Hoa Nghiêm đủ tất cả tam-muội của các Đức Phật, nhưng trong đó Niệm Phật là vua của tất cả tam-muội.
“Đại” không có pháp nào hơn pháp này.
“Phương” không có pháp nào hơn pháp này.
“Quảng” không có pháp nào hơn pháp này.
Cư sĩ Tri Qui tu niệm Phật mười mấy năm, lại còn đi sâu vào biển
nghĩa Hoa Nghiêm. Vừa rồi, ông qua Trấn Giang có đưa cho tôi xem bộ
Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam-muội do ông trứ tác. Số chữ trong các trứ
tác của các ngài Thanh Lương, Táo Bá nhiều như số cát sông Hằng được
ông diễn lại trong năm sáu nghìn lời, mới biết Sớ Sao, Hiệp Luận chẳng
phải nhiều, luận này chẳng phải ít. Vả lại, lúc ngài Táo Bá tạo luận,
toàn phẩm Hạnh Nguyện chưa được truyền đến Trung Quốc, nên đối với vấn
đề Tịnh độ ở phương khác, Ngài có ý kiến khác biệt. Khi phẩm ấy đầy đủ
được lưu hành thì phải đợi đến bộ Luận Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam-muội
này mới phát huy được đầy đủ ý nghĩa. Chắc nhờ thần lực của Đức Phật
A-di-đà gia bị nên cư sĩ mới tùy nghi thuyết pháp hướng dẫn mọi người.
Thiết nghĩ: Người tu tịnh độ niệm Phật chuyển hóa máu nhơ phiền não
thành sữa pháp trong sạch. Do niệm Phật mà đắc tam-muội, đó là niệm quy
về vô niệm, chuyển hóa sữa sống thành thục lạc. Trụ trong tam-muội tinh
tấn niệm Phật, đó là vô niệm mà niệm, biến thục lạc thành sinh tô. Do
niệm Phật tam-muội trải qua khắp tất cả tam-muội, rồi sau đó đầy đủ
niệm Phật tam-muội, biến sinh tô thành thục tô. Vì niệm Phật tam-muội
bao gồm hết vô lượng vô biên bất khả thuyết tam-muội, vì vô lượng vô
biên bất khả thuyết tam-muội gom vào niệm Phật tam-muội, tức Phật tức
niệm, phi niệm phi Phật, thần thông vi diệu chẳng thể nghĩ bàn, là
chuyển thục tô thành đề hồ.
Nếu chẳng chuyển sữa thành lạc được thì tuy niệm Phật mà chẳng thể
đắc môn tam-muội. Nếu chẳng biến lạc thành tô được thì chẳng thể dùng
niệm Phật tam-muội thu gom hết tất cả bất khả thuyết môn tam-muội. Nếu
chẳng chuyển tô lạc thành đề hồ được thì chẳng thể dùng một môn niệm
Phật vượt thẳng lên hàng Thập địa, Đẳng giác, đắc trí Đại viên cảnh,
tọa chứng vô thượng Bồ-đề.
Niệm Phật không có sai biệt, nhưng tam-muội có cạn có sâu. Sự cạn sâu của tam-muội là do sự sai biệt của người niệm Phật.
Văn Trị tôi từ tuổi đôi mươi đã thích tu Thiền, song từ tuổi bốn
mươi về sau mới kiêm tu niệm Phật. Những năm gần đây, tôi lấy niệm Phật
làm Thiền, Thiền Tịnh song tu cho đến lúc tuổi già. Tôi đâu dám đem sự
hiểu biết của mình ra chất vấn cư sĩ, mà chỉ ước mong được Ngài chỉ
giáo.
Tháng 3, mùa Xuân, năm Giáp Thìn (1784) Vô Dư học nhân Vương Văn Trị soạn.
VỀ TÁC GIẢ
Cư sĩ Bành Thiệu Thăng (1740 - 1796), pháp danh Tế Thanh, tự là Doãn
Sơ, người đời Thanh, ở huyện Trường Châu, tại Tô Châu. Từ thuở bé, ông
đã thông tuệ, lên mười sáu tuổi được bổ làm Chư Sinh, năm sau đỗ Hương
thi. Năm kế đó lại đỗ Tiến sĩ, trọn đời an dưỡng không ra làm quan.
Ban sơ cư sĩ không tin Phật, chỉ ưa văn tự thế gian, có chí muốn
giúp đời. Một hôm, ông bỗng tự cảnh giác nói: “Tâm địa ta chưa sáng tỏ,
biết làm sao?” Có kẻ bảo cho phép tu luyện đạo Tiên, ông tập theo ba
năm không kiến hiệu. Sau đọc đến sách Phật, chợt tỉnh ngộ bảo: “Chỗ về
của đạo là đây!” Từ đó, ông mới tín hướng Phật thừa, Cư sĩ mến phong
cách của Cao Trung Hiếu ở Lương Khê và Lưu Di Dân ở Lô Sơn nên lấy tự
hiệu là Nhị Lâm, vì chỗ tu học của hai ngài trên đều gọi là Đông Lâm.
Tế Thanh tính thuần hiếu, khi cư tang mẹ, ngủ bên nhà tẩn ba năm. Lúc
cha mất, ông lập đạo tràng niệm Phật nguyện đem công đức tụng mười bộ
kinh Hoa Nghiêm, một nghìn quyển kinh Di Đà, một nghìn quyển kinh Kim
Cương và mười triệu câu Phật hiệu của mình đã tu, hồi hướng cầu cho
thân phụ được sinh về Cực Lạc.
Kế đó không bao lâu, cư sĩ bỏ hết tập quán theo đời, chuyên tâm tu
học Phật pháp. Ông rất thích những tác phẩm của hai ngài Phương Sơn,
Vĩnh Minh, suy tôn ngài Liên Trì và Hám Sơn làm bậc tiền đạo của tông
Tịnh Độ. Năm hai mươi chín tuổi, cư sĩ ăn chay trường. Qua năm năm lại
thụ giới Bồ-tát nơi ngài Văn Học Định. Từ đó, ông không còn gần đàn bà,
tự xưng là Tri Quy Tử, từng nói: “Tế Thanh này chí ở Tây phương, hạnh ở
kinh Phạm Võng”. Cư sĩ có lời văn quì phát thệ trước bàn Phật rằng:
“Nếu Tế Thanh con, đã thụ giới rồi mà còn phá giới, tăng trưởng pháp
ác, hủy hoại căn lành, xin hộ pháp chư thiên tru diệt ngay để làm gương
cho thế tục. Như con nghiêm sửa thân tâm, giữ gìn giới phẩm, thì hết
kiếp này nguyện được sinh về An Dưỡng. Xin mười phương Tam Bảo chứng
minh, khiến con mau đắc Niệm Phật Tam-muội. Nguyện con khi lâm chung xa
lìa trần cấu, thấy Đức Di-đà, nhẹ thoát về Tây, không còn chướng ngại.
Khi đó nguyện cho kẻ thấy người nghe đều phát tâm như con, cầu về Cực
Lạc, chứng Vô sinh nhẫn, rồi cùng trở lại Ta Bà độ khắp loài hữu tình
đồng thành Chính giác!” Sau cư sĩ bế quan ở Văn Tinh Các tu môn Nhất
Hạnh tam-muội, đề chỗ ở là Nhất Hạnh Cư. Ông có làm mười bài thi bế
quan như sau:
Lẩn bẩn phong trần tự bấy lâu
Mà chân hạnh phúc những là đâu?
Ngày nay hồi hướng về An Dưỡng
Kiếp mộng vô minh đã dãi dầu!
Thân Phật bao la khắp thái hư
Điểm trần lặng lẽ chẳng còn dư!
Chớ đem tri kiến nhiều phân biệt
Một niệm hồi quang thấy Đại Từ.
Chuỗi lần trăm tám chẳng đuôi đầu
Mỗi niệm tinh minh mỗi hạt châu.
Sáu chữ mở toang Vô tận tạng
Như như buông thả lại hồi thâu.
Cảnh vườn tịch mịch tợ thâm san
Ngày vắng kìa ai gõ bế quan?
Nhắn bạn đồng tu nên tự tỉnh
Đừng theo ngoài cửa mãi mơ màng!
Dưới đỉnh Nghiêu phong ngập ráng mây
Ngon mùi lê hoát dạ vui đầy!
Gió đông khéo mách niềm tâm sự
Tiếng Phật thâm trầm qua gác tây.
Rừng lạnh ngàn mai nở trắng phau
Cành xuân chim hót giọng thanh thao
Hương nguyền vì niệm Quan Âm hiệu
Thinh sắc đường kia chớ lạc vào!
Ngước lên rồi lại cúi đầu trông
Liên quốc đâu từng cách điểm lông?
Tiếng hát Ca- lăng đà nói rõ
Đây miền chân tịnh chớ mê lòng!
Giữa đêm trừ tịch chốn môn đình
Phá cảnh u trầm xướng kệ kinh.
Mãn khóa Pháp Hoa nhàn rỗi việc
Chén trà Long Tỉnh uống vơi bình.
Lại đối Ni Sơn hỏi cựu manh
Cung đàn réo rắt điệu vô sanh
Trong bầu xuân sắc đi thong thả
Dưới gót hoa luân nở một vành.
Hương sơn lão tử rất thanh chân
Lối rẽ nhiều phen phải hỏi thăm!
Chớ xót nguồn hoa tin tức vắng
Cảnh xưa bên suối vẫn đầy xuân!
Cư sĩ lại thuê họa công vẽ bức đồ Cực Lạc thế giới, căn cứ theo
chính báo y báo trang nghiêm của ba kinh Tịnh độ. Bức đồ này sửa đi đổi
lại tất cả bốn lượt, trải nửa năm mới hoàn thành. Tế Thanh tự đề lời kệ
rằng:
Nếu người muốn biết rõ
Nên quán tính pháp giới
Tôi đọc kệ Hoa Nghiêm
Do tịnh nguyện chư Phật
Tịnh nguyện như hư không
Nước công đức vô biên
Mỗi hoa một chúng sinh
Bảo trì và bảo thụ
Lớp lớp lầu các màu
Hoặc tắm dòng hương thủy
Hoặc ngồi thiền kinh hành
Hoặc giỏ đựng hoa đẹp
Hoặc bạn lành hội họp
Các chim cùng nhạc trời
Từ Văn vào Tư, Tu
Huống Đức Vô Lượng Thọ
Mây từ che trời người
Nghe rồi được giải thoát
Việc lợi ích như thế
Cũng như họa sư kia
Chẳng lìa đầu lông nhỏ
Không phân biệt kia đây
Bức họa cùng người họa
Nguyện những người nghe thấy
Nương niệm công đức này
Đường vạn ức đâu xa
|
Chư Phật trong ba đời.
Tất cả do tâm tạo.
Tin vào môn Tịnh Độ
Thành cảnh diệu trang nghiêm
Chẳng ngăn các hình tướng
Nổi hiện hoa sen báu.
Có đủ Như Lai Tạng.
Câu lơn báu vây quanh
Đầy khắp hư không giới.
Hoặc hưởng vị diệu trân
Hoặc tụng kinh nghe pháp.
Cúng dường Phật mười phương
Đồng vào Bồ đề tràng.
Phát xướng tiếng hòa nhã
Một niệm đều siêu việt
Ngồi yên đài bảo hoa
Mưa pháp nhuần nhã khắp.
Thẳng đến ngôi nhất sinh
Vô cùng, chẳng nghĩ bàn!
Một tâm biến các cảnh
Hiện chỗ ở Bảo Vương.
Một tức khắp tất cả.
Kết cuộc chẳng có chi!
Như tôi cùng phát tâm
Lên ngôi Bất thoái chuyển.
Ngay đây đã đầy đủ!
|
Cư sĩ thương chúng sinh đời mạt pháp không đủ chính nhãn chống báng
lẫn nhau, viết ra quyển Nhất Thừa Quyết Nghi Luận, dung thông quan điểm
hai đạo Nho, Thích. Lại trước tác quyển Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam-muội
Luận, hóa giải sự tranh chấp giữa Tịnh cùng Thiền. Và soạn thuật quyển
Tịnh Độ Tam Kinh Tân Luận, phát huy những ý chỉ từ trước nói chưa hết
của Liên Tông. Ngoài ra còn có biên soạn các quyển: Cư Sĩ Truyện, Thiện
Nữ Nhân Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, tùy cơ tiếp dẫn. Những tác phẩm
này được nhiều người truyền tụng và lưu hành rộng trong đời. Ông lại
xuất ra muôn lượng vàng, phương tiện cho gây quỹ lấy lợi tức để tu tạo
chùa, ấn tống kinh, trai cúng tăng, mở Cận Thủ Đường nuôi kẻ cô quả,
đặt Nhuận Tộc Điền giúp hạng đói nghèo, dựng Truất Ly Hội trợ cấp người
sương cư, lập Phóng Sinh Hội để châu toàn vật mạng. Những công đức ấy
đều có văn phát nguyện hồi hướng cầu cho mình và các loài hữu tình đều
sinh về Cực Lạc.
Cư sĩ nương các tăng xá thuộc vùng Tô, Hàng tịnh cư hơn mười năm,
mỗi ngày đều có khóa trình tu niệm. Ông dự chế các điều khoản khi mình
mạng chung, và không cho lập hậu. Mùa thu năm Càn Long thứ sáu mươi(
1795), cư sĩ bị nhiễm bệnh ở Vân Tinh Các. Sang tiết đông, tinh thần
lần suy kém, ông gọi cháu là Chúc Hoa giao cho quản lý các hội từ
thiện, di chúc bảo duy trì đừng để suy mất. Một vị tăng là Chơn Thanh
hỏi ông có thấy điềm lành chăng? Cư sĩ đáp: “Đâu có điềm chi lạ, việc
lớn của tôi ở vào ngày Khai ấn sang năm!” Qua xuân, nhằm đầu niên hiệu
Gia Khánh (1796), ngày hai mươi tháng giêng, cư sĩ viết kệ từ thế rằng:
Thân số trầm luân tợ điểm trần
Duyên sao chìm nổi chốn mê tân?
Ngày nay thẳng hướng Liên hoa quốc
Chớp mắt thu về vạn kiếp xuân!
Viết xong, ngồi kiết già niệm Phật mà thoát. Lúc ấy, quả nhiên nhằm ngày Khai ấn trong nhà. Ông hưởng dương năm mươi bảy tuổi.
(Trích Mấy Điệu Sen Thanh)
HT. Thích Thiền Tâm
LUẬN HOA NGHIÊM NIỆM PHẬT TAM MUỘI
Đệ tử Bồ-tát giới Bành Tế Thanh thuật
Pháp môn niệm Phật đều được các kinh ngợi khen, nhưng nói chung đại khái có hai đường lối: Phổ niệm và Chuyên niệm.
Như kinh Quán Phật Tướng Hải, kinh Phật Bất Tư Nghị Cảnh Giới… chỉ
nói đến Phổ niệm. Kinh Dược Sư Lưu Li Quang Như Lai, kinh A-súc Phật,
kinh Vô Lượng Thọ… đặc biệt nói về Chuyên niệm. Nay kinh Hoa Nghiêm này
chủ trương nhất đa tương nhập, chủ bạn giao dung, tức tự tức tha, cũng
Chuyên cũng Phổ. Nay xin trình bày sơ lược năm môn xuyên suốt toàn bộ
kinh này.
- Môn niệm pháp thân Phật để chỉ thẳng vào tự tính của chúng sinh.
- Môn niệm công đức Phật sinh ra báo thân và hóa thân của các Đức Phật.
- Môn niệm danh tự Phật để thành tựu phương tiện thanh tịnh hay nhất.
- Môn niệm Phật Tỳ-lô-giá-na để chóng nhập pháp giới Hoa Nghiêm.
- Môn niệm Phật A-di-đà Phật ở thế giới Cực Lạc để viên mãn đại nguyện Phổ Hiền.
Cuối cùng dùng cách hỏi đáp để giải quyết các điều nghi, hễ ai được thấy nghe đều quay về đạo Nhất thừa.
1. Niệm pháp thân Phật để chỉ thẳng vào tự tính của chúng sinh:
Tính sẵn có của chúng ta lặng lẽ sáng suốt trùm khắp cõi nước nhiều
như số bụi nhỏ. Chư Phật không có sở chứng nào khác hơn là toàn chứng
tự tính của chúng sinh.
Phẩm Như Lai Xuất Hiện nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát phải nên biết tự tâm,
niệm niệm thường có Phật thành Chính giác. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai
chẳng lìa tâm này thành Chính giác. Như tự tâm, tất cả tâm chúng sinh
cũng vậy, đều có Như Lai thành Đẳng chính giác rộng lớn trùm khắp không
chỗ nào không có, chẳng lìa chẳng đoạn, không có dừng nghỉ .”
Lại nói: “Không có một chúng sinh nào mà không đủ trí huệ Như Lai,
chỉ vì vọng tưởng điên đảo chấp trước mà không thể chứng đắc. Nếu lìa
vọng tưởng thì Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí liền được hiện
tiền”.
Thế nào là lìa vọng tưởng? Phải biết sự điên đảo chấp trước của
chúng sinh toàn là pháp thân chư Phật. Vì sao? Vì điên đảo chấp trước
thường tự tịch diệt. Từ niềm tin này vào thì pháp thân chư Phật không
chỗ nào không hiện, thanh tịnh viên mãn, trong đó không dung nạp cái gì
khác, niệm niệm chẳng mê, tâm tâm không trụ. Từ đây khởi hạnh đầy đủ
đại bi, rốt ráo đại từ, không chấp thân, không chấp tu, không trụ
pháp,trải qua các giai vị thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa
và địa thứ mười một chẳng lìa đương niệm, nhân quả thành tựu viên mãn,
cho nên nói: “Vừa phát tâm bồ-đề liền thành Chính giác”, như phẩm Hiền
Thủ, phẩm Sơ Phát Tâm Công Đức nói cặn kẽ về việc này. Niệm Phật như
vậy có thể thấy thân Như Lai ở khắp mọi nơi. Trong phẩm Quang Minh
Giác, Đức Thế Tôn phóng trăm ức quang minh từ ba nghìn đại thiên thế
giới này chiếu khắp mười phương cho đến tận pháp giới hư không giới,
rồi ngài Văn-thù nói kệ tụng dạy người siêu việt các thứ kiến chấp hữu
vô, nhất dị, sinh diệt, khứ lai, quán Như Lai ở khắp nơi, đây là đi vào
niềm tin đúng đắn về Đức Phật.
Phẩm Xuất Hiện cũng nói: “Các vị Đại Bồ-tát chẳng nên thấy Như Lai
nơi một pháp, một sự, một thân, một cõi nước, một chúng sinh mà phải
nên thấy Như Lai ở khắp mọi nơi. Ví như hư không đến khắp tất cả chỗ
sắc, phi sắc, chẳng phải đến, chẳng phải chẳng đến. Vì sao? Vì hư không
không có thân, thân Như Lai cũng vậy ở khắp tất cả mọi nơi, mọi chúng
sinh, mọi pháp, mọi cõi nước, chẳng phải đến, chẳng phải không đến. Vì
sao? Vì thân Như Lai là không có thân, vì độ chúng sinh cho nên Như Lai
thị hiện thân”. Lại nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát dùng trí huệ không chướng
ngại biết cảnh giới tất cả thế gian là cảnh giới Như Lai; biết cảnh
giới tất cả ba thời gian, cảnh giới tất cả cõi nước, cảnh giới tất cả
pháp, cảnh giới tất cả chúng sinh, cảnh giới chân như không sai biệt,
cảnh giới pháp thân không chướng ngại, cảnh giới thật tế không giới
hạn, cảnh giới hư không không phần lượng, cảnh giới không cảnh giới đều
là cảnh giới Như Lai. Này Phật tử! Như cảnh giới của tất cả thế gian vô
lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Như cảnh giới của tất cả ba
thời gian vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng, cho đến cảnh giới
không cảnh giới vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Như tất cả
chỗ của cảnh giới không cảnh giới không có, tất cả chỗ của cảnh giới
Như Lai cũng không có như vậy”.
Vì sao? Vì trí huệ của tự tâm vốn không chướng ngại, vì trí huệ
không chướng ngại tức là cảnh giới Như Lai. Đây gọi là Niệm tự tính
Phật, cũng gọi là Tự tính niệm Phật. Tự tính niệm Phật là không có chủ
thể niệm Phật ở ngoài Phật để niệm Phật. Niệm tự tính Phật là không có
Phật ở bên ngoài làm đối tượng cho mình niệm. Thâm nhập pháp môn này
thì rốt cuộc Phật sở niệm chẳng phải là cứu cánh, vì chẳng biết pháp
thân là tự tính rồi cho là riêng có Phật. Lúc đi vào pháp môn này, công
đức của một niệm rộng lớn hơn hư không, không có hạn lượng.
2. Niệm công đức Phật để sinh ra báo thân và hóa thân Phật:
Tất cả Như Lai xứng với lượng pháp giới hiện các loại thân, bày vô
tận trang nghiêm, làm vô biên Phật sự, các Ngài đều lấy trí Phổ quang
minh làm thể. Như phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm ghi: “ Trí đi vào ba thời
gian thảy đều bình đẳng, thân các Ngài đầy khắp thế gian, tiếng thuyết
pháp của các Ngài tùy thuận chúng sinh trong khắp các cõi nước ở mười
phương, ví như hư không bao trùm các hình tượng, đối với mọi cảnh giới
không có chút phân biệt. Vì trí này không thể nghĩ bàn, không có cục
bộ, vì đầy đủ được các lực dụng như thế nên dù ở địa vị phàm phu mà
nghe pháp ngộ lý thì vẫn đắc căn bản trí. Nếu như chẳng thể dựa vào trí
phát khởi sự tu hành viên tu viên chứng, rơi vào cảnh giới Nhị thừa
Thanh văn thì đại dụng của chư Phật chẳng được hiện tiền”.
Thế nên, sáu phẩm của hội đầu tiên trong kinh Hoa Nghiêm toàn trình
bày quả đức Như Lai. Ba mươi hai phẩm của hội thứ hai đến hội thứ tám
nói đến giai vị tiến tu thẳng đến giác ngộ viên mãn. Tóm lại chẳng ra
ngoài sáu vị nhân quả để người tu hành mở rộng trí huệ thực hành các
hạnh, chẳng chấp không một cách lệch lạc, để trang nghiêm cõi nước
Phật. Nhưng một phẩm Phổ Hiền Tam-muội trong hội đầu tiên đã trình bày
chủ yếu về toàn thể Phật Hoa Nghiêm. Kinh nói Bồ-tát Phổ Hiền nhập vào
tam-muội tạng thân Tỳ-lô-giá-na của tất cả các Đức Phật. Tam-muội này
dựa vào pháp giới xứng tính trùm khắp tất cả cõi nước nhiều như số bụi
nhỏ, hiện thân khắp nơi giáo hóa chúng sinh, chẳng bỏ trần lao, hưng
khởi đại dụng, theo trình độ chúng sinh mà nói phẩm Thế Giới Thành Tựu,
rồi kế tiếp nói phẩm Hoa Tạng Thế Giới để chỉ bày các cõi nước tịnh,
uế; tất cả đều chỉ là tâm. Người thâm nhập vào biển đại nguyện Phổ Hiền
thì thấy chỗ nào cũng đều là cõi nước Phật, lúc nào cũng đều là Phật
sự. Phẩm Phổ Hiền Tam- muội này quán triệt toàn kinh, tìm trong văn
kinh Hoa Nghiêm sẽ tự thấy. Đến phẩm đồng tử Thiện Tài đi tham vấn các
vị thiện tri thức từ tỳ-kheo Đức Vân đến trưởng giả Giải Thoát, cư sĩ
Bệ-sắc-chi-la, các Ngài đều nhờ một môn niệm Phật mà được giải thoát.
Như ngài Đức Vân nói: “Tôi được năng lực quyết định thông hiểu tự tại,
con mắt tín tâm thanh tịnh, ánh sáng trí huệ chiếu sáng quán sát hết
các cảnh giới không bị chướng ngại, con mắt sáng suốt quán thấy khắp
tất cả, đầy đủ hạnh thanh tịnh đi đến tất cả cõi nước ở khắp mười
phương, cung kính cúng dường tất cả các Đức Phật, thường niệm tất cả
chư Phật Như Lai, tổng trì tất cả chính pháp của chư Phật, thường thấy
tất cả các Đức Phật ở khắp mười phương”. Từ câu Tôi được năng lực quyết định thông hiểu tự tại trở xuống là nói về niệm Phật pháp thân. Từ câu Đi đến tất cả cõi nước ở khắp mười phương trở xuống là nói về niệm Phật báo thân và hóa thân.
Tùy thuận pháp thân khởi ra báo thân và hóa thân. Vì pháp thân vô
lượng nên báo thân và hóa thân được cảm ứng cũng vô lượng, cho nên đoạn
văn kinh tiếp theo nói: “Thấy một Đức Phật, hai Đức Phật, mười Đức
Phật, trăm Đức Phật, nghìn Đức Phật, trăm nghìn Đức Phật cho đến bất
khả thuyết bất khả thuyết Đức Phật ở trong cõi nước Phật nhiều như số
bụi nhỏ ở phương Đông. Như phương Đông, các phương Nam, Tây, Bắc, bốn
phương cạnh, hai phương trên dưới cũng đều thấy như vậy”. Đây gọi là
pháp môn do ức niệm cảnh giới của tất cả các Đức Phật mà ánh sáng trí
huệ thấy tất cả chư Phật. Chư Phật không có cảnh giới nào khác, các
Ngài chỉ dùng ánh sáng trí huệ tùy thuận chúng sinh mà làm Phật sự.
Người niệm Phật ở đây cũng vậy, do tín giải đầy đủ nên có thể nhập vào
trí huệ Phật, do quán hạnh đầy đủ nên có thể thấy ánh sáng Phật. Ánh
sáng trí huệ chẳng từ người khác mà được, chỉ nhờ nhân duyên mà ánh
sáng trí huệ hiển phát. Văn kinh Hoa Nghiêm đoạn tiếp theo sau lại mở
ra hai mươi mốt môn niệm Phật tận mười phương, ba thời gian và mỗi chỗ
trên đầu mỗi sợi lông, Phật xuất hiện nơi thế gian trong mỗi niệm, Phật
thuyết pháp trong mỗi niệm, Phật diệt độ trong mỗi niệm, đều lấy vô
biên trí hạnh của tự tâm làm thể, vốn đủ ba thân (pháp thân, báo thân
và hóa thân) một niệm thích ứng, gọi là Niệm Phật tam-muội. Nhập vào
môn tam-muội này thì có thể bao gồm hết tất cả các môn tam-muội.
Trưởng giả Giải Thoát nói: “Tôi vào ra trong môn Giải thoát trang
nghiêm vô ngại của Như Lai, thấy các Đức Như Lai nhiều như số bụi nhỏ
trong mười cõi nước Phật ở mười phương. Các Đức Như Lai ấy không đi tới
đây và tôi cũng chẳng đến chỗ các Đức Như Lai kia, hoặc tôi muốn thấy
Đức Như Lai A-di-đà ở thế giới phương Tây thì tùy ý liền thấy, hoặc tôi
muốn thấy Đức Như Lai Kim Cương Quang Minh ở thế giới Chiên-đàn, Đức
Như Lai Bảo Quang Minh ở thế giới Diệu Hương, Đức Như Lai Bảo Liên Hoa
Quang Minh ở thế giới Liên Hoa, Đức Như Lai Tịch Tịnh Quang ở thế giới
Diệu Kim, Đức Như Lai Bất Động ở thế giới Diệu Hỉ, Đức Như Lai Sư Tử ở
thế giới Thiện Trụ, Đức Như Lai Nguyệt Giác ở thế giới Cảnh Quang Minh,
Đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na ở thế giới Bảo Sư Tử Trang Nghiêm, tôi đều
thấy hết các Đức Như Lai như thế. Tôi biết tất cả các Đức Phật cho đến
tâm tôi đều như mộng. Tôi biết tất cả các Đức Phật cho đến tâm tôi thảy
đều như âm vang. Tôi biết như thế, ức niệm như thế, Đức Phật được tôi
thấy đều do tâm tôi”. Giải thoát trang nghiêm vô ngại nghĩa
là siêu việt tất cả tướng, thành tựu tất cả tướng. Tuy như mộng như
huyễn nhưng cũng không hoại diệt các cảnh mộng huyễn. Nếu người không
nhập vào pháp môn mộng huyễn này thì như các ngài Xá-lợi-phất, Đại
Mục-kiền-liên… dù đang ở trong rừng Thệ-đa mà vẫn chẳng thấy cảnh giới
thần lực Như Lai, vì thiện căn bất đồng.
Cư sĩ Bệ-sắc-chi-la nói: “Lúc mở tháp của Đức Như Lai Chiên Đàn Tọa,
tôi đắc tam-muội tên là Phật Chủng Vô Tận. Tôi nhập tam-muội này tùy
theo thứ tự của tam-muội mà tôi thấy tất cả Đức Phật ở thế giới này, đó
là Phật Ca-diếp, Phật Câu-na-hàm-mâu-ni, Phật Câu-lưu-tôn, Phật
Thi-khí, Phật Tì-bà-thi, Phật Phất-sa, Phật Vô Thượng Thắng, Phật Vô
Thượng Liên Hoa, các Đức Phật kể trên làm thượng thủ. Ở trong khoảnh
khắc một niệm tôi được thấy trăm Đức Phật, nghìn Đức Phật, trăm nghìn
Đức Phật cho đến các Đức Phật nhiều như số bụi nhỏ trong bất khả thuyết
bất khả thuyết thế giới”. Phật chủng vô tận này đều do nguyện hạnh Phổ Hiền và đều lấy bốn câu không có tận
để thành tựu. Đó là: Hư không giới tận, chúng sinh giới tận, chúng sinh
nghiệp tận, chúng sinh phiền não tận, nguyện của tôi mới tận, nhưng vì
hư không giới cho đến phiền não không có tận, thế nên Phật chủng không
có tận. Vì thế nói: “Tôi biết tất cả các Đức Như Lai ở khắp mười phương
rốt cuộc không có bát-niết-bàn. Thế nên biết báo thân và hóa thân của
các Đức Phật bao gồm tất cả số. Như phẩm A-tăng-kỳ nói “khắp cả thời
gian”, phẩm Như Lai Thọ Lượng nói: “Khắp cả không gian”, phẩm Bồ-tát
Trụ Xứ nói: “Niệm Phật như vậy, hai bên bình đẳng, sinh diệt nhất như,
tận kiếp vị lai không có gián đoạn.
3. Niệm danh tự Phật để thành tựu phương tiện hay nhất:
Pháp thân không có hình tướng, giả mượn danh tự để trình bày. Báo
thân và hóa thân vô biên nhờ danh tự mà được biết đến đầy đủ. Bài kệ
tán trong phẩm Tu-di:
“Thà chịu khổ địa ngục
Được nghe danh tự Phật
Không hưởng vô lượng vui
Không nghe danh tự Phật”
Sở dĩ trong vô số kiếp ở đời quá khứ chịu khổ trôi lăn trong sinh tử
vì chẳng được nghe danh tự Phật. Chỉ cần nghe được danh tự Phật là đã
trồng nhân tốt, huống chi luôn luôn niệm liên tục”.
Như trong kinh Văn-thù Bát-nhã ghi: “Muốn nhập Nhất Hạnh tam-muội,
phải ở nơi vắng vẻ, bỏ các lọan tưởng, chẳng chấp tướng mạo, buộc tâm
vào một Đức Phật, chuyên xưng danh tự, tùy theo Phật ở hướng nào, ngồi
thẳng quay mặt về hướng ấy buộc niệm tương tục vào một Đức Phật thì ở
trong niệm đó thấy được các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sao?
Vì công đức niệm một Đức Phật bằng công đức niệm vô lượng Đức Phật”.
Kinh A-di-đà cũng lấy chấp trì danh hiệu làm chính nhân vãng sinh, cho nên biết công đức của danh tự không thể nghĩ bàn.
Như bài kệ tán trong phẩm Đâu-suất:
Lấy Phật làm cảnh giới
Chuyên niệm không ngừng nghỉ
Người này được thấy Phật
Số Phật bằng với tâm.
Phẩm Hiền Thủ nói:
Nếu thường niệm Phật, tâm bất động
Ắt thường trông thấy vô lượng Phật
Nếu thường trông thấy vô lượng Phật
Ắt thấy Như Lai thể thường trụ.
Bài kệ trước luận về trì danh nên nói “số”, bài kệ sau gồm cả báo
thân và hóa thân để thấu suốt pháp thân nên nói “vô lượng”. Tuy nhiên,
mọi người chỉ biết số hữu lượng mà không biết số siêu việt lượng, biết danh tự của tức số mà chẳng biết danh tự của siêu việt số, biết danh tự của siêu việt số nên suốt ngày niệm mà chưa từng niệm, biết số của siêu việt lượng nên niệm một Đức Phật tức gồm hết tất cả Phật.
Phẩm Tùy Hảo Quang Minh ghi: “Như ta nói Ngã mà chẳng chấp Ngã,
chẳng chấp ngã sở, tất cả chư Phật cũng vậy, tự nói là Phật nhưng chẳng
chấp ngã và ngã sở”.
Nhưng người mới vào môn này ắt phải dựa vào số, hằng ngày cần phải
hạn định khóa trình, từ một đến vạn, từ vạn đến ức, niệm chẳng rời
Phật, Phật chẳng khác tâm, như trăng ở trong nước mà trăng chẳng phải ở
trong nước; như xuân ở tại cành hoa mà xuân chẳng phải ở ngoài cành
hoa. Niệm Phật như vậy thì danh tự tức pháp thân vì tính của danh tự
chẳng thể thủ đắc. Pháp thân tức danh tự vì pháp thân hiện hữu ở khắp
mọi nơi, cho đến báo thân và hóa thân cũng chẳng khác danh tự, cũng vậy
danh tự chẳng khác báo thân và hóa thân, cho nên phẩm Như Lai Danh Hiệu
nói: “Danh hiệu của một Đức Như Lai đồng đẳng với pháp giới hư không
giới tùy theo tâm chúng sinh mà mỗi người đều thấy biết khác nhau”. Như
thế, đủ biết các danh tự của thế gian đều là danh tự Phật, chỉ cần nêu
ra bất cứ một danh tự Phật nào cũng đều bao gồm hết danh tự của thế
gian.
Phẩm Tỳ-lô-giá-na viện dẫn các Đức Phật quá khứ có danh tự bất đồng
nhưng chỉ cần dùng một danh tự Tỳ-lô là bao gồm hết, vì tất cả các Đức
Phật đều có tạng thân Tỳ-lô xưa nay không khác. Như vậy, niệm Phật, thụ
trì danh tự một Đức Phật thì gồm thu pháp giới. Danh tự là toàn pháp
giới nên toàn pháp giới gồm thu, chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện
tại, chẳng phải vị lai, cũng chẳng phải phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn
hướng cạnh, phương trên, phương dưới, mười phương, ba thời gian không
sót trong lúc đang niệm, chẳng trải qua một sát-na (thời gian cực ngắn)
đã thành Phật rồi.
4. Niệm Phật Tỳ-lô-giá-na để chóng nhập vào pháp giới Hoa Nghiêm:
Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm ghi các bài kệ tụng của các vị Bồ-tát và
Trời, Rồng, quỷ thần ở khắp mười phương, mỗi vị đều nói ra pháp môn của
mình chứng đắc rồi dùng quả địa Như Lai phát khởi tín giải cho người để
họ nhập vào Niệm Phật tam-muội. Từ đó nói phẩm Như Lai Hiện Tướng cho
đến các phẩm Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, mỗi phẩm
đều có các vị Đại Bồ-tát và các vị thế chủ ở khắp mười phương nói kệ
tán Phật, rồi ở phẩm Thập Địa, mỗi khi trải qua một địa đều nói: “Chẳng
rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”. Thế nên biết thứ lớp các giai vị
tuy khác nhưng giai vị nào cũng lấy niệm Phật làm bản hạnh. Phật với
Phật đạo đồng, nên một Tỳ-lô bao gồm hết, vì thế một môn Thường tùy Phật học
trong mười nguyện Phổ Hiền nói: “Như Đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na ở thế
giới Ta-bà này từ lúc mới phát tâm tinh tấn không lui sụt, đem bất khả
thuyết bất khả thuyết thân mạng bố thí cho đến thành Đại bồ-đề, nhập
niết-bàn, tôi đều theo học tất cả các hạnh như thế”.
Do bản sự của Ngài ở địa vị tu nhân rộng lớn vô biên không thể nghĩ
bàn cho nên cảm được báo thân và hóa thân cũng rộng lớn vô biên không
thể nghĩ bàn. Người tu hành thật sự có được tín giải vững vàng thì biết
tất cả Phật chẳng rời tự tính, rồi khởi tâm mạnh mẽ, phát tâm gánh vác
thì không khác chi Đức bản sư lúc mới phát tâm.
Dạ thần Tịch Tịnh Âm Hải nói: “Tôi được môn giải thoát sinh ra Hỉ
Trang Nghiêm rộng lớn trong mỗi niệm, rồi có thể nhập vào biển pháp
giới an lập nhiều như số bụi nhỏ trong mười bất khả thuyết bất khả
thuyết cõi nước Phật, thấy các hạt bụi nhỏ trong tất cả cõi Phật của
biển tất cả pháp giới an lập ấy, trong mỗi hạt bụi nhỏ có cõi nước Phật
nhiều như số bụi nhỏ của mười bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước
Phật . Mỗi một cõi nước đều có Đức Tỳ-lô-giá-na ngồi đạo tràng, trong
mỗi niệm thành Đẳng Chính Giác, hiện các thần biến, mỗi thần biến được
hiện ra đều khắp tất cả biển pháp giới.
Dạ thần Khai Phu Thụ Hoa nhập vào môn giải thoát sinh ra Hỉ Quang
Minh rộng lớn nhớ lại và đều thấy rõ hết các hạnh tu hành ở quá khứ của
Đức Tỳ-lô-giá-na.
Thần Diệu Đức Viên Mãn đắc môn giải thoát tự tại thụ sinh nhập vào
biển vô lượng thụ sinh của Đức Tỳ-lô-giá-na ở vô lượng cõi Phật trong
mỗi hạt bụi của tất cả thế giới thị hiện thụ sinh thường không gián
đoạn”
Như vậy, niệm Tỳ-lô-giá-na thì ngay nơi niệm là Phật, ngay nơi Phật
là niệm, tận mười phương hư không cho đến nhỏ như đầu cây kim, hạt cải
không có chỗ nào không phải là pháp giới Tỳ-lô. Đây gọi là niệm Phật
pháp giới, cũng gọi là niệm khắp tất cả Phật. Sở dĩ đồng tử Thiện Tài
đầu tiên tham Đức Vân liền được nghe pháp môn niệm Phật, cuối cùng đồng
tử Thiện Tài được Bồ-tát Phổ Hiền nói kệ ngợi khen công đức thù thắng
của Như Lai và dạy người tín giải, y như cũ chẳng rời pháp môn niệm
Phật. Trước sau pháp giới không còn hai đế ( chân, tục ). Kệ rằng:
“Hoặc thấy cõi này đẹp vô cùng
Được Phật nghiêm tịnh vô lượng kiếp
Đấng tối thắng Tỳ-lô-giá-na
Từ trong giác ngộ thành Chính giác.
Hoặc thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ
Được Bồ-tát Quán Tự Tại nhiễu quanh
Đều đã trụ giai vị Quán đảnh
Đầy cả thế giới khắp mười phương.
Và nói:
Hoặc thấy Thích-ca thành Phật đạo
Đã trải số kiếp chẳng nghĩ bàn
Hoặc thấy các vị thành Bồ-tát
Đang làm lợi ích cho chúng sinh
Hoặc thấy Như Lai Vô Lượng Thọ
Thụ ký cho các vị Bồ-tát
Sẽ thành Đại Đạo sư vô thượng
Được bổ xứ vào cõi An Lạc”.
Thế nên biết pháp giới của các Đức Phật dung nhiếp hết, toàn thể là
Di-đà, Cực Lạc Giá-na chẳng rời Hoa Tạng, tùy theo tâm chúng sinh mà
mỗi người thấy chẳng đồng nhau, nhưng vì Phật xưa nay thường bất động,
cho nên quyển cuối của bộ kinh Hoa Nghiêm lấy hồi hướng Cực Lạc làm chỗ
chung cuộc.
5. Niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc viên mãn đại nguyện Phổ Hiền:
Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện ghi: “ Người muốn thành tựu môn công đức Như Lai cần phải tu mười hạnh nguyện rộng lớn:
1) Lễ kính chư Phật.
2) Ngợi khen Như Lai.
3) Rộng tu cúng dường
4) Sám hối nghiệp chướng
5) Tùy hỉ công đức
6) Thỉnh chuyển pháp luân
7) Thỉnh Phật trụ thế
8) Thường tùy Phật học
9) Hằng thuận chúng sinh
10) Đều hồi hướng hết.”
Kinh Hoa Nghiêm này chuyên trình bày cảnh giới Tỳ-lô, tại sao phải lấy Cực Lạc làm chỗ quy hướng?
Bởi vì một danh hiệu của A-di-đà là Vô Lượng Quang mà Tỳ-lô-giá-na
cũng được dịch ra chữ Hán là Quang Minh Biến Chiếu, vì đồng một thể, vì
chẳng phải đến, đi, vì ở trong nhất thể cũng không ngại đến, đi. Như
luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Chúng sinh mới học pháp này muốn cầu chính
tín, nhưng tâm họ yếu đuối, vì trụ ở thế giới Ta-bà không thể thường
gặp chư Phật, hầu hạ cúng dường, ý muốn thoái lui. Người ấy nên biết
Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp hộ tín tâm, đó là chuyên niệm
Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây, hồi hướng căn lành đã tu
tập, nguyện cầu sinh về thế giới kia thì được vãng sinh, vì thường được
thấy Phật nên không bao giờ lui sụt”.
Vì báo độ của Đức Tỳ-lô, hàng Nhị thừa và phàm phu không có phần
được tiếp dẫn, nhưng Cực Lạc thì có chia ra làm chín phẩm, mọi loài đều
được tham dự, một khi được vãng sinh, cắt ngang dòng sinh tử, đủ thấy
sự hơn kém giữa Ta-bà và Cực Lạc. Các kinh đã nói cặn kẽ, ở đây không
cần phải ghi lại đầy đủ.
Nhưng kinh khác chỉ dạy hoặc nói “mười niệm”, hoặc nói “một ngày cho
đến bảy ngày”, hoặc quán “thân Phật một trượng sáu cho đến sáu mươi vạn
ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần”. Tóm lại chẳng ra ngoài số lượng, chưa
bằng kinh Hoa Nghiêm này, một niệm quán khắp dọc suốt ba thời gian,
ngang trùm mười phương hư không. Ngay lúc mới phát tâm liền siêu việt
số lượng, có được nhân thanh tịnh hết sức thù thắng. Do Phật A-di-đà
dùng bốn mươi tám lời nguyện tiếp nhận khắp chúng sinh cùng với nguyện
vương này thể hợp hư không, mảy may không cách biệt. Thế nên, chẳng đợi
thời gian, chẳng dời nơi chốn, nhậm vận vãng sinh, trở lại đồng với cái
sẵn có.
Văn sau nói: “Đến rồi, thấy các vị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Phổ Hiền,
Quán Tự Tại, Di Lặc v.v… cùng nhau nhiễu quanh Đức Phật A-di-đà”.
Văn-thù, Phổ Hiền chẳng rời cõi Ta-bà này mà hiện thân ở phương kia,
tùy theo tâm chúng sinh, niệm niệm xuất hiện. Vì thế biết Phật A-di-đà
ở trong nước Cực Lạc thường chuyển kinh Hoa Nghiêm này không lúc nào
ngừng nghỉ.
Lại nữa, pháp môn niệm Phật này, nếu chẳng phải diệu trí quán sát
thì không thể nào rõ biết được cái nhân thanh tịnh sẵn có đủ trong tâm
ta, cho nên đầu tiên là Văn-thù. Nếu chẳng phải đại nguyện trang nghiêm
thì không thể nào viên mãn được cái quả thanh tịnh sẵn có đủ trong tâm
ta cho nên kế đó là Phổ Hiền, rồi Quán Âm, Di- lặc, một vị sẽ được bổ
xứ thành Phật ở nước Cực Lạc, một vị sẽ được bổ xứ thành Phật ở cõi
Ta-bà. Hai vị thánh đồng tụ hội để chứng tỏ Lạc Bang và Hoa Tạng chung
một, không hai. Nhưng ngài Di-lặc nhờ đế quán mười phương duy thức,
thức tâm tròn sáng nhập viên thành thật, đấy là chính nhân của Tịnh độ.
Quán Âm nhờ như huyễn văn huân vô tác diệu lực mà vào khắp cõi nước
thành tựu bồ-đề, đấy là cực quả của Tịnh độ.
Văn sau nói: “Người ấy tự thấy sinh trong hoa sen, được Phật thụ kí.
Được thụ kí rồi, trải qua vô số trăm nghìn vạn ức na-do-tha kiếp dùng
sức trí huệ tùy theo tâm chúng sinh mà làm lợi ích, chẳng bao lâu sẽ
ngồi tòa Bồ-đề đạo tràng, hàng phục ma quân, thành Đẳng chính giác,
chuyển pháp luân vi diệu khiến cho chúng sinh trong các cõi nước Phật
nhiều như số bụi nhỏ phát tâm bồ-đề, tùy theo căn tính của họ mà giáo
hóa thành thục cho đến tận nhiều kiếp ở đời vị lai làm nhiều lợi ích
cho tất cả chúng sinh”.
Toàn bộ kinh Hoa Nghiêm đến đây kết thúc, các người có trí phải
cương quyết tin tưởng tiến vào, một niệm lơ là thì luân hồi vô tận.
Than ôi! Khổ thay!
Phần hỏi đáp để giải quyết các điều nghi:
Hỏi: Năm môn kể trên, nên từ một môn mà vào hay vào cả năm môn ?
Đáp: Bậc thượng căn trí huệ bén nhạy liễu ngộ được tự tính Di-đà
tòan hiển duy tâm Tịnh độ, nói pháp thân là bao gồm hết tất cả. Nhưng
lí thì liền ngộ mà sự thì phải trừ khử dần dần. Vì thế kinh Hoa Nghiêm
nói hàng Thập trụ sơ tâm liền đồng với chư Phật. Nhưng năm giai vị tiến
tu, không giai vị nào không hướng đến bồ-đề mà chưa đến Diệu giác. Thứ
bậc các giai vị rõ ràng, cuối cùng đến Thập địa nhờ sức đại nguyện ở
trong một niệm thấy hàng trăm Đức Phật hàng nghìn Đức Phật cho đến hàng
trăm nghìn na- do- tha Đức Phật. Theo từng giai vị mà thấy Đức Phật có
sai khác.
Người tu hành ở cõi Ta-bà này dẫu cho có khả năng hàng phục được
hoặc nghiệp, phát ngộ, nhưng chưa chứng vô sinh cũng đâu thoát khỏi
phải thụ thân đời sau. Nếu chẳng nương nhờ sức Phật thì công hạnh khó
vẹn tòan mà cần phải đợi hồi hướng Lạc bang, được Phật thụ kí, gột sạch
hết các tập khí tàn dư, thành tựu viên mãn nguyện vương. Đây là môn
vượt thoát, là con đường diệu trang nghiêm.
Nếu như chưa sáng tỏ việc hướng thượng, chưa phá vỡ nghi tình thì
rất cần phải chuyên trì danh hiệu Đức Phật A-di-đà, cung kính siêng
năng phát nguyện như con nhớ mẹ, lấy cái chết làm kì hạn, thêm vào đó
huân tu giáo quán giúp cho sự phát triển trí huệ thù thắng, cảm ứng đạo
giao thì công tu mới không uổng phí. Điều này hoàn toàn trông cậy vào
một niệm bao gồm hết các môn. Điều quí báu của môn này là tập trung
tinh thần kiên trì vào sự chuyên nhất trì danh, cứ như thế dũng mãnh
tiến tới.
Hỏi: Ông muốn hoằng dương pháp môn Niệm Phật, sao chẳng lấy các kinh
Tịnh độ làm chủ đạo mà lại cực lực tôn sùng kinh Hoa Nghiêm, nếu luận
theo nhân quả, e rằng không hợp?
Đáp: Ông không có đọc kinh Vô Lượng Thọ sao! Trong phần tựa của kinh
ấy, đầu tiên thuật lại hạnh nguyện Phổ Hiền, khuyến tấn người tu hành
với ba bậc vãng sinh, đều có nhắc đến phát tâm bồ-đề. Cuối
cùng, vì chẳng liễu ngộ Phật trí, Bất tư nghị trí, Bất khả xứng trí, Vô
đẳng vô luân tối thượng thắng trí thì dù cho có tu các công đức vẫn bị
đọa vào lòai sinh bằng bào thai. Vậy thì, nếu thật sự muốn ngồi tòa sen
báu, lên ngôi bất thoái ắt phải nhờ vào trí Văn-thù, lập nguyện Phổ
Hiền để hồi hướng vãng sinh. Nay kinh Hoa Nghiêm này chủ yếu nói về
giáo lí đó. Đến phần Thượng phẩm thượng sinh trong kinh Quán Vô Lượng
Thọ cũng dạy đọc tụng kinh điển Đại thừa phương đẳng. Nói đến
kinh Đại thừa phương đẳng thì không có kinh nào bằng kinh Hoa Nghiêm.
Kinh này là kinh cao quí bậc nhất. Nhân quả không sai, vậy đâu có gì
không hợp!
Hỏi: Ý nghĩa của pháp giới Hoa Nghiêm sâu kín trùng trùng, lấy vô
lượng kinh điển làm quyến thuộc. Vì sao chỉ một môn niệm Phật mà có thể
bao gồm hết thảy?
Đáp: Đúng như lời ông nói. Ý nghĩa kinh Hoa Nghiêm tuy sâu rộng,
nhưng người mới phát tâm vào đạo cũng tự có phương tiện đặc biệt tiến
vào, đó là một môn niệm Phật này, nó có thể thông suốt hết vô biên pháp
giới. Thế nên, đồng tử Thiện Tài ở trong một lỗ chân lông của Phổ Hiền
đi qua bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới nhiều như số bụi nhỏ
trong cõi nước Phật tận kiếp vị lai, mỗi niệm, đi đến khắp vô biên cõi
nước. Người niệm Phật ở đây cũng vậy, vì một niệm vốn vô lượng.
Trong Pháp giới quán, ngài Đỗ Thuận thiết lập ba môn:
- Môn chân không: Lọai bỏ vọng tình để hiển lí, tức là niệm pháp thân Phật.
- Môn lí sự vô ngại: Dung thông lí sự để hiển bày lực dụng, tức là niệm công Đức Phật.
- Môn chu biến hàm dung: Thu nhiếp sự sự để hiển bày bản nguyên, tức là niệm danh tự Phật.
Thanh Lương Sớ chia ra bốn pháp giới:
- Nhất tâm niệm Phật, chẳng tu xen các hạnh khác, tức là nhập vào Sự pháp giới.
- Tâm và Phật cả hai đều bặt, nhất chân độc thóat, tức là nhập vào Lí pháp giới.
- Tức tâm tức Phật, đại dụng cùng hiện bày, tức là nhập vào Lí sự vô ngại.
- 4. Phi Phật phi tâm, thần diệu không lường, tức là nhập vào Sự sự vô ngại pháp giới.
Thế nên biết một môn niệm Phật gồm thu tất cả pháp, vì thế kinh Hoa
Nghiêm lấy Tỳ-lô làm dẫn đạo, lấy Cực Lạc làm chỗ qui hướng. Đã được
thân cận Di-đà thì chẳng rời Hoa Tạng; của báu nhà mình đầy đủ thì lực
dụng vô biên. Nếu chẳng nhập vào môn niệm Phật này thì rốt cuộc chẳng
phải là cứu cánh.
- Hỏi: Trong Hoa Nghiêm Hợp Luận, ngài Phương Sơn (Lí Thông Huyền)
cho rằng: Tịnh độ ở phương khác là quyền, chẳng phải thật, còn nay theo
lập luận của ngài thì làm sao hội thông?
Đáp: Trong giáo lí Tịnh độ, có chia cõi nước thành bốn cõi:
- Cõi thường tịch quang là chỗ ở của quả Phật.
- Cõi thật báo là chỗ ở của bậc pháp thân đại sĩ.
- Cõi hữu dư là chỗ ở của hàng nhị thừa.
- Cõi đồng cư là chỗ của phàm thánh ở chung.
Bốn cõi kể trên hoặc uế hoặc tịnh.
Nếu người ở cõi Ta-bà này nhờ sức chuyên niệm Phật, tu các công đức
hồi hướng Tây phương nhưng hoặc nghiệp chưa dứt hết thì được sinh vào
cõi đồng cư.
Nếu người có lòng ưa thích Cực Lạc, nhàm chán Ta-bà một cách thống
thiết, đọan trừ dần dần các hoặc thô lậu, nghe pháp tăng tấn trí huệ
thì được sinh vào cõi hữu dư.
Nếu người lấy pháp tu viên giáo làm nhân, ngộ sâu thật tướng, dùng
hạnh nguyện Phổ Hiền hồi hướng vãng sinh thì cảm được cõi thật báo,
được Phật thụ kí, phần chứng tịch quang.
Vì thế, người trụ quyền thừa thì mọi thứ đều quyền như hóa thành
trong kinh Pháp Hoa, vì chẳng ngòai tự tâm. Người tỏ ngộ thật tướng thì
tất cả đều thật như Cực Lạc trong kinh này, vì hoàn toàn đầy đủ Hoa
Tạng.
Lúc ngài Phương Sơn tạo luận, quyển cuối là phẩm Hạnh Nguyện chưa
được truyền đến Trung Hoa, cho nên ngài có sự phân biệt đối với một môn
Tịnh độ, đó là điều trái với văn kinh. Vì vậy, cần phải biết từ chân
khởi huyễn, ngay nơi huyễn toàn chân, sinh diệt đều lìa, tự tha bất
nhị,một niệm viên dung đến khắp pháp giới mới là pháp liễu nghĩa trung
đạo nhất thừa. Điều ngài Phương Sơn đề xướng chỉ ở chỗ Thập trụ sơ tâm
tức thành Chính giác. Y cứ vào giáo lí để phán đóan thật ra không phải
là dễ. Sao vậy? Vì trong giai vị Thập tín của Viên giáo thì kiến hoặc,
tư hoặc đều dứt hết, đồng thời đọan trần sa hoặc, tiến vào giai vị Thập
trụ của Viên giáo phá tan vô minh chứng vô sinh nhẫn; giai vị này ngang
với bậc Sơ địa của Biệt giáo.
Nếu chỉ cậy vào sức mình thì như người dân thường mà mong được ngôi vua, cho rằng xưa nay vốn là Phật, không rơi vào giai vị, nhưng cũng phải nhờ phương tiện khéo léo mới có thể chứng đắc, chi bằng theo lời dạy của phẩm Hạnh Nguyện đem lòng tin sâu trì tụng mười đại nguyện vương, trong một sát-na vãng sinh Cực Lạc, trụ bất thóai chuyển. Từ
hạng phàm phu vượt ngang xông thẳng, rất viên rất đốn, không pháp môn
nào có thể sánh bằng. May mắn gặp được kinh Hoa Nghiêm đủ bộ là nhân
duyên chẳng phải tầm thường. Hạt châu trong vạt áo vẫn còn đó mà cứ mãi
nhọc công tìm, nay kính khuyên mọi người hãy đồng lòng tin nhận.
Hỏi: Đời Tùy, có vị tăng tên Linh Cán tu quán Hoa Tạng, lúc lâm
chung thấy hoa sen to như bánh xe trong ao nước đầy và ngài được ngồi
trên đó. Vậy chỉ cần đến thẳng Hoa Tạng, đâu cần phải thân cận Di-đà?
Đáp: Thế giới Hoa Tạng có biển hương thủy nhiều như số bụi nhỏ của
mười bất khả thuyết cõi nước Phật, có mười bất khả thuyết chủng lọai
thế giới nhiều như số bụi nhỏ an trụ, mỗi chủng lọai thế giới lại có
các thế giới nhiều như số bụi nhỏ của bất khả thuyết cõi nước Phật. Thế
giới Cực Lạc phương Tây cũng ở trong số đó.
Kinh Thủ-lăng-nghiêm ghi: “Nếu trong tâm tưởng niệm Phật, tu thêm
phước huệ và nguyện sinh về Tịnh độ thì tự nhiên tâm thấy các Đức Phật
ở mười phương và tất cả các Tịnh độ, rồi tùy nguyện vãng sinh”.
Trường hợp ngài Linh Cán sinh về Tịnh độ Cực Lạc hay Tịnh độ nào
khác chưa thể biết được! Vậy thì, chỉ cần thân cận Di-đà tức là vào
thẳng Hoa Tạng. Trước có Thiện Tài, sau có Long Thụ, đường lối như thế,
chư Thánh cùng đi. Nếu chẳng tuân theo lời Phật dạy, tự chuốc lấy khốn
khổ vì lạc vào nhiều lối tẻ. Hạng người này thật đáng thương xót, chúng
ta phải gần gũi họ để chỉ cho họ thấy điều đó.
Đời Tống, ngài Thảo Am Đạo Nhân tu giáo quán viên đốn, về già trụ
trì chùa Diên Khánh, đến ngày 17 tháng 4 niên hiệu Càn Đạo thứ 3
(1167), ngài nói lời từ biệt đại chúng: “Thế giới Hoa Nghiêm rỗng rang
lặng lẽ sáng rỡ rất hợp ý tôi, hôm nay tôi sắp đi”. Rồi ngài nói kệ
ngợi khen Phật A-di-đà:
Vô biên cõi nước là biển không
Biển không toàn là cung hoa sen
Cung sen đầy khắp cả biển không
Biển không độc lộ Phật Di-đà
Đức Phật Di-đà không sinh diệt
Khó tìm, khó nắm trăng đáy nước
Tuyệt phi, li cú, thân như vậy
Cảm thông như thế, nói như thế
Tôi với Di-đà vốn không hai
Vọng giác thầm sinh, bỗng thành khác
Từ nay quét sạch hết trần lao
Cha con thiên nhiên gặp lại nhau
Thệ tu ba phước, hành sáu niệm
Nghiệp thân, miệng, ý không lầm lỗi
Nay tôi phát tâm niệm Di-đà
Không thấy Di-đà, không thôi nghỉ.
Sau đó, ngài cùng đại chúng xướng niệm trăm câu danh hiệu Phật, phúng tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ đến câu thượng phẩm thượng sinh thì thu thần nhâp diệt. Cực Lạc và Hoa Nghiêm là đồng hay là khác, những người có trí hãy mau mau để mắt!
Lời cuối sách
Luận này được viết vào tháng chạp, mùa Đông niên hiệu Càn Long thứ
48 (1783) mới hòan tất. Ông Uông Đại Thân có lời bình phẩm: “Luận này
là chính nhân Tịnh độ, là chính tín Hoa Nghiêm”. Và nói: “Năm niệm tức
là một niệm, một niệm tức là vô niệm”.
Mùa xuân năm sau, luận này được truyền đến Đan Đồ, được ông Vương Vũ
Khanh đánh giá cao và ông viết cho lời tựa. Đại Thân hết sức ngợi khen
và cho là kì đặc, rồi mang dâng lên quan Thượng thư họ Tiên, nhưng ngài
đã qua đời.
Tôi ẩn cư nơi Tăng xá để đọc kinh Hoa Nghiêm rồi cùng với các bạn có
chí xuất trần chất vấn nhau về Tính tông, cũng có bàn đến sự tổn ích
của tập luận này.
Mấy năm sau, tôi từ Tiền Đường trở về, lại bế quan ở Văn Tinh Các tu
niệm Phật tam-muội, suốt mùa hạ tịch liêu, tôi đem cảo bản trước kia ra
xem lại và chép thành luận này. Ngoài các ngài Hiền Thủ, Phương Sơn ra,
tôi cũng chẳng ngại gì thi thố bản lĩnh của mình. Giả sử nếu gặp ông
già Vân Thê (Đại sư Liên Trì Châu Hoằng), chắc chắn tôi với ngài sẽ
nhìn nhau mỉm cười.
Ngày cuối tháng sáu, niên hiệu Càn Long thứ 56 (1791)
Bành Tế Thanh ghi
Nguyên Đán năm Bính Tuất (2006)
Định Huệ kính dịch