văn hóa kinh
doanh, văn hóa công sở, văn hóa học đường, văn hóa thời trang, văn hóa
tín ngưỡng… Ở đây, chúng tôi muốn nói lên một vài suy nghĩ của mình về
một khái niệm văn hóa vừa lạ mà vừa quen: "Văn hóa Tịnh độ". Nói lạ là
với những người chưa hoặc ít đi chùa, niệm Phật, còn với những người
Phật tử thuần thành thì ai ai cũng biết "Tịnh độ" chỉ cho cảnh giới vô
cùng thanh tịnh, an lạc và vui sướng, không còn bóng dáng và khái niệm
khổ đau của Đức Phật A Di Đà, do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu
trong kinh A Di Đà.
"Văn hóa" theo nghĩa rộng, là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn. Ở đây, chúng tôi chỉ tập trung đề cập đến
những đặc trưng cơ bản và gần gũi nhất của kiểu "Văn hóa Tịnh độ" được
diễn tả qua kinh A Di Đà.
Khái niệm "Văn hóa Tịnh độ" bất chợt xuất hiện trong
tâm thức khi chúng tôi trên đường đi bái Phật từ Đài Bắc (Pháp Cổ Sơn
của ngài Thánh Nghiêm), đi ngang Đào Viên, Tân Trúc, Miêu Lật đến Đài
Trung (Trung Đài thiền tự của ngài Duy Giác), vượt qua Chương Hóa, Vân
Lâm, Gia Nghi đến Đài Nam, Cao Hùng (Phật Quang Sơn của ngài Tinh Vân),
đi vòng Bình Đông, Đài Đông đến Hoa Liên (Từ Tế hội của Ni sư Chứng
Nghiêm), rồi ngang qua Nghi Lan về lại Đài Bắc trong chuyến thăm viếng
Đài Loan nhân dịp Vu lan vừa qua. Tức là chúng tôi đã đi giáp một vòng
lãnh thổ Đài Loan, viếng thăm bốn tông phái hưng thịnh nhất của Phật
giáo Đài Loan hiện nay. Ấn tượng lớn nhất in sâu vào ký ức chúng tôi là
trên suốt dọc đường từ thành thị đến nông thôn, chúng tôi luôn nhìn thấy
các băng-rôn, bảng hiệu ghi: Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quan Thế Âm Bồ
tát, Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát…treo, dán, in hoặc viết trên cổng
nhà, cổng xưởng, cổng công ty, giữa đường hay hai bên đường.
Hơn nữa, chúng tôi thường được nghe pháp âm niệm Phật
phát ra từ máy niệm Phật, băng đĩa niệm Phật… Cảnh tượng danh hiệu
Phật, Bồ tát phổ biến khắp nơi nơi gợi cho chúng tôi liên tưởng tới một
đoạn trong kinh A Di Đà diễn tả về thế giới Cực lạc: "Cõi đó
thường có những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch
hạc, Khổng tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng mạng. Những loài
chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã, tiếng đó diễn nói những
pháp như Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát thánh đạo phần v.v…
Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng" (Kinh A Di Đà, HT.Thích Trí Tịnh dịch). Ở
cõi Cực lạc, nhiều loại chim quý, dùng tiếng vi diệu diễn nói Phật pháp,
để cho dân chúng cõi đó nghe mà luôn luôn tinh tấn tu hành. Không những
các loài chim quý, mà cả gió, cây muôn vật cũng biết xiển dương Tam
bảo: "Trong cõi nước của Đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu
và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn
thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều
sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng"(Sđd). Còn ở Đài Loan trong
thế kỷ XXI, thì danh hiệu Phật, Bồ tát được diễn nói bằng những hình
thức hiện đại hơn.
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn,
giá trị vật chất và tinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới
không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc, sung sướng. Bởi vì nơi đây không có
ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), ngay cả danh từ "ác" còn
không có, huống chi là có thật. Điều này thể hiện ngay trên danh xưng
"Thế giới Cực lạc" (nghĩa là thế giới vô cùng an lạc, vui sướng).
Thứ hai, dân chúng trong nước này đều là chư thượng
thiện nhân (những bậc thượng thiện). Tuổi thọ của người dân ở đây lâu
dài khó có thể tính được. Điều kiện để "nhập quốc tịch" vào nước Cực lạc
thật không đơn giản: "Không thể dùng chút ít phước đức nhân duyên mà được sinh về cõi đó" (Sđd). Muốn sinh về cõi Cực lạc thì nhất định phải đạt đến cảnh giới tâm không tạp loạn: "Nếu
có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói Đức Phật A Di Đà, rồi chấp
trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc
ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một
lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà
cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm
thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực lạc của Đức
Phật A Di Đà" (Sđd). Tóm lại, đạo đức và trí tuệ của người dân ở đây
đạt tầm mức rất cao, họ sống vui, sống lâu, sống khỏe và không có bịnh
tật.
Thứ ba, điều kiện, hoàn cảnh và môi trường sống ở đây
từ nhà cửa, phố xá, cơ sở hạ tầng đến phương tiện sinh hoạt tinh thần
thật tuyệt vời. Quan trọng là tất cả đều nhằm hướng cho dân chúng thăng
tiến trí tuệ và tâm linh, chứ không phải cốt hưởng thú vui dục lạc:
"Cõi Cực lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây,
đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng…, lại có ao bằng bảy châu báu,
trong ao đầy nước tám công đức, đáy thuần dùng cát vàng trải làm đất.
Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên
thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha
lê, xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa
sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời
ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong
sạch" (Sđd).
Một trong những nét sinh hoạt hàng ngày của người dân là: "Cõi
nước của Đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày
đêm sáo trời, rưới hoa trời mạn-đà-la. Chúng sanh trong cõi đó thường
vào lúc sáng sớm, đều lấy đãi hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười
muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm
xong đi kinh hành" (Sđd).
Nước Cực lạc, vật chất sung mãn, môi trường sinh thái
trong lành và thanh khiết, đời sống tâm linh hướng thượng lý tưởng và
thánh thiện, môi trường không ồn ào, hoàn cảnh không độc hại, không khí
không ô nhiễm, con người không còn tạo ác nghiệp.
Thiết lập "Nhân gian Tịnh độ" ngay trong đời sống hiện tại là một
trong những nội dung cốt yếu của hành giả tu pháp môn Tịnh độ hướng tới.
Những khía cạnh cơ bản về giá trị vật chất và tinh thần của "văn hóa
Tịnh độ" qua kinh A Di Đà được trình bày ở trên, thể hiện rõ đây
là nét văn hóa Chân, Thiện, Mỹ mang giá trị vĩnh hằng đối với nhân loại
trong hiện tại cũng như tương lai.
THÍCH HẠNH TUỆ