quả sẽ trổ sanh trong ngày
vị lai cũng không lạ lùng gì. Sự vận hành ấy đúng với định luật nhân,
duyên và quả cả vậy. Đại vương có nghi ngờ gì nữa chăng? Và ngoại đạo
còn có thể dùng lý lẽ gì để xuyên tạc nữa chăng?
- Về câu hỏi này thế là đã được giải đáp một cách trọn vẹn, thưa đại đức. Bọn
ngoại đạo thật không còn kẻ hở nào để chúng thò lý luận của chúng vào đấy được
nữa!
93. Nghi vấn về sự Bố thí ba-la-mật
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết rằng, quả địa cầu này bị rung chuyển,
chấn động do tám nhân và tám duyên, có phải thế chăng?
- Đúng vậy.
- Ở một chỗ khác, khi nói đến sự bố thí ba-la-mật của bồ tát Vessantara, Đức
Thế Tôn lại nói rằng: "Quả địa cầu rung chuyển và chấn động ở ngoài tám
nhân và tám duyên ấy"; tức là một hiện tượng phi thường, đặc biệt, không nằm
trong các điều kiện tự nhiên, bình thường!
- Quả đúng vậy!
- Thế thì trẫm không hiểu tại sao Đức Thế Tôn thuyết trước sau không như một?
- Đại vương! Vì tâm bố thí của bồ tát Vessantara là một sự kiện hy hữu, có
năng lực vĩ đại làm cho quả địa cầu chấn động bảy lần; điều ấy vượt ngoài tầm
hiểu biết của phàm phu, ở ngoài hiện tượng bình thường thuộc tám nhân và tám
duyên, chớ có gì phải nghi vấn đâu!
- Vậy thì đó có phải là một sự kiện phi thời? Đại đức có thể cho nghe ví dụ
được chăng?
- Được thôi! Ví như mỗi năm có 3 mùa: mùa nắng, mùa mưa và mùa lạnh. Mùa nắng
thì trời nắng, mùa mưa thì trời mưa, mùa lạnh thì có tuyết rơi. Ấy là chuyện
bình thường. Nhưng giả dụ không phải là mùa lạnh mà tuyết lại rơi, ấy là chuyện
bình thường hay bất thường hở đại vương?
- Là bất thường.
- Vậy hiện tượng tuyết rơi bất thường ấy là đúng thời hay phi thời?
- Thưa, là phi thời!
- Cũng như thế ấy là chuyện bồ tát Vessantara, ngài bố thí ba-la-mật làm cho
quả đất chấn động bảy lần là một hiện tượng phi thời ở ngoài tám nhân và tám
duyên ấy, tâu đại vương!
- Đại đức cho nghe ví dụ nữa!
- Vâng, đại vương có biết chừng bao nhiêu sông to, sông nhỏ, sông đầy, sông
cạn... phát xuất từ Hy-mã-lạp-sơn?
- Thưa, chừng năm trăm con sông như thế.
- Nhưng thật sự thì có chừng bao nhiêu con sông được gọi là sông?
- Thưa, có mười con sông được gọi là sông, đó là các sông Gangà, Yamunà,
Aciravati, Sarabhù, Mahì, Sinadhu, Sarasavati, Etabhavatì, Itamsà, Chandabhàgà!
- Tại sao chỉ mười con sông ấy được gọi là sông?
- Vì mười con sông ấy có nước chảy thường xuyên, còn các sông còn lại, nước
chảy không thường xuyên, thưa đại đức.
- Đại vương! Vì không thường xuyên nên gọi là phi thời. Bồ tát Vessantara với
tâm đại thí cũng là hiện tượng phi thời nên ở ngoài tám nhân và tám duyên!
- Tức là không được liệt vào tám nhân và tám duyên bình thường ấy?
- Đúng thế.
- Đại đức cho nghe thêm ví dụ nữa.
- Vâng, bần tăng xin hỏi thử đại vương: một vị Chuyển luân Thánh vương thường
có chừng bao nhiêu quan lại?
- Thưa, không nhất định, có thể là hai trăm, có thể là ba trăm!
- Trong số ấy có bao nhiêu vị được gọi là quan đại thần?
- Chỉ có sáu thôi. Đó là vị giữ bảo kiếm, vị giữ cái lọng, vị giữ kho, vị
thanh tra, giám sát, vị chính trị, quốc phòng, vị tướng lãnh cầm binh!
- Đại vương! Ngoài sáu vị quan đại thần đặc biệt ấy, các vị quan còn lại
không được liệt vào chức danh đại thần như thế nào - thì việc quả đất rung
chuyển bảy lần cũng thuộc loại đặc biệt, không được ghép vào tám nhân, tám duyên
ấy. Sáu vị quan đại thần là sáu vị quan hy hữu, không phải là quan lại bình
thường thì tâm đại thí của bồ tát Vessantara cũng thuộc loại hy hữu, phi thường!
Bây giờ đại vương đã thông suốt chưa?
- Trẫm đã hiểu, nhưng còn muốn nghe thêm ví dụ về cái gọi là phi thời, đặc
biệt và phi thường ấy.
- Vâng, ví dụ một người bố thí, cúng dường, được phước báu nhãn tiền, được kể
là đặc biệt hay không đặc biệt?
- Dĩ nhiên đấy là cái gì thật phi thường.
- Đại vương có nhớ trong thời Phật, có những ai bố thí, cúng dường mà được
phước báu nhãn tiền không?
- Thưa, có nhớ, chỉ có bảy người. Đó là người trồng hoa tên là Sumana, ông
bà-la-môn Ekasàdaka dâng cái choàng tắm, hai người giúp việc là Punna và Punna,
bà hoàng hậu Mallika, bà Gopala Màtadevi và bà cận sự nữ Suppiyà, thưa đại đức!
- Tại sao bảy người ấy có được phước báu đặc biệt, thù thắng như thế?
- Có lẽ là do tâm cúng dường của họ quá cao thượng chăng?
- Đúng vậy! Tâm đại thí của bồ tát Vessantara còn đặc biệt và thù thắng hơn
cả bảy người kia, tâu đại vương! Cái tâm ấy có một năng lực phi thường, tạo một
tác động mãnh liệt làm cho quả địa cầu phải bị chấn động. Ví như cái xe chở quá
nặng; quá với sức tải của nó thì gọng và căm xe sẽ bị gãy, bánh sẽ bị cong và
khung, sườn sẽ bị lệch đi. Ví như mưa quá nhiều và gió bão quá lớn thì bầu khí
quyển sẽ có những âm thanh vang động. Đấy là một loại định luật ở ngoài các định
luật thường nhiên, tâu đại vương!
- Cái tâm kia được tạo bởi cái gì mà tựu thành các năng lực phi thường như
thế?
- Thưa, vì cái tâm ấy ở ngoài mọi sự chi phối của các thế lực. Cái tâm ấy
không dẫn đến thế lực của tham ái, sân hận, si mê ngã chấp, tà kiến. Cái tâm ấy
không nghĩ đến thỏa thích, an lạc cho riêng mình; chỉ cầu mong sự hoan hỷ vui
tươi đến cho kẻ khác, tức là những người nhận được vật thí.
Thứ đến, cái tâm ấy lại được trưởng dưỡng, nung đúc, huân tập, tựu thành bởi
các công đức và các thiện pháp sau đây:
sự tự chủ, sự chế ngự, đức nhẫn nhục, sự thu thúc, sự kiểm soát, không sân hận,
không hủy hoại, chơn thật, tinh khiết, có lòng từ.
Lại nữa, cái tâm ấy không miệt mài tìm kiếm ái dục, không thỏa thích tử sanh
luân hồi, không còn mê đắm dục giới, sắc giới, vố sắc giới. Cái tâm ấy lại còn
cầu mong cho chúng sanh hãy có lòng từ với nhau, đừng làm khổ lẫn nhau, có tài
sản, được trường thọ. Khi bồ-tát Vessantara đại thí, ngài không mong lợi ích cho
riêng mình, chẳng mong kết quả đời sau, chẳng tìm kiếm thêm của cải, lợi lộc,
danh vọng, tiếng tăm, lời khen, được sức mạnh, chức phận, con cái, sanh mạng...!
Đúng như Phật ngôn: "Này các thầy tỳ khưu! Khi Như Lai làm bồ tát Vessantara,
bố thí hai con là Jàli và Kanhà cùng vợ Madalì tuyệt đỉnh thương yêu; Như Lai
chẳng nghĩ đến kết quả Đế thích, Phạm thiên hoặc các pháp hữu vi nào khác. Sự
thành tựu
bồ đề tuệ là nguyện vọng duy nhất của Như Lai."
Nói tóm lại, bồ tát Vessantara thắng kẻ sân hận bằng không sân hận, thắng kẻ
bất tịnh bằng thanh tịnh; thắng người keo kiệt, bỏn xẻn bằng xả ly, bố thí;
thắng người giả dối bằng sự chân thật, thắng người ác bằng những pháp lành cao
thượng...
Bởi tất cả cớ ấy, tất cả nguyên nhân ấy, tất cả pháp cao cả ấy phát sanh năng
lực vĩ đại tác động giữa không gian tạo nên gió bão lớn. Gió bão lớn nên có âm
ba vang động, làm cho sóng nước trong bốn biển dâng cao, mặt đất rung chuyển như
địa chấn. Các loài động vật sống trên đất sợ hãi, ngơ ngác. Mèo buông chuột, rắn
không cắn mồi, muông thú không còn có tâm cấu xé ăn nuốt lẫn nhau. Các loài thủy
tộc cũng trong tình trạng y như thế...
Đại vương! Ví như người ta đun lửa nấu cơm, nước trong nồi sôi lên, sủi bọt
như thế nào; thì bồ tát đại thí với tâm ba-la-mật cũng làm cho đất, nước, lửa,
gió sôi lên và sủi bọt y như thế. Cả tứ đại đều chao động, chấn động.
Ví như tất cả các loài ngọc quí trên thế gian như ngọc Indanila, ngọc
Mahànila, ngọc Jotirrassa, ngọc Bidùraya, ngọc Ummàra Pupphà, ngọc Manoharà,
ngọc Sùriyakanda, ngọc Candakanda, ngọc Vajìra, ngọc hoàng thạch Pusarà, ngọc có
vân, ngọc xích châu v.v... đều không quý bằng ngọc màni của Chuyển luân Thánh
vương, tất cả sự bố thí của mọi người đều không bằng sự bố thí của bồ tát
Vessantara. Sự bố thí ấy là vô lượng, vô biên, cao cả, thù thắng, vĩ đại, làm
cho quả đất chuyển động bảy lần, ở ngoài tám nhân, tám duyên bình thường, ở trên
sự hiểu biết, tư lường của trí óc phàm phu, tâu đại vương! Vậy ngài còn nghi ngờ
gì điều ấy nữa không?
- Hoàn toàn thông suốt, tri ân đại đức.
94. Bố thí hai mắt lại được thiên nhãn
- Thưa đại đức! Trẫm nghe Đức Thế Tôn có thuyết rằng, đức vua Sìvi do móc hai
mắt của mình bố thí cho người đến xin nên có được thiên nhãn! Điều này trẫm nghi
ngờ lắm! Móc đi hai mắt, nghĩa là không còn tròng mắt, chẳng có con ngươi, thì
không rõ thiên nhãn phát sanh chỗ nào?
- Đại vương! Đây là loại câu hỏi vượt ngoài tầm mức của lý trí, ở ngoài các
định luật tự nhiên, không rõ đại vương có đầy đủ đức tin để lãnh hội chăng?
- Đại đức cứ nói.
- Vâng, có hai ba-la-mật là chân thật (sacca) và nguyện lực (adthitthàna)
ở trong mười ba-la-mật, đại vương có biết chăng?
- Thưa, có biết.
- Nếu hai ba-la-mật này được kết hợp thành một khối nhất như, gọi là "nguyện
lực chân thật" thì bất cứ chuyện gì trên thế gian này cũng đều được thành
tựu như ý muốn, thưa đại vương!
- Xin đại đức nói cụ thể hơn một chút.
- Khi trời không có mưa thì với "nguyện lực chân thật" này, cầu cho
trời có mưa, tức khắc mưa rơi xuống. Như lửa đang cháy, với “nguyện lực chân
thật" cầu cho lửa tắt thì lửa sẽ tắt. Thậm chí bị chất độc họa hại sinh
mạng, với “nguyện lực chân thật" thì chất độc cũng không còn. Nếu một
dòng sông chảy xuôi, với "nguyện lực chân thật", nước có thể chảy ngược
dòng! Điều ấy quả là khó tin phải không đại vương?
- Với mọi người thì khó tin, nhưng trẫm thì trẫm tin.
- Hay lắm! Đức vua Sìvì cũng như thế đó, tâu đại vương! Với “nguyện lực
chân thật" nó tạo ra một năng lực siêu nhiên, năng lực siêu nhiên ấy làm cho
đức vua phát sanh thiên nhãn. Chuyện khó tin nhưng có thật đấy, tâu đại vương!
Suy nghĩ một lát, đức vua lại hỏi:
- Những chuyện mà đại đức vừa nói, như mưa rơi xuống, lửa tắt, tiêu tan chất
độc, dòng sông chảy ngược... Nói tóm lại là do nhân gì, duyên gì?
- Chính "nguyện lực chân thật" ấy là nhân, cũng chính "nguyện lực
chân thật" ấy là duyên, tâu đại vương!
- Trong kinh có trường hợp nào cụ thể phát sanh năng lực siêu nhiên bởi nhân
duyên "nguyện lực chân thật" ấy chăng, thưa đại đức?
- Thưa có! Đức vua danh hiệu là Cina, trị vì xứ Cina, có tâm mong muốn được
dong xe ngựa ngao du trên biển cả, ngài bèn phát nguyện "nguyện lực chân thật"
ròng rã bốn tháng trường như thế với tâm kiên trú bất thối. Hôm kia, bằng vào
một niềm tin không lay động, đức vua dong ra biển trên một cổ xe có bốn ngựa
kéo. Đức vua xứ Cina rất lấy làm thỏa thích, kể lại rằng, cỗ xe bốn ngựa ngao du
trên biển xa chừng một do tuần, các làn sóng tạt lên gọng xe như nước tạt trên
lá sen mà thôi. Đó là một chuyện, tâu đại vương.
- Trẫm muốn nghe thêm ví dụ cụ thể nữa.
- Đức vua Dhammasoka, hôm nọ, cùng với quân hầu ngự ra khỏi hoàng thành, thấy
con sông nước chảy cuồn cuộn, chợt khởi lên ý nghĩ lạ thường rồi nói với quân
hầu rằng:"Này các khanh, các khanh có thấy hoặc có biết ai trên thế gian này
có khả năng làm cho con sông này nước chảy ngược lại chăng?"
Lúc ấy, ở bên sông có người kỹ nữ nghe được, cô ta bèn phát ngôn bằng "nguyện
lực chân thật" như vầy: "Tôi đây làm nghề kỹ nữ, bốn mùa bán thân nuôi
miệng, sở dĩ như vậy là vì tôi chỉ muốn duy trì mạng sống chứ không có lý do nào
khác. Điều ấy là hoàn toàn chân thật. Nếu lời tôi nói đây là chân thật thì xin
dòng sông này chảy ngược ngay bây giờ, ngay trước mặt cho đức vua Dhammasoka
trông thấy!" Lời cô kỹ nữ vừa dứt, dòng sông tức khắc chảy ngược, đức vua
kinh ngạc quá đổi, không rõ nguyên nhân tại sao!
Khi biết rõ dòng sông chảy ngược là bởi do cô kỹ nữ, đức vua kêu lại phán
hỏi: "Cô là dạ xoa hay long vương mà có oai lực như thế?" Cô kỹ nữ kính
cẩn thưa: "Đấy là do sức mạnh của sự nói thật, chứ không phải do oai lực của
một phi nhân nào cả, tâu đại vương!" Đức vua không tin, bảo rằng: "Có gì
ở nơi ngươi, mà ngươi bảo rằng "chơn ngôn" (lời nói chân thật)? Ngươi là
người không có trí tuệ, bốn mùa chơi bời, dâm ô, không có nết hạnh! Ngươi chỉ
biết cám dỗ tình dục mọi người, làm cho bao nhiêu đàn ông hư hỏng phải mê đắm,
tan cửa nát nhà! Vậy có gì là đạo đức, hiền thiện ở nơi ngươi đâu mà dám bảo là
"nguyện lực chân thật". Hãy nói cho trẫm nghe xem!" Cô kỹ nữ bèn đáp: "Tâu
đại vương! Chính do tiện nữ nói thật nên "nguyện lực chân thật" kia mới tựu
thành năng lực phi thường như thế!"
Nghe xong câu chuyện, đức vua Mi-lan-đà trầm ngâm:
- Qua các ví dụ của đại đức, bây giờ trẫm đã tin là đức vua Sìvi quả có phát
sanh thiên nhãn do bố thí hai mắt bằng "nguyện lực chân thật" của mình.
Thật là kỳ diệu vậy!
95. Hoài nghi về sự thụ thai
- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết rằng: “Tất cả chúng sanh, ví dụ là
người nữ, muốn thụ thai phải hội đủ ba yếu tố: cha mẹ giao hợp, đến kỳ bà mẹ có
kinh nguyệt và chúng sanh đầu thai nương gá. Thiếu một trong ba yếu tố ấy thì
không thể thụ thai." Có phải vậy chăng?
- Đúng vậy.
- Nếu thế thì trẫm nghi lắm. Cũng trong kinh, có kể trường hợp thụ sanh của
đạo sĩ Singa và đạo sĩ Sankicca. Mẹ của hai đạo sĩ ấy là một con nai cái, do vì
ăn cỏ có dính tinh từ nước tiểu của một đạo sĩ ẩn tu mà có thai rồi sinh ra.
Trường hợp này thì có hai yếu tố sau, thiếu yếu tố đầu tiên, thế sao việc thụ
thai vẫn xảy ra?
- Cha mẹ giao hợp là để có tinh xuất, nhưng trường hợp nai cái ăn cỏ có dính
tinh cũng kể vào yếu tố thứ nhất ấy, tâu đại vương!
- Thưa, nai ăn cỏ có dính tinh, tinh ấy vào dạ dày, tiêu hóa theo đường ruột
thì đâu có liên hệ gì ở bộ phận cấu sanh của phôi thai? Điều ấy trẫm không hiểu!
- Bần tăng cũng không hiểu. Nhưng bần tăng nghĩ rằng đây là trường hợp cá
biệt, có thể có một sự cấu tạo đặc biệt nào đó ở cơ thể của nai cái chăng? Điều
ấy không phải là không thể xảy ra, tuy nhiên, có tinh, được kể là yếu tố thứ
nhất, tâu đại vương!
- Tạm thời trẫm đồng ý như vậy. Và đấy có phải cũng tương tự như trường hợp
thọ sanh của ngài Ca diếp đồng tử (Kumàra kassapa)?
- Đúng vậy! Tỳ khưu Udàyi vì thấy dung sắc của một vị tỳ khưu ni, phát tâm
luyến ái, thỏa thích làm cho tinh xuất, dính vào y ca-sa. Tỳ khưu ni ấy lại lấy
tinh nhét vào tử cung, nhét vào miệng vô cùng khoái lạc nên đã thụ thai, hạ sanh
trẻ Kassapa mà sau này được tôn xưng là ngài Ca diếp đồng tử. Trường hợp ấy cũng
xem như hội đủ ba yếu tố đấy, tâu đại vương!
- Thế còn chuyện đạo sĩ Màtanga chỉ rờ rẫm nơi bụng một nữ bà-la-môn mà làm
cho nữ bà-la-môn kia mang thai, sanh con, đặt tên là Mandabya thì sao?
- Trường hợp này cũng như trường hợp đạo sĩ Dukala sờ vào bụng nữ đạo sĩ
Pàrikà mà thụ thai, sinh ra đức Sàma không khác. Cả hai trường hợp trên đều hội
đủ ba yếu tố, nhưng chúng ta phải hiểu là còn có thêm năng lực bên ngoài hỗ trợ
nữa.
- Xin đại đức kể cho nghe trường hợp ấy.
- Vâng! Chuyện khá dài đấy, không rõ đại vương nghe có mệt chăng?
- Không sao, nghe giáo pháp vừa là "thức thực" vừa còn có hỷ lạc nữa
đấy, thưa đại đức.
- Đạo sĩ Dukala và đạo sĩ Pàrika vốn là hai vợ chồng nhưng họ tình nguyện rời
bỏ ngũ dục vào rừng sâu kết cỏ làm nhà, xuất gia phạm hạnh. Họ ở mỗi người mỗi
mơi riêng biệt, giữ giới luật nghiêm túc, tinh cần thiền định. Vua trời Đế thích
với thiên nhãn của mình, thấy đời sống tịnh tu của họ, ngài vô cùng ái mộ, sớm
chiều thường hiện xuống cung kính hầu hạ. Hôm kia, trời Đế thích quán xét biết
rằng, trong tương lai cả hai vị đạo sĩ tôn kính này sẽ bị mù lòa, do vậy việc
kiếm tìm trái cây nuôi mạng sẽ vô cùng khó khăn. Với tâm bi mẫn và lòng từ vô
lượng, trời Đế thích cung thỉnh hai đạo sĩ nên sinh một đứa con để làm chỗ nương
tựa cho tuổi già mai hậu. Hai vị đạo sĩ kiên quyết giữ phạm hạnh không chịu phá
giới. Lần thứ hai, trời Đế thích ân cần thưa thỉnh, tiết lộ hoàn cảnh tương lai
khó khăn của hai người, nếu không con thì hòan cảnh sẽ khốn đốn. Hai vị đạo sĩ
khăng khăng chối từ. Lần thứ ba, trời Đế thích đã mất công vô ích mà còn được
hai vị đạo sĩ phân trần về chí nguyện của họ. Họ nói rằng:”Này bạn, không
những bạn khuyên chúng tôi làm một việc không có lợi ích mà còn tai họa đến phạm
hạnh của chúng tôi nữa. Bạn biết không, cái gì đến thì nó cứ tự đến, chúng tôi
không hề sợ hãi tránh né bao giờ, dù là tổn nguy đến sanh mạng. Lòng từ ái của
bạn là rất tốt nhưng quả thật nó đã được đặt không nhằm chỗ. Mặt trời, mặt trăng
kia có thể rơi xuống, quả đất này có thể sụp đi, núi Tu di kia có thể tan vỡ như
hạt bụi - nhưng phạm hạnh của chúng tôi thì chẳng ai có thể phá hủy được. Chúng
tôi rất cảm ơn bạn, nhưng xin bạn hãy đi đi, ở đây không phải là nơi để bạn lui
tới nói những lời trống không, phù phiếm như thế."
Biết không lay chuyển được chí nguyện sắt đá của hai vị đạo sĩ, trời Đế thích
bèn hiện ra thân tướng trang nghiêm, chói sáng, uy nghi rồi thú thật mình chính
là Đế thích Thiên vương. Hai vị đạo sĩ vô cùng kinh ngạc. Đế thích cũng chẳng
dấu diếm gì nữa, nói rằng, ngài có khả năng biết chuyện quá khứ, vị lai; biết
rằng trong nay mai cả hai vị đạo sĩ sẽ bị mù cả hai mắt, thật không dễ gì kiếm
vật thực nuôi mạng. Thiện chí của ngài hoàn toàn không phải vì mục đích phá hủy
phạm hạnh của họ, chỉ mong họ có người để nương tựa lúc tuổi già mù lòa sức yếu
mà thôi. Lời chí tình của Đế thích cũng không thể làm cho hai vị đạo sĩ lay động
tâm. Cuối cùng, Đế thích phải năn nỉ, rằng chỉ cần đạo sĩ Dukala đặt tay lên
bụng của nữ đạo sĩ Pàrikà vào kỳ kinh nguyệt - thì ngài có khả năng làm cho họ
được sinh con! Thấy một vị Thiên vương chí tôn mà phải hạ mình cầu khẩn chí tình
như thế, đạo sĩ Dukala không nỡ chối từ nữa, nghĩ rằng chỉ cần đặt tay lên bụng,
phạm hạnh dẫu có bị hoen ố nhưng chưa phải là hoàn toàn bị phá hủy, nên nhận
lời...
Đức vua Mi-lan-đà hỏi:
- Rồi sau đó, bồ tát Sàma của chúng ta giáng sanh ư ?
- Thưa, chẳng phải đơn giản như thế. Được sự ưng thuận của hai vị đạo sĩ rồi,
Đế thích trở lại thiên cung, dùng thiên nhãn quán xét xem thử vị trời nào có
nhiều công đức ba-la-mật, nhiều trí tuệ mà tuổi thọ sắp mãn, có khả năng lai
sanh bất cứ nơi nào... Chỉ gặp được một vị trời hội đủ nhiều yếu tố như thế, Đế
thích lại một phen nữa lao đao vất vả đến mời thỉnh vị thiên tử ấy giáng phàm...
- Và đấy chính là đức Sàma!
- Phải rồi! Nhờ lúc ấy bồ tát Sàma biết tuổi thọ mình sắp mãn, đang quan sát
trong bốn châu thiên hạ xem có chỗ nào nên hạ sanh. Đế thích trình bày hoàn cảnh
của hai đạo sĩ mù nay mai trong rừng sâu, rồi thỉnh nguyện Bồ tát thai sinh để
bổ túc ba-la-mật của mình. Bồ tát Sàma nhận lời. Và sau khi hẹn ngày, nữ đạo sĩ
Pàrikà có kỳ kinh nguyệt, đạo sĩ Dukala đưa tay sờ vào bụng, tức khắc bồ tát
Sàma đầu thai cấu sanh. Như vậy, thai sinh ấy vẫn hội đủ ba yếu tố, nhưng ở đây
có năng lực hỗ trợ của trời Đế thích, tâu đại vương!
- Vậy thì trẫm hiểu rồi! Nếu không có năng lực thần kỳ của trời Đế thích thì
làm sao mà giải thích cho kẻ phàm phu hiểu được. Nhưng ngoài nguyên nhân ấy còn
có nguyên nhân nào về sự đầu thai của chúng sanh nữa chăng?
- Thưa, tất cả chỉ có bốn nguyên nhân, tâu đại vương! Ây là nguyên nhân do
sức tác động của nghiệp, do cách sanh và chỗ sanh khác nhau, do chủng loại, dòng
họ khác nhau, và thứ tư là do được thỉnh mời.
- Thế nào là do sự tác động của nghiệp, thưa đại đức?
- Dĩ nhiên, nghiệp quyết định tất cả các cảnh thú tái sanh trong sáu đường,
nhưng ở đây chỉ muốn nói đến hạng chúng sanh có thiện căn, tích trữ nhiều phước
báu; họ có khả năng đến chỗ nào y như ước muốn, y như quyết tâm mong mỏi, tâu
đại vương! Ví dụ họ muốn hóa sanh lên các cõi trời, sanh vào dòng vua chúa uy
quyền cao sang hay sanh vào các gia đình bà-la-môn danh vọng, giàu có v.v... đều
có thể được, không trở ngại gì!
- Có thể dễ dàng như thế sao?
- Vâng, rất dễ dàng. Ví như có một người giàu nứt đố đổ vách, châu báu ngọc
ngà, tài sản, kho đụn chẳng biết để đâu cho hết. Đại vương nghĩ thế nào, nếu
người giàu có ấy muốn mua một xóm nhà lớn, xóm nhà nhỏ, muốn mua tôi trai hoặc
tớ gái thì có dễ dàng thỏa nguyện chăng?
- Dĩ nhiên là được!
- Cũng như thế là người có nhiều công đức, phước báu, có nhiều thiện pháp; họ
muốn sanh xứ chỗ nào, gia tộc nào đều dễ dàng như ước muốn, tâu đại vương!
- Cái gọi là cách sanh, chỗ sanh là như thế nào, thưa đại đức?
- Nguyên nhân này kỳ lạ lắm, tâu đại vương! Chỉ có bậc Toàn Giác mới thấy rõ,
biết rõ. Ví như có chúng sanh được sanh ra từ bụng, từ âm xứ của người nữ, của
giống cái; có chúng sanh - như chư thiên - thì hốt nhiên hóa sanh, kẻ thì từ
vườn hoa, kẻ trong bảo điện, kẻ ở chỗ ngồi, kẻ thì ở xung quanh hoặc từ phòng
riêng của vị thiên tử v.v... Ví như con gà khi cấu sanh phải có sự hỗ trợ của
gió. Ví như con cò, con vạc khi cấu sanh phải có sự hỗ trợ của sấm sét v.v...
Thật là thiên hình vạn trạng, khó biết hết, khó thấy hết. Đại vương cứ thử tưởng
tượng loài người sinh sống trên mặt đất, màu da, sắc phục, hình tướng, cách
trang điểm khác nhau, phong phú như thế nào thì chỗ sanh, cách sanh cũng phong
phú và đa dạng như thế ấy.
- Thế chủng loại, dòng họ là thế nào, thưa ngài?
- Điều này thì đại vương biết rồi, đấy là noãn thai, thấp, hóa, tức là được
sinh ra từ trứng, từ thai bào, chỗ ẩm thấp hoặc được sinh ra do hóa mà sanh tức
là tự hiện ra. Noãn sanh là như gà, chim... Thai sanh như người và các loài thú
bốn chân: hươu, nai, heo, bò v.v... Thấp sanh như rệp, rận, quăn v.v... Hóa sanh
như chư thiên các cõi trời... Nếu chúng sanh ở chủng loại, dòng họ nào thì hành
tướng, sanh nghiệp đều thuộc về chủng loại, dòng họ ấy. Ví dụ thuộc loài từ
trứng sanh thì phải có nghiệp, có tướng tương đồng. Các chủng loại, dòng họ khác
nhau cũng y như thế đó, tâu đại vương!
- Cuối cùng là do thỉnh mời, như trường hợp bồ tát Sàma của chúng ta. Nhưng
trẫm không rõ trường hợp nào được thỉnh mời, có điều kiện nào cho việc thỉnh mời
ấy thành tựu? Và cuối cùng là lợi ích thù thắng của nó ra sao?
- Câu hỏi này rất hay, thưa đại vương! Trường hợp được thỉnh mời phải đầy đủ
ba điều kiện mới thực sự thành tựu và thực sự đem đến lợi ích lớn. Thứ nhất là
người thỉnh mời phải có nhiều oai lực, nhiều phước báu, nhiều tâm từ. Thứ hai,
người được thỉnh mời phải là vì thiên tử đầy đủ công đức ba-la-mật, nhiều trí
tuệ và có nguyện lực tái sanh độ thế. Thứ ba là gia tộc được chọn lựa để đầu
thai phải có giới đức thanh tịnh, đức tin tròn đủ, đã tu tạo nhiều thiện pháp.
Nếu thiếu một trong ba điều kiện ấy thì việc thỉnh mời sẽ bất thành, tâu đại
vương!
- Đại đức có ví dụ cụ thể nào chăng?
- Thưa có, tâu đại vương. Ví như có một người làm ruộng giỏi giang, biết chăm
chuyên cần mẫn, lựa hạt giống tốt, gieo vào thửa ruộng tốt, phân nước đầy đủ;
đến khi gặt hái thì năng suất lúa sẽ bội thu, có phải thế không, thưa đại vương?
- Đúng vậy.
- Người làm ruộng được ví như trời Đế thích, hạt giống tốt ví như bồ tát Sàma
của chúng ta và thửa ruộng tốt được ví như đạo sĩ Dukhala và nữ đạo sĩ Pàrikà.
Đầy đủ các điều kiện tốt ấy thì có lợi ích cho chư thiên và nhân loại không,
thưa đại vương?
- Dĩ nhiên là quá nhiều phước lành do duyên kết hợp ấy.
- Phước lành do sự kết hợp ấy quả là hy hữu, tâu đại vương! Từ xưa đến nay,
trời Đế thích chỉ thỉnh mời có bốn người, đấy là đức vua Kusa, đức vua
Mahàpahànàda, bồ tát Suvanna Sàma trong câu chuyện vừa rồi và bồ tát Vessantara
là kiếp áp chót của Phật Thích ca mà thôi!
Đức vua Mi-lan-đà vô cùng hoan hỷ, bèn tán thán:
- Thật là thù thắng làm sao là sự giải đáp tận tình, cặn kẽ của đại đức! Trẫm
rất lấy làm thỏa thích và sung sướng vậy.